1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tổng Hợp Chiến Tranh Biên Giới Việt Trung 1979

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi canlong_hoangde, 17/01/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. xihchaclong

    xihchaclong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/03/2006
    Bài viết:
    35
    Đã được thích:
    0
    Lý do - Quyết định - Hậu quả và những bài học tương lai [/i] [/u] [/b]
    - Để bao vây Trung quốc và làm suy yếu thế lực của Hoa Kỳ tại Châu Á , tháng 6.1969 Leonid Brezhnev đề nghị với các quốc gia, từ Trung Đông đến Nhật Bản, hình thành một tổ chức an ninh chung bảo vệ hòa bình và an lạc trong khu vực. Riêng ở Đông dương, chủ đích của Nga là hất ảnh huởng Mỹ và TQ ra khỏi bán đảo, kiểm soát vịnh Cam Ranh và các hải cảng chiến lược, hỗ trợ các Đảng và thể chế mạc xít, đồng thời đặt các nước Đông dương trong vòng lệ thuộc Điện Klrem bằng cách viện trợ quân sự và kinh tế. Kế hoạch này thành công. Việt Nam là trường hợp điển hình.
    -Trong trường hơp này khách quan mà nói thì TBT Lê Duẩn đã thân Nga. Sau ngày "giải phóng Sài Gòn" Liên Xô tăng số cố vấn tại Lào từ 100 lên 500, giúp 500 triệu mỹ kim cho ngân sách VN tài khóa 1976 và 3 tỷ đô la cho kế hoạch ngũ niên 1976-1980 của Hà nội. Bắc Kinh, trong lúc đó, chỉ viện trợ tượng trưng 200 triệu, báo tin không cấp ngân khoản mới cho 1977 và ngày 27.9.1976, tại diễn đàn Liên Hiệp quốc, Ngoại trưởng Kiều Quán Hoa một mặt tố Nga trám khoảng trống ở Á châu và mặt khác, cảnh cáo các thành viên Đông Á đừng bao giờ "đón cọp vào ngã sau trong khi đuổi chó sói ra cửa trước". Với ước mong được thu nhập vào COMECON, Hội đồng Tài trợ Kinh tế Hỗ tương CS, Hà nội theo sát con đường Xô viết chống TQ. Khi Đảng Lao động VN nhóm Đại hội lần thứ 4 tại Hà nội, cuối 1976, đưới sự giám sát của lý thuyết gia Mikhail A. Suslov, trưởng phái đoàn Sô viết, thì đa số ủy viên trong Chính trị bộ đã theo Lê Duẩn thân Nga: DT.Nguyên Giáp, Trần Quốc Hoan, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Văn Linh, Tố Hữu, Đỗ Mười... Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh, trước kia đứng giữa, nếu không nói là thiên Bắc kinh, đều chuyển hướng. Hoàng Văn Hoan bị khai trừ, trốn sang TQ và lãnh án tử hình khiếm diện. Một số không ít như Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Thanh Nghị, Võ Chí Công và Chu Huy Mẫn phải xem xét lại vấn đề sống còn. Ngay cả Trường Chinh củng tỏ ra ôn hòa hơn.
    Cuối 1977, sau khi tham khảo ý kiến Trung quốc, Campuchia đoạn giao với VN. Đầu năm 1979, số cố vấn và chuyên viên Xô viết tại VN tăng từ 5000 lên 8000. Nhiều diễn biến dồn dập xẩy ra, khiến cho Bắc kinh và Hà nội không tránh được đụng độ trực tiếp:
    +Lý do đụng độ Việt - Hoa.
    Tổng quát, có bốn lý do chính yếu:
    1.- Liên Xô sử dụng Vịnh Cam Ranh và ký Hiệp ước thân hữu với VN. Tháng 6.1978, không khí căng thẳng khi Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình báo tin hủy bỏ viện trợ cho VN, phản đối việc trục xuất 110.000 người Việt gốc Hoa và công bố Trung quốc đã giúp cho CSVN hơn 20 tỷ mỹ kim từ 1950 đến 1978. Hà nội liền tố ngược các lãnh tụ TQ là *********. Hai quốc gia CS Albania và Lào cũng chỉ trích Bắc Kinh. Đồng thời, Phạm Văn Đồng lên tiếng xin bình thường hóa bang giao với Hoa Kỳ. Mười hôm sau, giới truyền thông rầm rộ tung tin Liên Xô được phép lập căn cứ quân sự tại Cam Ranh và Đà nẵng. Phần thưởng của sự nhân nhượng này là Nga bật đèn xanh cho Hà Nội xúc tiến thực hiện và điều khiển "Liên bang Đông Dương".
    Ngày 3.11,1978, Nga và Việt ký Hiệp ước Thân hữu và Hợp tác, trong đó điều 6 đặc biệt ghi rằng đôi bên sẽ áp dụng "các biện pháp thich nghi và hữu hiệu để bảo vệ hòa bình và an ninh" nếu một trong hai nước bị đe dọa hay tấn công. Trong dịp viếng Thái Lan, Đặng Tiểu Bình sỉ vả VN là "Cuba của phương Đông", bắt tay với đế quốc để xây mộng bá chủ và đe dọa Thái Bình Dương và Thế giới.
