1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tổng kết các giai đoạn Lịch sử Việt nam trong thế kỷ 20

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Dilac, 28/10/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. FPM

    FPM Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/09/2005
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    Đọc các bài viết của bác dilac thầy rất công phu. Bác cho thêm cái danh sách các tài liệu bác tham khảo để viết ra những bài tổng kết đó thì tốt.
  2. LananhHP

    LananhHP Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2005
    Bài viết:
    64
    Đã được thích:
    0
    Để gây sức ép cho Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, sau khi chiến lược ?oChiến tranh đặc biệt? của Mỹ ở miền Nam Việt Nam bị thất bại hoàn toàn, cuộc họp các cố vấn thân cận của Tổng thống Mỹ vào tháng 6-1964 ở Hônôlulu đã nhất trí được một kế hoạch gồm một loạt biện pháp về chính trị và quân sự... Nhưng năm 1964 cũng là năm bầu cử tổng thống, cho nên họ yêu cầu tổng thống tranh thủ một nghị quyết của Quốc hội để dễ hành động.
    Trước cuộc họp này, giới quân sự Mỹ đã vạch ra kế hoạch 34-A. Bản kế hoạch này được Tổng thống Mỹ thông qua vào tháng 2-1964. Thực hiện kế hoạch 34-A, các tàu hải quân của chính quyền Sài Gòn vào vịnh Bắc Bộ hoạt động với sự yểm trợ của tàu khu trục Mỹ. Vào đêm 30 rạng sáng ngày 31-7-1964 dự định sẽ có một cuộc tiến công của hải quân Sài Gòn vào bờ biển Bắc Việt Nam, khu trục Ma Đốc được lệnh tách ra khỏi hạm đội ở Nhật Bản và vào vịnh Bắc Bộ cũng vào đêm đó. Tàu Ma Đốc đi vào khu vực lãnh hải của Bắc Việt Nam (thuộc Hòn Mát, Hòn Mê) khiêu khích các tàu phóng lôi của Việt Nam, buộc các tàu này phải phản ứng, thế là tàu Ma Đốc rồi máy bay phản lực của tàu Ti-côn-đê-rô-ga đánh trả lại.
    Ngày 4-8-1964, tàu Ma Đốc được lệnh tăng cường thêm tàu khu trục Tơ-nơ-doi để trở lại vịnh Bắc Bộ. Trong đêm dày đặc, bỗng tàu Ma Đốc phát tin rằng: Có gì như tiếng động của ngư lôi phóng trong nước. Cả hai tàu bắn theo tín hiệu. Vì đêm tối, lại chẳng nghe thấy tiếng nổ nào nên khi thấy không còn tín hiệu gì thì các sĩ quan Mỹ cho là tàu đối phương đã bị bắn chìm.
    Cả hai ngày tìm kiếm mà không tìm được bằng chứng nào là nó bị tấn công hoặc tàu đối phương đã bị bắn chìm. Thiếu tướng hải quân He-rích phụ trách cuộc điều tra điện về Lầu Năm góc báo cáo: Không có gì đã thực sự được nhìn thấy cả, đề nghị đánh giá đầy đủ trước khi có hành động tiếp theo.
    Mặc dù vậy, Tổng thống Mỹ vẫn ra lệnh ném bom trả đũa vào Cửa Hội, Lạch Trường, Bãi Cháy. Quốc hội Mỹ đã thông qua nghị quyết về vịnh Bắc Bộ với 416 phiếu thuận không có phiếu chống ở hạ nghị viện, 88 phiếu thuận 2 phiếu chống ở thượng nghị viện (2 phiếu chống là của thượng nghị sĩ Ét-vét Griu-ninh ở bang A-la-xca và của thượng nghị sĩ Hê-nơ Mo-xơ ở bang O-ơ-giai).
    ... 8 tháng sau, Tổng thống Mỹ mỉm cười nói với một số khách đến thăm rằng: ?oỞ mức độ tôi biết, hải quân của chúng ta ở đó đã bắn vào mấy con cá voi?*.
