1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tổng kết các giai đoạn Lịch sử Việt nam trong thế kỷ 20

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Dilac, 28/10/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Còn đối lại, đây là hình tượng tiêu biểu của người lính Giải phóng, họ thậm chí còn không biết nói về mình như thế nào.
    Ông tiếp chúng tôi trong ngôi nhà thoáng rộng, "sản phẩm" của mấy vụ cà phê, tiêu và cây trái trong vườn. Đây cũng là ước mơ của vợ chồng ông lâu lắm rồi, để bạn cùng đơn vị, bạn chiến đấu đến thăm có cái ăn, cái uống và nơi ngủ nghỉ đàng hoàng, chứ không như những năm trước cứ mỗi lần bạn bè đến là bị hấp nóng dưới mấy tấm tôn nhỏ hẹp, ái ngại vì ?olực bất tòng tâm?. Chưa hết chén trà đầu, vợ ông đã bưng lên một mâm đầy quả chín: đu đủ, cam, quýt, xoài, ổi... để mời khách thưởng thức hương vị quê hương dưới bàn tay cần mẫn chăm sóc của người dũng sĩ năm xưa mà tên tuổi đã đi vào sách báo.
    Qua câu chuyện ban đầu, biết chúng tôi cũng là những người lính từng xông pha trận mạc, ông như thân mật hơn, gần gũi hơn và cứ thế khách - chủ những câu chuyện nối dài, những trận cười vui vẻ. Đang lúc vui chuyện, tôi đề nghị ông kể lại thành tích và những kỷ niệm của cuộc đời binh nghiệp mà ông đã đi qua. Đặc biệt là con đường đi tới ?oDũng sĩ 1 thắng 20? lừng lẫy của ông mà nhạc sĩ Huy Thục đã cảm phục, ngẫu hứng sáng tác thành công bài hát "Dòng suối La La" mà những năm tháng chống Mỹ cứu nước NSND Tường Vi đã hát rất hay phục vụ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong cả nước.
    Đầu năm 1967, để chuẩn bị đánh lớn ở Quảng Trị, ta tập kết các loại đạn pháo lớn, kể cả tên lửa không giật A12, H12 ở 1 quả đồi thấp đầy sim, mua và cỏ tranh thuộc làng Chanh, xã Kim Tân, huyện Cam Lộ. Đây là địa danh nổi tiếng với tên gọi "Đồi không tên", dưới chân đồi có con suối La La cũng đã đi vào lịch sử dân tộc.
    Để bảo vệ kho đạn, 1 tiểu đội ghép được thành lập gồm 10 người từ các đơn vị pháo binh mặt trận hợp lại. Trung đội phó Bùi Ngọc Đủ được giao nhiệm vụ trực tiếp làm tiểu đội trưởng. Cả tiểu đội khẩn trương xây dựng công sự, hầm hào chiến đấu và hạ quyết tâm chốt giữ bảo vệ kho đạn đến cùng.
    Địch phát hiện được ta, liền cho 1 tiểu đoàn lính Mỹ có phi pháo yểm trợ đánh lên đồi không tên.
    Sáng ngày 28/2/1967, Tiểu đội trưởng Bùi Ngọc Đủ đi kiểm tra lại các vị trí canh gác, đặc biệt là các hầm đạn. Chợt nghe thoang thoảng trong gió mùi thuốc lá thơm, linh tính người lính trận mách bảo, chắc đâu đây không xa có lính biệt kích nhảy dù, hay lính Mỹ đi sục sạo. Đồng chí Đủ nhanh chóng báo động anh em vào vị trí chiến đấu, còn ông nhanh như con sóc thụt xuống chân đồi kiểm tra "mùi lạ?. Tập trung thính giác, căng mắt quan sát qua làn sương dày đặc, ông đã mờ mờ thấy bọn Mỹ lô nhô đang vượt qua con suối La La dưới chân đồi Không Tên (đồi tiểu đội ông đang chốt giữ) lầm lũi tiến về phía ông. Bình tĩnh đợi chúng đến thật gần, ông quạt ngang một loạt AK, rồi chạy lên trận địa cùng 9 chiến sĩ (Lương Văn Tầm, Nguyễn Hồng Kinh, Đặng Văn Hạng, Nguyễn Văn Tía, Nguyễn Nhân Nhê, Nguyễn Văn Niên, Lê Văn Chính và Nguyễn Văn Nhân) bám trụ chiến đấu.
    Sau ít phút hoảng hồn, bọn Mỹ tập trung hỏa lực bắn xối xả lên đồi và dàn đội hình thành một vòng cung quây lấy trận địa của tiểu đội Bùi Ngọc Đủ. Gan dạ, tự tin tiểu đội trưởng luôn động viên anh em, bình tĩnh đợi chúng đến thật gần rồi bắn cho chắc... cứ thế bao lần tấn công, chúng đều bị tiểu đội Bùi Ngọc Đủ đánh bật ra. Thương vong, thất vọng, cay cú, chúng lùi xuống chân đồi rồi gọi máy bay ném bom và pháo binh từ Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quán Ngang bắn dồn dập, hòng san bằng trận địa. Càng về trưa, nắng càng gay gắt và trận đánh cũng càng thêm ác liệt. Điểm cao 360, đất đá bị cày xới. Khói lửa đạn và hơi nóng làm cho không khí như quánh lại, cổ họng cũng rát bỏng, mỗi lần thở như nuốt thêm một dòng nham thạch chảy qua cổ... Thế nhưng, cứ mỗi lần đánh địch bật tung xuống chân đồi là một lần Bùi Ngọc Đủ bò đến từng vị trí chiến đấu trong đường hào, động viên chiến sĩ, tranh thủ thời gian sửa chữa, củng cố công sự, chuẩn bị cho những trận chiến đấu tiếp theo.
    Trong cuộc chiến không cân sức đầy ác liệt, Nguyễn Nhân Nhê rồi Nguyễn Văn Niên đã hy sinh, Lê Văn Chính bị thương nặng. Tiểu đội chỉ còn 7 người nhưng họ vẫn bám trụ chiến đấu kiên cường cho đến 7 giờ tối. 15 lần lợi dụng ưu thế về súng đạn, con người, bọn Mỹ ồ ạt tấn công lên đồi Không Tên đều bị tiểu đội Bùi Ngọc Đủ đánh bật xuống chân đồi, để lại 9 khẩu đại liên và nhiều vũ khí trang bị khác. Niềm vui thắng lợi đến với tất cả mọi người. Riêng trong trận này, Tiểu đội trưởng Bùi Ngọc Đủ đã tiêu diệt 21 tên, được thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất, được anh em bình chọn đi báo cáo thành tích ở Quân khu và ở thủ đô Hà Nội.
    Trận đánh nổi tiếng này đã được Tạp chí Văn nghệ quân đội đưa lên thành truyện. Trong câu chuyện ấy, những người lính trong tiểu đội dù mới chỉ kịp làm quen nhau vài ngày đã dùng đủ loại vũ khí bộ binh có trong tay, thậm chí dùng ngay vũ khí của những tên TQLC Mỹ bỏ mạng trong chiến hào để quần nhau với địch. Hơn 12 tiếng đồng hồ, với đủ loại bom pháo hoả lực iểm trợ nhưng tiểu đoàn Mỹ đã phải bỏ cuộc với một thiệt hại khủng khiếp (Hơn 200 lính bỏ xác lại trận địa). Thậm chí tên tiểu đoàn trưởng đã gọi về căn cứ là chúng đang phải đánh nhau với chừng 2 đại đội VC.
    Một điều kì lạ khác là kho đạn đã hoàn toàn được bảo vệ an toàn, chính kho đạn này đã làm nên những trận bão lửa ở Tà Cơn.
    Dừng lại uống trọn chén trà xanh, tôi thấy khóe mắt ông giật nhẹ, đo đỏ, có lẽ trận mạc và những kỷ niệm về đồng đội được tái hiện đã làm cho ông xúc động.
    Giáp Tết, năm Đinh Mùi (1967) sau khi được ra miền Bắc báo cáo thành tích, điều may mắn và hạnh phúc nhất của ?oDũng sĩ 1 thắng 20? là được gặp Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Sau khi hỏi thăm tình hình sức khỏe, tình hình ở chiến trường, Bác biểu dương thành tích của các dũng sĩ trong đoàn. Bác giảng giải về tình hình chính trị chung và những âm mưu của đế quốc Mỹ đối với cách mạng Việt Nam; đồng thời căn dặn những dũng sĩ trở về miền Nam là phải cố gắng đưa cho được ?ovoi sắt? vào chiến trường, chi viện kịp thời cho bộ binh đánh địch, góp phần cùng quân dân cả nước nắm chắc thời cơ để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc trong thời gian gần nhất...
    Những lời Bác dặn đã giúp ông thêm sức mạnh xông pha trận mạc. Từ chiến trường Thừa Thiên-Huế (1969 - 1970) vào Tây Nguyên tham gia giải phóng Đắk Tô, Tân Cảnh rồi đánh tiếp Chư Nghé cho đến năm 1975, ông cùng cánh quân hùng mạnh đánh vào Buôn Ma Thuột rồi tuốt vô Đồng Dù, Củ Chi để cuối cùng tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
    ?oDũng sĩ 1 thắng 20? lại quay về Tây Nguyên tiếp tục cùng đồng đội truy quét FULRO, làm trong sạch địa bàn, giúp nhân dân địa phương phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống. Bước chân của ông đã đi qua hàng ngàn kilômét đường Hồ Chí Minh để tham gia hơn 100 trận đánh và cũng không hiếm lần ?olâm trận? như ở đồi Không Tên. Vẫn biết nhiệm vụ người lính là chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, gian khổ hy sinh là chuyện bình thường, nhưng con số hơn 100 trận đánh và một ngày chiến đấu đã bẻ gãy 15 đợt tấn công của quân Mỹ và tiêu diệt 21 tên thì cũng thật là chuyện hiếm có.