    2.- VN chiếm đóng Campuchia. Tại Hội nghị Genève 1954, Chu Ân Lai thuyết phục Phạm Văn Đồng cho rút quân khỏi Campuchia và công bố tôn trọng chủ quyền nước này. Năm 1958, Bắc kinh và Nam Vang trao đổi sứ thần và ký Hiệp ước hữu nghị và bất xâm phạm. Tháng 11.1963, sau vụ đảo chính TT Ngô Đình Diệm, Sihanouk yêu cầu các cơ quan Mỹ rời xứ Chùa Tháp và Trung quốc cảnh cáo Hoa Kỳ không được xâm nhập đồng minh nhỏ bé này. Tháng 3.1970, tướng Lon Nol lật đổ Sihanouk. Một tháng sau, các dân tộc Đông dương nhóm thượng đỉnh tại Guangzhou gồm có Bắc Việt, Pathet Lào và Kho mer Đỏ (lúc đó còn liên kết với Sihanouk). Khơmer Đỏ nhận viện trợ của Bắc kinh và tuy không tin Hà nội, vẫn liên tục cấp nơi ẩn nấp cho các lực lượng ********* mỗi khi chúng bị Quân đội VNCH đẩy lui. Vì lý do lịch sử, địa dư và chiến thuật, Campuchia đã từng là chư hầu của VN. Họ luôn luôn lo sợ bị nuốt trửng ngay trong những năm cộng tác thân thiện với Hà nội (1970 - 1975). Sau tháng 4.1975, Khomer Đỏ hoàn toàn trông cậy vào sự che chở của Trung quốc. Tháng 9.1975, Chu Ân Lai sắp xếp cho Sihanouk trở về Nam Vang "để đuổi Bắc Việt ra khỏi xứ " nhưng ê kíp Pol Pot, Ieng Sary và Khieu Samphan nhất quyết đốt giai đoạn biến Campuchia đầu hôm sớm mai thành một "nước xã hội chủ nghĩa vẹn toàn", bất chấp lời khuyên của Chu. Những biện pháp quá khích được đem ra thi hành gấp làm cho xứ hỗn loạn. Tháng chạp 1976, khi phái đoàn chuyên viên TQ của Fang Yi sang giúp họ thì đã quá chậm: quần chúng kiệt sức, thợ thuyền, công chức và trí thức bị tiêu diệt, quân đội tan rã, gần 4000 lính Khomer (do ********* huấn luyện năm 1976) bị tẩy trừ. Từ 1975 cho đến 1978, Chính phủ Khomer Đỏ đòi bộ đội Việt rời xứ nhưng các đơn vị này chỉ di tản về biên giới và tại đây, hai bên nhiều lần đụng độ đẫm máu.
    Cuối 1976, Đại hội 4 Đảng Lao Động nhóm để đổi tên thành Đảng CS Việt Nam và chấp thuận đề án của Lê Duẩn xúc tiến việc thiết lập Liên bang Đông Dương bằng cách thuyết phục và nếu cần, áp lực quân sự TQ và Lào gia nhập. Tháng 2.1978, Ủy ban Trung ương quyết nghị xóa chế độ Pol Pot qua 4 giai đoạn: tố cáo đường lối khát máu của Khờ Me Đỏ, tấn công Bắc kinh viện trợ Nam Vang, tuyên truyền thức tỉnh ý thức dan Campuchia và tận dụng lá bài Xô viết. Ngày 7.1.1979, với sự đồng ý và hỗ trợ vũ khí của Nga, 100.000 quân Việt tràn ngập Campuchia và toàn thắng sau 2 tuần lễ. Trung quốc không can thiệp, để tránh lún vào vũng lầy chiến tranh như Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Đặng Tiểu Bình cảnh cáo rằng trong tương lai, Bắc kinh sẽ "lấy những quyết định ngoài ý muốn vì hòa bình". Theo tạp chí TQ cộng Geng Biao, 1.500 Hoa kiều bị kẹt lại ở Campuchia và phần đông đã gia nhập hàng ngũ Khờ Me Đỏ để chống VN. Ngày 8.1. 79, Hội đồng Nhân Dân Cách Mạng, do bù nhìn Heng Samrin cầm đầu, được Hà nội công nhận. Chính quyền Thái thận trọng đứng ngoài. Lời kêu cứu của Sihanouk với Liên Hiệp Quốc rơi vào sa mạc. Pol Pot rút vào rừng để kháng chiến. Ngày 18.2.1979, Campos và Việt ký Hiệp ước Thân hữu và Hợp tác có giá trị 25 năm, công khai hóa việc quân đội Việt chiếm đóng Cộng hòa Nhân Dân Campos và đặt chính thức xứ này dưới chiếc dù quân sự của Hà nội. Trước đó hai năm, ngày 18.7.1977, Lào và VN đã ký một Hiệp ước hữu nghị tương tợ. Liên bang Đông Dương thực hiện xong. Bằng võ lực.
