1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tổng kết các giai đoạn Lịch sử Việt nam trong thế kỷ 20

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Dilac, 28/10/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Cái gì thế. Bộ Tư lệnh chiến dịch Quảng Trị do trung tướng Trần Quý Hai đứng đầu cơ mà.
  2. ngac_ngoai_van_con_them

    ngac_ngoai_van_con_them Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/01/2003
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    - gửi dilac : bạn viết về LS cuộc kháng chiến chống Mỹ, đâu có đả động gì đến nội bộ CT mà phải lo.
    - gửi Trường Sơn : Trần Quý Hai lúc đó là thiếu tướng. Bộ tư lệnh B5 lúc đó gồm có : tư lệnh thiếu tướng Trần Quý Hai, phó tư lênh thiếu tướng Cao Văn Khánh, chính ủy trung tướng Song Hào. Cuối chiến dịch, thiếu tướng Trần Quý Hai yếu trở về miền Bắc, thiếu tướng Lê Trọng Tấn vào thay.Còn tướng Văn Tiến Dũng (thượng tướng lúc đó) có vào thị sát, nhưng hình như là sau hiệp định Pari mới vào.
    =====
    ôi ! kẻ bị nhồi sọ thù hận lại hay ra rả "các anh bị nhồi sọ"
    trong cuộc đấu với các thế lực thù địch, chúng ta - đại diện cho chính nghĩa - nhất định thắng.
  3. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    1968 - 1972: Những cuộc trải nghiệm đẫm máu
    Sau Mậu Thân, phía Quân Giải phóng đã gánh chịu những thiệt hại nặng nề, khoảng 50% quân số trong đó hầu như tất cả các lực lượng Miền Nam, các đơn vị thiện chiến nhất trưởng thành trong giai đoạn 64-68 đã không còn. Hệ thống cơ sở bí mật lót ổ ở tất cả các đô thị và vùng giáp ranh bị bóc trắng. Các đơn vị chiến đầu phải nhanh chóng bổ sung quân số từ những thanh niên miền Bắc mới tòng quân và huấn luyện chưa đến nơi đến chốn. Họ lùi sâu vào rừng núi, vùng đứng chân tại một số nơi thuộc lãnh thổ Laos, Campodge.
    Chính phủ Mỹ sau cơn choáng váng Mậu thân cũng tê liệt ý đồ kéo dài cuộc chiến. Dân Mỹ sôi sục xuống đường đấu thanh vì hoà bình đã khiến cho chính phủ Mỹ nghiến răng đi tìm một lối thoát trong danh dự và chấp nhận ngồi vào hoà đàm tại Paris.
    Chính phủ Richard Nixon thắng cử với lời hứa chấm dứt chiến tranh, tìm ra con đường ra đi danh dự. Thế nhưng những thiệt hại của đối phương và hoàn cảnh quốc tế biến chuyển đã làm cho Washington bừng lên những hy vọng mới trong nỗ lực chia cắt đất nước của người Việt.
    Đất nước Trung hoa giờ đây đã chìm trong tiếng hô khẩu hiệu của đám Hồng vệ binh khiến cả nước tiêu điều. Quan hệ Xô Trung đã căng thẳng đến mức một mất một còn, khiến Trung Hoa bắt đầu loé lên ý tưởng "kẻ thù của kẻ thù là bạn...", và bí mật thò bàn tay về phía chú Sam.
    Quân đội Sài gòn, về nội bộ Thiệu đã "nhờ" đối phương triệt hạ triệt để các đối thủ cạnh tranh và độc nắm quyền lực, nghênh ngang "tái chiếm" và "bình định", thực thi các chiến dịch "Phượng Hoàng" thanh lọc tàn bạo vùng nông thôn, ngoại ô thành thị theo kiểu bắn lầm hơn bỏ sót. Kết quả là ban đầu các vùng bình định đúng là có yên ắng hơn, tuy nhiên các hành động thái quá đã lợi bất cập hại. Việc cho phép CIA cưỡi trên pháp luật đã mở ra một quá trình tha hóa tổ chức và guồng máy. Các tướng lãnh quân đội Sài gòn, cảnh sát và quan chức chính quyền dân sự đã tha hồ chia chác viện trợ, vơ vét tài nguyên, độc quyền bóp méo nền kinh tế. Đời sống ngày càng sa sút, lòng dân bất ổn và chán nản tệ tham nhũng thối nát, binh sỹ chán ngán. Xã hội Sài gòn hoàn toàn thể hiện một sự phồn vinh giả tạo. Sự tha hóa và sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa đang trở thành con đường tất yếu.
    Tuy nhiên, cái thắng lợi giả tạo ấy đã tạo ra một tâm lý chủ quan tai hại cho chính quyền Mỹ. Họ thấy rằng, với tình hình hiện tại sẽ lập tức làm ngay hai việc: Một là có thể hiện đại nhanh chóng quân đội Sài gòn để ?othay màu da cho xác chết?, và người Mỹ có rút đi thì cái đê ngăn lũ cộng sản vẫn vững chắc. Hai là, mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông dương. Việc xua lực lượng đánh vào vùng K (chiến khu của MTDTGP trên đất Campodge) sẽ khiến cho phe đối phương sức cùng lực kiệt.
    Ngày 30.4.1970, các sư đoàn Mỹ và Sài gòn dưới sự dọn đường của những trận mưa B52 đã tràn sang Campodge. Chính quyền Sihanuc bị tướng Lonnon thân Mỹ lật đổ. Lập tức người Mỹ gặt được ba thành quả ?otuyệt hảo?
    Chính quyền Sihanuc, một chính quyền thân Trung hoa, vốn không hoàn toàn dành quyền sử dụng tối đa lãnh thổ cho phe MTDTGP và dưới sự chỉ đạo của Peking, trở thành thứ chiết áp hữu hiệu ?" Thì nay mất tác dụng. Tướng Lonnon quá yếu thế không đủ lực kiểm soát tình hình. Phe Cộng sản được dùng lãnh thổ Campodge làm bàn đạp một cách tối đa.
