1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tổng hợp một chuyến du lịch Campuchia bụi

Chủ đề trong 'Hồi ức về các chuyến đi' bởi dolly, 16/02/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. dolly

    dolly Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/05/2002
    Bài viết:
    455
    Đã được thích:
    0
    MỘT SỐ ĐIỂM DU LỊCH Ở PHNOMPENH
    HOÀNG CUNG
    Hoàng Cung ở Phnom Penh được xây dựng từ hơn một thế kỷ trước để phục vụ việc ăn ở, sinh hoạt của quốc vương, gia đình quốc vương và các quan khách nước ngoài, nơi đây còn là nơi diễn ra các cuộc thiết triều, các nghi thức ngoại giao và lễ nghi hoàng gia. Hoàng cung còn là biểu tượng của cả vương quốc. Khu Hoàng cung gắn liền với Chùa Bạc là sự đa hợp bao gồm những cung điện, công trình kiến trúc và những khu vườn. Tất cả nằm trên diện tích 500*800 met có tường bao quanh và hướng ra con sông phía trước.
    [​IMG]
    Đến gần Hoàng Cung, bức tường cao với các họa tiết điêu khắc và những công trình kiến trúc màu vàng hình tháp đứng sừng sững chắn con sông phía trước in lên nền trời. Bên trong khu Hoàng Cung, các bức tường cao đã giữ lại sự ồn ào của những con đường bên ngoài. Các cung điện trong Hoàng cung được trang trí công phu, lộng lẫy giữa các khu vườn nhiệt đới được chăm sóc kỹ lưỡng như được mọc lên trên một hòn đảo thanh bình. Trừ khu vực sinh sống của Hoàng gia (Cung điện Khemarin), các nơi khác trong Hoàng Cung và Chùa Bạc được mở cửa cho du khách tham quan. Lối vào Hoàng Cung ở cổng trên đường Sothearos cách khoảng 100m về hướng Bắc đường 240. Mở cửa hàng ngày từ 7:30-11:30/ 14:00-17:00. Toàn bộ khu hoàng cung sẽ đóng cửa khi tổ chức các nghi thức ngoại giao hoặc ngày lễ truyền thống.

    Lịch sử Hoàng cung.
    Hoàng Cung tại Phnom Penh được xây dựng mới vào năm 1866. Vào thời kỳ Angkor, từ năm 802 cho đến đầu thế kỷ 15, kinh đô của ngườI Khmer nằm tại phía bắc của Biển Hồ, ngày nay là tỉnh Siem Riep. Sau đó vua Ponhea Yat từ bỏ Angkor để dời đô về Phnom Penh. Lần đầu tiên Phnom Penh được chọn làm kinh đô vào năm 1434 (hoặc 1446) và giữ vai trò kinh đô trong một vài thập kỷ. Năm 1494 kinh đô lại chuyển tới Basan, sau đó chuyển tới Lovek rồi tới Oudong.

    Kinh đô không được dời lại Phnom Penh cho tới thế kỷ 19 và không có bằng chứng hay ghi nhận nào về một hoàng cung ở Phnom Penh trước thế kỷ 19. Năm 1813 quốc vương Ang Chang (1796-1834) đã xây dựng Banteay Kev (Cung điện Pha Lê) trên vùng đất của hoàng cung ngay nay và ở đó trong thời gian rất ngắn trước khi chuyển tới Oudong. Cung điện Pha Lê bị đốt cháy trong cuộc phá hủy thành phố năm 1834 khi quân Xiêm rút lui khỏi Phnom Penh sau thời gian chiếm đóng.

    Mãi cho tới khi thực dân Pháp xâm lược Campuchia và ép vua Norodom (1834-1904) ký Hiệp ước bảo hộ năm 1863, thủ đô vẫn được đặt tại Oudong, khoảng 45km về hướng đông nam Phnom Penh. Đầu năm 1863, một cung điện tạm thời đã được xây dựng tại vị trí cách hoàng cung hiện tại khoảng vài trăm met về hướng bắc. Hoàng Cung ngày nay được thiết kế bởi kiến trúc sư Neak OkhnaTepnimith Mak và được xây dựng bởi sự bảo trợ của nước Pháp năm 1866.
    Cũng trong năm đó, nhà vua rời Oudong (khoảng 45km về hướng đông nam Phnom Penh) và Phnom Penh lại trở thành kinh đô của đất nước. Mấy thập kỷ sau đó, vài công trình kiến trúc được xây dựng thêm, một vài trong số chúng đã bị phá huỷ và xây mới, bao gồm Điện Chanchaya và Phòng khánh tiết (nơi đặt ngai vàng và là nơi thiết triều của nhà vua). Cung điện hoàng gia hoàn thành việc xây dựng vào năm 1871 và những bức tường bao quanh được xây năm 1873. Một số công trình đặc biệt của khu hoàng cung sử dụng phong cách kiến trúc và nghệ thuật truyền thống người Khmer nhưng luôn pha trộn với phong cách nghệ thuật phương Tây một cách độc đáo. Một trong những công trình tiên biểu của thời kỳ này là Điện Napoleon, một món quà từ nước Pháp năm 1876.
    [​IMG]
    Quốc vương Sisowath (1904-1927) cũng đã có vài đóng góp cơ bản cho quần thể kiến trúc hoàng cung như việc xây thêm Đại sảnh Phochani năm 1907, khánh thành năm 1912. Từ năm 1913 - 1919 phá bỏ một số ngôi nhà cũ, thay thế và mở rộng Điện Chanchaya và Phòng khánh tiết với kiến trúc như ngày nay còn lưu lại. Những công triìh này mang phong cách nghệ thuật truyền thống người Khmer và kiểu thiết kế đầy cảm hứng của người Angkor, được thể hiện rất rõ trong Phòng khánh tiết mặc dù những nét ảnh hưởng của châu Âu vẫn còn tồn tại. Các công trình xây dựng quan trọng tiếp theo được làm vào những năm 1930 dưới đời quốc vương Monivong như xây thêm Điện thờ hoàng cung, Vihear Suor (1930), và phá bỏ và thay thế khu hoàng cung cũ bằng khu cấm thành Khemarin (1931). Sau đó, năm 1953 xây dựng công trình độc đáo Damnak Chan dùng làm nơi làm việc của Hội đồng cao cấp của nhà vua, năm 1956 xây dựng thêm khu biệt thự Kantha Bopha sử dụng cho các vị khách nước ngoài viếng thăm hoàng gia.
    Từ khi diễn ra đảo chính năm 1970, khi Campuchia trở thành nước cộng hoà, trong suốt thời kỳ chế độ Khmer đỏ (Campuchia Dân chủ 1975-1979) và chế độ cộng sản của những năm 1980 đến tận năm 1993 khi nền quân chủ được lập lại, khu hoàng cung có khi được sử dụng như bảo tàng hoặc bị đóng cửa. Trong thời kỳ cai trị của chế độ Khmer Đỏ, quốc vương Sihanouk và gia đình bị giam lỏng như tù nhân trong khu hoàng cung. Vào giữa những năm 1990 một số toà nhà trong khu hoàng cung được phục chế và tu sửa với sự trợ giúp của quốc tế.
    NHỮNG CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC CỦA HOÀNG CUNG


    Phòng khánh tiết:
    là nơi quan trọng nhất trong hoàng cung, nơi tổ chức lễ lên ngôi, các nghi thức ngoại giao và một số nghi lễ truyền thống. Phòng khánh tiết đã được xây dựng hai lần, lần đầu tiên được xây dựng bằng gỗ vào năm 1869-1870 dưới thời vua Norodom, công trình này bị phá bỏ năm 1915. Phòng khánh tiết ngày nay được xây dựng năm 1917 và được khánh thành năm 1919 bởi nhà vua Sisowath. Toà nhà có diện tích 30*60m, với đỉnh tháp cao 59m. Như tất cả các ngôi nhà và công trình xây dựng trong hoàng cung, Phòng khánh tiết có hướng đông và rực rỡ nhất vào buổi sáng. Ngai vàng (Reach Balaing) được đặt trang trọng chính giữa phòng và trần có cấu trúc mái vòm trang trí họa tiết rực rỡ mô tả truyền thuyết Reamker (Sử thi Ramayana đã Khmer hóa).
    [​IMG]