    Cho đến bây giờ tuổi đã nhiều, sức đã yếu, nhưng màu áo lính vẫn khoác lên vai ông ?oDũng sĩ 1 thắng 20?. Lúc này ông đang là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh huyện Mang Zang. Người lính năm xưa giờ đây vẫn nhiệt tình, trách nhiệm, hết mình cho công việc, Hội Cựu chiến binh của ông luôn bám sát thực tế và hoàn thành tốt các nhiệm vụ. Từ năm 1993 đến nay, năm nào Hội Cựu chiến binh huyện cũng được UBND tỉnh Gia Lai tặng bằng khen; năm 2002 được Hội Cựu chiến binh Việt Nam tặng cờ Đơn vị quyết thắng.
    Trước lúc chia tay, chúng tôi hỏi ông: Thành tích của bác là thế và cái tên ?oDũng sĩ 1 thắng 20? cũng được nhiều người biết đến với tình cảm yêu quý, khâm phục nên cháu cứ nghĩ bác được phong danh hiệu anh hùng. Ông trầm ngâm trả lời: ?oTrận mạc và thành tích không có nghĩa là phải được phong tặng danh hiệu anh hùng. Quân đội ta bao nhiêu tướng - tá tài tình có phải ai cũng được Nhà nước phong anh hùng đâu!?.
    Nghe ông nói, tôi nhớ lại lời các cụ xưa: Về già, người ta thường sống với quá khứ nhiều hơn là hiện tại. Quá khứ của một con người... rất dễ bị lãng quên? Riêng với ông "Dũng sĩ 1 thắng 20" thì quá khứ đã thành danh rạng rỡ đã in đậm trong tâm trí nhiều người lại được nối tiếp bằng những đóng góp hiện tại quả không nhỏ thật đáng trân trọng...
  2. Mr_Hoang

    Mr_Hoang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/12/2004
    Bài viết:
    8.879
    Đã được thích:
    10.411
    cái này thì báo cáo láo quá chừng
  3. lorela

    lorela Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/04/2002
    Bài viết:
    398
    Đã được thích:
    0
    Có thể thật, nếu bọn Mỹ nó dùng gậy tầm vông
  4. U18

    U18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/06/2003
    Bài viết:
    307
    Đã được thích:
    0
    Đang đêm hôm xách súng đi bắn cái gì mà lầm, không lẽ bắn chim
  5. LananhHP

    LananhHP Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2005
    Bài viết:
    64
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    download_image(102033).txt
    Xin tặng các bạn hai tấm ảnh về Humberger Hill, một địa danh quá nổi tiếng về cơn ác mộng của lính Mỹ ngày 16.11.1965, trên cao điểm 484 tại Kontum.
    Một cái bẫy khổng lồ với chiến thuật kết hợp chốt và tổ chức diệt viện.
    Có anh nào rành về trận này post lại cho anh em xem với!
  6. LananhHP

    LananhHP Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2005
    Bài viết:
    64
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
  7. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Mỗ xin tặng thêm một trận đánh mà đã được đi vào chiến sử của Đoàn Sao Vàng, sư đoàn đã đứng chân ở Khu 5, đối đầu với bọn South Korea, cũng là sư đoàn làm nên trận Đồng Đăng nổi tiếng 2.1979
    Trận chiến Thuận Ninh: Nghi binh dử địch vào chiến trường lựa chọn.
    Nếu ngày 2-9-1965 khai sinh ra Sư đoàn 3 (Sao Vàng) ngay trên khu rừng Bà Bơi thuộc xã Ân Nghĩa, Hoài Ân, thì ngày 18-9-1965, với trận Thuận Ninh (Bình Tân, Bình Khê), sư đoàn đã tìm được lời giải đáp về khả năng đánh bại ?osư đoàn kỵ binh bay Mỹ?.
    Sư đoàn ?okỵ binh bay Mỹ? chính là sư đoàn không vận số 1 có hơn một vạn quân, biên chế thành 3 lữ đoàn với 455 máy bay. Trang bị của nó đều hiện đại. Mỗi đại đội 180 tên, vũ khí gồm tiểu liên bắn cực nhanh AR15, cối cá nhân M79. Với tướng hai sao Quinard đã tham gia cuộc đổ bộ lên Normandy trong chiến tranh thế giới lần thứ II (3-6-1944) và mới 24 tuổi đã mang hàm đại tá chỉ huy, lại trang bị tối tân như vậy, Mỹ tin rằng, ?okỵ binh bay? sẽ ?ochộp? được tất cả các đơn vị ?o*********?, dù đứng chân nơi đâu. Bởi vậy, mới chân ướt chân ráo đổ bộ lên bờ biển Quy Nhơn, thấy tình hình các con đường giao thông chiến lược từ đồng bằng đi cao nguyên bị quân và dân ta băm nát, Quinard đã đồng ý với đề nghị của tư lệnh quân khu 2 ngụy, tướng Vĩnh Lộc: ?oKỵ binh bay? đảm nhận đánh thông các đường số 14 và 19 để cho quân nguỵ giải toả đường số 1.
    Về phía ta nắm vững nội dung nghị quyết Khu ủy và Quân khu ủy quân khu 5, Tỉnh ủy Bình Định đã thi hành các biện pháp đấu tranh chính trị, tăng cường xây dựng lực lượng, đẩy mạnh chiến tranh du kích, phối hợp với bộ đội chủ lực. Đảng ủy và Bộ tư lệnh Sư đoàn Sao Vàng, khẩn trương hướng dẫn các đơn vị huấn luyện cơ bản đồng thời tích cực triển khai phương án đánh địch đổ bộ đường không.
    Bí thư Tỉnh ủy Trần Quang Khanh với tư cách là thành viên bộ chỉ huy mặt trận đã cùng các đồng chí Chủ tịch tỉnh, Chủ tịch hội đồng chi viện tiền phương và các đồng chí lãnh đạo khác phân nhau về vùng ven biển tổ chức lực lượng đấu tranh chính trị, hậu cần, kiểm tra đôn đốc lực lượng vũ trang địa phương phối hợp lập thế trận đánh địch.
    Theo phương án đã thảo luận kỹ, các đơn vị thuộc Sư đoàn Sao Vàng chuyển quân thâu đêm. Vượt đèo Bồ Bồ, trung đoàn 2-đơn vị cờ đầu trong phong trào thi đua đánh bại chiến thuật ?otrực thăng vận? của địch ở Na Niêu và lập công xuất sắc ở An Lão, ở Đèo Nhông, ở đường 7 ?obis?, ở Thuần Mẫn... giờ đây lại tiến vào Phù Cát, Bình Khê. Trung đoàn 22 với tiểu đoàn 8 (từ trung đoàn 1 chủ lực quân khu 5 đã tham gia lập công vang dội ở Kỹ Sanh, Việt An và Ba Gia lịch sử cùng với những tiểu đoàn mang sức mạnh mới của hậu phương miền Bắc vào, có nhiệm vụ đánh địch ở tây Hoài Ân. Trung đoàn 12 (nguyên là trung đoàn 18 của Sư đoàn 325, được lệnh chuyển từ Hoài Ân xuống Phù Mỹ. Các tiểu đoàn 50, 52 bộ đội địa phương Bình Định từ ven biển quật lên, ém sát đường số 1 từ nam Phù Cát trở vào. Các đơn vị này có nhiệm vụ kéo lực lượng của sư đoàn 22 ngụy ra khỏi khu vực trọng điểm.
    Quinard nhận được tin trinh sát mặt đất, rồi tin từ máy bay trinh sát điện tử, tưởng rằng: ?oCó một lực lượng chưa từng thấy đang tràn ngập vùng giáp ranh trung phần Bình Định?, ?oCó nhiều dấu hiệu cho thấy lực lượng của đối phương đang di chuyển vào sát các con đường chiến lược, đang ẩn náu ở thung lũng Thuận Ninh, có thể phương hại tới sự chuyển quân của sư đoàn không vận số 1?. Sau khi phái một trung tá đi thám sát bằng máy bay và biết chắc: ?oỞ Thuận Ninh chỉ có một lực lượng nhỏ, đủ cho dăm trăm kỵ binh bay cất vó?, Quinard quyết định ra tay. Y sử dụng luôn lữ đoàn 1 của sư đoàn dù 101 vào trận ngay sau khi nghe báo cáo 30 phút. Lữ đoàn 1 lúc này đang làm nhiệm vụ bảo vệ trục đường 19 Quy Nhơn-Plây-cu cho sư đoàn không vận số 1 đổ xuống An Khê; nên trực thuộc quyền chỉ huy của Quinard. Y chắc mẩm rằng với số quân dù gấp 4 lần quân của ?oVixi? cùng với 60 máy bay lên thẳng dứt khoát sẽ áp đảo đối phương trong bất ngờ. Và sư đoàn không vận sẽ có chiến thắng chào mừng nóng hổi.
    Ngày 18-9-1965, trời lấm tấm rắc bụi mưa xuống vùng thung lũng Thuận Ninh. Mới năm giờ rưỡi sáng, hai chiếc máy bay trinh sát E19 đã tới quần thảo trên đầu. Tiểu đoàn trưởng Lương Văn Thư và các đồng chí trong ban chỉ huy tiểu đoàn 2 biết chắc ?ocó chuyện không bình thường?. Theo dự kiến của Sư đoàn thì sau khi quân ngụy bị đòn đau ở tuyến đường số 1, quân Mỹ buộc phải vào cứu. Vậy mà giờ đây, chúng lại ?ora đòn? trước. Vừa lệnh cho các đại đội vào trận địa đánh địch theo phương án ?ođịch đổ bộ đường không?, Lương Văn Thư vừa báo cáo lên trung đoàn trưởng Đỗ Phú Đáp. 8 giờ 30 phút, Sở chỉ huy Sư đoàn nhận điện báo của trung đoàn 2: ?oMỹ đổ quân ở Thuận Ninh. Tin đầu tiên, tiểu đoàn 2 đang giáp chiến?. Sau khi phân tích, lật đi lật lại vấn đề ?ovì sao bọn Mỹ tung quân sớm vậy?, ?oLiệu đã phải chúng đi nước cờ đầu của chiến dịch phản công??, ?oLực lượng nào vào trận??, Bộ tư lệnh sư đoàn kết luận: ?oCó thể do một sơ hở nào đó của tiểu đoàn 2, địch tổ chức tập kích chớp nhoáng, nhằm triệt mầm uy hiếp của đối phương, bảo vệ sườn phải cuộc chuyển quân của ?oKỵ binh bay? lên An Khê?. Sư đoàn cho rằng đây là thời cơ đánh phủ đầu quân Mỹ. Trung đoàn 2 được phép sử dụng thêm 1-2 tiểu đoàn, nếu thấy cần thiết, quyết tâm đánh chắc thắng, thắng thật giòn giã.