    Các đơn vị Liên quân Mỹ- Sài gòn vốn không quen với rừng rậm bưng biền đã bị đánh tiêu hao, thiệt hại nặng dẫn đến thui chột ý chí, đánh mất niềm tin đã giành được sau Mậu thân.
    Dân chúng Mỹ một phen lại nhìn thấy R.Nixon cũng không khác gì kẻ tiền nhiệm, lại cùng nắm tay nhau xuống đường chống chiến tranh.
    Lần này, chính người Mỹ đã giúp đối phương kiếm lại lợi thế, nhanh chóng hồi phục, và đẩy cuộc chiến vào tầm tàn khốc mới. Sau đúng 1 tháng, Mỹ buộc phải hạ lệnh rút quân Quân Nam Việt Nam cùng quân của chính phủ Lon Nol không thể đương đầu một mình với Quân Giải phóng. Các sư đoàn 5, 7, 9 của Quân Giải phóng không những đánh quân đội Sài gòn tháo chạy, mà còn giúp Khmer đỏ đánh quân Lonnon tan tác, một loạt các tỉnh đông và đông bắc Campodge rơi vào tay họ, nối thông hành lang với Lào.
    Quân đội Sài gòn chỉ trong vòng 1 năm tăng lên 1 triệu người, trang bị tận răng, được sự giúp đỡ của hoả lực Mỹ đang tác oai tác quái bỗng nhiên sụm lại. Cái cảm giác vô dụng đã làm cho chính quyền Sài gòn mộng mị, cố tìm kiếm lấy một sự kiện đối trọng để tránh cảm giác sượng sùng trước quan thầy.
    Tháng 1 năm 1971, Các lực lượng tinh nhuệ nhất của Quân đội Sài gòn gồm hai sư đoàn: sư đoàn thủy quân lục chiến và sư đoàn tác chiến trên không rầm rộ theo trục đường 9 nhằm Hạ Lào thẳng tiến với đỉnh Sepon làm đích. Họ vẫn quá chủ quan vì tin tưởng rằng sau Mậu Thân, họ sẽ chỉ phải đối đầu với một nhúm quân CS, trên một địa hình nhiều núi trọc đảm bảo cho sự iểm trợ bằng không lực và sức cơ động của chiến xa. Mặt khác, với các cơn bão lửa từ B52 và hàng đàn cán gáo của Mỹ hỗ trợ tối đa việc trực thăng vận, tổng thống Thiệu cho rằng đây chỉ là một cuộc dạo mát.
    Than ôi, B52 của Mỹ hoặc bị sự nghi binh của đối phương khiến vô hiệu hoá, hoặc tiến hành oanh kích tại những trọng điểm đối phương đã biết trước. Tệ hại hơn, chiến thuật bám sát của CS và việc không thể ném bom gần vị trí hành quân đã khiến cho hàng ngàn tấn bom đạn đã không đem lại kết quả như ý.
    Lực lượng trực thăng ngay từ đầu đã bị lưới lửa phòng không, đặc biệt với những tên lửa vác vai B72 làm cho điêu đứng. Chỉ với hai tuần tham chiến, người Mỹ đã không còn đủ phi công trực thăng vì hao hụt.
    Kết cục, cuộc dạo mát đã trở thành một cuộc hành quân cố sống cố chết ?osao cho cứ đến được Sepon rồi về?. Nhưng đến đã khó, về còn khó hơn. Chiến dịch kết thúc sau 41 ngày. Con số thương vong cao (khoảng 8.000 người) là một yếu tố làm suy nhược ý chí chiến đấu của quân đội Việt Nam cộng hòa. Đại tá dù Nguyễn Văn Thọ, một biểu tượng của quân đội Sài gòn, đầu cúi gằm trong đam tù binh.
    Chiến dịch này được tờ Newyork Times mô tả vắn tắt với tấm hình một người lính Sài gòn đu bám càng trực thăng tháo chạy với một dòng tựa ?orabbit!?- điều này nói lên sự thâm thuý đầy ý nghĩa cũng như sự vinh danh của người Mỹ dành cho hàng ngũ đánh thuê của mình khi đó.
    Lam Sơn 719 đã đánh tan niềm hy vọng cuối cùng của Mỹ cố bấu víu cuộc chiến. Ý chí của người Mỹ đang lung lay, giờ quyết định của sự ra đi đã điểm. Sự nóng vội tạo thêm những cú thúc mới vào nội bộ nước Mỹ. Sự chủ quan vì đã giành lại thế chủ động, cộng với việc những tân binh chưa kinh qua trận mạc, huấn luyện còn thiếu kỹ càng đang chiếm số đông trong các sư đoàn Bắc Việt, một lần nữa đã khiến cho năm 1972 trở thành một cơn ác mộng đẫm máu trong thế kỳ XX.
    (Còn tiếp)
  4. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Chiến dịch Nguyễn Huệ.
    An Lộc, thị xã Bình Long là một địa đanh hết sức đặc biệt. Nó gần với Sài gòn nên nếu bị mất lập tức cái gọi là thủ đô của TT Thiệu sẽ bị uy hiếp trực tiếp. Nó gần với Campogde, nơi xuất phát của đầu mối cung ứng hậu cần thuận lợi xuống Đông và Tây Nam Bộ. Địa hình trung du, lúp xúp cây cối dễ dấu quân và có thể sử dụng đòn đột kích bằng thiết giáp. Vì vậy, nếu nhanh chóng đánh chiếm được An Lộc sẽ khiến quân đội Sài gòn rúng động phải liều mình phản kích, đương nhiên sẽ vừa thu hút quân số trừ bị chiến lược, vừa để hở những mặt trận khác. Hơn nữa, các sư đoàn 5, sư đoàn 25 và sư đoàn 18 của Sài gòn là những sư đoàn rất trung thành với Thiệu, nếu lực lượng này bị tiêu diệt thì không những là một thắng lợi quân sự mà còn có cả ý nghĩa chính trị. Vì vậy, đòn chiến dịch ?oNguyễn Huệ? là đòn vừa có ý nghĩa nghi binh chiến lược, nhưng cũng có thể dễ dàng chuyển hư thành thực, đã trở thành tâm điểm đầu tiên.