    Sân khấu Chanchhaya:
    Khu sân khấu ngày nay là công trình đã được xây dựng lần hai, trước đó dưới thời vua Norodom đây là một công trình bằng gỗ. Năm 1913-1914, dưới thời vua Sisowath, công trình được tái xây dựng với cùng kiểu dáng thiết kế với công trình trước đó. Sân khấu Chanchhaya còn được gọi là sân khấu Ánh trăng. Mặt trước sân khấu hướng ra đường Sothearos. Sân khấu là nơi tổ chức các điệu múa cung đình, là khán đài để nhà vua diễn thuyết trước nhân dân và cũng là nơi tổ chức các sự kiện và những bữa tiệc lớn của hoàng gia. Năm 2004, nhân ngày quốc vương Norodom Sihamoni lên ngôi khu sân khấu đã được sử dụng để tổ chức bữa tiệc lớn mừng tân quốc vương đăng quang.
    [​IMG]

    Hor Samran Phirun
    (Điện nghỉ yên tĩnh): là nơi nghỉ ngơi và thư giãn của hoàng cung, nơi mà nhà vua đợi để lên lưng voi trong các dịp rước lễ của hoàng gia, được xây dựng năm 1917, đây còn là nơi cất giữ nhạc cụ và các đạo cụ biểu diễn. Ngày nay, điện dùng để trưng bày vật kỷ niệm của những nhà lãnh đạo nước ngoài.
    [​IMG]
    Hor Samrith Phimean (Cung điện đồng): được xây dựng năm 1917 và là nơi cất giữ những trang phục và vật tượng trưng của hoàng gia. Ngày nay tầng 1 của ngôi nhà dùng là nơi trưng bày những trang phục và biểu trưng hoàng gia.
    [​IMG]

    Điện Napoleon III:
    thoạt nhìn, điện Napoleon III với vẻ bề ngoài mang phong cách nghệ thuật Châu Âu thuần khiết có vẻ qúa khác biệt với những cung điện mang phong cách nghệ thuật Khmer ấn tượng và rực rỡ bao quanh. Ngôi điện trên thực tế là công trình xây dựng vĩnh cửu đầu tiên trong khu vực hoàng cung, được xây dựng hoàn toàn bằng sắt. Nó là một công trình độc đáo dành cho nữ hoàng Eugenie nước Pháp, vợ vua Napoleon III, năm 1869 từng được sử dụng trong lễ khánh thành kênh đào Suez. Năm 1876, hoàng đế Napoleon III gửi tặng nhà vua Campuchia Norodom.
    [​IMG]
    Thật ngẫu nhiên, các biểu tượng hoàng gia với chữ ?oN? trên các cửa và các mặt của ngôi nhà vinh danh Napoleon đã không cần phải đổi lại khi ngôi nhà được tặng cho nhà vua Norodom (tên của nhà vua cũng bắt đầu bằng chữ N). Ngôi nhà được trùng tu vào năm 1991 với sự trợ giúp tài chính từ chính phủ Pháp. Ngôi điện này ngày nay được sử dụng làm một bảo tàng nhỏ, trưng bày các bức ảnh và những sự kiện đáng nhớ của hoàng gia. Chụp ảnh toàn cảnh ngôi điện đẹp nhất là vào buổi sáng sớm.

    Điện Phochani:
    là một sân khấu rộng dùng vào mục đích biểu diễn nghệ thuật, công trình được xây dựng năm 1912 và ngày nay được sử dụng làm nơi đón tiếp và hội nghị của hoàng gia.
    [​IMG]
    Damnak Chan: ngày nay được sử dụng làm nơi làm việc của hoàng cung. Được xây dựng năm 1953 dành riêng cho Hội đồng cao cấp của nhà vua. Ngôi điện được sử dụng làm trụ sở của Bộ văn hoá trong những năm 1980 và Ủy ban cấp cao quốc gia Campuchia từ năm 1991- 1993. Damnak Chan thể hiện một số mặt không hợp lý của sự pha trộn phong cách nghệ thuật phương Tây và nghệ thuật truyền thống ngưòi Khmer. Sự pha trộn kiến trúc bất hợp lý thể hiện rõ ràng nhất là mái nhà mang phong cách kiến trúc Khmer nhưng tường bao quanh lại mang phong cách kiến trúc phương Tây. Điện không mở cửa cho du khách.
    [​IMG]
    Chùa bạc nằm ngay cạnh hoàng cung có tên chính thức là Wat Preah Keo Morokat, có nghĩa là "Chùa Phật ngọc lục bảo" nhưng thường được gọi là Chùa Bạc sau khi nền ngôi đền được lát lại hoàn toàn bằng bạc trắng. Tổng thể ngôi chùa bao gồm chánh điện và một số công trình khác như thư viện, tháp, lăng mộ, đài tưởng niệm, những ngôi nhà nhỏ và sảnh đường trang trí rất nhiều tranh vẽ về truyền thuyết Reamker.
    [​IMG]
    Wat Preah Keo Morokat độc nhất vô nhị ở một vài điểm. Nó là ngôi chùa của hoàng gia, nơi nhà vua thường gặp các hoà thượng và nghe họ giảng đạo và cũng là nơi nhà vua thường tổ chức những nghi lễ trang nghiêm. Nó là nơi lưu giữ những bảo vật vô giá của đạo phật và lịch sử bao gồm bức tượng phật ngọc lục bảo và những vật dụng khác nhau. Khác với các ngôi chùa thông thường, Chùa Bạc không có hoà thượng cư ngụ và tu hành. Chánh điện, thư viện và sảnh đường tranh Reamker là những công trình xây dựng đầu tiên vào giữa những năm 1892-1902 dưới thời vua Norodom. Bức tượng cưỡi ngựa của vua Norodom được dựng năm 1892. Một số công trình xây dựng khác như tháp chứa hài cốt vua Ang Duong và vua Norodom (xây năm 1908) và một số được xây dựng sau này như tháp tưởng niệm công chúa Kantha Bopha (xây năm 1960). Ngôi chùa được trùng tu sửa vào năm 1962 và tổng trùng tu vào năm 1985- 1987, đặc biệt là những bức tranh tường Reamker. Trong thời kỳ chế độ khmer 1975-1979 một số đồ vật quý trong ngôi đền đã bị lấy cắp. Nhưng cũng thật may mắn lực lượng Khmer vẫn giữ lại nguyên vẹn một số đồ vật với mục đích lưu truyền.
    được Zorzo sửa chữa / chuyển vào 22:43 ngày 16/02/2008
  2. sady

    sady Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/03/2005
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Cảm ơn những kinh nghiệm của bác. Hi vọng đi Cam sẽ không bị "hoa hồng" nhiều
  3. lovetivi2005

    lovetivi2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2006
    Bài viết:
    440
    Đã được thích:
    0
    Chuẩn bị đi Cam, gặp bài chi tiết này như buồn ngủ gặp chiếu manh.
    Cảm ơn bạn chủ topic nhiều, vote bạn 5* nhé.
  4. sebastianofrey

    sebastianofrey Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    09/07/2002
    Bài viết:
    642
    Đã được thích:
    0
    Tặng bác chủ topic huân chương 5 sao vàng
  5. dolly

    dolly Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/05/2002
    Bài viết:
    455
    Đã được thích:
    0
    Chùa Bạc.
    Wat Preah Morakat: còn gọi là Chùa Bạc hay Chùa Phật ngọc lục bảo. Sở dĩ được gọi là Chùa Bạc vì ngôi chùa có đến 5329 miếng bạc lát trên nền nhà, mỗi miếng bạc đều làm thủ công và có trọng lượng 1.125g. Ngôi chùa có chức năng văn hoá và lưu giữ bảo vật tôn giáo hơn là chức năng thờ cúng, chứa đựng hơn 1650 đồ vật có giá trị. Bức tượng phật ngồi trên ngọn tháp trung tâm ngôi đền là bức tượng ngọc lục bảo, có những thông tin khác nhau bức tượng được làm bằng ngọc lục bảo hay pha lê. Đứng trước tượng lục bảo là tượng phật Maitreya (đức phật tương lai) đúc bằng 90 kg vàng ròng và được gắn 2086 viên kim cương, trong đó có viên kim cương 25 carat trên vương miện và viên kim cương 20 caret gắn ở ngực. Ngoài ra còn có bức tượng Phật xá lị ngồi trong một tháp nhỏ bằng vàng và bạc, các bảo vật của hoàng hậu Kossomak Nearirith, bảo vật đóng góp của các dòng họ quý tộc và hoàng gia.
    [​IMG]