    Tiểu đoàn 2, với tinh thần ?oBám thắt lưng địch mà đánh? từ kinh nghiệm trận Đèo Nhông, đã liên tục giáng cho quân Mỹ những đòn đích đáng, tiếng tiểu đoàn trưởng truyền qua điện thoại lập tức đến với từng chiến sĩ: ?oBình tĩnh, đợi địch vào gần mới nổ súng?. Bọn Mỹ, sau khi được bom đạn từ máy bay phản lực ném xuống dọn bãi, đã lần lượt liên tục ào ạt đổ quân xuống quanh thôn Thuận Ninh, Gò quao. Bãi bằng chưa tan khói bom đã dày đặc trực thăng. Mảnh đất dài và hẹp tưởng chừng vỡ toác ra bởi tiếng động cơ ầm ầm nối tiếp. Những tên lính Mỹ cao to, ngực phanh áo, cổ đỏ như ức gà chọi, dàn hàng ngang, lom khom tiến về phía bờ làng. Không gian tưởng như không còn sự sống và hoạt động nào khác ngoài sự ***g lộn của giặc trời.
    Một điều bất ngờ xảy ra. Bởi quá hồi hộp, chiến sĩ mới Đỗ Thiền để trung liên cướp cò. Cùng một lúc, ba tên Mỹ đổ vật xuống. Tình huống đột xuất không cho phép đợi địch tới gần hơn nữa, Trung đội trưởng Đỗ Xuân Thiệu ra lệnh đồng loạt nổ súng. Hàng loạt tên lính Mỹ ngã ngục. Bọn còn lại hốt hoảng nằm rạp, trườn tới bám theo bờ ruộng, mô đất. Từ bốn phía thôn Thuận Ninh, vang lên tiếng súng ta, súng địch. Địch tiếp tục đổ thêm quân xuống các đồi ?oĐại liên?, ?oThao trường?, bãi sông Quéo, vườn xoài. Đại đội 1 do Đại đội trưởng Thụ chỉ huy, nhận lệnh Tiểu đoàn trưởng chiếm bằng được đồi ?oThao trường?. Bất chấp lưới đạn chăng dày, Thụ dẫn anh em xốc tới đánh giáp mặt quân địch. Tiếng hô ?oXung phong!?, ?oGiết? giết?? làm cho quân Mỹ dạt về một mé đồi, để lại hàng chục xác chết. Bỗng nhiên, tiếng hò hét thúc quân của tên chỉ huy tắc nghẽn. Thay vào đó là tiếng rú lên hốt hoảng của quân lính hắn, rồi từng lũ, từng lũ, mắt lấm lét nhìn trời, chân quýnh quáng lao ngang lao dọc, dạt ra như ong vỡ tổ. Các chiến sĩ ta ghé mắt trông lên. Một chiếc máy bay lên thẳng bụng như bụng nòng nọc cứ nhè vào giữa đội hình lính Mỹ mà lao thẳng xuống rồi bùng nổ như một quả bom. Thì ra hắn đã bị xạ thủ trung liên Hà Viết Luận bắn gục. Luận vừa chiếm được đỉnh đồi cũng đúng lúc chiếc trực thăng này đang treo lơ lửng trên đầu, chuẩn bị ?ocất vó? quân ta. Luận vội quỳ xuống, ôm súng, bóp cò. Loạt đạn thẳng căng xỉa trúng buồng lái, tên giặc lái không kịp ngáp. Máy bay cứ thế đâm nhào xuống đất. Bọn địch sống sót chưa kịp hoàn hồn thì đã bị một mũi tiến quân của đại đội 1 từ phía mương nước xốc tới. Tên chỉ huy đại đội Mỹ đền tội tại chỗ. Quân ta tràn lên đánh đuổi, dồn địch vào rừng gai. Chúng như gà vướng tóc, đứa rống lên, đứa la oai oái. Lúc mới tới hùng hổ bao nhiêu, đến bấy giờ lũ lính dù Mỹ rã rời bấy nhiêu.
    Phía mỏm đồi ?oĐại liên?, những tên lính cao to vừa nhảy ra khỏi máy bay đổ quân thì đã được một trung đội do Đại đội phó Quang ?ođón tiếp? ngay. Không một tên nào thoát lưới lửa. Sau khi bị phủ đầu, bọn lính phía trận địa trung đội Đỗ Xuân Thiệu lùi ra, gọi máy bay tới đánh phá dữ dội. Hết phản lực giội bom đến trực thăng xả trọng liên, rốc két. Đỗ Xuân Thiệu vừa động viên Đỗ Thiểm vừa cầm lấy khẩu trung liên từ tay Thiểm nhằm vào đàn trực thăng, chọn một chiếc, ngắm chắc, bóp cò: Chiếc máy bay trúng đạn, tròng trành rồi biến thành một cây đuốc khổng lồ, đâm đầu xuống đất.
    Cuộc chiến mỗi lúc một ác liệt, địch ráo riết ném bom liên tục vào những điểm cao ta vừa chiếm được. Chúng còn dùng thủ đoạn ném hỏa mù, phân tuyến để tiện dùng bom đạn tập trung đánh quân ta. địch mới tiến khoảng 30m, thì một loạt bom bi đã giội xuống. Thấy bom nổ gần và quân ta bám sát, lính Mỹ lùi lại. Đại đội phó Quang liền nhằm vào tên sĩ quan đeo súng ?ocôn? bóp cò, hạ gục hắn. Bị thương vào tay, Quang quấn băng lại, rồi tiếp tục diệt thêm 2 tên nữa.
    Trên đồi ?oThao trường?, Chính trị viên đại đội Nguyễn Bốn dẫn đầu đơn vị, lợi dụng lúc địch đổ thêm quân tràn lên định chiếm lại điểm cao, đánh thốc vào nơi chúng đang lộn xộn nhất ở mương nước. Khẩu trung liên trong tay Tiểu đội trưởng bỗng rung lên. Một loạt 10 tên Mỹ đổ uỵch xuống như những thân chuối đổ. Hai đồng chí Tạm, Bình giữ trung liên, hạ gục ba máy bay lên thẳng. Phạm Hiền, chiến sĩ, bắn chết 15 tên. Đặc biệt, chiến sĩ Vũ Văn Để, với khẩu CKC trong tay, bóp cò 7 phát, mỗi phát đạn một quân thù. Một trung đội địch dồn về cố thủ trong chiếc hầm giữa đỉnh đồi, súng quét lựu đạn tung ra tới tấp. Nguyễn Ba chỉ huy tiểu đội vừa áp sát, vừa bắn và nhặt lựu đạn địch ném trả địch. Chiếc hầm cố thủ trở thành quan tài xếp chồng xác địch.
    Quinard quyết định ?onước cờ khác?. Y điều 50 máy bay lên thẳng chở ?okỵ binh bay? đổ quân xuống Thuận Phong. Y chửi rủa bọn lính dù ăn hại, chẳng những không ?ocất vó? được đối phương mà còn sa lầy thảm hại. Y hy vọng bằng cuộc đổ quân mới này, sẽ kéo giãn lực lượng ta về phía đông bắc Thuận Ninh, gỡ dây thòng lọng cho lính dù. Song Tiểu đoàn trưởng Thư tiếp tục phát huy thuận lợi, lệnh cho các đại đội tổ chức bám đánh lũ lính dù, quyết không để địch giãn xa, phân tuyến?
    Cuộc chiến tiếp tục đến chiều tối. Hơn 200 tên Mỹ bị diệt, 11 máy bay lên thẳng bị bắn tan xác, 40 chiếc khác bị dính đạn. Chiến sĩ thông tin Lê Thưa đi nối dây điện thoại bị đứt, cũng bắn hạ được máy bay. Trung tá Smith bị triệu về Sài Gòn khiển trách. Tên trung tá trưởng phòng tình báo bị mất chức.
    Trận Thuận Ninh giúp Sư đoàn Sao Vàng cũng như các đơn vị địa phương bước đầu tìm được lời giải đáp: Mỹ đông, Mỹ mạnh, Mỹ hùng hổ và tham vọng lớn? nhưng ta hoàn toàn có khả năng đánh thắng chúng. Quyết đánh, dám đánh, biết tìm ra cách đánh, nhất định thắng.
  8. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Một tài liệu khác mỗ cũng xin đưa ra cho các chư vị tham khảo - đây là một bài viết của vị giáo sư Việt kiều tại Pháp, người đã theo sát tiến trình hội nghị Genevé tại Switherland.
    Tài liệu tuy vậy cũng có đôi chỗ không chính xác vì còn phụ thuộc thiên kiến chính trị của tác giả, nhưng cũng rất có giá trị tham khảo.