    Trận đánh mở màn diễn ra vào 4.4.1972, chi khu Lộc Ninh, cái chốt án ngữ tiền tiêu bị tiêu diệt bất ngờ, khiến cho phía Sài gòn 7.4.1972 phải điều động hơn 9 tiểu đoàn đi giải toả. Lực lượng này đã không đi đến đích và cũng không thấy trở về.
    16.4.1972, sự đột kích bất ngờ của hàng chục chiến xa T54, PT76 xuyên thủng vòng ngoài, khống chế sân bay. Chiến đoàn 52 Sài gòn đã bị tập kích trên đường cứu viện và thiệt hại hầu hết quân số. Tuy nhiên, do sự phối hợp không tốt giữa thiết giáp và bộ binh tùng thiết, lại bị không quân oanh kích, lực lượng thiết giáp của Quân Giải phóng cũng bị bắn hỏng bắn cháy đa số trên đường tiến công. Chính vì lí do đó, thị xã Bình Long đã không bị tràn ngập. Một bộ phận lực lượng Sài gòn đã chống cự một cách quyết liệt trong tuyệt vọng.
    Việc không dứt điểm được thị xã theo kế hoạch đã làm cho Quân Giải phóng đánh mất thế chủ động. Bản thân Mỹ và Sài gòn trước nguy cơ đánh mất vị trí chiến lược này đã tập trung một lực lượng lớn không quân, kể cả B52 và pháo binh bắn phá vô cùng ác liệt. Đồng thời tập trung tiếp tế hàng không cho số quân còn đang chiếm giữ trung tâm thị xã. Quân Giải Phóng do đã bị lộ diện nên phải trân mình gánh chịu hoả lực, đương nhiên chịu thiệt hại rất nặng. Bản thân họ cũng không thiết lập được khả năng phòng không cần thiết để ngăn chặn viện binh. Dân chúng An Lộc cũng bị tàn sát không thương tiếc trong cơn bão lửa này. Kết quả là phe phòng thủ được tăng cường, tiếp thêm tinh thần để lao vào một cuộc phản kích dữ dội. Cuộc chiến đã diễn ra từng gốc cây, góc phố, máu của cả hai phe đã thấm đẫm từng viên gạch của cái thị xã đổ nát bé nhỏ.
    Cách thị xã khoảng non năm chục Km, trên trục lộ 13 dưới iểm trợ hoả lực tối đa của Mỹ, 4 sư đoàn Sài gòn thay nhau lần dũi một con đường máu về phía An Lộc. Nhưng suốt 80 ngày đêm giành giật, bức tường lửa của một sư đoàn Quân Giải phóng (công trường 9) phòng ngự vẫn không suy suyển.
    Sau 180 ngày đêm, với sự thiệt hại khoảng 9 ngàn nhân mạng chia tương đối đồng đều cho mỗi bên, Cuối tháng 7.1972, Đột ngột như lúc khởi đầu, phe tấn công biến mất vào những cánh rừng lân cận phía biên giới. Cuộc chiến kết thúc. Chính quyền Sài gòn tổ chức khoa trương chiến thắng rầm rộ, thậm chí họ còn đem trưng mươi cái T54 như một chiến tích lẫy lừng tại Sài gòn. Mặc dù sau đó một loạt các tiền đồn cảnh giới đã không sao thiết lập lại được, và An Lộc cũng trở thành cơn ác mộng với những người lính làm nhiệm vụ chốt giữ. Xem lại, chỉ có dân thường là thiệt hại nặng, có tới khoảng 13 000 chết, hàng chục ngàn người khác đã không còn chốn dung thân.
    Phe Giải phóng im lặng và cho rằng, họ cũng đã giải quyết tốt nhiệm vụ thử nghiệm chiến lược và nghi binh, đã giam chân đáng kể một lực lượng mạnh ở đây để làm giảm áp lực cho các nơi khác, một bộ phận sinh lực quan trọng của đối phương bị hao tổn, tất nhiên, ngoại trừ những bài học đắt giá cho việc sử dụng lực lượng thiết giáp bị xé lẻ trong hoàn cảnh đối phương làm chủ bầu trời.
  5. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Có một bài ở báo Quân đội nhân dân ngày 22 tháng 04 năm 2005 cũng khá hay, tôi chép lại để mọi người tham khảo.
    Những kẻ có tội với nhân dân
    Trong chiến tranh, điều đáng sợ hơn cả đạn pháo của đối phương là sự khủng hoảng tâm lý. Chỉ cần một vài binh sĩ bị dao động sẽ kéo theo sự dao động của toàn đơn vị và tiếp đó là sự sụp đổ của cả một mặt trận.
    Chiến tranh Việt Nam cũng vậy. Sau khi Mỹ rút quân, quân đội Sài Gòn vẫn là một đội quân có lực lượng rất mạnh với hơn 1,1 triệu người. Nhưng đội quân này đã thảm bại chỉ trong vòng có hơn một tháng rưỡi trước sự tấn công của Quân giải phóng.