    3.- Tranh chấp Việt - Hoa về lãnh thổ. Từ lâu, đề tài cãi vã giữa VN và Trung quốc xoay quanh ba khu vực:
    a)- Một biên giới chung dài trên 797 cây số, được thực dân Pháp và Trung Hoa ấn định năm 1887 trong một Thỏa ước và bổ túc năm 1895. Cuối thập niên 70, cả Hoa và Việt khiếu nại lẫn nhau về vị trí của 300 cột trụ phân ranh.
    b)- Vịnh Bắc Việt, còn gọi là Beibu Gulf / Bắc Bộ Gulf hay Gulf of Tonkin. Hai Thỏa ước vừa kể không nói rõ lằn ranh thuộc phần kiểm soát của mỗi nước. Tháng 10.1977, cuộc hội nghị tại Bắc kinh không giải quyết được dứt khoát vấn đề.
    c)- Gây cấn nhất là chuyện dành hai nhóm quần đảo Hoàng Sa (hay Paracels/Xisha) và Trường Sa (hay Spratlies/Ninsha). Khu vực này hệ trọng cho cả Trung quốc và VN về chiến thuật và dầu khí. Hoàng Sa, Trường Sa, cùng với một số đảo lân cận khác như Pratas Reef và Macclesfield là những trạm thông thương giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Bởi thế Phi Luật Tân, Đài Loan, Nam Dương, Nhựt, Brunei v..v.. cũng đòi chia phần. Mỹ và Nga theo sát vấn đề. Nga nắm thế thượng phong vì kiểm soát được Vladivostok, Cam Ranh và Đà nẵng. Ngày 4.9.1958, Bắc Kinh công bố chủ quyền trên Trường Sa và Hoàng Sa. Mười hôm sau, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gởi công văn cho Chu Ân Lai xác nhận Chính phủ VN đồng ý. Năm 1977, Đồng nói trớ lại rằng công văn này vô hiệu vì ký trong thời chiến! Quân đội VN đã tái chiếm được 6 đảo nhỏ. Từ 1974 cho đến 16.2.1979, theo Renmin Ribao, số ra ngày 14.5.1979 và bản ghi chép "SRV Memorandu " đề ngày 16.3.1979, có tất cả 3535 vụ xô xát Việt -Hoa tại biên giới (trong sổ sách Trung cộng) và 4333 vụ (chiếu tài liệu *********).
    4.- Hà nội trục xuất Hoa kiều làm cho tình hình căng thẳng tột độ. Đa số Hoa kiều tại VN di cư từ hai tỉnh Quảng Đông va Phước kiến, sau Trận giặc Nha phiến (1840- 1842). Họ cần cù làm ăn, sống đoàn kết và không tham gia chính trị. Tại Nam Việt, trước 1975, hơn phân nửa tổng số 1.300.000 người Hoa ủng hộ Chính phủ quốc gia. Sau Tết Mậu thân 1968, từ 75 đến 80% không có thiện cảm với CS. Chỉ một số ít hoạt động cho Hà nội. Trước 1975, năm người Việt gốc Hoa được bầu vào Hạ Viện. Tại Chợ lớn, người Hoa tổ chức thành 5 bang: Quảng Đông, Phước kiến, Triều châu, Hẹ và Hakka, mỗi bang được đại diện bởi một bang trưởng chọn theo lối đầu phiếu. Họ có một Phòng Thương mại, một bệnh viện đặt tên Chung Cheng, một số trường học và báo chí. Tháng 8.1956, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành sắc lệnh buộc Hoa kiều bỏ quốc tịch Tàu và nhập tịch VN nếu muốn tiếp tục hành nghề. Tháng 4.1957, thẻ lý lịch ngoại quốc bị coi như vô giá trị. Sau 30.4.1975, Hà nội áp dụng một loạt cải cách kinh tế và xã hội để nhưng hết s7úc sai lầm đã bần cùng hoá dân . Hoa kiều bị thiệt hại nặng nhất vì có của. Chiến dịch đánh giới trung lưu mái chính compradores (1975), các quyết định liên tiếp quốc hữu hóa công kỹ nghệ và thương mãi, nhiều lần đổi tiền bất chợt (1975 và 1978), việc đưa dân Bắc ào ạt định cư trong Nam.v..v.. làm cho thiểu số này nhanh chóng kiệt quệ.
    Đầu 1977, Việt - Hoa căng thẳng. Chính quyền Hà nội đuổi người Tàu sống tại các tỉnh biên giới về Trung quốc. Tháng 5. 1978, trong vòng 13 hôm, con số này vượt lên đến 57.000, không kể 320.000 người bị đẩy đi vùng kinh tế mới và 50.000 bị tịch thu tài sản. Nhà Nước CHXHCN còn công bố cho phép ra đi vĩnh viển những ai mang chiếu khán Hồng kông, Đài Loan hay Pháp. Ngày 29 tháng 6, VN chính thúc gia nhập COMECON, Bắc kinh liền cúp viện trợ hoàn toàn, hồi hương 880 chuyên viên và đóng cửa Sứ quán. Hà nội ra lệnh cho Tòa Tổng lãnh sự TQ ngưng hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh. Ba lãnh sự quán Việt ở Nam Ninh, Côn Minh và Quảng Đông củng phải rút lui. Từ tháng 9. 1978, trong Tạp chí CS và tờ Quân Đội Nhân Dân, nhà cầm quyền Việt Nam bắt đầu kêu gọi dân chúng sẵn sàng chống lại "chủ nghĩa bành trướng của nước lớn và ý đồ bá quyền của bọn Hán phong kiến." Liên hệ Việt - Hoa "môi hở răng lạnh" tan thành mây khói. Câu nói của Hồ "Việt và Hoa vừa là bạn, vừa là anh em" chua cay hơn lúc nào hết.