    Tranh tường sử thi Ramayana (Reamker)
    : bên trong ngôi chùa có một sảnh đường rộng trang trí bằng những bức tranh tường nói về sử thi Reamker (phiên bản Khmer hóa từ sử thi kinh điển Ramayana của Ấn Độ). Một số phần của bộ tranh tường đã bị hư hỏng do thời tiết. Những bức tranh tường được vẽ vào năm 1903-1904 bởi một nhóm sinh viên dưới sự chỉ đạo trực tiếp của hoạ sỹ Vichitre Chea và kiến trức sư Oknha Tep Nimit Thneak. Trong thập kỷ 30 thế kỷ 20, sảnh đường này được sử dụng như là nơi học đạo của những nhà sư.
    [​IMG]
    Dhammasala: một phòng lớn thông thoáng thường là nơi các hoà thượng giảng đạo và là nơi tiếp đón khách của hoàng gia. Trong ảnh là ngôi nhà phía sau ngọn tháp.
    [​IMG]
    Keong Preah Bat: Ngọn tháp chứa đựng dấu chân của đức phật
    [​IMG]
    Thư viện: có một thư viện nhỏ ngay cạnh chánh điện là nơi lưu giữ những cuốn kinh tôn nghiêm và bức tranh voi đực Nandin và một vài bức tượng phật. Bức tượng Nandin làm bằng bạc nguyên chất và được coi là có nguồn gốc từ rất lâu, bức tượng được tìm thấy ở tỉnh Kandal năm 1983. Trong thư viện có nhiều thày bói làm việc, nếu có phiên dịch đừng quên hỏi thày bói về vận mệnh của mình chỉ với một chút đóng góp tùy hỉ.
    [​IMG]
    Đồi Mondop: là một quả đồi nhân tạo nhỏ tượng trưng cho núi Kailassa, trên đỉnh là ngọn tháp là gian thờ có chứa đựng một dấu chân lớn của đức phật. Ngọn tháp được trang trí 108 bức ảnh đức phật tượng trưng cho 108 linh hồn của đức phật. Cũng có các thày bói làm việc tại đây.
    [​IMG]
    Bức tượng vua Norodom: Bức tượng cưỡi ngựa của nhà vua Noradom (1834- 1904), được làm bởi những nghệ nhân Pháp năm 1875 tại Paris và đặt trên phần đất ngôi chùa năm 1892. Phần mái che được vua Sihanouk cho làm thêm năm 1953 nhằm tôn vinh vua Noradom như là vầng ánh sáng của đất nước Campuchia độc lập. Ngọn tháp ở phía Bắc bức tượng có chứa hài cốt vua Norodom.
    [​IMG]
    Lăng mộ vua Ang Duong (1845- 1860): được xây dựng năm 1908, nhà vua này được coi là người đặt nền móng cho triều đại hiện nay và là ông nội 4 đời của nhà vua Sihamoni.
    [​IMG]
    Lăng mộ vua Norodom (1834- 1904): được xây dựng năm 1908 và là nơi chứa đựng hài cốt nhà vua Norodom.
    [​IMG]
    Lăng mộ vua Suramarit và hoàng hậu Kossomak: được xây dựng năm (1955- 1960), là cha, mẹ của vua Sihanouk và là ông, bà của quốc vương Sihamoni.
    [​IMG]

    Lăng mộ công chúa Kantha Bopha
    : là con gái yêu quý của nhà vua Sihanouk, công chúa Kantha Bopha mất năm 1952 khi được 4 tuổi do bệnh bạch cầu. Lăng mộ được xây năm 1960.
    [​IMG]

    Tháp chuông:
    chuông đánh lên khi đóng hoặc mở cửa chùa hoặc trong các buổi lễ.
    [​IMG]
  6. dolly

    dolly Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/05/2002
    Bài viết:
    455
    Đã được thích:
    0
    Bảo tàng quốc gia

    Tọa lạc tại góc đường 178 và đường 13, gần Hoàng Cung. Mở cửa từ 8h đến 17h hàng ngày, giá vé 3USD/ người.

    Nét đặc trưng dễ phân biệt của bảo tàng quốc gia là tòa nhà mầu nâu đỏ nằm ngay cạnh khu hoàng cung được khởi công xây dựng vào năm 1920 dưới thời vua Sisowath. Hơn 5000 hiện vật đang được trưng bày bao gồm những bức tượng, phù điêu, linga và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ thời kỳ Angkor. Đáng chú ý nhất bức tượng vua Cùi (phong hủi) huyền bí. Mặc dù, bảo tàng có chủ đề tập trung vào nghệ thuật thủ công thời kỳ Angkor, nhưng cũng có những hiện vật đặc trưng cho các thời kỳ sau đó, bao gồm một bộ sưu tập các bức tượng Phật đặc sắc. Đi thăm khu quần thể Angkor trước khi thăm bảo tàng sẽ tốt hơn cho bạn trong việc tìm hiểu chung về nghệ thuật thủ công của người Khmer.
    [​IMG]
    Tại bảo tàng có sẵn các hướng dẫn viên nói nhiều thứ tiếng, cửa hàng bán đồ lưu niệm và sách. Chụp ảnh trong bảo tàng bị hạn chế tại một số khu vực. Bảo tàng quốc gia còn nổi tiếng vì trước đây có rất nhiều dơi bám trên các xà nhà, hiếm khi nhìn thấy chúng xuất hiện vào ban ngày, nhưng thỉnh thoảng vào lúc hoàng hôn, dơi bay lượn từng đàn tạo nên một khung cảnh ngoạn mục. Vào tháng 3 năm 2002, trần của bảo tàng được sửa chữa và từ đó đàn dơi không còn trở lại nữa. Gần bảo tàng, trên đường 178, có nhiều cửa hàng tranh và đồ lưu niệm. Cửa hàng nghệ thuật Reyum là cửa hàng đặc thù, trưng bày những sản phẩm nghệ thuật đương đại của người Campuchia.
    Bảo tàng tội ác diệt chủng Toul Sleng.

    Bảo tàng tội ác diệt chủng Toul Sleng (S-21). Nằm ở góc đường 113 và đường 350, mở cửa hàng ngày từ 8h-11h
    Trước năm 1975, Toul Sleng là một trường trung học. Khi quân Khmer Đỏ của Pol Pot lên nắm quyền, nơi đây biến thành nhà tù và nơi thẩm vấn có tên S-21. Những người tù bị tra tấn một cách có hệ thống với nhiều cách vô cùng tàn bạo, có khi kéo dài hàng tháng trời cho tới lúc chịu họ thú tội hoặc chết vì kiệt sức và bệnh tật. Sau khi thú tội, họ bị đưa đi hành quyết một các man rợ tại "Cánh đồng chết" ở Choeung Ek.
    [​IMG]
    S-21 đã từng giam hơn 17000 người, chỉ có 7 người sống sót. Toà nhà ngày nay trở thành bảo tàng, nơi tưởng nhớ và là bằng chứng hiển hiện của những tội ác điên cuồng của chế độ Khmer đỏ. Các hiện vật được tìm thấy sau khi quân Khmer đỏ bị khống chế vào tháng 01 năm 1979, nhà tù đã lưu giữ rất nhiều tài liệu, hàng ngàn bức ảnh các nạn nhân, rất nhiều trong số đó vẫn đang được trưng bày. Các bức tranh vẽ cảnh tra tấn trong tù đang được trưng bày do Vann Nath thực hiện, ông là một trong những người tù sống sót tại Toul Sleng. Bản đồ đất nước Campuchia ghép bằng sọ của các nạn nhân hiện không còn được trưng bày trong bảo tàng nữa vì một số ý kiến cho rằng việc đó qúa tàn nhẫn. Trước đây việc không tiếp tục trưng bày tấm bản đồ ghê rợn đó đã từng gây một cuộc tranh cãi phạm vi quốc tế. Để hiểu được toàn bộ bối cảnh lịch sử, nên kết hợp chuyến thăm tới bảo tàng tội diệt chủng Toul Sleng với chuyến thăm tới Cánh đồng chết Choeung Ek.
    Đài tưởng niệm Choeung Ek - Cánh đồng chết.
    Đài cách 15km về hướng tây nam thủ đô Phnom Penh, đi đường 271 qua cầu khoảng 8.5km. Khoảng 20-40 phút ô tô đi từ trung tâm Phnom Penh để tới Choeung Ek. Có hướng dẫn viện tại chỗ và một cửa hàng nhỏ bán đồ lưu niệm. Mở cửa từ 8h00 đến 17h00 mỗi ngày. Vé vào cửa 2$.