  3. LananhHP

    LananhHP Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2005
    Bài viết:
    64
    Đã được thích:
    0
    Trước sức ép của dư luận, ngày 1.12.2005, Cơ quan An ninh quốc gia Mỹ (NSA) đã phải công bố những bằng chứng cho thấy tình báo Mỹ đã tạo chứng cớ giả về các vụ tấn công trong cái gọi là "Sự kiện Vịnh Bắc Bộ" tháng 8.1964, để chính quyền Mỹ khi đó viện cớ mở rộng chiến tranh ở Việt Nam (VN). Hồi đầu tháng trước, báo chí Mỹ cũng đã phanh phui việc NSA cố tình ngăn cản không cho công bố bài báo của một nhà sử học làm việc cho NSA, đăng trên nội san mật của NSA năm 2001 liên quan đến vấn đề này. (Theo AFP)
  4. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    [​IMG]
    Một nghiên cứu thú vị khác là "Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa" của giáo sư Tsuboi
    Ngòai ra có thể đọc "Xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc" của Lê Nguyễn.
    Các sách trên có bán tại FAHASA
  5. LananhHP

    LananhHP Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2005
    Bài viết:
    64
    Đã được thích:
    0
    Giáo sư Cao Huy Thuần:
    Trừ lạm quyền để chống tham nhũng
    Nhật Lệ
    Sau khi đọc bài tham luận "Vạn đại dung thân" của Giáo sư Cao Huy Thuần tại hội thảo"Tiếp tục đổi mới kinh tế và xã hội để phát triển"do các trí thức Việt kiều tổ chức tại Đà Nẵng, một ý nghĩ thôi thúc tôi phải gặp cho được con người này. Bởi qua bài viết, tôi quý trọng ông ở chỗ, nói đến chính kiến thì luôn đi đôi với những luận chứng khoa học, và sự độc lập trong tư duy dù ở bất cứ nơi nào, vượt qua mọi rào cản định kiến chính là phẩm chất quý báu của người trí thức sống xa Tổ quốc này.

    Giáo sư Cao Huy Thuần.
    ´ Thưa, khi ông viết "Dân chủ là xu thế hiện nay không cưỡng lại được", ông có nghĩ dân chủ là sản phẩm của phương Tây?
    - Dân chủ là xu thế không cưỡng lại được, không phải vì đó là sản phẩm đến từ Mỹ, từ phương Tây, hoặc từ quốc gia nào đó (như có người nghĩ vậy), mà vì đó là nhu cầu căn bản đến từ người dân, nghĩa là từ bên trong. Tôi nói thêm : Đây không phải là nhu cầu bức xúc của một thiểu số có học hay là trí thức; người dân nào cũng cảm thấy như vậy.
    Tại sao ư? Tại vì người dân ở đâu cũng có liên hệ với chính quyền, và quyền hành thì bàng bạc khắp nơi, từ thị thành đến thôn xóm, hễ có chức thì có quyền, và có quyền thì rất dễ lạm quyền. Mục đích của dân chủ không phải là để đối kháng với quyền lực, mục đích của dân chủ là để tránh lạm quyền. Tránh lạm quyền là vừa để giúp người dân, vừa để giúp cả chính quyền. Bởi vì một chính quyền không lạm dụng quyền lực là một chính quyền tốt. Một chính quyền tốt thì dân ủng hộ. Đừng cần đặt vấn đề dân chủ đến từ phương trời nào, sự lạm dụng đến từ trong bản chất của quyền hành.
    ´ Nhưng tại sao ông nói đó là xu thế hiện nay?
    - Bởi vì ngày trước, lạm quyền không tạo ra cái cớ để bên ngoài xía vào can thiệp. Bên ngoài xía vào thì thời nào cũng có, và hễ muốn xía vào thì tạo ra cớ để biện minh cho các hành động ngang ngược của họ. Nhưng khác nhau là ở chỗ, ngày nay họ tạo ra được như là "tính chính đáng" cho hành động can thiệp của mình. "Tính chính đáng" đó lại càng ngày càng đi vào tập tục quốc tế, và ngay cả nước nạn nhân của can thiệp cũng khó thể bác bỏ trên nguyên tắc. Nói cách khác, xu thế của thời đại bây giờ là bên ngoài thường viện ra cái gọi là "tính chính đáng" để chính đáng hoá một hành động mang tính bá quyền. Bản chất của mọi hành động "can thiệp về nhân quyền" là như vậy.
    ´ Và xu thế đó là không cưỡng được?
    - Không có gì cưỡng được khi xu thế ở bên ngoài dựa vào xu thế tự nhiên ở bên trong. Một bên là tấn công, một bên là chống đỡ. Vấn đề nhức nhối là: Tại sao phải đặt mình vào thế ngược, thế mất, thế chống đỡ, thế thụ động? Tại sao không quật cường lên biến thủ thành công? Cách duy nhất để đánh cho bọn can thiệp cụt giò là không cho nó có đất đứng, tức tạo cơ chế tránh lạm quyền.