    Quan hệ Trung Quốc, Liên Xô và Việt Nam giai đoạn kết của cuộc kháng chiến chống Pháp
    (Gs.Lê Xuân Khoa)
    Đúng 50 năm trước, tại hội nghị Genève, bốn nước Anh, Pháp, Liên Xô và Trung Quốc, sau khi giúp cho Pháp đạt được thỏa hiệp ngưng chiến, đã đồng tình cắt nước Việt Nam làm đôi ở vĩ tuyến 17 như một giải pháp tạm thời trong khi chờ đợi tổng tuyển cử về vấn đề thống nhất đất nước. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (tên cũ của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam), mặc dầu thắng trận quyết định ở Điện Biên Phủ, đã bị Trung Quốc và Liên Xô ép buộc phải nhận giải pháp bất lợi này. Nhân dịp Việt Nam tưng bừng kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, tưởng cũng nên nhắc lại bài học đau đớn của ********************** khi bị hai đồng minh lãnh đạo cộng sản quốc tế phản bội vì lợi ích riêng của họ. Bài sau đây trích đăng phần chính của một chương trong cuốn sách "Việt Nam 1945-1995: Chiến tranh, Tị nạn và Bài học Lịch sử" sẽ ra mắt độc giả trong vài tháng sắp tới. Tựa đề của bài được đặt khác với tên chương sách cho phù hợp với nội dung trích đăng.
    CUỘC chiến tranh Việt-Pháp, sau gần chín năm tàn phá điêu linh với tổn thất khoảng gần một triệu người bị chết và bị thương,[1] đã được các cường quốc kết thúc ở Hội nghị Genève ngày 20 tháng Bảy 1954 bằng việc cắt nước Việt Nam làm đôi với hai chính thể hoàn toàn đối lập ở hai miền Nam, Bắc. Thật ra, hiệp định Genève chỉ thỏa mãn được yêu cầu cấp thiết của Pháp là vấn đề ngưng bắn trong khi không có khả năng bảo đảm một nền hoà bình lâu dài, vì chính phủ Quốc Gia Việt Nam (được đổi tên là Việt Nam Cộng Hòa kểø từ 23.10.1955) không chịu công nhận hiệp định này.
    Trước tình hình nguy ngập về quân sự sau trận Điện Biên Phủ, các nhà lãnh đạo Pháp đều chỉ mong đạt được một thỏa hiệp đình chiến với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH) trong khi tiếp tục duy trì Quốc Gia Việt Nam (QGVN) trong khối Liên Hiệp Pháp.[1] Để đạt mục đích ấy, ngoại trưởng Georges Bidault và thủ tướng Joseph Laniel đều không bỏ lỡ một cơ hội nào có thể hù dọa đối phương về khả năng Hoa Kỳ sẽ can thiệp quân sự vào Việt Nam nếu hội nghị Genève thất bại. Ngay cả sau khi chính phủ Laniel sụp đổ vì không thể thuyết phục được chính quyền Eisenhower công bố ý định tham gia cuộc chiến ở Đông Dương, thủ tướng Mendès France vẫn không quên nhắc nhở Liên Xô và Trung Quốc về hiểm họa quốc tế hoá chiến tranh Đông Dương với sự tham gia không thể tránh được của Hoa Kỳ.[1]
    Khi ấn định thời hạn một tháng để đạt được thỏa hiệp tại hội nghị Genève, Mendès France không phải chỉ ra một "tối hậu thư cho chính mình" mà luôn cho cả phe đối thủ. Quyết định này không phải do bồng bột hay muốn được nổi danh mà chính là kết quả tính toán rất kỹ lưỡng của một chính trị gia dày kinh nghiệm đã theo dõi rất sát và chống đối cuộc chiến ở Đông Dương trong nhiều năm. Vị thủ tướng Pháp gốc Do Thái đã nhắm đạt tới những mục tiêu chính sau đây:
    thuyết phục Mát-scơ-va và Bắc Kinh cả hai vốn không muốn trực tiếp đối đầu với Washington và đang theo đuổi những mục tiêu ưu tiên riêng ép buộc cộng sản Việt Nam phải chấp nhận những điều kiện thỏa hiệp, trái với kết quả mong đợi của phe đang thắng thế trên chiến trường;
    thuyết phục Võ Nguyên Giáp và bộ chỉ huy quân sự cộng sản đình hoãn mọi dự định tổng công kích vào Hà Nội và đồng bằng Bắc Việt, vì những hoạt động quân sự này sẽ có ý nghĩa phá hoại những nỗ lực tại Genève trong "ba mươi ngày thương thuyết hoà bình";
    thuyết phục đồng minh Anh và Mỹ đồng ý về sự cần thiết của một thỏa hiệp ngưng chiến tức khắùc ở Đông Dương trong khi tạo điều kiện cho một giải pháp chính trị lâu dài cho toàn vùng.
    Mendès France đã hoàn thành được cả ba mục tiêu này. Thắng lợi lớn nhất của ông là đã được sự hợp tác của tất cả các phe liên hệ, ngay cả những phe chống đối ông trong Quốc hội Pháp cũng không còn có sự chọn lựa nào khác.
    Trong suốt thời gian hội nghị Genève, Chu Ân Lai và Molotov đã "đi đêm" rất kỹ với phái đoàn Pháp, đến khi họ Chu hội kiến với Mendès France ở Berne, Thụy Sĩ, ngày 23.06.1954, thì mọi thỏa thuận đã gần xong. Ngày hôm sau, Jean Chauvel Đại sứ Pháp tại Genève thông báo cho Đại sứ Mỹ tại Pháp Douglas Dillon kết quả của phiên họp trong đó "Chu đã nói gần hết hai tiếng đồng hồ của phiên họp kể cả phiên dịch," đưa ra những ý kiến mà Mendès France rất vừa ý:
    Về vấn đề Lào và Cam-bốt: Quân đội ngoại quốc, kể cả *********, phải rút hết ra khỏi toàn thể lãnh thổ Lào và Cam-bốt. Chính phủ của hai nước này sẽ giải quyết chuyện chính trị trong nội bộ của họ theo ý nguyện của đa số dân chúng. Chu không phản đối việc hai nước này duy trì chế độ quân chủ và cũng không chống lại việc họ ở lại trong khối Liên Hiệp Pháp, nếu họ muốn. Chu chỉ nhấn mạnh vào điều kiện không có căn cứ quân sự Mỹ ở Lào hay Cam-bốt.
    Về vấn đề Việt Nam: Chu nhìn nhận có hai chính phủ ở miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Chu đồng ý với Pháp về việc giải quyết vấn đề Việt Nam qua hai giai đoạn: thứ nhất là giải pháp quân sự, cần thỏa thuận sớm hiệp định đình chiến; thứ nhì là giải pháp chính trị sẽ cần thời gian lâu hơn. Chu cho biết sẵn sàng thảo luận về việc chia vùng của hai bên nếu Mendès France muốn. Giải pháp chính trị sẽ do hai chính phủ ở Việt Nam trực tiếp điều đình và thỏa thuận với nhaụ Chu nói thêm là Pháp có thể giúp đỡ trong tiến trình này, và không thấy có lý do gì mà nước Việt Nam thống nhất sau này lại không ở trong khối Liên Hiệp Pháp.
    Về vấn đề chia vùng cho mỗi bên, Mendès France trả lời là ông chưa chuẩn bị chi tiết nên muốn dành đề tài này cho các phái đoàn ở Genève. Về vấn đề hai phe Việt Nam thảo luận với nhau về giải pháp chính trị, ông nhận xét rằng sau tám năm chiến tranh, dân chúng cần có đủ thời gian và cơ hội cho các tình cảm sôi động lắng đọng và tâm hồn được bình thản, vì vậy cần phải chờ đợi một thời gian lâu trước khi tổ chức bầu cử. Chu không phản đối đề nghị này. Sau hết, Mendès phàn nàn rằng phía ********* trong vòng mười ngày qua đã làm chậm cuộc đàm phán ở Genève. Ông yêu cầu Chu thúc dục phái đoàn ********* tiến hành mau hơn. Chu nhận lời làm việc này.[1]
    Chứng liệu trên đây cho thấy rõ ý đồ của Trung Quốc, ngoài chính sách "ngoại giao nụ cười" (diplomatie du sourire) đối với Tây phương để được yên ổn và có thì giờ phục hồi đời sống kinh tế sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, không muốn thấy một nước Việt Nam độc lập và thống nhất để có thể tiếp tục giữ miền Bắc ở trong vòng kiểm soát của mình. VNDCCH đã bị đồng minh Trung Quốc phản bội bằng việc loại trừ ảnh hưởng của VNDCCH đối với Lào và Cam-bốt, muốn nhìn nhận chính phủ quốc gia ở miền Nam, và rắp tâm chia cắt lâu dài hai nước Việt Nam như sẽ được phân tích thêm dưới đây.
    VNDCCH cũng không thể trông cậy được gì vào Liên Xô, vì khu vực quan tâm ưu tiên của xứ này là Âu châu. Sau cái chết của Stalin, giới lãnh đạo Liên Xô lại càng mong muốn có hòa bình ở Đông Nam Á để khỏi phải bận tâm nhiều đến một nước xa xôi như Việt Nam. Sau này, VNDCCH lại càng thất vọng với Liên Xô khi lãnh tụ Khrustchev đề nghị Liên Hiệp Quốc chấp nhận cả hai nước Việt Nam làm hội viên.
    Như vậy, những điều thỏa thuận tại hội nghị Genève đã được Anh, Pháp, Liên Xô và Trung Quốc thu xếp với nhau trong những buổi họp riêng, không có sự tham dự của VNDCCH. Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng đã chỉ được họ Chu báo tin và khuyến cáo chấp nhận. Thât là một nỗi đau đớn bất ngờ và một sự sỉ nhục đối với Đảng Lao động Việt Nam. Phái đoàn Phạm Văn Đồng sang Genève dự hội nghị trong tư thế của một kẻ chiến thắng, và ngay trong ngày đầu tiên đã đưa ra những đòi hỏi rất rõ rệt: Pháp phải thỏa thuận vô điều kiện về việc rút quân theo lịch trình ấn định và Việt Nam phải được thống nhất. Việc Trung Quốc và Liên Xô sắp đặt sẵn với Anh, Pháp một giải pháp cho Việt Nam đã làm mất hiệu lực của chiến thắng Điện Biên Phủ có thể dẫn tới sự thất bại hoàn toàn của Pháp. Cuối cùng, ngày 3 tháng Bảy, Chu Ân Lai gặp Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp ở Liễu Châu gần biên giới Việt-Trung để yêu cầu những người bạn đồng minh của mình chấp thuận những điều kiện hòa đàm, với lý do là Hoa Kỳ có thể nhảy vào vòng chiến và trong trường hợp đó, Liên Xô và Trung Quốc sẽ không thể hỗ trợ cho Bắc Việt được.