    Trong thời kỳ Khmer Đỏ cầm quyền tại Campuchia từ ngày 17 tháng 4 năm 1975 đến ngày 07 tháng 01 năm 1979, với sự lãnh đạo của Pol Pot và chính sách diệt chủng điên rồ của ông ta có đến 1.7 triệu người Campuchia đã chết.
    Đa số bị giết ngay tại các trại tập trung lao động, số còn lại thì chết do bệnh dịch, thiếu ăn và thiếu biện pháp điều trị y tế. Rất nhiều người bị giết chết và chôn trong các hố chôn tập thể, sau này được gọi là các "cánh đồng chết" trên khắp các vùng nông thôn Campuchia.

    [​IMG]
    Các cánh đồng chết chính là nơi hành hình và gom những xác chết trong các hố chôn tập thể. Đài tưởng niệm ở Choeung Ek trước năm 1975 là một vườn cây ăn quả và nghĩa trang của người gốc Trung Quốc. Dưới thời Khmer đỏ nó trở thành một trong những cánh đồng chết tàn bạo nhất, là nơi hành hình đối với hơn 17.000 đàn ông, phụ nữ và trẻ em, phần lớn họ đã phải trải qua sự hỏi cung, tra tấn trong nhà tù S-21(Toul Sleng) ở Phnom Penh trước khi bị đưa tới Choeung Ek để hành quyết. Choeung Ek ngày nay vẫn còn dấu tích của rất nhiều ngôi mộ, 129 hố chôn người tập thể (hố nhiều nhất chứa tới 450 nạn nhân) và một ngọn tháp mới được xây dựng để tưởng niệm các linh hồn xấu số. Tháp chứa tới 8.000 đầu lâu của các nạn nhân.
    Wat Phnom - Chùa Núi.

    Nằm tại giao lộ của đường 96 và đường Norodom, giá vé vào cửa 1 USD/người, mở cửa cả ngày.

    Chùa Núi nằm trên một quả đồi nhỏ đánh dấu sự huyền bí của một truyền thuyết kể về nguồn gốc của sự hình thành thủ đô Phnom Penh. Quả đồi biểu hiện cho tính kiên định, với những bậc thang dẫn lên ngôi chùa trên đỉnh đồi như thể hiện sự thành tâm để đến với sức mạnh linh thiêng. Truyền thuyết rằng vào năm 1372, khi vùng đất này còn là một đầm lầy với một ngôi làng nhỏ sống bằng nghề chài lưới.
    [​IMG]
    Sau một trận lũ khủng khiếp, một người đàn bà tên Penh (Đôn Pênh) phát hiện một cây bồ đề dạt ngoài bãi sông, bên trong ruột cây rỗng là 4 bức tượng phật bằng gỗ. Bà Penh kêu gọi dân chúng đắp một qủa đồi nhỏ (Phnom có nghĩa là đồi) và xây dựng ngôi chùa nhỏ (Wat) để thờ 4 pho tượng phật. Tên gọi Wat Phnom bắt nguồn từ đó. Sự linh thiêng của 4 pho tượng phật trong Wat Phnom đã khiến cư dân ngày càng đông di chuyển tới sinh sống xung quanh ngôi chùa và dần hình thành một cộng đồng, tiền thân của thủ đô Phnom Penh ngày nay.
    Ngôi chùa hiện nay được tu sửa lần cuối vào năm 1926. Trên đỉnh có tháp lớn chứa hài cốt vị vua Ponhea Yat (1405- 1467), người di chuyển thủ đô từ Ankor về Pnom Penh năm 1422. Ban thờ bà Penh đặt giữa ngọn tháp lớn và chánh điện. Bà Penh được dân chúng coi là đấng cứu thế riêng của phụ nữ. Vào những ngày tết của người Trung Hoa và người Việt Nam, Wat Phnom là ngôi chùa có số người tập trung về dâng hương đông nhất tại Pnom Penh.
    Đài độc lập.
    Nằm tại quảng trường lớn, giao lộ giữa đường Norodom và đường Sihanouk. Miễn phí tham quan, tuy nhiên một số ngày lễ Đài độc lập không cho phép khách du lịch vào thăm.

    Đài độc lập được khởi công xây dựng năm 1985 và khánh thành ngày 9 tháng 11 năm 1962 nhằm đánh dấu 09 năm độc lập của người Campuchia khỏi áp bức nước ngoài. Công trình là tác phẩm của kiến trúc sư Campuchia Vann Molyvann, sử dụng hầu như tất cả các mô típ truyền thống của kiến trúc Khmer cổ truyền.
    [​IMG]
    Đài độc lập còn được sử dụng như đài tưởng niệm những người Campuchia đã chết vì chiến tranh. Nó còn là nơi diễn ra những ngày lễ kỷ niệm và tế lễ trong nhưng ngày như: ngày độc lập, ngày hiến pháp đất nước. Đây là một công trình kiến trúc đẹp của thành phố Phnom Penh. Có thể đứng từ mọi phía để ngắm quang cảnh của quảng trường Đài độc lập.

    Du thuyền trên sông.
    Ngày càng có nhiều du khách chọn một chuyến du thuyền ngắn cùng với thưởng thức bữa tối trên con sông phía trước Hoàng Cung. Dành 1h đến 2h cho chuyến du thuyền này dọc theo con sông Tonle Sap từ trung tâm thành phố, thưởng thức toàn cảnh Hoàng cung, Bảo tàng quốc gia, các công viên và toàn cảnh thủ đô Phnom Penh in lên nền trời, ngang qua con sông Tonle Sap và tới sông Mekong để thưởng thức quang cảnh những làng chài trên sông. Chụp ảnh đẹp nhất toàn cảnh Hoàng Cung vào buổi sáng sớm khi ánh sáng mặt trời từ hướng Đông rọi chiếu.

    Các loại thuyền du lịch với kích cỡ và chất lượng khác nhau đậu dọc theo con sông phía trước nằm giữa đoạn đường 178 và đường 130, hoặc ở bến hành khách gần đường 104. Giá vé từ 10USD/giờ. Để có chuyến du lịch trên, gọi ngay Phương Nam Star 023-222360 hoặc có thể liên lạc một trong những thuyền du lịch sau: Capitol Guesthouse đưa ra giá khá rẻ là 10USD/ người cho chuyến du thuyền trên sông nửa ngày, tuy nhiên chất lượng thuyền không tốt. Thuyền Chenla sang trọng hơn với dịch vụ bao gồm: du lịch trên sông với bữa trưa hoặc bữa tối tại nhà hàng và quầy bar, gọi theo số điện thoại: 012-758992 (tiếng Anh) hoặc: 012-574074(tiếng Khmer).
  7. dolly