  2. xihchaclong

    xihchaclong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/03/2006
    Bài viết:
    35
    Đã được thích:
    0

    +Đặng Tiểu Bình chuẩn bị chiến tranh.
    Chu Ân Lai qua đời đầu năm 1976 và Mao Trạch Đông, chín tháng sau. Nội tình Trung quốc xáo trộn vì ba sự kiện hệ trọng:
    1.- chiến dịch sôi nổi chống nhóm Tứ Quái của Jiang Qing, vợ Mao, đầu não xách động *****************.
    2.- việc thi hành chậm trễ kế hoạch Bốn Hiện Đại Hóa do Chu đề xướng để canh tân kỹ nghệ, canh nông, quốc phòng và khoa học.
    3.- Sự tranh quyền ráo riết giữa Đặng Tiểu Bình và Tổng bí thư Hoa Quốc Phong, lãnh tụ của "Phe Bất Cứ Gì" (=bất cứ gì chủ tịch Mao nói và làm đều đúng cả!). Cuối 1978, sau hai lần bị khai trừ, Đặng phục hồi quyền lực, nắm đa số trong Chính trị bộ và Ủy ban trung ương Đảng CS, giữ chức Tổng tư lệnh quân đội, thi hành chính sách của Chu và xét lại đường lối Mao ít. Đặng bắt tay nghiên cứu cách giải quyết khủng hoảng với láng giềng VN. Trung quốc cảm thấy bị đe dọa trong quyền lợi và thách đố bởi một nước sao nhỏ bé mà quá kiêu hùng , luôn tự hào là nước mạnh quân sự thứ ba trên địa cầu( lời của Đặng)
    Theo Gs Irving Janis và Leon Mann, Đặng Tiểu Bình hành động thực tế và thận trọng qua 3 giai đoạn. Trước hết, thu thập đầy đủ dữ kiện bên ngoài (chiến lược toàn cầu của nước TQ, chiến lược Đông dương của VN, sự nhúng tay của Liên sô, vấn đề Campos , tranh chấp biên giới, Hoa kiều tại VN, yếu tố Hoa Kỳ, dư luận thế giới) và dữ kiện bên trong như: lợi ích và các giá trị của Trung quốc, phản ứng tâm lý quần chúng trong nước, khả năng của quân đội Tàu, ảnh hưởng chiến tranh đối với mức phát triển kinh tế quốc gia..v..v.. Thứ nữa, tham khảo ý kiến và đạt được sự đồng thuận của các cơ cấu trong đảng CS: Chính trị bộ, Ủy ban Trung ương và Quân ủy Hội. Sau hết, hành động để giữ vững quyết định đến cùng.
    Hà nội ký Hiệp ước Hữu nghị với Liên sô và cưỡng chiếm Nam Vang là hành động khiêu khích thêm, buộc Bắc kinh phải trả đũa. Ngày 15.12.1978, Hoa Kỳ công nhận Trung Hoa. Đặng Tiểu Bình liền bay qua Wasington hội kiến với Tổng thống Jimmy Carter, báo tin riêng sẽ tấn công VN và trấn an Mỹ rằng nhà cầm quyền nước ông biết tự chế. Ngày 1.1.1979, hai nước bang giao chính thức. Đặng cũng viếng Nhật và một số quốc gia Đông Á để dò xét phản ứng. Tất cà đều lo ngại về ý đồ tương lai của *********, đồng minh của Nga. Trở về Bắc Kinh, Đặng điều chỉnh kế hoạch. Thay vì gởi quân qua Campos giúp Khờ Me Đỏ và để tránh mang tiếng với Thế giới là "mưu đồ bành trướng", Trung quốc quyết đánh thẳng vào VN dưới hình thức "phản công tự vệ", không dùng hải lực không quân, trong một thời gian giới hạn và chỉ nhắm vào vùng biên giới. Đặng muốn dạy cho nhóm lãnh tụ tại Bắc bộ phủ "một bài học quân sự đich đáng".
    Mục phiêu thật của "sự trừng phạt" là gì? Tiêu hủy vài sư đoàn, căn cứ chiến lược hay chiếm một giải đất biên phòng của đối phương? Đặng không cho biết thâm ý. Dù sao, theo học giả King C. Chen, "chiến tranh trừng phạt, the Punitive War" tượng trưng cho chính sách đối ngoại của Bắc Kinh tại Á châu từ 1949. Hành quân năm 1979 chống VN được chuẩn bị chu đáo như cuộc đụng độ Hoa - Ấn năm 1962 và không hấp tấp như trường hợp Trung cộng tham chiến ở Triều tiên hay vụ Nga sô can thiệp ở Tiệp khắc và Hungari
    +Bài học quân sự 1979.