    Chỉ hai ngày sau cuộc gặp gỡ Chu Ân Lai Mendès France, Thứ trưởng Quốc phòng Tạ Quang Bửu và Phát ngôn viên Đại tá Hà Văn Lâu, đã lên tiếng phàn nàn với đại diện Pháp rằng phái đoàn VNDCCH đã không được đối xử bình đẳng như phái đoàn Trung Quốc và không có một đại diện người Pháp nào ở cấp bộ trưởng để đối thoại. Trưởng phái đoàn Phạm Văn Đồng thì được các quan sát viên mô tả trong cuộc gặp gỡ lần đầu với Mendès France ngày 11 tháng Bảy là có thái độ mềm dẻo nhưng chưa thật sự hợp tác. Theo Jean Lacouture, có lẽ vào ngày đó Phạm Văn Đồng vẫn còn bị "sốc" vì thái độ của Chu Ân Lai cho nên "khi bước xuống xe, đã có vẻ bị một cơn xúc động rất khó chịu làm như bị nghẹt thở. Theo lời kể lại của Claude Cheysson, ông Đồng dường như không thốt được nên lời vì tình huống lịch sử lúc đó làm cho ông bị nghẹn họng. Nhưng ông đã mau chóng lấy lại được bình tĩnh."[1]
    Đại sứ Jean Chauvel trong phái đoàn Pháp cho biết ông có cảm tưởng là "********* thực sự bị Mat-scơ-va và Bắc Kinh giật dây. Mỗi khi họ (*********) tiến lên hơi mau quá thì Chu Ân Lai và Vyacheslav Molotov lúc nào cũng có mặt ở đó để kéo họ về một lập trường thích hợp hơn."[1] Sở dĩ Bắc Việt không chỉ trích Liên Xô nhiều vì Liên Xô ở xa và có trách nhiệm chính ở Âu châu, không nguy hiểm bằng Trung Quốc vốn luôn luôn coi Việt Nam là một nước chư hầu. Sách giáo khoa về lịch sử Việt Nam xuất bản ở Hà Nội năm 1987 đã tố cáo hành động "phá hoại" và ý đồ chính trị xấu xa của Trung Quốc như sau:
    Đáng lẽ với chiến thắng quân sự, với đấu tranh ngoại giao linh hoạt, mềm dẻo của ta, với sự ủng hộ của nhân dân thế giới, ta có khả năng giành được thắng lợi lớn hơn. Nhưng do có sự phá hoại của phái đoàn Trung Quốc nên thắng lợi có sự hạn chế. Hạn chế đối với Việt Nam và với cả Miên và Lào.
    Ý đồ của những người lãnh đạo Trung Quốc là chỉ muốn chấm dứt chiến sự ở Đông Dương, tạo ra một khu đệm ở Đông Nam Á, ngăn chặn Mĩ vào thay thế Pháp ở Đông Dương, tránh được sự đụng đầu trực tiếp với Mĩ, bảo vệ biên giới phía Nam của Trung Quốc đồng thời hạn chế thắng lợi của Việt Nam, chia rẽ hòng làm suy yếu ba nước Đông Dương, từ đó dễ bề thôn tính các nước này làm bàn đạp bành trướng xuống Đông Nam châu Á. Vì vậy trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc đã nhiều lần bàn riêng với đoàn Pháp và đưa ra với Pháp những nhân nhượng chính trị có tính chất cơ bản như: "chấp nhận Việt Nam có hai chính quyền, chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hoà và chính quyền bù nhìn Bảo Đại, chia cắt Việt Nam, giải quyết vấn đề quân sự trước, tách rời việc giải quyết ba vấn đề Việt Nam, Lào, Campuchiạ Trong khi đó lại không ủng hộ Việt Nam về lấy vĩ tuyến 13 làm giới tuyến quân sự tạm thời, về yêu cầu tổng tuyển cử tự do ở Việt Nam, Lào, Campuchia trong thời hạn sáu tháng, về yêu cầu Lào và Campuchia có hai vùng tập kết", mà còn thúc ép Việt Nam nhân nhượng Pháp. . . .
    Vì thế giải pháp Giơnevơ không phản ảnh đầy đủ những thắng lợi của nhân dân ta trên chiến trường và xu thế cuộc đấu tranh giữa ta với Pháp, cũng không đáp ứng đầy đủ những yêu cầu chính trị của giải pháp do đoàn đại biểu của Việt Nam đưa rạ Vì thế nó đã ngăn cản nhân dân ba nước Việt nam, Lào và Campuchia giành thắng lợi hoàn toàn.[1]
    Gần đây hơn, bộ sách giáo khoa lịch sử năm 2001 đã giải thích lý do tại sao VNDCCH đã phải chấp nhận giải pháp Genève:
    Nếu đế quốc Mĩ trực tiếp tham gia chiến tranh Đông Dương thì lực lượng so sánh giữa ta và địch sẽ có thể thay đổi không có lợi cho tạ Còn các bạn đồng minh chiến lược của Việt Nam là Liên Xô và Trung Quốc đều theo một xu thế muốn kết thúc cuộc chiến tranh, không ủng hộ Việt Nam tiếp tục kháng chiến lâu dài nữa. Trung Quốc đã lựa chọn cùng tồn tại hòa bình mà họ cho rằng chỉ như thế mớùi phù hợp với lơiï ích dân tộc của mình. Tại cuộc họp trừ bị ở Matxcơva của các nước Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam trước khi khai mạc hội nghị Giơnevơ, Chu Ân Lai đã tuyên bố: trong trường hợp cuộc xung đột ở Đông Dương mở rộng, chính phủ của ông ta "không thể viện trợ thêm cho ********* được nữa". Trong những điều kiện đó, Việt Nam đã chấp nhận giải pháp Giơnevơ để lập lại hòa bình ở Đông Dương, không thể một mình tiếp tục cuộc chiến đấu, nhất là phải sớm trực tiếp đương đầu với đế quốc Mĩ. [1]
    Sự thay đổi thái độ của Trung Quốc đối với ********* chỉ là hệ quả của sự thay đổi cơ bản về chính sách đối ngoại của Trung Quốc, từ "đối đầu" sang "chung sống hòa bình" với thế giới tư bản do Hoa Kỳ lãnh đạo. Sau mấy chục năm chiến đấu chống Quốc Dân Đảng Trung Hoa, tiếp theo là hao mòn nhân lực và vật lực vào hai cuộc chiến tranh ở Triều Tiên và Việt Nam, giới lãnh đạo Trung Quốc nhận thấy đã đến lúc cần phải chú trọng đến "lợi ích dân tộc" của mình. Cái chết của Stalin năm 1953 lại càng làm cho Mao Trạch Đông không muốn chuốc thêm gánh nặng và nguy hiểm trong cuộc chạy đua vũ khí với phe tư bản. Chính bài diễn văn của Trần Nghị, ủy viên Bộ Chính trị, nhân ngày giỗ đầu của Stalin (5 tháng Ba 1954), khi nhấn mạnh đến ưu tiên "Trung Quốc trên hết", đã đánh dấu biến chuyển quan trọng trong sách lược chính trị của Trung Quốc. Những nét chính trong sách lược mới này là về mặt đối nội, thực hiện chương trình công nghiệp hóa và xã hội hóa nông nghiệp, trong khi về đối ngoại, theo đưổi chủ trương hòa hoãn với các nước tư bản.[1]
  9. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Mục tiêu chính của Trung Quốc ở Genève là ngăn chặn Hoa Kỳ lập căn cứ quân sự ở Đông Dương. Vì vậy, hợp tác với Pháp để giải quyết chiến tranh Đông Dương sẽ đem lại cho Trung Quốc một vùng đệm an toàn ở biên giới phía Nam. Ngoài ra, việc duy trì tình trạng hai nước Việt Nam sẽ giúp cho Trung Quốc tiếp tục củng cố ảnh hưởng với chính phủ cộng sản ở miền Bắc trong khi lại có thể giao thiệp ngay cả với chính phủ quốc gia ở miền Nam. Thái độ phản bội trắng trợn này được biểu lộ trong bữa tiệc do Chu Ân Lai khoản đãi để tiễn phái đoàn VNDCCH trước khi về nước. Chuyện bất ngờ là trong số thực khách lại có một đại diện của phái đoàn QGVN là Ngô Đình Luyện, bào đệ của Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Bất ngờ hơn nữa là giữa những ly rượu trao đổi tình hữu nghị, Chu Ân Lai đã gợi ý với Ngô Đình Luyện về khả năng thiết lập một phái bộ ngoại giao tại Bắc Kinh: "Dĩ nhiên là đồng chí Phạm Văn Đồng gần với chúng tôi hơn về ý thức hệ nhưng điều đó không loại trừ việc miền Nam có đại diện. Cả hai bên đều là người Việt Nam và tất cả chúng ta đều là dân Á châu, có phải không?"[1]