    ´ Chính quyền ở nhiều nước Châu Á đã thành công trong việc đem lại phồn thịnh về kinh tế, kết quả tích cực đó có thể là những mô hình để tham khảo?
    - Câu trả lời nằm ngay trong thực tế. Hàn Quốc, Singapore, Malaysia, Thái Lan là những chính thể mà nhà báo muốn nói tới. Tất cả những nước đó đều đã đi lên, đang đi lên, hoặc có dấu hiệu đi lên. Họ chủ động đi lên, cho nên đi lên có trật tự. Singapore là nước có chính thể được gọi là "cứng rắn". Nhưng họ đang làm gì? Họ luôn luôn sửa đổi, chấn chỉnh để tránh lạm quyền. Đó là nước ít tham nhũng nhất. Bị động như Indonesia thì chúng ta đã thấy hậu quả mà họ đang phải gánh chịu.
    ´ Có phải ông cho rằng mọi lý thuyết của phương Tây cũng nằm trong "túi khôn" của Nguyễn Trãi: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân; quân điếu phạt trước lo trừ bạo"?
    - Đứng về mặt triết lý mà nói, tôi cho "nhân nghĩa" có vị trí cao hơn các khái niệm ứng xử khác. Phương Đông có một quan niệm về nhân nghĩa rất cao, chỉ tiếc là thiếu lý thuyết gia để khai triển và áp dụng quan niệm đó vào thực tế chính trị. Phương Tây thì đã triển khai quan niệm nhân quyền từ mấy thế kỷ rồi. Về văn hoá, ta thường bị động là vì vậy. Nhưng Nguyễn Trãi vừa rất cao, vừa rất thực tế. Ông áp dụng khái niệm nhân nghĩa vào đời sống chính trị, xã hội: Chủ yếu của nhân nghĩa là "yên dân". Ông đặt dân lên cao nhất, làm đối tượng của chính trị. Và ông nhắm đúng nhu cầu của dân: Yên lành, yên vui, yên ổn. Đói, chắc chắn là không yên. Rét, cũng không yên. Trộm cướp, loạn lạc, cũng không yên. Tất nhiên tham nhũng lại càng không yên. Tham nhũng thì không ai "yên" cả, kể cả người tham nhũng.
    Tôi đố những người tham nhũng tránh được bất an trong lòng. "Điếu phạt" là "điếu dân phạt tội" - thăm dân, đánh kẻ có tội. Cũng dân là cao nhất! Và kẻ thù của dân là ai? Là "bạo". "Bạo" là hiểm nguy gần nhất, vây quanh người dân, biểu hiện của nó là lạm quyền. "Trừ bạo" cũng là trừ lạm quyền. Tạo được cơ chế trừ lạm quyền thì mới hết tham nhũng.
    ´ Vì sao ông cho rằng: Nhân quyền không nên và không phải là vấn đề huý kỵ nữa, vì Việt Nam là nước có chính quyền vững chắc?
    - Việt Nam có một lợi thế văn hoá, xã hội hiếm có: Không có một thế lực tôn giáo cực đoan; bản chất tôn giáo của đại đa số dân chúng là hiền hoà, không nhuốm màu sắc hay tham vọng chính trị. Không cần nói đến các nước Arab hay một số quốc gia Hồi giáo khác, trong đó, tôn giáo luôn đặt ra "vấn đề" cho chính quyền, chỉ nhìn quanh ta cũng thấy ta là may mắn: Indonesia, Philippines, Sri Lanka, và gần đây nhất, Thái Lan, cứ mãi hoài gian nan với hiểm họa ly khai gắn liền với tôn giáo cực đoan. Vừa thừa hưởng tính chính đáng lịch sử, vừa thừa hưởng một gia tài văn hoá, xã hội hoà thuận, chính quyền Việt Nam hiện tại vững như bàn thạch và xứng đáng ở vị thế lãnh đạo.
    Chính vị thế vững vàng đó, lại được hỗ trợ thêm nhờ kết quả kinh tế khả quan, cho phép chính quyền Việt Nam không sợ bất cứ một âm mưu nào ngụy trang dưới hình thức đòi hỏi nhân quyền, dân chủ. Chính quyền Việt Nam đủ sáng suốt và vững chắc để thấy đâu là giả, đâu là thật, đâu là âm binh, đâu là ruột thịt; và cũng đủ sáng suốt và vững chắc để thấy rằng, cũng như các nước văn minh đang đi lên chung quanh, phải chủ động nắm xu thế dân chủ để bước đi cái bước đầu tiên có tính quyết định. Chính quyền các nước khác luôn luôn sợ mất quyền.