    dolly Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/05/2002
    Bài viết:
    455
    Đã được thích:
    0
    SIEMREAP
    Tham khảo thêm ở Wikipedia
    Đế quốc Angkor
    http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0...1%BB%91c_Khmer
    Đền Bayon
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Bayon
    Angkor Thom
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Angkor_Thom
    Angkor Wat
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Angkor_Wat
    Banteay Srei
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Banteay_Srei
    Ta Prohm
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Ta_Prohm
    Nằm ẩn mình giữa những đồng lúa và dọc theo dòng sông Siêm Reap là thị xã nhỏ Siêm Reap, cửa ngõ để tới thăm khu đền đài cổ ngàn năm tuổi của Đế chế Khmer, được UNESCO công nhận là một Di sản thế giới. Khu công viên khảo cổ Angkor, bao gồm hàng tá những ngôi đền cổ đặc sắc có thể kể tên như Bayon, Banteay Srey, Taprohm và nhất là đền Angkor Wat huyền bí và hùng vĩ. Đường nét nghệ thuật và kiến trúc hoàn hảo của những di tích cổ đã đưa Angkor Wat được xếp ngang hàng với Kim Tự Tháp, Machu Pichu và đền Taj Mahal.
    Không giống như các kỳ quan đẳng cấp thế giới khác, các phế tích đền đài ở Angkor vẫn chưa bị ảnh hưởng nhiều bởi sự phát triển kinh tế du lịch. Trong vài năm nữa, có thể điều này sẽ không còn là sự thật. Mặc dù những đền đài chính ở Angkor ngày nay được du khách tham quan khá đông, nhưng nếu muốn bạn vẫn có thể tránh xa được sự ồn ào để một mình tìm hiểu thật kỹ các di tích này và khám phá Angkor.
    Thị xã Siem Reap là nơi bạn sẽ dừng chân trong suốt chuyến viếng thăm Angkor. Khu vực này đã từng tiếp đón khách nước ngoài đến thăm quan từ hơn trăm năm trước, khi thị trấn Siem Reap chỉ là một cụm những ngôi làng cổ chụm lại xung quanh những ngôi chùa và sau đó được người Pháp lập nên một trung tâm tỉnh lỵ vào thời Pháp thuộc. Hãy quan sát lối kiến trúc thuộc địa ảnh hưởng bởi người Pháp và các kiến trúc Trung Hoa tập trung ở trung tâm thị trấn và khu vực Chợ cũ.
    Ngày nay, Siem Reap đã hình thành một mạng lưới rộng lớn các khách sạn, nhà hàng, quán rượu, cửa hàng và các trung tâm mua sắm, bao gồm các khách sạn tiêu chuẩn cao và hàng tá những nhà nghỉ bình dân. Ngoài các đền đài hùng vĩ, một số điều không thể bỏ qua khi tới thăm Siem Reap là: thưởng thức các vũ điệu múa Apsara truyền thống điêu luyện của các cô gái Campuchia, thăm các cửa hàng thủ công mỹ nghệ với sản phẩm đá và gỗ chạm khắc vô cùng tinh xảo, các nông trại nuôi dâu tằm, dệt lụa, đi thuyền tham quan biển hồ Tonle Sap và làng cá, vườn chim và còn rất nhiều điều hấp dẫn khác.
    Angkor có nghĩa là thành phố thủ đô hoặc thành phố huyền diệu. Khmer là tử chỉ người Campuchia ngày xưa và hiện tại. Trong cách dùng ngày nay thì Angkor được hiểu là kinh đô của đế chế Khmer tồn tại ở Campuchia từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 12 sau công nguyên và bản thân một thời đại Angkor. Những di tích đền đài nằm trong khu vực Siem Reap là những gì còn sót lại của một kinh đô thời kỳ Angkor và là nét biểu hiện của một nền văn hoá, kiến trúc nghệ thuật của Khmer cổ.
    Vào thời kỳ đỉnh cao của thời đại Angkor, khu vực thủ đô Angkor có dân số cỡ 1 triệu người. Các vị vua Khmer đã xây dựng các công trình thuỷ lợi và đền đài vĩ đại. Kinh tế và quân đội Khmer cũng đạt đến mức cao hơn so với Thái, Lào và Việt Nam đương thời.
    Thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên:
    Ảnh hưởng của Ấn Độ giáo.
    Đông Nam Á đã có dân cư sinh sống từ thời kỳ đồ đá nhưng nền văn minh Angkor chỉ thực sự hình thành từ thế kỷ I sau công nguyên. Bước sang thiên niên kỷ mới, Đông Nam Á dần trở thành trung tâm buôn bán trải dài từ Địa Trung Hải đến Trung Quốc. Ngày càng nhiều thương nhân từ Ấn Độ và Trung Quốc tìm đến đây. Những nhà truyền đạo Ấn Độ cũng truyền bá văn hoá, tôn giáo (Đạo Hindu và Phật giáo), pháp luật, khoa học của họ cho người dân địa phương.
    Thời kỳ tiền Angkor:
    Vương quốc Phù Nam (Funan) và Vương quốc Chân Lạp (Chenla).
    Mặc dù, nền văn hoá Ấn Độ thường ảnh hưởng tới những khu vực rộng lớn, nhưng các vương quốc tại đây thời bấy giờ chỉ có quy mô tập trung như một thành phố ngày nay. Những nước này thường xung đột với nhau để mở mang bờ cõi. Theo biên niên sử Trung Quốc thì vào thế kỷ thứ 3 thì một đối tác chủ chốt của Trung Quốc và cũng là một thế lực lớn trong khu vực là nhà nước Phù Nam nằm ở vùng trung tâm miền Nam Việt Nam và Campuchia ngày nay. Có bằng chứng cho thấy người Phù nam nói tiếng Mon-Khmer và đây là một mối liên hệ rõ ràng với nền văn minh Angkor và Campuchia.
    Phù Nam phát triển vượt trội hơn so với các nước láng giềng, trong đó có cả nước Chân Lạp ở khu vực phía bắc Campuchia. Đến nửa cuối thế kỷ 6, Phù Nam bắt đầu suy thoái, mất phần lãnh thổ phía tây về tay Chân Lạp, lúc này đang ở thời kỳ cực thịnh. Trong khi đó, người Môn cũng chiếm được phần viễn tây của Phù Nam (Thái Lan ngày nay). Sau đó, Chân Lạp tiếp tục xâm chiếm phần còn lại của Phù Nam, đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ tiền Angkor. Thời cực thịnh của Chân Lạp chỉ diễn ra trong thời gian ngắn. Vị vua thứ 3 và cũng là cuối cùng của Chân Lạp ?" Isanavarman I ?" đã xây dựng những ngôi đền trước thời kỳ Angkor như Sambor Prei Kuk, gần thành phố Kom Pong Thom ngày nay. Nếu đi từ Phnôm Pênh đến Siem Reap, bạn sẽ đi ngang qua Kom Pong Thom. Nếu có thời gian, bạn có thể ghé lại đây để tham quan những di tích cổ của thời kỳ tiền Angkor.
    Dưới sự trị vì của vị vua nối ngôi vua Isanavarman I, Chân Lạp không hợp nhất với các nước nhỏ láng giềng. Điều này chỉ xảy ra dưới thời vua Jayavarman I trị vì vào cuối thế kỷ thứ 7. Theo tài liệu ghi chép lại thì về sau Chân Lạp bị chia thành 2 phần riêng biệt là Lục Chân Lạp (Phía bắc Campuchia và phía nam Lào) và Thuỷ Chân Lạp (khu vực trung tâm và phần phía nam của Kom Pong Thom)
    Năm 802 sau công nguyên: Thời kỳ bắt đầu.
    Vua Jayavarman II là vị vua đầu tiên của kỷ nguyên Angkor. Theo truyền thuyết, ông là một hoàng tử Khmer, trở lại Campuchia vào khoảng năm 790 sau công nguyên sau một thời gian dài sống ở Java. Ông chính là người quyết tâm thống nhất Kambuja dưới sự trị vì của một vị vua duy nhất sau khi chứng kiến những bộ tộc Khmer xung đột lẫn nhau. Ông đưa ra tuyên bố của mình vào năm 802 sau công nguyên trong buổi lễ được tổ chức tại núi Kulen (núi vải) phía bắc Siem Reap, thể hiện uy quyền của mình bằng biểu tượng Linga thờ cúng của hoàng gia, nêu rõ ý chí làm ?ochúa tể vũ trụ? của mình. Trải qua nhiều thế kỷ, Linga vẫn là biểu tượng đặc trưng cho sự trị vì của các đời vua Angkor, tôn giáo, nghệ thuật, và kiến trúc Angkor.
    Rolous: Kinh đô đầu tiên.
    Sau năm 802 sau công nguyên, Jayavarman II tiếp tục trấn hưng các vùng nổi loạn và mở rộng vương quốc. Trước năm 802, ông đặt trung tâm tiền Angkor gần Rolous (cách Siem Reap 13km về phía đông). Vì một vài lý do, có thể là do những suy tính quân sự, ông đã rời từ khu vực Rolous về núi Kulen. Một thời gian sau khi tuyên bố lên ngôi năm 802, ông rời đô trở lại khu vực Rolous và đặt tên là Hariharalaya để tôn vinh hai vị thần Shiva và Vishnu. Ông trị vì vương quốc mình cho đến khi băng hà vào năm 850 sau công nguyên.
    30 năm sau khi Vua Jayavarman băng hà, Vua Indravarman III đã cho xây dựng đền Preah Ko, ngôi đền chính đầu tiên trong quần thể Rolous để tôn vinh Vua Jayavarman II. Sau đó, vua Indravarman tiếp tục cho xây dựng đền Bakong, công trình vĩ đại đầu tiên mang hình dáng một ngọn núi. Đến thăm những đền đài này, du khách sẽ được chiêm ngưỡng những chi tiết điêu khắc rất giàu tính nghệ thuật của thời kỳ này.
    Vua Indravarman III cũng cho xây dựng hồ chứa nước rộng đầu tiên, qua đó bổ sung thêm một biểu tượng quyền lực của các đời vua Angkor bên cạnh Linga và kiến trúc đền-núi.
    Dời kinh đô về Angkor:
    Con trai của vua Indravarman III là Vua Yasovarman I kế tục truyền thống của cha mình, ông cho tiếp tục xây dựng thêm hồ East Baray/ Hồ phía đông và ngôi đền chính cuối cùng trong quần thể Rolous (Lolei), ngôi đền chính đầu tiên trong khu vực Angkor (Phnom Bakheng). Khi sắp hoàn thành công trình trên núi Bakheng năm 893 sau công nguyên, ông đã dời đô về Yasodharapura nằm trong khu vực Angkor. Việc dời đô này này sinh từ cuộc đối đầu tranh giành ngai vàng giữa Vua Yasovarman I với anh trai mình, kiến cho Rolous trở nên hoang tàn.
    Koh Ker: Giai đoạn gián đoạn.
    Sự việc diễn ra vào năm 928 sau công nguyên khi quyền kế tục hoàng gia bị gián đoạn, hiện vẫn chưa rõ nguyên nhân. Vua Jayavarman IV dời đô từ Angkor về phía bắc 100 km là Koh Ker và nơi đây trở thành kinh đô của đế chế Angkor trong khoảng 20 năm. Khi kinh đô được chuyển trở lại Angkor, nó không nằm trên núi Phnom Bakeng như trước đây mà dịch về phía đông tại khu vực đền mới Pre Rup (năm 961 sau công nguyên).
    Thời cực thịnh: Đế chế Khmer tại Angkor.
    Việc dời kinh đô về Angkor đã mở ra một kỷ nguyên mở rộng lãnh thổ, chính trị, thương mại. Hoàng gia đã cho xây dựng một số đền đài lớn bao gồm Ta Keo, Banteay Srey, Baphuon, và West Baray. Các vị vua trong thời kỳ này đã thể hiện được sức mạnh quân sự của mình, như vua Rajendravarman đã lãnh đạo thành công cuộc chiến chống quân Champa vào giữa thế kỷ 10. Ngay sau khi thiên niên kỷ mới bắt đầu, một giai đoạn biến động chính trị đã diễn ra trong khoảng thời gian 9 năm và kết thúc khi vua Suryavarman I lên nắm quyền vào năm 1010 sau công nguyên. Những thập kỷ sau đó, ông đã lãnh đạo nhân dân Khmer dành được rất nhiều thắng lợi quân sự quan trọng bao gồm việc xâm lược lãnh thổ của Đế chế Môn (chiếm được rất nhiều lãnh thổ thuộc Thái Lan hiện nay), qua đó biến toàn bộ phần lãnh thổ phía tây của vương quốc Phù Nam cũ nằm dưới quyền kiểm soát của đế chế Khmer. Một thế kỷ sau, vua Suryavarman II đã lãnh đạo thành công một số cuộc chiến chống lại kẻ thù truyền kiếp phía đông của đế chế Khmer là Champa (nằm ở miền trung và miền nam của Việt Nam ngày nay).
    Dưới sự trị vì của vua Suryavarman II vào đầu thế kỷ 12, đế chế Khmer ở thời kỳ cực thịnh về chính trị và quân sự. Vua Suryavarman II đã cho xây dựng đền Angkor Wat - một tuyệt tác về kiến trúc ?" và một số đền đài khác như Thommanon, Banteay Samne, Beng Melea. Angkor Wat được xây dựng để làm đền thờ nhà nước nhưng cũng có thể đó chính là lăng mộ của vị vua này. Những chiến công hiển hách trong cuộc chiến với quân Champa cũng được ghi lại trên các bức tranh trên tường thành phía Nam Angkor Wat.
    Cuối thế kỷ 12, tình trạnh nổi loạn xảy ra trong nhiều tỉnh, thất bại trong cuộc chiến chống người ********* với những xung đột nội bộ đã dần làm suy yếu đế chế Khmer. Năm 1165, trong giai đoạn biến động chính trị khi các hoàng tử Khmer và hoàng tử Cham đấu đá lẫn nhau, Tribhuvana***yavarman đã lên chiếm quyền tại Angkor.
    Năm 1177, Tribhuvana***yavarman đã bị giết trong một thất bại tồi tệ nhất của người Khmer dưới tay người Chăm. Người Chăm đã phối hợp với một số bộ phận người Khmer tổ chức tấn công bằng đường thuỷ vào Angkor. Một đội thuyền của Champa đã đi dọc theo sông Tonle Sap lên Hồ Tonle Sap phía nam Angkor. Những trận chiến trên sông và trên bộ đã kết thúc với kết cục kinh đô Angkor bị đốt phá và rơi vào tay người Chăm. Bức tường phía nam của đền Bayon đã khắc ghi lại một trận chiến trên sông nhưng không rõ đây là bức tranh mô tả cuộc chiến diễn ra năm 1177 hay một số cuộc chiến diễn ra sau đó.
    Jayavarman VII: Vị vua xây dựng các đền đài.
    Người Chăm kiểm soát Angkor trong vòng 4 năm cho đến khi vị vua huyền thoại Jayavarman VII tổ chức hàng loạt cuộc tấn công trong suốt nhiều năm. Năm 1181, ông đã đánh đuổi quân Chăm khỏi đất Campuchia. Sau khi chiến thắng quân Chămpa, Jayavarman VII tuyên bố lên ngôi, lấy Phật giáo Bắc Tông (Mahayana) làm quốc đạo, và ngay lập tức bắt đầu giai đoạn xây dựng các đền đài Angkor.
    Chiến dịch xây dựng các đền đài của Jayavarman VII là chưa có tiền lệ và diễn ra với tốc độc chóng mặt. Hàng trăm các đền đài đã được xây dựng trong khoảng thời gian không đến 40 năm. Những đền đài mà Jayavarman VII đã xây dựng bao gồm Bayon nổi tiếng với tượng mặt người khổng lồ, kinh đô Angkor Thom, đền Ta Prohm, Banteay Kdei, Preah Khan và hàng trăm đền đài khác. Mặc dù các đền đài được xây dựng trong thời kỳ này rất nhiều và rất hoành tráng nhưng không thể hiện nét kiến trúc riêng biệt mà thường hỗn độn và trùng lắp với kiến trúc của các thời kỳ trước.
    Cùng thời điểm với chiến dịch xây dựng những công trình của mình, Vua Jayavarman VII còn chỉ huy cuộc chiến chống lại quân Chămpa. Năm 1190, ông bắt được Vua Chămpa và giải về Angkor. Năm 1203, ông đã chiếm được toàn bộ vương quốc Chămpa và qua đó mở rộng lãnh thổ của Đế chế Angkor đến tận bờ biển phía đông thuộc miền nam Việt Nam ngày nay. Qua một vài cuộc chinh phục khác, ông đã mở rộng bờ cõi đế chế Khmer về mọi hướng.
    Chiến dịch xây dựng các đền đài của vua Jayavarman VII cũng đánh dấu sự kết thúc của đế chế Khmer vì sau khi ông băng hà vào năm 1220 không có một đền đài lớn nào được xây dựng thêm. Việc xây dựng một số đền đài, đặc biệt là Bayon, bị ngưng lại trước khi hoàn thành ngay thời điểm vua Jayavarman VII băng hà. Người kế vị vua Jayavarman VII là vua Indravarman II có tiếp tục cho xây dựng một số đền đài của vua Jayavarman VII nhưng không đạt được nhiều thành công.
    Kết thúc một kỷ nguyên:
    Mặc dù việc xây dựng các đền đài bị đình trệ nhưng kinh đô Angkor vẫn rất sôi động trong vài năm sau đó. Một phái viên người Trung Quốc tên Zhou Daguan đến thăm Angkor vào cuối thế kỷ 13 và đã mô tả đây là một thành phố đầy sức sống trong cuốn ?oPhong tục Campuchia?.
    Đạo Hindu tái du nhập vào Campuchia dưới thời vua Jayavarman VII vào thời điểm hầu hết các đền đài Phật giáo tại Angkor đang bị xuống cấp. Bên cạnh đó, hàng ngàn bức tranh Phật cũng đã bị người ta tháo dỡ. Thú vị hơn là một số bức đã bị hoán cải thành các linga và các Bodhisattvas. Du khách có thể tìm thấy một số bức như vậy tại đền Ta Prohm và Preah Khan.
    Vua Jayavarman VIII cũng cho xây dựng đền Bà la môn cuối cùng tại Angkor - một tháp nhỏ tại East Prasat ở Angkor Thom. Sau khi vua Jayavarman VIII băng hà, Phật giáo tái du nhập vào Campuchia nhưng dưới hình thức khác. Thay vì Phật giáo Bắc Tông (Mahayana), Phật giáo Nam Tông (Theravada) du nhập và trở thành tôn giáo chính của Cambidia cho đến ngày nay.
    Sau thế kỷ 13, Angkor liên tiếp hứng chịu các cuộc xâm lăng của người Thái từ phía tây dẫn đến việc dời đô khỏi Angkor. Sau 7 tháng bị vây hãm ở Angkor năm 1431, vua Ponhea Yat đã rời đô từ Angkor về Phnôm Pênh năm 1432. Việc dời đô này cũng đánh dấu một bước ngoặt đó là chuyển từ nền kinh tế trồng trọt sang nền kinh tế thương mại vì một nơi là hợp lưa của các con sông như Phnôm Pênh sẽ có nhiều lợi thế hơn so với nơi nằm sâu trong đất liền như Angkor. Sau khi dời đến Phnôm Pênh, thủ đô của Campuchia còn được chuyển thêm 2 lần nữa, đầu tiên là chuyển đến Lovek rồi sau đó là Oudong, trước khi ấn định lâu dài tại Phnôm Pênh vào năm 1866.
    Sau khi dời đô khỏi Angkor, các đền đài tại đây vẫn hoạt động nhưng chức năng của chúng thì thay đổi dần theo thời gian. Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, một số nhà thám hiểm và nhà truyền giáo phương Tây đã từng đến Angkor Wat, nhưng người được đông đảo mọi người biết đến với cương vị người khám phá ra Angkor Wat là Henri Mouhot vào năm 1860. Cuốn sách của ông mang tên ?oDu lịch tại Siem, Lào, Campuchia và An Nam? đã dẫn tới sự bùng nổ du lịch tại Angkor Wat.
    Lối vào Công viên khảo cổ Angkor (tên chính thức của quần thể Angkor) nằm cách trung tâm Siem Reap khoảng 5km về phía bắc. Riêng nhóm các đền đài Rolous nằm cách trung tâm 13km về phía đông, hầu hết các đền đài quan trọng khác đều nằm cách thị xã từ 6km ?" 25km về phía bắc, gần nhất là đền Angkor Wat. Để tham quan Công viên Angkor theo cách tự thực hiện mà không có hướng dẫn viên, bạn cần tham khảo một số thông tin sau đây:
  8. dolly