    Giới bình luận thời sự quốc tế hồi ấy cho rằng Trung Quốc đang quan tâm tới vấn đề Đài Loan, không muốn Hoa Kỳ lập vòng đai bảo vệ Tưởng Giới Thạch và bao vây Trung Quốc, mong muốn gia nhập tổ chức Liên Hiệp Quốc và thoát khỏi nạn phong tỏa về kinh tế. Vì những lý do đó, Trung Quốc sẵn sàng nhân nhượng trong việc giao dịch với các nước Tây phương. Nhận xét này đúng nhưng nếu từ đó suy ra rằng Trung Quốc cũng sẵn sàng hi sinh Việt Nam và từ bỏ mục tiêu cách mạng vô sản ở các nước Á châu thì lại là một sai lầm lớn. Dù không muốn cho Việt Nam thật sự độc lập và cường thịnh để có thể thoát khỏi vòng ảnh hưởng của mình, đúng với đầu óc bá quyền sẵn có từ mấy ngàn năm, Trung Quốc vẫn muốn và cần phải duy trì mối quan hệ tốt đẹp với VNDCCH. Khi ép buộc Hồ Chí Minh và phái đoàn Phạm Văn Đồng chấp nhận các điều kiện ở hội nghị Genève, ngoài sự biểu thị uy quyền của một nước đàn anh, Chu Ân Lai đã thực tình muốn thuyết phục các đồng chí đối tác của mình về bước lùi chiến thuật, phù hợp với lời dạy của Lenin: "Chính trị là tiếp tục chiến tranh bằng những phương cách khác." Khi cần đến, Trung Quốc lại sẵn sàng hỗ trợ mạnh mẽ cho Việt Nam cộng sản chiến đấu tới cùng như trong cuộc chiến chống Hoa Kỳ và VNCH những năm về saụ[1]
    Về phía Liên Xô, quan hệ đối với VNDCCH đơn giản hơn nhưng cũng không ngoài mục tiêu "lợi ích dân tộc" của mình như Trung Quốc. Georgi Malenkov, lãnh tụ thừa kế Stalin, chủ trương xoa dịu tình trạng căng thẳng với các nước Tây phương. Mối quan tâm hàng đầu của Liên Xô lúc đó là tình hình ở Châu Âu trước những nỗ lực của Mỹ xây dựng Cộng đồng Phòng thủ Châu Âu (European Defence Community EDC). Dù không nhấn mạnh đến việc thuyết phục Pháp từ chối gia nhập EDC để đổi lấy cuộc ngưng chiến ở Đông Dương, Liên Xô vẫn muốn khai thác mâu thuẫn Pháp-Mỹ về sự hiện diện của Đức trong EDC và đã tỏ rõ thiện chí đối với Pháp tại hội nghị Genève. Với tư cách đồng chủ tịch hội nghị (cùng với Anthony Eden), ngoại trưởng Mikhai Molotov lúc đầu hỗ trợ cho những đòi hỏi của Phạm Văn Đồng, nhưng sau khi chính phủ Laniel bị đổ và Georges Bidault mất chức Bộ trưởng ngoại giao thì Molotov lại thiên về quan điểm của Mendès Francẹ Con người nổi tiếng trong giới ngoại giao với biệt danh là "Mr. Niet" (Ông Phủ quyết) nay đã trở thành một nhà trọng tài có vai trò quyết định với những giải pháp dung hòa vào giờ phút cuối cùng. Chẳng hạn, chỉ sáu tiếng đồng hồ trước cuối thời hạn cam kết của Mendès France là 12 giờ đêm ngày 20 tháng Bảy, Molotov đã chấm dứt mọi chuyện bàn cãi về đường giới tuyến bằng câu: "Ta hãy thỏa thuận về vĩ tuyến 17...", rồi chỉ vài chục phút sau đó lại đưa ra đề nghị hai năm để kết thúc những cuộc tranh luận gay go giữa Phạm Văn Đồng và Mendès France về thời hạn tổ chức tổng tuyển cử.[1]
    Ngoài lý do trên, cũng như Trung Quốc, Nga Xô không xem thường lời đe dọa của Hoa Kỳ sẽ can thiệp bằng quân sự nếu hội nghị Genève thất bại. Lời đe dọa này đã được ngoại trưởng Dulles gióng lên hai lần (ngày 11.05 và 10.06) và được Đô Đốc Carney hưởng ứng ngày 27 tháng Năm. Viễn tượng về một "cuộc hành quân Vautour"[1] như đã được Mỹ dự tính yểm trợ cho Pháp trong trận Điện Biên Phủ nay có thể được đem ra thực hiện là một nỗi lo ngại vẫn ám ảnh trong đầu óc của hai ngoại trưởng Liên Xô và Trung Quốc.
    François Joyaux, một chuyên gia nổi tiếng của Pháp về vấn đề Trung Quốc, trong tập nghiên cứu nhan đề La Chine et le règlement du premier conflit d Indochine, Genève 1954 (Trung Quốc và việc giải quyết chiến cuộc Đông Dương lần thứ nhất, Genève 1954) không những chứng minh vai trò quyết định của Trung Quốc trong việc ép buộc VNDCCH nhượng bộ ở Genève mà còn tiết lộ ý định của Liên Xô không muốn để cho Hồ Chí Minh thống nhất đất nước, vì như vậy là "trực tiếp đưa Việt Nam vào sự thần phục Trung Quốc." Căn cứ vào nguồn tin của một nhà ngoại giao Nga và sự am tường thái độ của Trung Quốc từ cả ngàn năm qua vẫn coi Việt Nam là một nước chư hầu, François Joyaux nhận định rằng hai cường quốc cộng sản đều muốn sử dụng Hà Nội như một quân cờ trong sách lược cạnh tranh ảnh hưởng của họ. Dù có những ý đồ khác nhau, Liên Xô và Trung Quốc đều quan tâm đến việc kìm hãm sự lớn mạnh của Việt Nam đến độ cùng muốn có sự hiện diện của Hoa Kỳ ở miền Nam nước Việt.[1]
    Ngoài áp lực của Liên Xô và Trung Quốc, chính VNDCCH cũng muốn chứng tỏ thiện chí hợp tác trong việc tìm kiếm giải pháp hòa bình có lợi cho mình tại hội nghị, nhất là sau khi biết thủ tướng Pháp đã quyết định hẹn cho ông thời hạn một tháng để đạt được thỏa hiệp. Các nhà lãnh đạo Bắc Việt cũng rất lo ngại viễn tượng Hoa Kỳ nhảy vào vòng chiến nếu chính phủ Mendès France thất bại và sụp đổ. Như nhà ngoại giao Lưu Doãn Huỳnh tiết lộ sau này:
    Tất cả những cuộc bàn thảo giữa các nước xã hội chủ nghĩa ở Giơ-ne-vơ đều xoay
    quanh một vấn đề quan trọng tôi muốn nói là một nhu cầu cấp bách. Đó là: Chúng tôi cần phải đạt được thỏa hiệp ở Giơ-ne-vơ để ngăn chặn việc can thiệp của Mỹ bằng quân sự ở Đông Dương. Đây là một trong những vấn đề chính trong mọi cuộc đàm luận "đóng kín cửa" của chúng tôi tại Giơ-ne-vợ[1]
    Quả thật sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tướng Võ Nguyên Giáp và bộ chỉ huy quân đội cộng sản đã chuẩn bị đưa quân về giải phóng đồng bằng Bắc Bộ. Quân Pháp đã mất hết tinh thần và phải dàn mỏng lực lượng trên một địa bàn quá rộng, trong khi quân đội quốc gia lại càng không muốn chiến đấu dưới sự chỉ huy của Pháp. Trong hơn một tháng đầu của hội nghị Genève, bộ đội cộng sản vẫn tiếp tục tạo áp lực bằng những cuộc tấn công các tỉnh ở đồng bằng như Phủ Lý, Thái Bình, Hưng Yên, Nam Định, và ngay sau khi Mendès France được Quốc hội Pháp tín nhiệm lập chính phủ mới, đã đánh một trận lớn ở An Khê, một vị trí chiến lược trên quốc lộ 19 nối liền cao nguyên miền Trung với bờ biển, tiêu diệt binh đoàn cơ động GM100 của Pháp. Ít ngày trước đó, Võ Nguyên Giáp đã chuẩn bị uy hiếp Hà Nội nhưng bị cố vấn Trung Quốc ngăn cản: "Tôi nêu ý kiến trong Quân ủy dùng ngay khoảng một trăm xe đưa một bộ phận pháo binh 351 và một đơn vị chủ lực mạnh về Tam Nông, Phú Thọ, phía tả ngạn sông Đà, uy hiếp phía tây bắc Hà Nội. Đồng chí Vi Quốc Thanh khuyên ta tránh sử dụng lực lượng lớn đề phòng vấp váp, để giữ trọn vẹn chiến thắng đã giành được."[1]
    Võ Nguyên Giáp cũng cho biết rằng, trong cuộc họp mặt ở Liễu Châu đầu tháng Bảy, khi được Chu Ân Lai báo tin rằng các cường quốc đã có sự đồng thuận về vĩ tuyến 17 và khuyến cáo Việt Nam chấp thuận, "bác (Hồ) và chúng tôi đều ngỡ ngàng." Hồ Chí Minh yêu cầu ít nhất cũng phải giành được vĩ tuyến 16 như đã có tiền lệ trong trường hợp quân đội Đồng Minh tới giải giáp quân đội Nhật năm 1945. Họ Chu hứa sẽ cố gắng nhưng nếu không được thì cũng đành phải chấp nhận vì "vấn đề quan trọng nhất hiện nay là tranh thủ cho được hòa bình và những điều kiện để thống nhất Việt Nam." Sau cuộc gặp gỡ đầy bất mãn này, bộ chỉ huy quân sự VNDCCH tiếp tục gửi sang Genève những tin tức về tình hình suy yếu của "quân viễn chinh và quân ngụy", với những điều kiện thuận lợi cho cuộc tấn công ngay cả ở các tỉnh Nam Bộ, nhưng "chúng tôi nhận được điện của cả đồng chí Môlôtốp và đồng chí Chu Ân Lai, nói đang có triển vọng sớm đạt được một hiệp định hòa bình, không nên đẩy mạnh nhịp độ hoạt động quân sự ở cả hai miền Nam, Bắc Đông Dương".[1]