    Nỗi sợ hãi trùm lên toàn bộ quân đội ngụy Sài Gòn cũng như xã hội miền Nam sau khi quân Mỹ rút đi. Những đơn vị quân Sài Gòn được thành lập vội vã không có một chút lý tưởng hay ý chí chiến đấu nào cả. Một số sĩ quan còn tương đối có trách nhiệm thì lại tỏ ra kính trọng Hồ Chí Minh. Quân đội ngụy Sài Gòn không biết mình phải trung thành với ai, phải hy sinh vì ai và đâu là chính nghĩa.
    Sĩ quan, binh lính Sài Gòn vẫn không làm sao để quên được sự nhốn nháo trong chính trường Sài Gòn. Từ năm 1964 đến năm 1965, liên tiếp nổ ra 7 cuộc đảo chính. Những vụ đảo chính xảy ra vụ nọ nối vụ kia cho đến khi Tổng thống Thiệu lên nắm quyền vào năm 1967. Nhưng có một điều vẫn không hề thay đổi là năng lực yếu kém của các nhà lãnh đạo Sài Gòn. Tất cả họ đều không được coi là hợp pháp dù cho lên nắm quyền nhờ sự hậu thuẫn của Mỹ hay bằng đảo chính. Tất cả những nhà lãnh đạo của Sài Gòn chỉ biết đến quyền lực và tiền bạc mà thôi. Trong hoàn cảnh hỗn loạn trên đường phố Sài Gòn, các nhà lãnh đạo của chính quyền vẫn chỉ chú tâm cốt sao cho kiếm được nhiều tiền. Sự tham nhũng của họ đã vượt ra ngoài sức tưởng tượng của con người. Có khi 500 nghìn tấn gạo cũng bị thất thoát. Sư đoàn trưởng sư đoàn 2 còn bị gọi là ?otướng ăn trộm?. 70% số phân bón Mỹ viện trợ cho miền Nam Việt Nam bị thất thoát và nó bị đem bán trên thị trường với giá gấp 2 lần cho nông dân. Nhu yếu phẩm của quân đội cũng bị thất thoát đáng kể. Thậm chí 143 tàu tuần tiễu và tàu đổ bộ của hải quân đã biến mất không rõ tung tích. Theo hồi ký của Nguyễn Cao Kỳ, chính quyền Thiệu đã sử dụng sai hoặc bỏ túi tới 200 triệu đô-la trong số tiền viện trợ của Mỹ. Trong nhiệm kỳ của mình, Thiệu đã gửi ra nước ngoài 71 tấn hàng và một tuần trước khi Sài Gòn thất thủ, ông ta đã từ chức tổng thống và chuồn ra nước ngoài với những túi xách lèn chặt đô-la.
    Việc quân đội ngụy Sài Gòn duy trì được sức chiến đấu trong thời gian trước đó hoàn toàn nhờ vào sự trợ giúp ồ ạt của quân Mỹ. Nhưng bỗng nhiên quân Mỹ, người vẫn ra lệnh cho họ biến mất. Và thế là giới lãnh đạo quân đội không thể thống nhất được với nhau trong chỉ huy chiến đấu.
    Ngược lại, Quân giải phóng tràn đầy tinh thần chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc. Quân giải phóng là quân đội tràn đầy tinh thần tất thắng. Khi Quân giải phóng bắt đầu tấn công trực diện quân đội ngụy Sài Gòn thì Tổng thống Ních-xơn đang phải đối phó với nguy cơ phải từ chức giữa nhiệm kỳ do vụ Oa-tơ-ghết. Quân giải phóng đã quyết định lấy ngày 1-4-1975 làm ngày bắt đầu mở cuộc tiến công. Sài Gòn thất thủ chỉ trong vòng có 30 ngày, nhanh ngoài sức tưởng tượng của họ.
    Mặt trận miền Nam bị vỡ bắt đầu từ Quân đoàn 2. Quân giải phóng chỉ mất có một ngày để chiếm Buôn Ma Thuột ở miền Trung. Tổng thống Thiệu đã ra lệnh cho Tư lệnh Quân đoàn 1 từ bỏ vùng cao nguyên phía bắc, rút lui về phòng thủ Đà Nẵng và ra lệnh cho Tư lệnh Quân đoàn 2 rút toàn bộ đơn vị ra hướng biển và tái chiếm Buôn Ma Thuột. Nhưng mệnh lệnh này rút cuộc đã làm tan rã cả Quân đoàn 1 và Quân đoàn 2.
    Dù không như vậy thì quân đội Sài Gòn cũng bị dao động mạnh khi chứng kiến chỉ huy của họ lấy cớ là lui quân về tuyến phòng thủ nhưng thực ra là đưa gia đình chạy trốn. Những người tị nạn bị khiếp sợ bởi những lời đồn đại tràn ngập khắp các con đường rút lui.
    Đoán được ý đồ rút lui của quân ngụy Sài Gòn, Quân giải phóng đã đồng loạt triển khai các cuộc tấn công trên các tuyến đường rút lui. Những cuộc tấn công như vậy đã biến quốc lộ 7 thành một địa ngục trần gian cho những binh lính rút lui. Đây không còn là một cuộc rút lui nữa mà đã biến thành một cuộc tháo chạy mạnh ai người ấy sống. Chỉ có 10 nghìn quân của Quân đoàn 2 là tìm đến được Tuy Hòa. Tuy nhiên chúng đã trở thành một đội quân ô hợp không có người chỉ huy. Những đơn vị phòng ngự dọc theo bờ biển cũng liên tiếp tan vỡ. Đến ngày 2-4, toàn bộ khu vực miền Trung bao gồm Quy Nhơn, Nha Trang, Tuy Hòa được Quân giải phóng kiểm soát.