    dolly Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/05/2002
    Bài viết:
    455
    Đã được thích:
    0
    Vé tham quan
    Du khách bắt buộc phải mua vé để vào tham quan các ngôi đền trong khu Công viên khảo cổ Angkor. Vé vào thăm quan có thể mua được tại cổng vào chính của công viên Angkor trên đường vào đền Angkor Wat. Những vé tham quan một ngày chỉ có thể được mua tại cổng phụ trên đường từ sân bay vào Angkor và vào Banteay Srey.
    Vé tham quan một ngày được bán với giá $20, 3 ngày tham quan giá $40, 7 ngày tham quan giá $60 được sử dụng trong thời hạn ghi rõ trên vé và không thể chuyển nhượng cho người khác.
    Chuyến tham quan một ngày cho phép bạn chiêm ngưỡng những điểm chính của các đền đài nổi tiếng nhất nhưng rất ít. Chuyến tham quan 3 ngày cũng vừa đủ để tham quan những đền đài chính và một số đền đài nhỏ khác. Chuyến tham quan 7 ngày là đủ thời gian cho bạn thực sự khám phá tìm hiểu những di sản nổi tiếng và viếng thăm được nhiều công trình kiến trúc nhỏ khác, cũng như có thể đủ thời gian cho bạn nghiên cứu thật kỹ về những gì bạn quan tâm. Ảnh của bạn sẽ ngay tức khắc được in lên vé tham quan. Vào mùa đông khách, chúng ta sẽ tốn nhiều thời gian để chờ cấp vé. Giờ tham quan từ 5h sáng đến 6h chiều. Angkor Wat đóng cửa lúc 6h chiều, Bantey Srey đóng cửa lúc 5h chiều, Kbal Spean (núi Kulen) đóng cửa lúc 3h chiều. Bạn phải luôn mang theo vé bên mình. Vé sẽ được kiểm tra tại cổng chính vào công viên và tại mỗi đền mà bạn vào tham quan. Bạn sẽ bị phạt nếu không mua vé khi vào công viên.
    Các vé tham quan thông thường không cho phép bạn tham quan Phnom Kulen, Koh Ker hoặc Ben Melea (có lệ phí tham quan riêng biệt cho những khu vực này, giá theo thứ tự $20, $10, $5)
    Các chương trình đề nghị tham quan:
    Tham quan ½ ngày (một buổi): Cổng thành phía nam của Angkor Thom. Trung tâm Angkor Thom (Bayon, Quảng trường voi, Quảng trường Vua Cùi). Đền Taprhom. Angkor Wat. Đồi Bakheng để ngắm hoàng hôn nếu đi vào buổi chiều.
    Tham quan 1 hoặc 2 ngày:
    Ngày 1:
    + Sáng: Cổng thành phía nam của Angkor Thom. Trung tâm Angkor Thom (Bayon, Phimeanakas, Quảng trưởng Voi, Quảng trường Vua Cùi). Nếu chọn tham quan chỉ 1 ngày thì nên tham quan Khu vực chợ Cũ luôn trong buổi sáng, shop quà lưu niệm, ăn trưa).
    + Chiều: Taprhom. Pre Rup (có thể đi hoặc bỏ qua để dành thời gian cho Angkor Wat). Angkor Wat. Đồi Bakheng ngắm hoàng hôn.
    Xem show múa Apsara buổi tối.
    Ngày 2: có 3 lựa chọn sau
    Lựa chọn 1: Banteay Srey.
    + Sáng: Angkor Wat ngắm bình minh. Pre Rup. Banteay Srey. Bantey Samre (có thể bỏ qua). Thommanon. Khu vực chợ Cũ, shop quà lưu niệm, ăn trưa.
    + Chiều: Nhóm đền đài Rolous (Bakong, Preah Ko, Lolu)
    Lựa chọn 2: Một số đền đài khác.
    + Sáng: Angkor Wat ngắm bình minh. Preah Khan. Khải hoàn môn. Thommanon. Pre Rup (có thể bỏ qua). Prasat Kravan. Khu vực chợ cũ, shop quà lưu niệm, ăn trưa.
    + Chiều: Nhóm đền đài Rolous (Bakong, Preah Ko, Lolu)
    Lựa chọn 3: Du lịch vòng lớn.
    + Sáng: Angkor Wat ngắm bình minh. Preah Khan. Neak Pean. Ta Som. Pre Rup (có thể bỏ qua). Prasat Kravan (có thể bỏ qua). Khu vực chợ cũ, shop quà lưu niệm, ăn trưa.
    + Chiều: Group of Rolous (Bakong, Preah Ko, Lolei).
    Một số thuật ngữ chuyên môn hay dùng trong các sách hướng dẫn tham quan Angkor:
    · Anastylosis: Phương pháp khảo cổ được sử dụng trong việc trùng tu các đền đài bị hư hại bằng phương pháp tháo bỏ ra và xây dựng lại. Phương pháp này đã được sử dụng tại đền Bantey Same, Prasat Kravan, Thommanon và nhiều đền đài khác.
    · Angkor: từ dùng để chỉ tên thủ đô của Đế Chế Khmer đã tồn tại ở Campuchia từ thế kỉ thứ 09 đến thế kỉ thứ 12 sau công nguyên, cũng như được dùng để chỉ bản thân Đế chế này.
    · Apsara: là nhân vật thần thoại, một nữ thần. ?oDevatas? có nghĩa là nữ thần đứng. Tuy nhiên, thông qua các phù điêu được khắc trên các vách tường tại các ngôi đền thì các Apsara có nhiều hình dáng, tư thế khác nhau.
    · Banteay: Theo tiếng Khmer có nghĩa là Doanh trại/Cung điện, dùng để chỉ các ngôi đền hoàng gia hoặc có kiến trúc từng dãy buồng.
    · Baray: Tiếng Khmer có nghĩa là một cái hồ cổ chứa nước. Ví dụ như là West Baray, Sra Srang, East Baray
    · Boeung: Tiếng Khmer có nghĩa là Hồ/Đầm
    · Champa: Nước láng giềng đã từng đối đầu và xâm lược Campuchia thời kì Angkor. Toạ lạc tại khu vực Nam Trung Bộ của Việt Nam.
    · Gopura: Lối vào, cổng vào của tường thành bao quanh đền.
    · Khmer: Tên chỉ ngôn ngữ và người Campuchia.
    · Linga: vật thờ mang hình dáng bộ phận sinh dục nam, tượng trưng cho thần Shiva.
    · Lintel: Một dãy bằng sa thạch phía trên cửa vào và cửa sổ, thường có điêu khắc.
    · Naga: Rắn thần, linh vật có nhiều đầu, dùng để trang trí hành lang.
    · Phnom: Tiếng Khmer có nghĩa la núi, đồi.
    · Prasat: Tiếng Khmer có nghĩa là tháp.
    · Preah: Tiếng Khmer có nghĩa là thần thánh.
    · Reamker: Truyện kể của người Khmer về thần thoại Ramayana, nói về tình yêu và đạo Hindu. Truyện kể về cuộc hành trình của Rama đi tìm người vợ bị bắt có tên là ****a. Chính vua quỷ Ravana đã bắt cóc nàng ****a. Các bức tranh trong truyện Ramayana được điêu khắc trên vách tường đá trong nhiều ngôi đền và cả trong Angkor Wat. Những show múa truyền thống của Cambodia cũng kể nhiều về câu chuyện này.
    · Shiva: Tên một trong ba vị thần tối cao trong đạo Hindu, vị thần huỷ diệt. Được thể hiện bằng hình tượng Linga trong các ngôi đền.
    · Stele: Những viên đá được chạm khắc.
    · Stung: Tiếng Khmer có nghĩa là sông.
    · Temple-moutain: Một dạng kiến trúc đặc biệt của các ngôi đền được thiết kế và xây dựng tượng trưng cho ngọn núi thần Meru trong đạo Hindu. Ví dụ: các ngôi đền như Pre Rup, Ta Keo, Ba Kong.
    · Thom: Tiếng Khmer có nghĩa là to/ lớn.
    · Varman: Khmer có nghĩa là "được bảo vệ". Thường được đệm vào tên của các vị vua: Suryavarman, Jayavarman?
    · Vihear: Khmer có nghĩa là ngôi đền chính yếu của một ngôi chùa Phật giáo hoặc các cụm đền đài, điện thờ phật.
    · Vishnu: Một trong ba vị thần chính trong đạo Hindu, vị thần bảo vệ.
    · Watt: tiếng Khmer có nghĩa là chùa phật hoặc đền thờ.
  9. mnguyen001