    Ở Việt Nam, không có chuyện mất quyền! Chỉ có một chuyện mà ai cũng nên sợ, nên đề phòng, dù ở cương vị nào: Quyền hành thoái hoá. Quyền hành thoái hoá vừa là một khía cạnh vừa là hậu quả của sự lạm quyền. Trong lịch sử trước đây, ở nhiều quốc gia, sự lạm quyền đã đưa đến thoái hoá quyền hành, và sự thoái hoá quyền hành đã đưa đến rối ren.
    ´ Theo ông, đâu là bước đi đầu tiên mà ông nói là có "tính quyết định"?
    - Trong lịch sử, mọi sự thay đổi chỉ có thể đến từ một trong hai phía: hoặc từ dưới lên, hoặc từ trên xuống. Từ dưới lên là cách mạng. Từ trên xuống là cải tổ. Tất nhiên, ai cũng biết: Có sức ép từ dưới lên thì mới có quyết định từ trên xuống. Chưa kể sức ép từ bên ngoài. Nhưng tôi muốn lạc quan đặt tin tưởng ở cải tổ từ trên xuống vì ý thức được sự cần thiết. Trong giả thuyết lạc quan đó, bước đi đầu tiên hiển nhiên là ý muốn thực sự đến từ bên trên. Chừng nào chưa thấy ý muốn đó xuất hiện, mọi bàn luận chỉ là viển vông. Ý muốn đó, được ví như vụ nổ Big Bang. Chúng ta đã có một Big Bang như vậy về kinh tế hồi 1986.
    GS Thuần viết nhiều cuốn sách về đủ các ngành: Lịch sử, chính trị, luật pháp, tôn giáo, triết học và văn chương. Không những thế, ông là người phân tích nhạc của Trịnh Công Sơn rất hay. Nhưng ông lại bảo, thích nhất vẫn là "viết thư tình", từ trẻ đến già. "Tất cả những gì tôi viết bằng tiếng Việt đều là thư tình gởi cho quê hương tôi". Những "bức thư tình" của ông chính là những tri thức thâm sâu, những ý nghĩ chân thành để mong được đất nước đón nhận... Mới đây nhất, cuốn "Từ Đông sang Tây" do ông cùng 3 tác giả khác chủ biên, với sự góp sức của gần 30 tác giả, là những đóng góp có giá trị lớn. Cuốn sách được dư luận trong nước quan tâm, được xem như "một bó hoa" dâng Tổ quốc. Và GS hóm hỉnh: "Công việc của trí thức cũng thơm. Mùi thơm toát ra từ tim chúng tôi đấy!".
    Bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đại học Paris đầu năm 1969, ông Cao Huy Thuần hiện là Giáo sư Đại học Amiens, từng là giám đốc Trung tâm nghiên cứu về Liên hiệp Châu Âu tại đại học này. Ông đã in rất nhiều tác phẩm bằng tiếng Pháp về khoa học chính trị và quan hệ quốc tế. Sách của ông xuất bản ở trong nước gồm: "Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam, 1857-1914" (NXB Tôn Giáo, 2002), "Thượng Đế, Thiên Nhiên, Người, Tôi và Ta - Triết lý luật và tư tưởng Phật giáo" (NXB TPHCM, 2000), "Nắng và Hoa" (NXB Tôn Giáo, 2003), "Tôn giáo và xã hội hiện đại" (sắp xuất bản), "Từ Đông sang Tây" (chủ biên cùng với Nguyễn Tùng, Trần Hải Hạc, Vĩnh Sính - NXB Đà Nẵng, 2005).
    (Báo Lao động)
  6. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Xin cáo lỗi cùng mọi người vì mỗ tôi wá bận (đang thi!...) nên không thể viết tiếp được topic.
    Nhưng cũng rất thành tâm cám ơn vì...mỗ tôi ngạc nhiên là topic của mình vẫn còn sống!
    Ở đây, mỗ tôi không muốn nhắc lại một cách chi tiết các sự kiện lịch sử đã xảy ra, vì có rất nhiều bài viết, bài phân tích và truyện thuật mô tả mổ xẻ rất kỹ (như của TLV hay ptlinh...), mỗ tôi chỉ muốn có cách phân tích toàn diện và xuyên suốt để nêu bật nên bản chất các vấn để, để mọi người có cái nhìn khách quan hơn, đánh giá đâu là sai, đâu là đúng, ai là vì dân tộc, ai phản quốc cầu vinh, cái gì là nhất thời, cái gì là thâm căn cố đế...mà mỗ tôi thấy một vài nhân vật dù sai lè lè, hoặc chưa biết hoặc cố tình làm ngơ, cãi sống cãi chết cho những vấn đề rõ như ban ngày...