    Năm 1938, Mao giải thích như sau quan điểm của Lê nin về chiến tranh: "Khi chính trị mở rộng đến mức không còn tiến tới được bằng đường lối thông thường thì chiến tranh bùng nổ để san bằng các trở ngại gặp phải". Lê nin từng viết: "Chiến tranh chỉ là chính trị nối tiếp bằng những phương tiện khác". Câu này dựa vào ý kiến của Karl Von Clausewitz: "Chiến tranh không phải là hành vi đơn giản của chính sách mà là một lợi khí chính trị đích thực, một sự tiếp tục của hoạt động chính trị với phương thức khác". Cuộc chiến để sát phạt VN, dù núp dưới danh xưng phản công tự vệ, được khởi xướng đúng theo chủ trương trên đây. Các lãnh tụ Trung quốc đã cân nhắc quyết định của họ hai năm (1977-1979), với hy vọng bình thường hóa bằng võ lực mối bang giao Hoa - Việt. Muốn thành đạt, chiến tranh nhân dân cần hội một số điều kiện: đảng và quân thống nhất, quần chúng hỗ trợ, đất nước hậu tiến, vũ khí quy ước, kỹ thuật lạc hậu, ngoại xâm đe dọa và đấu tranh trường kỳ.
    Trước tháng 2.1979, Trung quốc có 3,600.000 quân nhân tại ngũ và 175 sư đoàn tại 11 vùng chiến thuật. Võ khí gồm có 10.000 chiến xa, 20.000 giàn phóng hỏa tiễn, 16.000 cà nông và phương tiện chuyên chở rất lạc hậu. Hải quân có 30.000 thủy thủ, 75 tiềm thủy đỉnh. Hạm đội Bắc Hải có 300 chiến hạm, Đông hải: 450 và Nam hải: 300. Lực lượng không quân có 400.000 phi công, 5000 chiến đấu cơ cũ và lỗi thời, loại Mig 15,17,19 và 80 Mig 21. Đặng Tiểu Bình là Tổng Tư lênh hành quân, với 2 phụ tá Xu Xiangqian và Nie Rongzhen, tướng Gen Biao giữ chức Tham mưu trưởng. Về phía VN, tổng quân số lên đến 600.000 phân chia 200.000 tại Campos, 100.000 tại Lào, 100.000 tại Nam Việt, và 200.000 ở Bắc Việt. Xung quanh Hà nội có 5 sư đoàn và 4 lữ đoàn. Dài theo biên giới Trung hoa, VN có 150.000 dân quân tổ chức thành 6 sư đoàn địa phương và một trung đoàn. Không lực Việt có 300 chiến đấu cơ (70 Mig 19, 21 Mig 70, và một số F 5 tịch thu của Mỹ năm 1975). Hải quân Việt có 2 chiếc PETYA Xô viết với hỏa tiến chống tiềm thủy đỉnh, và 60 tàu tuần tiễu.
    Cuộc "hành quân sát phạt" kéo dài 16 ngày, chia thành 2 giai đoạn: 1)- Từ 17 đến 26.2.1979. Ngày 17 thàng, lúc 5 giờ sáng, theo chiến thuật "biển người", 100.000 Tàu cộng, được chiến xa hỗ trợ, tràn vào Lạng Sơn, (phía Đồng Đăng), Cao Bằng, Đồng Khê, Mông Cáy, và Lào Cai sau khi pháo kích mãnh liệt. Sự tiến quân, mau lẹ lúc dầu, lần hồi bị địa phương quân Việt chận lại và bao vây. Các đơn vị chính quy VN tập trung về phía Nam Cao Bằng và Lạng Sơn để đánh tiêu hao những sư đoàn đối phương. Số tổn thương của hai bên đều nặng nhưng khó kiểm chứng. Phía Trung quốc chiếm được Lào Cai, Cao Bằng và chuẩn bị tấn công Lạng Sơn nhưng không có ý định tiến về Hà nội. Đồng thời, Bắc Kinh công bố sẽ rút quân đội "sau khi hoàn tất mục tiêu". Trong thời khoảng đó, Liên Xô đưa 7 chiến hạm tuần tiễu dài theo hải phận VN và ngày 21 tháng 2, gởi tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak vào Nam Hải. Vũ khí Nga được không vận từ Calcutta và một phái đoàn quân sự Xô viết bay qua Hà nội. Nga yêu cầu TQ rút binh.