    Vận mệnh Quân đoàn 1 ngụy cũng không khá hơn gì nhiều. Quân đoàn 1 đã bị cô lập ở phía bắc do vùng duyên hải đã bị mất. Đã thế binh lính ngụy Sài Gòn, những người vốn luôn nghĩ rằng mình sẽ thất bại, càng khiếp sợ hơn khi được tin toàn bộ khu vực miền Trung đã thất thủ. Ngày 19-3, Quân đoàn 1 đã tự động tan rã và chạy trốn lẫn vào những người dân thường tị nạn theo hướng Huế, Đà Nẵng khi một đại đội đi đầu của Quân giải phóng xuất hiện. Quốc lộ 1 bị tắc nghẽn bởi 150 nghìn quân và những người dân tị nạn.
    Chỉ một tuần sau khi tiếp nhận quyền lực, Trần Văn Hương đã chuyển giao chức vụ Tổng thống cho Dương Văn Minh. Điều làm cho tình hình của Sài Gòn trở nên bi thảm hơn là việc tướng Viên, Tổng Tham mưu trưởng, người có trách nhiệm phòng thủ Sài Gòn, đã bỏ binh lính lại trong trận đánh cuối cùng, thay quần áo dân sự và lên tàu của hải quân Mỹ chạy trốn.
    Thủ tướng Kỳ than rằng, sao kết thúc lại đến nhanh vậy. Quân giải phóng đã chiếm được Vũng Tàu, thành phố nằm gần Sài Gòn. Khi ánh bình minh ló rạng trong làn khói thuốc súng, thủ tướng Kỳ cùng trợ lý Bộ Quốc phòng Mỹ, cố vấn quân sự Sti-ven-sơn chỉ còn cách chứng kiến quang cảnh này trong im lặng. Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ đã trách Mỹ và cho rằng Mỹ đã thua trận ở Việt Nam vì không hiểu gì về tính cách, hoàn cảnh địa lý, truyền thống và lịch sử của Việt Nam. Nhưng không phải chỉ có Mỹ mà ngay cả giới lãnh đạo chính quyền ngụy Sài Gòn cũng vậy. Tối mắt vì tiền, họ đã bỏ qua khát vọng của chính dân tộc mình.
    Trưa ngày 30-4-1975, Tổng thống Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện qua làn sóng phát thanh. Nhưng không có một chỉ huy quân đội nào để truyền đạt mệnh lệnh đầu hàng đến cho các đơn vị chiến đấu. Vì vậy vào lúc đó, một chuẩn tướng của quân đội Sài Gòn đã ra lệnh đầu hàng cho toàn bộ các đơn vị quân đội Sài Gòn. Nhưng viên tướng đó lại là một người được ********* cài cắm vào nội các Sài Gòn vào thời điểm quyết định.
    Đúng vào lúc viên tướng ra lệnh cho quân đội ngụy đầu hàng thì xe tăng của Quân giải phóng đã vượt qua lính phòng thủ Sài Gòn, tiến về hướng dinh Độc Lập theo sự hướng dẫn của một nữ du kích. Một chiếc xe tăng húc đổ cánh cổng, lao vào dinh, hạ cờ của chính quyền ngụy xuống và treo cờ của Chính phủ cách mạng lâm thời lên. Thời điểm kết thúc của cuộc chiến tranh Việt Nam đã điểm. Bắc-Nam thống nhất. Các vị thần đã phân xử cho cuộc chiến mà bên chính nghĩa nhất định thắng.
    Sân bay Tân Sơn Nhất đông nghẹt quan chức, sĩ quan quân đội ngụy Sài Gòn hy vọng được lên chuyến cuối. Trong tổng số một triệu người đang tìm cách chạy trốn bằng đường biển, đã có 50 nghìn người bị chết đuối. Những người cố sống cố chết để chạy trốn này là những người trong thâm tâm cảm thấy có tội với lịch sử, có tội với nhân dân.

  6. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Đắc Tô, điểm nóng thứ hai, địa bàn do sư đoàn Bộ binh 22, viên tư lệnh Lê Đức Đạt chiếm giữ đã nhanh chóng bị thất thủ, tạo ra một lỗ hổng lớn vùng bắc Kontum.
    Ngay từ những ngày đầu năm 1972, toàn cụm phòng ngự Dakto, Tân Cảnh đã bị báo động bởi có dấu hiệu sẽ bị tấn công với binh lực của ba sư đoàn Bắc Việt. Hệ thống thám mã cho rằng sư đoàn này đang phải trở thành mục tiêu của sư 320, sư 2 và một số đơn vị địa phương.
    Phản ứng với tình hình, Mỹ liên tục dùng B52 đánh phá ngăn chặn và thăm dò. Tuy nhiên sức ép vẫn không hề thuyên giảm và đã xảy ra một vài cuộc chạm súng lẻ tẻ, nguy hiểm hơn là những cuộc đột kích chớp nhoáng cỡ đại đội đã khiến cho lực lượng phòng thủ phải co cụm, rút bỏ những đơn vị phân tán và cảnh giới. Thế là cái chết của sư đoàn này đã được gióng chuông.
    Lúc 20 giờ, 11.4.1972, một trận pháo kích dữ dội chưa từng thấy tại khu vực của Pháo 130mm, 122mm và hoả tiễn H12 gần như phá huỷ trung tâm hoả lực Sarlie, do tiểu đoàn 11 dù chốt giữ. Viên Trung tá chỉ huy chết ngay tại trận. Ngay sau khi pháo kích, một trung đoàn CS đã nhanh chóng tấn công xoá sổ tiểu đoàn này. Thế là cái đinh phía tây bắc cụm phòng ngữ đã vị nhổ bỏ sau chưa đầy 3 giờ.
    Ngày 19.4.1972, trong khi nỗ lực chiếm giữ một điểm cao nhằm thiết lập sự kiểm soát toàn khu vực, một tiểu đoàn khác (1/42) đã bị vây cứng, sau 30 giờ, toàn bộ lực lượng đã chịu số phận bị tiêu diệt nếu không đầu hàng. Cùng một lúc, một căn cứ ngoại vi khác là Delta do hai đại đội chốt giữ bị tràn ngập, không một người lính nào chạy thoát. Cụm phòng ngự Dakto đang đến giờ hấp hối. Các đơn vị phòng thủ chu vi được lệnh rút bỏ, com cụm về trung tâm.