    Việc Liên Xô và Trung Quốc ngăn chặn những cuộc tấn công của quân đội cộng sản Việt Nam đã làm cho giới chỉ huy quân sự Pháp rất hài lòng. Quả thật, trong những cuộc tham khảo liên tiếp với các chuyên gia quân sự từ trước khi được Quốc Hội chọn làm thủ tướng, Mendès France đã được nghe một tiếng nói thống nhất là cần phải giải quyết khẩn cấp vấn đề chiến cuộc ở Việt Nam vì toàn thể đoàn quân viễn chinh đang lâm nguy, Hà Nội và đồng bằng miền Bắc đang bị đe dọa. "Trong một cuộc thảo luận với bốn tướng lãnh, khi ông (Mendès France) gợi ý là cần phải kết thúc trong thời hạn một tháng, hai người hiện diện đã thốt lên: "Một tháng, lâu quá!" Rồi họ báo cáo về những dự đoán bi đát của tướng Salan, về ý kiến của thống chế Juin là phải di tản ngay ra khỏi Hà Nội. . . ."[1]
    Về phía đồng minh, thành công lớn nhất của Mendès France là giải tỏa được niềm nghi ngờ của Hoa Kỳ đối với lập trường chính trị của ông vì ông chống chiến tranh Việt Nam từ lúc đầu và chủ trương phải nói chuyện thẳng với cộng sản Việt Nam. Sau khi chấm dứt nhiệm vụ của Bidault với chính phủ trước, Mendès France kiêm luôn chức ngoại trưởng nhưng lại giao cho Đại sứ Pháp Jean Chauvel trách nhiệm vận động Hoa Kỳ tiếp tục thừa nhận và tham dự hội nghị Genève. Chauvel đã phải làm việc rất khó khăn vì ngoại trưởng Foster Dulles không tin tưởng ở Mendès France, cho ông là người sẵn sàng "bán đứng Đông Dương" (brader l Indochine).[1] Nhưng Hoa Kỳ vẫn không thể để cho Pháp lâm vào thế yếu ở bàn hội nghị. Vì vậy, tại Washington ngày 29 tháng Sáu, Tổng thống Eisenhower và Thủ tướng Churchill cùng ký một bản thông cáo chung ấn định bảy điều kiện căn bản cho việc giải quyết vấn đề Đông Dương tại hội nghị Genève:
    Bảo tồn sự toàn vẹn và độc lập của Lào và Cam-bốt bằng việc bảo đảm sự rút quân của các lực lượng ********* ra khỏi hai nước này.Bảo tồn ít nhất là phân nửa phía nam của Việt Nam và, nếu có thể được, một vùng đồng bằng, trong khi lằn phân ranh không được vượt quá phía nam Đồng Hới (phía bắc vĩ tuyến 17).Không áp đặt lên Cam-bốt hay Lào, hay ở phần lãnh thổ được bảo tồn củaViệt Nam những điều kiện hạn chế khả năng duy trì chế độ ổn định không cộng sản, nhất là quyền của họ được có đủ lực lượng bảo vệ an ninh quốc nội, được
    nhập cảng vũ khí và có thể yêu cầu sự giúp đỡ của các cố vấn ngoại quốc.
    Không gồm có một điều khoản chính trị nào có thể đưa đến việc bị mất cho cộng sản những vùng đất được bảo tồn.
    5. Không loại bỏ khả năng thực hiện sau này việc thống nhất nước Việt Nam bằng những phương cách hòa bình.
    6. Cho phép tất cả những người muốn dời chỗ ở từ một vùng này sang một vùng khác ở Việt Nam được di chuyển trong những điều kiện bình an và nhân đạo.
    7. Dự liệu một hệ thống kiểm soát quốc tế hữu hiệu.
    Mendès France thật không thể hài lòng hơn được vì đây cũng là những mục tiêu mong muốn của ông trong những cuộc đàm phán ở Genève. Mối quan tâm chính của ông về phía Mỹ như vậy đã được giải quyết. Từ giờ phút này, ông đã có thêm trọng lượng để thuyết phục Liên Xô và Trung Quốc gia tăng áp lực đối với chính phủ Hồ Chí Minh trong khi không còn phải lo ngại lắm về sự chống đối của chính phủ Ngô Đình Diệm. Bây giờ thì ông trông đợi cơ hội đối thoại trực tiếp với John Foster Dulles để thuyết phục Hoa Kỳ ủng hộ cụ thể hơn trong tiến trình thương thuyết ở Genève. Bởi vậy, khi vừa đặt chân đến Genève ngày 12 tháng Bảy và nghe tin ngoại trưởng Mỹ sẽ tới Pháp ngày hôm sau, ông vội vã trở về Paris và không quên mời được ngoại trưởng Anh Anthony Eden đi cùng. Sau cuộc tiếp xúc xã giao ở tòa Đại sứ Hoa Kỳ, phiên họp làm việc nghiêm chỉnh được diễn ra sau bữa ăn tối tại điện Matignon. Với kinh nghiệm của một chính khách đã hành nghề luật sư từ năm 19 tuổi và hoạt động chính trị trên hai mươi năm (trong đó có 5 năm kháng chiến chống Đức Quốc xã), và với tài ăn nói lưu loát bằng Anh ngữ, Mendès France đã gây được ấn tượng tốt trong đầu óc của ngoại trưởng Mỹ. Jean Lacouture thuật lại rằng khi thủ tướng Pháp mở tấm bản đồ Việt Nam và trình bày diễn tiến của cuộc điều đình về giới tuyến quân sự với cuộc tranh luận hiện thời ở giữa vĩ tuyến 16 và 18, Dulles đã thốt lên: "Tôi không thể hiểu được. Ngài còn đòi nhiều hơn cả tôi nữa saỏ" Trước khi trở về Mỹ, Dulles còn khen Mendès France là ông đã thắng cuộc và nói với báo chí: "This guy is terrific!" (Tay này cừ lắm).[1]
  10. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Kết quả buổi gặp gỡ Mendès Dulles là một bản thông cáo chung thuận lợi cho lập trường của Pháp. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn đồng ý để cho thứ trưởng Bedell Smith trở lại Genève với tư cách trưởng đoàn, dù không chính thức.[1] Hai ngày sau đó, Foster Dulles lại gửi cho Mendès France một lá thư bày tỏ lòng kính trọng lập trườùng chính đáng của thủ tướng Pháp với lời kết luận: "Và tôi vui mừng thấy rằng chúng ta đã tìm được một đường lối tôi hi vọng không có sự vi phạm những nguyên tắc của chúng tôi và không xảy ra bất đồng ý về sau nhờ đó chúng tôi có thể biểu lộ rõ rệt sự ủng hộ của chúng tôi đối với Ngài tại Genève."[1]
    TÓM lại, trước tình trạng tuyệt vọng về quân sự ở Việt Nam và sa lầy về chính trị ở Đông Dương, nước Pháp không còn có sự chọn lựa nào khác hơn là quan điểm của Mendès France về một cuộc đàm phán trực tiếp với đối phương để mau chóng đạt được thỏa hiệp ngưng bắùn. Thêm vào đó, những biến chuyển thuận lợi trong đường lối đối ngoại của Liên Xô và Trung Quốc đã đem lại cho phái đoàn Pháp nhiều may mắn bất ngờ, nhất là sau khi Bidault đã ra đi, giúp cho Mendès France hoàn tất được sứ mệnh đúng thời hạn cam kết.[1]
    Không kể thời gian một tháng rưỡi phái đoàn Pháp làm việc gần như giậm chân tại chỗ dưới sự lãnh đạo của Bidault, chỉ trong ba mươi ngày thương thuyết ở Genève, Mendès France đã đạt được hầu hết những điều mong muốn của Pháp so với những đòi hỏi của phái đoàn VNDCCH:
    1. Về mục tiêu hội nghị: VNDCCH đòi cuộc thương thuyết phải nhằm đạt một thỏa hiệp bao gồm vấn đề ngưng bắn và giải pháp chính trị cho Việt Nam. Pháp muốn ưu tiên là thỏa hiệp về ngưng bắn, còn vấn đề chính trị được thảo luận riêng. Kết quả: Pháp được như ý muốn.
    2. Về vị trí tập trung quân đội mỗi bên: Pháp đề nghị hình thức "da beo" tức là mỗi bên tập trung quân vào những vị trí nhất định, xen lẫn bên nhau như những đốm da beọ VNDCCH muốn hai bên tập trung quân vào hai miền riêng biệt, tạm thời ngăn cách bởi một đường giới tuyến. Kết quả: Pháp đồng ý ngay vì theo đề nghị này, quân đội Pháp sẽ được an toàn hơn.[1]
    3. Về thời hạn Pháp rút quân khỏi miền Bắc: phái đoàn Pháp đề nghị một năm, VNDCCH đòi rút nhanh trong vòng ba tháng. Cuối cùng, Molotov chọn thời hạn 300 ngày, sát với đề nghị của Pháp hơn.
    4. Về lằn giới tuyến giữa hai miền: Từ đầu đến cuối, Pháp giữ nguyên lập trường chia đôi Việt Nam ở vĩ tuyến 18. VNDCCH lúc đầu đòi cắt ở vĩ tuyến 13 (giữa Qui Nhơn và Nha Trang), sau khi bị Chu Ân Lai "thuyết phục" thì chịu lùi lên vĩ tuyến 16. Rốt cuộc, giải pháp dung hòa là vĩ tuyến 17.
    5. Về thời hạn tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước: VNDCCH đòi thực hiện ba tháng sau ngày ký thỏa hiệp, rồi tăng lên sáu tháng. Pháp muốn để ngỏ ngày tổng tuyển cử cho hai chính phủ Nam, Bắùc thảo luận saụ Molotov đề nghị 18 tháng nhưng cuối cùng lại quyết định là hai năm.