    Một vấn đề nữa là phần đông các bạn trẻ chỉ ưa khai triển vấn đề mang tính sự kiện rời rác, rất thích tìm hiểu những biến cố các sự mô tả nhiều phía nên có vẻ không khoái những chủ đề loại này.
    Vả lại, từ sau 1969, sau khi Hồ Chủ Tịch qua đời, mặc dù chúng ta đã thống nhất được đất nước nhưng giai đoạn lịch sử này lại là giai đoạn lịch sử "nặng nề" nhất, gây nhiều "nghi vấn" nhất, thế là đương nhiên "nhạy cảm" nhất. Nên quả thực mỗ tôi rất phân vân không biết nên tiếp tục thế nào. Mong mọi người chỉ giáo!
  7. thepaladin

    thepaladin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/01/2003
    Bài viết:
    813
    Đã được thích:
    0
    Vớ được cái này thấy hay hay up lên cho các bác.
    [​IMG]
    Em từng nghe một cựu binh Mĩ kể về ổng đi giúp xây dựng ấp chiến lược, ban ngày có mấy chú rất vui vẻ thân thiện hào hứng giúp đỡ, ban đêm các chú ấy vác AK ra rỉa đồng chí này.
  8. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Cái câu này hội GI khắc lên Zippo đầy đâu có gì lạ. Còn chuyện ngày thân thiện mà ban đêm bắn đâu có gì lạ. Chẳng nhẽ bắn nó ban ngày.
    Không tìm thấy cái ảnh nào trên net lấy tạm cái này
    [​IMG]
  9. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Trong lúc đợi có thời gian viết mới Mỗ xin tặng mọi người một tư liệu nói lên cái sự ngông nghênh khoác lác và rắp tâm chia cắt đất nước của đám CCCB:
    LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA TRẢ LỜI TRUYỀN HÌNH MỸ
    Đài truyền hình WGBH tại Boston đã thực hiện điều đó. Họ đã dành một cơ hội cho một số cựu quân nhân Việt Nam, những người đã thực sự chiến đấu, bày tỏ lập trường và cảm nghĩ của mình trong nhiều đoạn của chương trình 13 giờ về: "{VIỆT NAM, TỪ THỜI PHÁP THUỘC CHO ĐẾN THÁNG 4, 1975."
    Chương trình truyền hình với phí tổn 4 triệu bạc này đã được đài PBS nói trên phối hợp để thực hiện cùng với đài truyền hình Pháp Antenne 2, đài TV Thụy-Điển và một đài nữa tại Anh quốc. Chương trình này được dự trù sẽ khởi chiếu trên toàn nước Mỹ qua hệ thống PBS vào mùa Thu 1982 và đồng thời cũng được phát hình trên toàn thế giới. Với tư cách một Phụ Tá Sản Xuất, cô Ju***h Vecchione đã bày tỏ, "Dựa trên sự nghiên cứu cho chương trình này, chúng tôi nghĩ rằng người dân Hoa-Kỳ không bao giờ hiểu được cục diện hay những áp lực tại miền Nam Việt Nam vào năm 1975. Và chúng tôi cũng nghĩ rằng người Hoa-Kỳ không bao giờ hiểu được ảnh hưởng của những quyết định chính trị của chính phủ Hoa-Kỳ đối với cục diện này và trách nhiệm của họ đối với sự sụp đổ của Miền nam Việt Nam."
    Trong phạm vi bài này, chúng tôi xin tường thuật lại buổi phỏng vấn cựu Đại-úy Chiến Tranh Chính Trị Đỗ Đức Cường, tại Trung Tâm Sinh Hoạt Người Việt Quốc Gia Nguyễn-Khoa-Nam, Santa Ana, vào cuối năm qua.
    MÙA HÈ ĐỎ LỬA
    Câu đầu tiên mà Đại-úy Cường tỏ bày trước ống kính truyền hình là "Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa rất xứng đáng để cho tôi phục vụ và tôi rất hãnh diện để phục vụ suốt mấy năm cho đến ngày mất nước." Nét cương quyết, hào hùng pha lẫn tức giận hiện rõ trên khuôn mặt, ánh mắt và giọng nói của ông khi ông được yêu cầu kể lại diễn tiến của mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 tại Quảng trị.