    Vào lúc 10 giờ 30 phút sáng 23 tháng 4, một tiếng nổ long trời đã phá hủy phần lớn trung tâm hành quân của Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Phòng truyền tin và quân dụng bị tiêu hủy. Lực lượng CS đã cài răng lược với các đơn vị phòng ngự. Tư lệnh vùng kêu gào dùng B52 giải toả nhưng bị từ chối, Viên chỉ huy cố vấn Mỹ chính thức ra lệnh triệt thoái, bỏ rơi đám đàn em. 21 giờ, cuộc tổng công kích của phe tấn công bắn đầu bằng hàng chục chiếc T54, PT76. Thiết giáp của Quân đội Sài gòn tỏ ra hoàn toàn bất lực và đã trở thành mồi ngon cho pháo tăng 100mm trên xe T54. Lính phòng ngự chỉ còn nghĩ đến việc chạy trốn. Các đơn vị phòng ngự bắt đầu đập bỏ thiết bị thông tin, tự động rời bỏ vị trí. Thiết đoàn M41 hỗ trợ cho căn cứ tháo chạy khỏi Tân cảnh cũng bị chặn đánh dữ dội và hoàn toàn bị xoá sổ.
    Khoảng 06 giờ 30 sáng, phòng tuyến phía Đông Bắc Dakto II bị một tiểu đoàn CS có xe tăng dẫn đầu chọc thủng. Thuật lại giờ phút hãi hùng này, Đại Úy Charles Carden, cố vấn của Trung Đoàn 47 Bộ Binh đã thuật lại như sau:
    ?oKhoảng một tiếng đồng hồ sau khi Tân Cảnh bị tấn công, một trực thăng UH-1 đến Dakto II đón 6 viên cố vấn Hoa Kỳ của Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Chiếc trực thăng này bị trúng đạn phòng không, cháy và rớt ở phía Nam chu vi phòng thủ. Tại khu vực phòng thủ của trung đoàn, chính ông được mục kích 2 chiến xa T-54 địch tiến vào phi trường rồi tách làm hai ngả. Một chiếc tiến về hướng Tây của phi trường, án ngữ lộ trình chuyển quân từ Ben Het về Dakto II. Chiếc kia từ hướng Bắc chạy vào giữa phi trường, tấn công vị trí phòng thủ của Trung Đoàn 47 Bộ Binh.
    Ngay lúc đó, hai xe tăng M-41 thuộc Chi Đoàn 1/14 liền điều động và tác xạ. Mỗi chiến xa M-41 bắn 3 phát đại bác 76 ly vào sườn Tây của chiếc T-54. Lúc ấy tôi (tức Carden) chỉ cách chiến xa địch khoảng 100 thước, nhìn thấy chiếc T-54 bị trúng đạn và bốc khói, nhưng chưa bị hạ. Chiến xa T-54, vỏ thép dày 105 ly, nặng 36 tấn, đã hồi phục mau lẹ rồi quay nòng súng lại bắn hạ một chiến xa M-41 bằng 2 quả đạn 100 ly. Ngay sau đó chiếc T-54 này cũng hạ chiếc M-41 còn lại bằng trái thứ ba. Đây là trận xa chiến cuối cùng tại mặt trận Dakto II. ?o

    Rạng sáng, cuộc tổng công kết thúc, lực lượng phòng thủ còn lại với quân số khoảng 9 tiểu đoàn và hơn ba chục chiến xa M41, M113 đều bị tiêu diệt hoặc bắt sống. Thiếu Tá Vũ Khánh Dư, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 14 Kỵ Binh, đã tử thương ngay tại hàng rào. Đại Tá Lê Đức Đạt, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh, chết trong đám bùng nhùng dây thép gai phòng vệ, giờ đây đã không những không có tác dụng, còn giúp ngăn cản sự tháo lui của những người thất trận.
    Sau đúng hai tuần, một sư đoàn phía Sài gòn coi là rất thiện chiến và 4 tiểu đoàn hỗ trợ với quân số khoảng 2 500 người đã không còn phiên hiệu. Phe tấn công chỉ bị thương vong trên dưới 500 người với mươi chiếc chiến xa bị bắn hỏng đến mức không thể phục hồi. Sau khi mất Tân Cảnh, ngày 25 tháng 4/1972, tướng Ngô Du cho lệnh triệt thoái quân phòng ngự tại các Căn Cứ Hỏa Lực 5 và 6. Trục lộ từ Tân Cảnh về Kontum lúc đó hầu như bị bỏ ngỏ.
  7. dragonboy1080

    dragonboy1080 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/01/2006
    Bài viết:
    5.265
    Đã được thích:
    880
    Tiêu đề cũng như nội dung nguyên xi cuốn ... ơ lại quên tên rồi (mai em sửa) của một trung tướng Nam Hàn đã về hưu, từng là trung đội trưởng thuộc lực lượng Mãnh Hổ.
  8. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Chiến trường Quảng trị. Tâm điểm 1972
    Cuộc tấn công tại An Lộc đang gặp khó khăn, tuy nhiên lại hút hết sự chú ý của Mỹ và chính quyền Sài gòn, làm tê liệt các hoạt động cảnh giới ở các chiến trường khác. Kết cục là Cụm phòng ngự Dakto, một vị trí tiền tiêu rất mạnh với một sư đoàn phòng ngự bị đục bỏ trong vòng 15 ngày.