    Ngoài ra, còn phải nhắc đến một nhượng bộ quan trọng của phái đoàn VNDCCH về trường hợp Cam-bốt và Lào, cũng lại do việc Chu Ân Lai đã thỏa thuận riêng với Pháp. Lập trường của Phạm Văn Đồng là phải cóù một thỏa hiệp chung về ba nước Đông Dương, theo đó Cam-bốt và Lào đều có những vùng dành riêng cho bộ đội du kích của mỗi nước. Chu Ân Lai đồng ý với Pháp tách rời trường hợp của mỗi nước và yêu cầu VNDCCH không nên can thiệp vào vấn đề của hai nước lân bang.
    Theo thỏa hiệp ký ngày 21 tháng Bảy với Cam-bốt và Lào, VNDCCH đồng ý rút hết quân ra khỏi hai nước này. Vì Cam-bốt và Lào đã trở thành những quốc gia trung lập, các bộ đội Issarak (Cam-bốt) và Pathet Lào sẽ được sát nhập vào quân đội Hoàng gia ở hai nước. Riêng tại Lào, Pháp được giữ lại hai căn cứ và một số huấn luyện viên quân sự.
    Điểm yêu cầu duy nhất của VNDCCH không cần phải bàn cãi và được Pháp đồng ý mau chóng là đề nghị thiết lập giới tuyến quân sự, đưa đến việc chia đôi đất nước. Ngày 25.5, Phạm Văn Đồng nêu ý kiến nên lập "những vùng lớn" có phân chia giới tuyến thay vì áp dụng hình thức "da beo" của Pháp. Ý kiến này được trình bày cụ thể trong phiên họp ngày 9 tháng Sáu. "Tạ Quang Bửu đi thẳng vào vấn đề. Ông ta thình lình mở một tấm bản đồ Đông Dương, long trọng đặt bàn tay lên vùng châu thổ sông Hồng Hà và tuyên bố: "Chúng tôi phải có chỗ này. . . Chúng tôi phải có một Nhà nước, phải có một thủ đô cho Nhà nước của chúng tôi, phải có một hải cảng cho thủ đô của chúng tôi." Delteil và Brébisson đều ngạc nhiên và toan hỏi xem ông Bửu có thể nói rõ hơn chăng? Cử chỉ của ông. . . miền Bắc . . . một thủ độ . . một hải cảng. . . Điều đó có nghĩa như thế nào? Chỉ có Bắc kỳ thôi? Hà Nội và Hải Phòng, không có miền Trung hay miền Nam?" Ông Bửu cắt ngang cuộc thảo luận, nhấn mạnh vào lợi điểm của thủ tục kín đáo và song phương, về những điều bất tiện của một hội nghị với chín phe tham dự và về tính chất bí mật của những cuộc đàm phán."[1]
    Dụng ý của phái đoàn Phạm Văn Đồng là muốn cho VNDCCH, thay vì chỉ là một chính phủ của quân du kích trong rừng núi, phải có danh nghĩa đối với quốc tế là một Nhà nước có lãnh thổ, có chủ quyền, có thủ đô và cửa biển giao thương với thế giới. Đề nghị phân chia giới tuyến là một điều hoàn toàn bất ngờ đối với phái đoàn Pháp khiến cho họ rất đỗi vui mừng. Về điểm này, Bộ trưởng các Quốc gia Liên kết Fréderic-Dupont nhận xét:
    Về vấn đề thống nhất, ta cần phải biết rằng từ ngữ "thống nhất" có một âm vang mạnh mẽ với cả hai phe ở Việt Nam. Đó là lý do tại sao cả hai phái đoàn, vì mục tiêu bầu cử, đều chụp lấy ý kiến ấy để bên này tố cáo bên kia là muốn chia cắt đất nước.
    Chính vì nỗi lo ngại đó mà Bộ trưởng Quốc phòng ********* mạnh mẽ đòi hỏi là chuyện thương thuyết phải được giữ bí mật. Chính vì thế mà ông ta lo sợ bị tiết lộ rằng chính ông đã đề nghị việc chia vùng. . . Việc thông báo này của tôi không phải để làm hài lòng Thủ tuớng (Mendès France) rằng chính ********* đã đưa ra sáng kiến chia làm hai vùng trong bản hiệp định đình chiến. Họ biết rất rõ là họ có thể gặp khó khăn về chuyện bầu cử là họ đã bỏ rơi Nam Kỳ.[1]
    Việc các nhà thương thuyết ********* muốn tranh thủ cho VNDCCH danh nghĩa chính thức của một quốc gia và một chính phủ trước mắt quốc tế là một điều dễ hiểu, nhưng họ đòi phải giữ bí mật vì lo ngại bị kết tội là chủ trương chia đôi đất nước và khó giải thích tại sao lại đề nghị như vậy. Tuy nhiên, trái với nhận xét của Frédéric-Dupont, VNDCCH không sợ gặp khó khăn về bầu cử vì họ muốn sớm có bầu cử và tin chắc rằng họ sẽ thắng thế trong cuộc bầu cử.
    CUỘC kháng chiến chống Pháp thành công do ********* lãnh đạo đã chứng tỏ truyền thống bất khuất của dân tộc Việt Nam quyết chống lại mọi sự đô hộ của ngoại bang đểø giành lại quyền tự chủ. Trong suốt tám năm trời kháng chiến, các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam, dưới danh nghĩa mặt trận ********* và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, luôn luôn nêu cao mục tiêu tranh đấu cho độc lập, tự do, và giải phóng dân tộc ra khỏi chế độ cai trị bóc lột tàn ác của đế quốc thực dân. Đó là chính nghĩa đã lôi cuốn được đông đảo nhân dân, quân đội và cán bộ hết lòng chiến đấu, chịu đựng bao nỗi gian lao, hi sinh bao nhiêu của cải và xương máu cho công cuộc cứu nước. Trong suốt tám năm lãnh đạo kháng chiến, đối với quốc dân, chính phủ và mặt trận ********* không hề có một lời tuyên bố hay một bản hiệu triệu nào nói đến chủ nghĩa Mác-Lênin hay chế độ cộng sản như một lý tưởng hướng dẫn nhân dân chống Pháp. Đảng cộng sản, dưới tên "đảng Lao động", không khi nào ra mặt công khai điều động cuộc kháng chiến. Chính quyền dân chủ cộng hòa được chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa là "chính quyền dân chủ của nhân dân, nghĩa là của công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc và các thân sĩ (địa chủ) yêu nước, tiến bộ."[1] Mãi đến năm 1953, khi luật cải cách ruộng đất được ban hành và chiến dịch tố khổ địa chủ, khủng bố trí thức được chính thức thực hiện ở một số địa phương, nhân dân và cán bộ mới bắt đầu hiểu biết và có kinh nghiệm sống về chủ nghĩa cộng sản.
    Như vậy, thắng lợi của kháng chiến chống Pháp chính là thắng lợi của các tầng lớp nhân dân đã chiến đấu vì nền độc lập của dân tộc chứ không phải vì chủ nghĩa cộng sản quốc tế. Công bằng mà nói, thắng lợi này đạt được chính là nhờ sự điều động của đảng cộng sản ở đàng sau mặt trận *********, với những ưu điểm về tổ chức và tinh thần kỷ luật, lý tưởng cách mạng, kỹ thuật chiến tranh nhân dân, nghệ thuật tuyên truyền và nhất là sức mạnh lôi cuốn quần chúng của Hồ Chí Minh qua hình ảnh của một nhà cách mạng một lòng vì dân vì nước, đã tranh đấu gian nan ở hải ngoại trong suốt mấy chục năm. Chiến tranh chống Pháp là một cuộc chiến tranh có chính nghĩa và ********* đã giành được chính nghĩa đó.
    Nhưng như đã thấy, kết quả của hội nghị Genève chỉ là những bản thỏa hiệp về ngưng bắn ở ba nước Đông Dương đúng với sự mong muốn của Pháp. Cam-bốt và Lào trở thành những quốc gia trung lập và bộ đội ********* phải rút hết về nước. Riêng Việt Nam bị cắt làm đôi dưới hai chính thể hoàn toàn đối lập để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh khác còn lâu dài và khốc liệt nhiều hơn nữa. Việc ********************** phải nhờ cậy sự giúp đỡ của Trung Quốc trong cuộc chiến chống Pháp cũng tạo thành một món nợ lớn khiến cho cả nước bị mắc kẹt trong lâu dài và phải trả bằng những giá quá đắt, từ việc phải rập khuôn mô hình cải cách ruộng đất "long trời lở đất",ø "chỉnh huấn trí thức" và "trăm hoa đua nở" trong thập kỷ 1950. Hơn tám năm chiến tranh đã làm cho miền Bắc phải chịu những thiệt hại to lớn về nhân mạng, tài sản và lợi ích dân tộc để chỉ đạt được một thắng lợi hạn chế do sự ép buộc của chính đồng minh của mình. Tiếp đến cuộc chiến hai mươi năm tại miền Nam, Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam còn phải mắc nợ Trung Quốc nhiều hơn nữa. Sau khi thống nhất đất nước, những cố gắng của Việt Nam tách ra khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc, đi theo Liên Xô và tấn công Khờ-me Đỏ đã đưa đến chiến tranh biên giới đầu năm 1979, khiến cho mối đe dọa quân sự và kinh tế từ phương Bắc càng trở nên trầm trọng. Năm 1991, trước nguy cơ bị lôi cuốn theo sự sụp đổ của Liên Xô và các nước cộng sản Đông Âu, hai nước lại giao hảo với nhau nhưng chỉ còn là đồng chí chứ không phải là đồng minh. Việt Nam đã phải chứng tỏ thiện chí với Trung Quốc nhiều hơn trong khi chập chững theo sau những bước đổi mới của Trung Quốc. Đối với Việt Nam ngày nay, mối đe dọa của Trung Quốc về quân sự tạm thời ẩn khuất nhưng sự lấn át về kinh tế đang diễn ra rất đáng lo ngại.

Chia sẻ trang này