    Đại-úy Cường cho biết: Vào tháng 3-1972, với chức vụ Phụ-Tá Trưởng Phòng An Ninh Quân đội, ông có ghi nhận được sự tập trung quân sự rất lớn của Cộng quân gồm có Sư đoàn Cờ-Đỏ 351A, Sư-đoàn Sao-Vàng 711 và 250 chiến xa T-54 bên kia bờ Thạch Hãn. Lúc bấy giờ tại Quảng trị, các đơn vị trấn đóng gồm có Sư đoàn 3 Bộ binh tân lập chưa làm lễ xuất quân, liên đoàn Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Ngay sau đó, Cộng quân mở những cuộc tấn công lớn, và vì không có đủ thời gian chuẩn bị nên các đơn vị quân đội phải tháo lui khỏi Quảng trị và rút vào phía Nam sông Mỹ Chánh lập thành tuyến phòng thủ cho Cố Đô Huế. Sau đó tướng Hoàng Xuân Lãm bị triệu hồi về Trung ương và tướng Ngô Quang Trưởng thay thế giữ chức vụ Tư Lệnh Quân khu.
    Đại úy Cường cho biết sau khi nhậm chức, Trung tướng Ngô Quang Trưởng thực hiện ngay kế hoạch tái chiếm Quảng trị. Ông Cường nói: "Giai đoạn đầu của kế hoạch này là củng cố lại tinh thần binh sĩ, làm cho họ tin tưởng nhiều hơn ở mặt trận mới. Sau đó chúng tôi có những mục tiêu giả để gạt cho Cộng quân tập trung quân số của họ vào một điểm và chúng tôi cố gắng mở một điểm khác để tấn công. Nói một cách chính xác hơn là Trung tướng Ngô Quang Trưởng cố gắng mở một gọng kềm gồm có: Sư Đoàn Nhảy Dù, ở phía Tây quốc lộ một, Thủy Quân Lục Chiến ở phía Đông quốc lộ một, và đồng thời các đơn vị hỗ trợ như là Sư đoàn Bộ binh gồm Trung đoàn 51 Bộ binh, Trung đoàn 3 Bộ binh và Trung Đoàn 1 Bộ Binh làm hậu thuẫn cho hai đơn vị Thủy quân Lục Chiến. Vào khoảng tháng 6 năm 1972, chúng tôi ào tiến qua khỏi bờ sông Mỹ Chánh và rất là ngạc nhiên vì trong vòng 48 tiếng đồng hồ đầu tiên của chiến dịch phản công, chúng tôi đã tiến được một khoảng rất xa và chiếm lại quận đường Hải Lăng. Tuy nhiên sự tiến quân của chúng tôi sau đó chậm hơn vì gặp sự kháng cự khá mạnh của địch quân nhất là về pháo kích. Trung bình mỗi ngày chúng tôi phải chịu 5000 quả đạn pháo kích 122 ly của Cộng quân. Hơn nữa Sư Đoàn 1 Bộ binh lúc bấy giờ ngoài nhiệm vụ yểm trợ cho Sư đoàn Nhảy dù và Thủy quân Lục Chiến còn có nhiệm vụ bảo vệ cả cái tuyến Tây Nam của Huế. Nhưng một điều may mắn là chúng tôi có được sự yểm trợ về phương diện pháo binh từ hạm đội 7 của Hoa Kỳ đậu ở ngoài khơi. Trận phản công được dự trù ba tháng thì chỉ trong vòng hai tháng chúng tôi đã tái chiếm cổ thành Quảng trị. Các đơn vị quân sự lúc bấy giờ rất lên tinh thần và sẵn sàng vượt bờ sông Thạch Hãn để tái chiếm Ái-Tử và tiến xa hơn nữa. Nhưng... ngay lúc đó thì Hiệp định Ba-Lê được ký kết, chận đứng chúng tôi lại bên bờ phía Nam sông Thạch Hãn. Chúng tôi rất tin tưởng vào khả năng chiến đấu của QLVNCH lúc bấy giờ và riêng cá nhân tôi, tôi nghĩ rằng: Nếu chúng tôi tiếp tục được sự yểm trợ của Hoa Kỳ và sự yểm trợ tinh thần của các nước tự do trên thế giới thì chúng tôi có thể bảo vệ được nền tự do của Nam Việt Nam. Nhưng điều đó đã không xảy ra vì những áp lực khác được dẫn đầu bằng Hiệp Định Ba-Lê.