    Trong khi đó, Quảng trị và Bắc thừa thiên đang tập trung một lực lượng đáng kể, gồm có hai sư đoàn bộ binh (1; 3), hai lữ đoàn lính thủy đánh bộ (147; 258), bốn tiểu đoàn, 94 đại đội bảo an, 302 trung đội dân vệ, 5.100 cảnh sát, 14 tiểu đoàn pháo binh (258 khẩu), ba thiết đoàn (184 xe tăng, thiết giáp), bố trí phòng ngự nhiều tầng nhiều điểm cao, căn cứ được Mỹ dày công xây dựng như Cồn Tiên, Dốc Miếu, Ðộng Ông Do, 241, 544, v.v...tuy rất chặt chẽ nhưng phía Sài Gòn lại tỏ ra thiếu tập trung. Tướng Hoàng Xuân Lãm vẫn chưa hết cơn bàng hoàng sau Lam Sơn 719, bị coi là bất tài và ham vui thú.
    Lực lượng tại chỗ của phe Giải phóng tuy mỏng nhưng sẽ được nhanh chóng gia cường từ phía giới tuyến. Lại nắm được yếu tố bất ngờ, mặt khác, Quảng trị và Bắc Thừa thiên luôn luôn là địa bàn chiến lược đã gìành giật nhiều năm qua. Nếu để mất, không những phe Sài gòn sẽ thiệt hại lớn về binh lực, mà còn tạo ra tâm lí khủng hoảng tạo áp lực nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
    Đây là những nguyên do khiến phe Giải phóng lựa chọn đây là quyết chiến điểm năm 1972 bằng cách bất ngờ tấn công lớn trên cả 4 hướng:
    - Hướng bắc (chủ yếu) sử dụng Sư đoàn 308 (thiếu một trung đoàn) được tăng cường hai trung đoàn bộ binh (48, 27), tiểu đoàn 15 độc lập, hai trung đoàn pháo mặt đất (164, 84), một trung đoàn pháo cao xạ (284), hai tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp, hai tiểu đoàn công binh, một tiểu đoàn đặc công và ba trung đội (hóa học, trinh sát, phun lửa) do Tuớng Phạm Hồng Sơn và Đại tá Hoàng Minh Thi chỉ huy nhằm tiêu diệt trung đoàn 57 và trung đoàn 2 Sài gòn ở các điểm cao 544, Ðồi Tròn, Ðộng Mã, Cồn Tiên sau đó tiến công các mục tiêu ở Quán Ngang, Miếu Bái Sơn và sẵn sàng phát triển ở Hồ Khê, Ðá Bạc, Thiện Xuân, Lăng Cô, Gia Bình...
    - Hướng tây sử dụng Sư đoàn 304, trung đoàn pháo binh 38; bốn trung đoàn pháo cao xạ (230, 232, 241, 280), hai tiểu đoàn tên lửa, một tiểu đoàn xe tăng, một tiểu đoàn công binh do Đại tá Hoàng Ðan, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304 đảm nhiệm tiến công tuyến phòng ngự phía tây ở Ðộng Toàn, Ba Tum, vây ép Ba Hồ, sẵn sàng phối hợp hướng bắc đánh chiếm núi Kiếm, bao vây tiêu diệt các cứ điểm 241, Mai Lộc, Ðầu Mầu, sẵn sàng tiến công tiêu diệt Ái Tử.
    - Hướng nam do Sư đoàn 324 (thiếu một trung đoàn) cùng các đơn vị phối thuộc, phối hợp chặt chẽ với ba tiểu đoàn địa phương Quảng Trị do Tướng Giáp Văn Cương, Phó Tư lệnh và Đại tá Lê Tự Ðồng chỉ huy, có nhiệm vụ tiêu diệt các đơn vị Sài gòn ở nam và bắc sông Thạch Hãn, chủ yếu là khu vực Phượng Hoàng, Ðộng Ông Do và một đoạn đường số 1 bắc sông Mỹ Chánh, thực hiện chia cắt chiến dịch, giải phóng dân cư.
    - Hướng đông (thứ yếu) của chiến dịch, sử dụng tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh, hai tiểu đoàn đặc công (31, 25), một tiểu đoàn vận tải mang vác, bốn đại đội địa phương và Ðoàn đặc công Hải quân 126, do Trung tá Bùi Thúc Dưỡng chỉ huy, đảm nhiệm bao vây Dốc Miếu, Quán Ngang từ phía đông, tiêu diệt căn cứ hải thuyền Cửa Việt, tiêu diệt các đơn vị địa phương quân, xóa bỏ chính quyền Sài gòn các cấp địa phương sở tại.
    Cuối tháng 3-1972, trong khi các đơn vị đối phương đã bí mật áp sát thì Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, Tư lệnh Sư đoàn 3 Sài Gòn trấn giữ bắc Quảng Trị trong báo cáo hằng ngày gửi về Bộ tổng tham mưu và phủ tổng thống vẫn nói "tình hình chiến trường yên ổn, không có gì đặc biệt". Sư đoàn 3 bắt đầu tiến hành thay quân theo kế hoạch.
    10 giờ 30-3-1972, trong khi Trung đoàn 56 SG đang chuẩn bị thay quân ở điểm cao 544 và Ðồi Tròn thị bị đột ngột tiến công. Đơn vị đồn trú này lập tức buông súng đầu hàng. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-3-1972 toàn Mặt trận ầm vang tiếng depa của các cỡ pháo khiến cả bộ tư lệnh phía SG bàng hoàng tê liệt.
    Trên hướng chủ yếu, các Trung đoàn 27, 48 và Trung đoàn 9 (Sư đoàn 304) tiến công điểm cao 544, Ba Hồ, Quất Xá. Sau khi đập tan các cứ điểm kiên cố vòng ngoài, cuộc công kích tiếp tục phát triển hướng Ðầu Mầu, Ðộng Toàn, Ðồi Tròn và bao vây Cồn Tiên, Cam Lộ. Ngày 1-4 tại Thiện Xuân. Hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 56 và một bộ phận thuộc thiết đoàn 11 SG lên ứng cứu cho sở chỉ huy Trung đoàn 56 ở điểm cao 241 bị Tiểu đoàn 15 đối phương chặn đứng và đánh cho thiệt hại nặng. Cuối ngày 3.4, Trung đoàn 56 tại 241 và Lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến ở Mai Lộc bị hoàn toàn xoá sổ.