    2)- Từ 27.2 đến 5 tháng 3. Chiến cuộc tiếp diễn ở Lào Cai, Cao Bằng và Mông Cái nhưng tập trung mạnh nhất vào Lạng Sơn, cách Đèo Hữu Nghị lối 10 dặm và Hà nội 85 dặm. Với hai sư đoàn mới đến từ Đồng Đăng và Lộc Bình, Trung cộng vất vả tấn công các ngọn đồi quanh tỉnh. ********* chống cự mãnh liệt và còn đột nhập vào ba thị trấn Guangxi, Malipo và Ninping ở bên kia biên giới. Ngày 3 tháng ba , Lạng Sơn thất thủ. Đồng Đăng và Cẩm Dương bị san bằng nhưng các đơn vị Việt tiếp tục đánh tại Lộc Bình và Mông cái. Ngày 5 tháng 3, Chính quyền Bắc Kinh một mặt công bố đã chiếm được các tỉnh lỵ Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và 17 quận, gây thiệt hại nặng cho 4 sư đoàn Việt và mặt khác, cảnh cáo Hà nội không được cản trở sự rút lui của Quân đội Nhân dân Trung quốc. Cùng một ngày, Bắc bộ phủ tổng động viên toàn quốc. Ngày 7 tháng 3, VN xác nhận đồng ý cho đối phương rút quân "để tỏ thiện chí hòa bình". Tại Nga, Thủ tướng Kosygin và Tổng bí thơ Brezhnev cực lực lên án Trung quốc, tiếp tục cho không vận vũ khí và canh chừng hải phận VN. Cuba cho biết sẵn sàng gởi quân trợ chiến Hà nội. Tại Liên Hiệp Quốc, với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, khối Asean kiến nghị đòi "các lực lượng ngoại quốc rút ra khỏi khu vực" mà không lên án Bắc Kinh !!!? Ngày 16.3.1979, không còn đơn vị TQ nào ở VN. Theo tinh thần kiến nghị Asean thì VN tại Camposcũng phãi hồi hương quân đội chiếm đóng. Hội Đồng An ninh LHQ rốt cuộc không có ra quyết nghị nào. Một nhà ngoại giao chua chát phê bình: "Khi tranh chấp xẩy ra giữa các đại cường, Liên Hiệp Quốc biến mất! ".
    +Thẩm lượng "bài học quân sự 1979
    1.- Thiệt hại của đôi bên. Dưới đây là bản kê khai thiệt hại căn cứ vào tài liệu mỗi phía, trích từ quyển sách "China''s War With Việt Nam, 1979" của Gs King G. Chen , trang 114:
    Trung quốc Việt Nam
    Tử thương 26.000 30.000
    Bị thương tích 37.000 32.000
    Tù chiến tranh 260 1.638
    Chiến xa, quân xa 420 185
    Bích kích pháo, súng 200 66
    Giàn hỏa tiễn 6 0
    Hoa lẫn Việt đều tuyên bố thắng trận nhưng không xứ nào hoàn thành mục tiêu chính yếu. Trung quốc không hủy được một sư đoàn Việt nào, không chấm dứt được xung đột tại biên giới, không ép được các đơn vị Việt rút khỏi Campos và cũng không thuyết phục nỗi VN thay đổi chính sách đối với Hoa kiều. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã gây ra tại Hà nội sự nghi ngờ về thực tâm của Nga (chiến thuật) can thiệp bằng võ lực để chống Trung cộng ở VN. Mặt khác, khối Asean đã lên tiếng ủng hộ TQ trong cố gắng chặn chủ nghĩa bành trướng của CS Việt tại Đông Á !?và, dưới khía cạnh này, gây thiệt hại cho nền kinh tế Việt không ít. Ngày 26.3.1979, Jiefangjun Bao viết trong bài xã luận: "Cuộc chiến 1979 đã làm sáng tỏ những ý kiến sai lệch về vấn đề chiến tranh và một số vấn đề khác". Không thấy báo xác định rõ vấn đề gì. Sáu tháng sau, nhân lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Cộng hòa Nhân Dân Trung quốc, Tổng trưởng Quốc Phòng Xu Xiangqian trình bày quan điểm trong tạp chí "Quân Đội": "Như chúng ta biết, trong lịch sử chiến tranh, có nhiều cuộc thất trận không vì nhân lực yếu hay võ khí kém, nhưng bởi tư tưởng quân sự lạc hậu và chỉ huy sai lầm. Một kết luận thực tế là năm 1979, tại VN, các lãnh tụ Trung Hoa vừa dạy đối phương và vừa thu thập một bài học hữu ích: Quân đội Trung Hoa không thể thắng một cuộc chiến tân tiến trước khi được hiện đại hóa về võ khí và chiến lược.
    Đối với VN, hậu quả của cuộc chiến nặng nề hơn, về nhiều phương diện:
    1) Trong vòng một năm, 1979-1980, vì lý do an ninh và cũng vì nhu cầu chiếm đóng Campos và Lào, ngân sách quốc phòng tăng rất mạnh. Lục quân vượt từ 600.000 bộ binh lên một triệu, Hải quân từ 3.000 thủy thủ lên 12.000 và Không quân từ 12.000 phi công lên 15.000. không kể ngân khoản khổng lồ để mua vũ khí, tàu chiến và phi cơ.