    mnguyen001 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/10/2006
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    Mình cũng mới đi dịp Tết vừa rồi nên cũng có một chút kinh nghiệm là:
    1. Khi mua vé từ Fạm ngũ Lão thì tuỳ theo jờ xuất fát mà já vé sẽ từ 9$ tới 12$, ví như mình đi chuyến 8h của Sapaco mất có 9$ thôi, mỗi vé được kèm một chai nước.
    2. Làm visa ở cửa khẩu cũng rất tiện, cho mấy em hải quan Cam mỗi hộ chiếu 1$ là thành 21$ cũng tiết kiệm vì sau đó mấy em hải quan cũng lại nhờ nhà xe mang hộ chiếu lại cho mình tại quán cơm mà thôi.
    3.Đi đường nhớ mang theo ít đồ ăn nguội để ăn trưa vì chỉ tới Phnompein khoảng 2h chiều thôi. Chứ quán ăn nhà xe đỗ tại Mộc Bài -Bavet chả biết ta hay Cam làm chủ do nói tiếng Việt rất ngon nên chém cũng rất ngon, khoảng 3$ -5$ một xuất ăn chán lè lưỡi luôn.
    4. Tới Phnompein thuê tuktuk vào khu Tay balo khoảng 1$-2$ rủ thêm vài vị mắt xanh mũi lõ share tiền vừa rẻ vừa vui, cứ nói với tuktuk là đi ra khu River side cho back packer là xong, nhà nghỉ, minihotel já rẻ nhiều như Fạm ngũ Lão já fải chăng mà lại nhiều dịch vụ ngon lành nhưng nhớ mặc cả nhé kể cả đi ăn.
    5. Nên ở lại Phnompein thuê xe đạp 1$/1ngày, hay offroad bike 8$/1ngày mà lượn cho thoả mái vì Phnompein nhỏ không à, hôm sau đi Siemriệp chuyến 1h30'' là hợp lí nhất. Cũng nên nhờ khách sạn đặt vé xe đi Siêm cho mình, 6$/ticket sẽ có xe đưa đón 2 đầu cho tiện vì tới Siêm khoảng 6h30'' tối.
    6. Tới Siêm sẽ có xe đón mình về nhà nghỉ nhưng vẫn cứ fải mặc cả tiền fòng nhé vì tụi Cam cũng thích chăn gà như Việt mình thôi, já fòng 10$/1night gồm điều hoà, nóng lạnh, TV cable....ở đây thì tốt nhất là đi ăn buffe khoảng 3$/1pax đồ uống tính riêng ( vừa lẩu vừa nướng) rất ngon và rẻ. Tiện thể thuê xe đạp 1$/1pax để sáng hôm sau đi Angkor sớm, mất khoảng 30'' vừa đi xe vừa mua vé là vừa (5h sáng nên khởi hành) vừa ngắm bình minh, chiều muộn lại ngắm hoàng hôn là đẹp.
    7. Do các di tích trong quần thể đều na ná như nhau về mặt kiến trúc chỉ khác đôi chút về vật liệu xây dựng cũng như trang trí hoa văn nên chỉ đi 2 ngày là đủ nên chỉ mua vé ngày một để còn tuỳ thuộc mức độ đi cho dù 40$/3ngày/1pax. nhưng đáng đi nhất là Angkor wat and Angkor thom cùng takeo and prohorm trên cùng trục đường thôi.Cũng fải chú ý là ăn ở đây nhớ mặc cả nhé, một set lunch 5$ thì chỉ trả 3$ kèm một trái dừa tươi nhé.
    8. Khi về mua vé thẳng của Sapaco í, đi xe 45 chỗ cho tiện nghi đừng đi Mailinh cả 2 chiều xe nhỏ đi mỏi nguời lắm, hoặc mua của Neakro horm já rẻ hơn xe Việt mình khoảng 4$ trên toàn tuyến. Cùng với các đại lí travel nhan nhản trên Siêm mình có thể tham khảo được já cũng như tình trạng xe, nhớ fải hỏi cho kĩ loại xe, thời jan chạy nhé.
    9. Và trước khi đi hãy vào www.canbypublications.com để có đủ thông tin ăn, ở, đi lại or bordercrossing... rất hữu ích và cập nhật thuờng xuyên do tổng cục du lịch Cam họ làm( Làm tốt hơn cả Vietnam ta trong quảng bá du lịch đó), có jì mình sẽ chia sẻ thêm....
  10. dolly

    dolly Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/05/2002
    Bài viết:
    455
    Đã được thích:
    0
    Đến đây em xin hết ạ

Chia sẻ trang này