    "
    Đáp một câu hỏi kế tiếp của ông Bruce Palling về tướng Văn Tiến Dũng, Đại úy Cường đáp: "Trong suốt thời gian chiếm Quảng trị, chúng tôi cố gắng sử dụng hệ thống tình báo kiểm thính để thu thập những công điện mà Bộ Tư Lệnh Văn Tiến Dũng chỉ thị cho các đơn vị Cộng quân. Do đó chúng tôi biết được Bộ Tư Lệnh của Tướng Dũng nằm ở Ái-Tử. Khi chúng tôi đặt chân lại Quảng trị, hầu như lúc bấy giờ trên hệ thống kiểm thính, chúng tôi nghe được những chỉ thị rất hốt hoảng, kinh hoàng của cấp lãnh đạo Cộng sản chỉ thị cho những đơn vị của họ rút lui khẩn cấp để bảo vệ Bộ Tư Lệnh của họ. Họ rất đỗi ngạc nhiên về sự phản công mau lẹ và mạnh mẽ của chúng tôi. Vì đây là lần đầu tiên Cộng quân tập trung một số lượng chiến xa quá lớn, cũng như lần đầu tiên họ sử dụng hỏa tiễn tầm nhiệt AT3, FA7, FA9 để chống chiến xa và phòng không. Tôi nghĩ rằng nếu lúc đó Hiệp định Ba-Lê không trói chân chúng tôi lại thì có lẽ đó là lần mà chúng tôi có thể dạy cho Văn Tiến Dũng một bài học đích đáng."
    PM: Ngay trước giờ ngừng bắn, tại Cảng Cửa Việt hơn 100 chiến xa, phần lớn là xe tăng M48 đã thành các nấm mồ trên bãi cát!
    Khi được hỏi cảm tưởng lúc trở lại thành phố Quảng trị, Đại-úy Cường đáp: "Tôi rất hãnh diện khi đặt chân trở lại Quảng Trị sau một thời gian dài thành phố náy rơi vào tay Cộng sản. Cộng quân đã chiếm Quảng trị vì lý do chính trị hơn là quân sự. Họ muốn lập thủ đô cho Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, chúng tôi cố chiếm lại thành phố này."
    GIẤY KHAI TỬ
    Bày tỏ cảm tưởng về Hiệp định Ba-Lê, ông Đỗ Đức Cường bực tức nói: "Người dân Việt Nam chúng tôi hơn ai hết, chúng tôi biết như thế nào là Cộng sản, vì vậy chúng tôi không tin tưởng vào Hiệp định Ba-Lê. Phải thành thật nói rằng chúng tôi rất giận dữ. Hiệp định đó mất công bằng hay nói khác hơn là một tờ giấy khai tử đối với chúng tôi bởi những điều khoản hết sức vô lý. Trong Hiệp Định có quy định sự triệt thoái của quân đội Hoa Kỳ mà không nói đến lực lượng ngoại nhập khác của Cộng sản Việt Nam. Bởi lẽ Việt Nam là hai quốc gia khác nhau sau Hiệp định Genève 1954. Về việc thay đổi vũ khí một đổi một, Hiệp định này chỉ quy định cho Nam Việt Nam và Hoa Kỳ. Chúng ta không thể tìm thấy một điều khoản nào nói đến việc kiểm soát các nguồn tiếp ứng cho Bắc Việt hay nguồn tiếp ứng qua đường mòn Hồ Chí Minh. Hiệp định Ba-Lê là một trở ngại rất lớn, trói chân chúng tôi, nhốt chúng tôi vào một khoảng bé nhỏ khiến quân đội VNCH chúng tôi không thể chiến đấu hữu hiệu được."
    Đại úy Cường cho biết suốt thời gian tại ngũ mỗi năm ông được về thăm nhà một hay hai lần. Cuộc sống gia đình ông tương đối vất vả, tiền lương của ông rất ít so với chi phí cá nhân. Ông Cường nhấn mạnh: "Tuy nhiên chúng tôi quan tâm những gì xẩy ra tại chiến trường nhiều hơn là những gì xẩy ra tại hậu phương. Chúng tôi quan tâm đến cái việc sinh tồn của đơn vị hơn là những diễn tiến có tính cách xã hội, chính trị nằm ở sau lưng chúng tôi, những người lính cầm súng ở mặt trận không được thỏa mãn, đó là những cuộc biểu tình của nhóm phản chiến, thành phần thứ ba lôi cuốn những người khác làm xáo trộn chính trị trong nước. Cái xáo trộn chính trị đó cũng ảnh hưởng đến chiến trường, đến tinh thần chiến đấu của chúng tôi và nhất là có ảnh hưởng đến vấn đề quốc tế. Có lẽ người ngoại quốc họ không hiểu người lính VNCH phải chiến đấu với tâm trạng như thế nào."