    2) Nội bộ Đảng CSVN chia rẽ trầm trọng, các phần tử thân Bắc Kinh bị khai trừ thẳng tay: Hoàng Văn Hoan, bạn nối khố của Hồ; tướng Chu Văn Tấn và Lê Quang Ba; Lý Báu, Lê Hiển Mai (trong Ủy ban Trung ương); Trần Đình Tri, Tổng thư ký Quốc Hội. Tổng bí thư Trường Chinh bay chức và bị đưa qua giữ ghế *************, một hư vị.
    3) Về kinh tế, hai kế hoạch ngũ niên 1976- 1980 và 1981- 1985 thất bại thê thảm. Đồng bạc phá giá 100%. Giá sinh hoạt tăng phi mã. Lợi tức đầu người dưới 300 mỹ kim năm 1984. Ngày 30.4.1984, tại phiên họp ở La mã, Chương trình Liên Hiệp quốc về Thực phẫm cắt bỏ 5,3 triệu đô la viện trợ cho VN.
    2- Hậu quả quốc tế.
    A) Thái độ của Khối Asean: Từ 1979, chính sách của Asean có tính cách liên tục. Trong thời gian tháng 2 đến tháng 8, 1979, phần đông các nước thành viên âm thầm tán đồng cuộc hành quân của Bắc Kinh nhưng sau đó kêu gọi chính thức chấm dứt xung đột. Từ tháng 9 đến tháng 6.1982, Asean khuyến cáo VN rút quân khỏi Campos để quốc gia này tổ chức bầu cử tự do. Việc Trung quốc ngưng xô xát với VN giúp xúc tiến giải pháp. Từ tháng 6.1982 về sau, Asean vận động thành lập một liên minh chính trị do Sihanouk lãnh đạo trong khi vẫn áp lực Hà nội. Kết quả là tháng 7.1982, Hội nghị Ngoại trưởng 3 nước Đông Dương ra thông cáo đề nghị rút một phần quân Việt khỏi Campos , lập một hành lang an ninh giữa Thái và Campos và tổ chức Hội nghị Đông Á.
    B) Các quốc gia khác trên thế giới - Khi chiến tranh Hoa-Việt nổ lớn, Tiệp khắc, Hungary, Albani, Bulgarie, Cuba và Lào chỉ trích mạnh Bắc kinh. Nhật và Tây Đức cắt viên trợ vì VN chiếm Campos. Ấn độ công nhận Chính phủ Heng Samrin để phản đối Trung quốc. Nam và Bắc Hàn im lặng, giữ thế trung lập. Mỹ có cảm tình với Đặng Tiểu Bình vì lo ngại Liên Xô bành trướng, theo dõi tình hình và khuyên hai đối phương tự chế. !
    +++
    Ba yếu tố căn bản đã ảnh hưởng sâu đậm cuôc chiến 1979: Quyền lợi quốc gia và chiến lược - Ý thức hệ Cộng sản và Lòng ái quốc. Một số vấn đề đã khích động nhóm người lãnh đạo có trách vụ quyết định. Tuy nhiên không một ai nghĩ rằng nước Tàu thực sự bị đe dọa về mặt an ninh vào thời khoảng đó. Trung quốc và Việt Nam không đi đến chiến tranh toàn diện vì cả hai thuộc phe xã hội chủ nghĩa. Tinh thần yêu nước và "mặc cảm huynh trưởng tự tôn" thúc đẩy Bắc kinh đòi hỏi đất đai, với mong ước tái lập ảnh hưởng cũ trong vùng. Tình anh em lâu đời giữa hai quốc gia láng giềng ngăn họ kéo dài một cuộc chiến đẫm máu. Bởi thế, sự đọ sức được giữ ở mức trung, may thay !
    Điểm khác đáng lưu ý là vai trò của lãnh đạo. Đúng thế, lãnh đạo đẻ ra chính sách. Và chính sách vẽ đường cho ngoại giao. Nhân cách Đặng Tiểu Bình chi phối cuộc khủng hoảng 1979 được mệnh danh "chiến tranh của Đặng Tiểu Bình". Đặng mưu trí, nhẫn nại, liều lĩnh và thực tiễn. Đối diện là Lê Duẩn, không có kinh nghiệm sâu sắc về nước TQ vì ở tù ngoài Côn đảo trong giai đoạn ********* kháng chiến 1940 - 1950 với sự ủng hộ duy nhất và nhiệt tình của Bắc Kinh. Duẩn lên nắm quyền sau Trường Chinh giữa thập niên 50 và nhờ Nga hỗ trợ để giữ ghế khi Chu tich Hồ Chí Minh qua đời năm 1969. Duẩn không uyển chuyển và kiên gan như Bác nên lao mình vào một cuộc chiến mà Bác có thể tránh khỏi.
    Một bài học quân sự thứ hai: Tháng 4.1985, Quân đội CSVN tảo thanh biên giới Thái - Campos, Son Sann hù dọa Hà nội rằng Trung quốc chuẩn bị một bài học khác. Mùa đông 1984- 1985, VN thành công dẹp phiến loạn Khomer đỏ. Lại có tin đồn giống như thế. Tại Bắc kinh, Đặng Tiểu Bình, Lý Chấn Nhiệm và Hoàng Hoa không bỏ hẳn ý định này. Giới truyền thông Tây phương, chính giới Hoa Kỳ và Nghị sĩ Henry Jackson cũng tiên đoán bi quan.