    Nói đến đây Đại-úy Cường phải ngưng lại để dằn bớt xúc động. Sau đó với đôi mắt đỏ và long lanh ướt, người chiến sĩ với sáu tuổi lính tiếp: "Chúng tôi đã đánh đổi khó nhọc, máu xương cho chỉ một con đường mà mình đã lựa chọn. Đó là con đường chiến đấu cho tự do, cho sự sống còn của cá nhân, cho gia đình và cho tất cả những người ở phía sau lưng. Chúng tôi thấy không có một sự hòa bình thật sự nào hơn là chúng tôi phải đẩy lui Cộng quân ra để bảo vệ lãnh thổ Nam Việt Nam."
    Đáp một câu hỏi cuối có liên quan đến việc Cộng sản tiến chiếm Phước Long, Phước Bình và Ban Mê Thuột năm 1975, Đại úy Cường đáp: "Chúng tôi không nghĩ rằng nó sẽ dẫn tới một sự sụp đổ toàn diện vì đó không phải là một trở ngại lớn. Chúng tôi chỉ nghĩ rằng đó là một nỗ lực trong cao điểm chiến trường mà chúng tôi có thể tái chiếm lại được. Chúng tôi hết sức ngạc nhiên khi Huế phải rút lui vì suốt tháng Hai và tháng Ba năm 1975, tình hình Huế rất yên ổn. Các đơn vị của Sư đoàn 1 đang trấn giữ các vị trí ở Tây Nam Huế. Lúc bây giờ, trong khi quân đội chúng tôi chưa thấy gì là nguy hiểm cả, chưa cảm thấy bị một áp lực Cộng quân nào đè nặng cả, thì các đơn vị hành chánh rút lui tạo nên một tình trạng hết sức rối loạn. Sau cùng chúng tôi cũng phải rút lui. Vì vậy chúng tôi thấy mất nước năm 1975 là một sự vô lý quá sức. Năm 1972, chúng tôi có giao tranh, có thất thủ, rồi có giao tranh để tái chiếm. Còn năm 1975, chúng tôi không được biết gì khác hơn là một cái lệnh rút lui."
    Sau phần nói chuyện của Đại-úy Đỗ Đức Cường, ông Bruce Palling, một ký giả Úc đã từng sống nhiều năm tại Việt Nam và Cao Miên trước và sau năm 1975, tiếp tục phỏng vấn một số cựu chiến binh thuộc nhiều binh chủng khác. Hầu hết những cựu chiến binh tiếp xúc với đài WGBH ngày hôm đó đều là những người đã trực tiếp cầm súng chiến đấu tại các trận Tết Mậu Thân, An-Lộc, Khe Sanh, Mùa Hè Đỏ Lửa, hay tham dự các cuộc hành quân sang Cao-Miên để tiêu diệt quân Cộng sản Bắc Việt.
    Nói về khả năng chiến đấu của QLVNCH người viết bài xin nhắc lại lời của một người bà con ruột của một viên Thủ-Trưởng của một Sư đoàn Bắc Việt đã từng đóng quân ở Cao Miên (hiện đã vượt biên sang Mỹ):
    "Tướng Đỗ Cao Trí và cuộc hành quân Cao-Miên 1970-1971 của quân lực VNCH quả thiệt đã làm cho hàng ngũ Cộng sản Việt Nam tại đây phải thất bại trầm trọng, khiến cho cái gọi là Chính Phủ Lâm Thời Miền Nam của Huỳnh Tấn Phát đã chạy trốn không kịp, và ngay viên Thủ-Trưởng của Sư đoàn mà còn phải leo lên đọt cây cao su trong rừng để trốn mới thoát chết!"
    PM: Thất bại thảm hại của QĐSG tại các cuộc hành quân 1970-1971 như tấn công Campodge, Lam sơn 719 chắc chẳng ai ở đây lạ nữa!
    Đúng là giọng lưỡi của một tên sĩ quan tâm lý chiến! Bọn ngồi mát xúi đồng đội chết trận!
  10. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Đọc bài mấy ông cựu binh vnch hoài đâm ngán rồi. Là lính qua chiến trận mà kể chuyện ngây thơ như em bé. Hay già đâm lẩm cẩm.

Chia sẻ trang này