    KẾT LUẬN:
    Ngày nay, tình hình thế giới có nhiều biến chuyển. Liên Xô và CS Đông Âu đã sụp đổ(08/1991). Trung quốc và VN đang đổi mới kinh tế để cứu nguy chế độ. Bang giao giữa hai nước sáng sủa hơn sau ngày Lê Duẩn qua đời vào tháng 7.1986 và Quân đội ta buộc rời Campos. Tuy nhiên, hai nước chưa giải quyết được một số tranh chấp gay cấn. Vẫn có nguy cơ nổ lớn. Ảnh hưởng của chính quyền Hà nội còn mạnh tại Đông dương. Hà Nội đã cho định cư hơn 200.000 dân Việt tại Campos và 100.000 tại Lào.
    Trung Hoa - thành công hay thất bại - mãi mãi sẽ là mối ám ảnh về nước Việt Nam bé nhỏ , hơn ngàn năm , vạn trận thất bại. Việt Nam luôn luôn là khúc xương khó nuốt của anh chàng khổng lồ phương Bắc. Đồng sàng nhưng dị mộng. Buộc phải sống chung hòa bình. Ngược lại , TQ luôn là "người anh em cần cảnh giác cao độ" của Việt Nam .
  3. columb

    columb Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/03/2006
    Bài viết:
    14
    Đã được thích:
    0
    em ko muốn nói nhiều về vụ trung quốc này vì ít thông tin về việc này ........tuy nhiên em có lời muốn nói
    chiết m113 là chiết xe bọc thép được trang bbị các loại từ trung liên đến đại liên hạng nhẹ ngoài ra có thể trang bị mốt số tên lửa tầm ngắn chống tăng ( cải tiến sau này ) là vủ khí chiến lược hổ trợ bộ binh chức năng chính vẩn là chở lính và đưa bộ binh có thể di chuyển nhanh an toàn đến diểm nóng xe này hồi trước thường sử dụng ồ ặc trong các trận đánh ở các chiến trương tuy nhiên ko hiệu quả vì tính cơ động thấp +hoả lực yếu nên thường là các mục tiêu dể lượm sau này nó chỉ sử dụng đánh ở dịa hình thành phố thui .........nếu nói là tăng thì ko hợp lý tuy nhiên có lẻ dó cáh nói thui bắt bẻ nhau làm gì
    còn về cáh dùng cối 8X để triệt hạ sân bay hoàn toàn thì ko hợp lý ..về mặt chiến thuật cối 8X sử dụng như hoả lực hiểm trợ bộ binh thui vì sức công phá hạn chế chỉ có thể uy hiếp hay triwwtj phá khu vực nhỏ thui .....nếu để làm tê liệt hoàn toàn thì nên dùng pháo 130mm hay 175mm(USA) hay tên lửa hành trình hay bộc phá hay máy bay rải thảm chiến lược mới làm dụ này đuêọc ..còn nếu dùng cối 8X thì củng có thể là dùng theo kiểu uy hiếp chiến thuật vì TQ và ta có chung một thầy nên chiến thuật của 2 bên đều như nhau nên vẩn biết sau loạt đạn cối hay pháo thường là bộ binh xung tận chắt mấy bác biết chiến thuật "tiền pháo hậu xung "và chiến thậu ngu xuẩn "biển người " của ta chứ ..........vì vậy máy bay trung quốc ko tấn công xem ra hợp lý hơn .....
    mấy bác củng đừng nên bắt bí bác canglong vì nhiều thông tin chúng ta có hay cở nào củng ko thể biết được ai biết thì nói miển đừng xạo anh em thui
    như dụ
    việt nam ta chích điện trung quốc (ctbiên giới ) ?????????
    con trai thủ tướng PVĐ tử trận tại trận biên giới
    mỏ XXX ở cXX rXX
    đồi điểm báo 203 ở XXX, khánh hoà
    căn hầm vủ khí "chiến lưọc " chưa mở được cửa hầm tai quân khu XXX (chế độ củ nay ta tiếp quảng lính ta vẩn phải gác thường xuyên )
    dụ ko lưu ta dẩn đườn cho máy bay nga hun núi chơi
    chiết ke-chu-xa 60 nòng lưu lạc tại việt nam loại mà bác thấy mấy cu nga chơi trong cuộc tập trận nga trung
    ...............................còn nhiều lắm nhưng vì là thông tin hổng biết có mật ko nên tui vẩn để chử XXX vì sợ lắm lúc buồn có người tước quân hàm ba tui .......
  4. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Chiến thuật biển người của ta ?
  5. Spyder

    Spyder Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/03/2010
    Bài viết:
    1.374
    Đã được thích:
    12
    test thử coi topic còn sống không [:D]
    thôi té, lão A3 đừng cho leo cây nhá :P

Chia sẻ trang này