    Trên hướng phối hợp, Sư đoàn 324 QGP đã đánh chiếm được các điểm cao 365, Ðộng Mô. tiếp tục áp sát bao vây các căn cứ Phượng Hoàng, Ðộng Ông Do, tạo thế uy hiếp La Vang, Quảng Trị từ phía nam.
    Ở hướng vu hồi, từ ngày 30.3, Ðoàn 126 hải quân liên tục tập kích hải đoàn 11 SG trên sông và cảng Cửa Việt. Tiểu đoàn 66 (Trung đoàn 202 xe tăng) cơ động lực lượng vào Vinh Quang Thượng áp sát thị xã Ðông Hà.
    Ngày 26,27,28-4 Sư đoàn 308 tiến công chiếm dãy điểm cao 30, 35, 37, 32, 26 sau đó đánh chiếm căn cứ Ðông Hà, làm chủ khu vực Ðông Hà - Lai Phước.
    Sư đoàn 304 chiếm các điểm cao 22, 23 và phát triển đánh chiếm cầu Quảng Trị. Lữ đoàn 147 cùng Trung đoàn 2 SG ở Ái Tử lập tức triệt thoái nhường Ái Tử cho đối phương. Sau khi Ðông Hà, Ái Tử bị mất, quận lỵ Hải Lăng bị uy hiếp mạnh, phía Sài gòn vội vã rút quân khỏi La Vang - Quảng Trị.
    Sư đoàn 324 thừa thắng tiếp tục truy kích ở khu vực từ Cầu Dài, cầu Bến Ðá đến bắc sông Mỹ Chánh gây cho phe SG rất nhiều thiệt hại, nhiều đại đội rã ngũ trộn lẫn vào dân chúng. 18 giờ ngày 2-5-1972 toàn tỉnh Quảng Trị rơi vào tay phe Giải phóng.
    Trong giai đoạn này, trong khi phe Sài gòn vừa mất người vừa mất đất, khoảng 11 Trung đoàn và Lữ đoàn bị đánh thiệt hại nặng, coi như loại khỏi vòng chiến, thì phe tấn công chỉ mất không quá 2000 thương vong.
    (Còn tiếp)
  9. dragonboy1080

    dragonboy1080 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/01/2006
    Bài viết:
    5.265
    Đã được thích:
    880
    Cho em chen ngang chút xíu! Báo QĐND đạo văn các bác ơi!
    Đoạn bác quyenlinh66 trích trên kia copy gần như nguyên xi phần 14. Giấc mơ ảo ảnh của Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ (trang 162) và 15. Giây phút hoán đổi giữa thiện và ác (trang 167) cuốn KÝ ỨC CHIẾN TRANH của tác giả Kim Jin Sun - Hàn Quốc, sách đã xuất bản tại VN.
    Có điều lạ là HQ là đồng minh thân cận của Mĩ nhưng lại rất "thiện cảm" với HCM và VN. Mới đây họ tổ chức rầm rộ Thư pháp Nhật Ký trong tù và trong cuốn này tác giả cũng ca ngợi hết lời HCM và dân tộc VN, bày tỏ sự ân hận + sám hối vì đã tham gia cuộc chiến.
    Các đề mục của cuốn sách thôi nhé:
    CHƯƠNG MỘT
    Ở NƠI CHIẾN TRANH CUỒNG BẠO​
    1. Linh hồn bất tử của người chiến sĩ giải phóng
    2. Về những người chiến sĩ cách mạng
    3. Kinh ngạc về tinh thần dũng cảm vô song của quân giải phóng
    4. Người sĩ quan giải phóng kỳ lạ
    5. Tinh thần đấu tranh của người phụ nữ Việt Nam
    CHƯƠNG HAI
    VIỆT NAM - HUYỀN THOẠI CHIẾN TRANH​
    1. Họ chiến đấu vì cái gì
    2. Ước mơ của hàng ngàn năm thử thách
    3. Hãy đem tro của tôi chia làm ba phần
    4. Trận chiến Điện Biên Phủ
    5. Cách nhìn của các nhà lãnh đạo hai miền về nông dân
    6. Người được các vị thần lựa chọn: Hồ Chí Minh
    7. Đất nước vinh quan, những cánh rừng rậm rạp
    8. Cuộc chiến trong rừng rậm và lòng đất
    9. Giấc mơ ảo ảnh của Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ
    10. Giây phút hoán đổi giữa thiện và ác
  10. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Trước thất bại ở Quảng Trị, ngày 3-5, Tổng thống Việt Nam cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu cách chức Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Quân khu 1, đưa Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân khu 4 ra thay, đồng thời điều sư đoàn dù và sư đoàn thủy quân lục chiến ra lập phòng tuyến ngăn chặn mới từ nam sông Mỹ Chánh đến tây đường 12 nhằm giữ các bàn đạp còn lại với ý đồ cố gắng phản kích chiếm lại các vùng đất đã mất, lấy lại uy tín với quan thầy.
    Ngay lập tức, hỗ trợ Sài Gòn, Mỹ trở lại ném bom toàn miền Bắc để tìm cách giảm áp lực cho cuộc chiến phía Nam, đặc biệt là vụ dùng B52 ném bom tiểu khu Xi măng, phường An dương Hải phòng gây ra cái chết của hàng trăm dân thường. Đến nay, người Hải phòng vẫn gọi là ngày Chủ Nhật đẫm máu của thành phố Hoa Phượng Đỏ.
    Lúc này, do ham tấn công, phe tấn công bắt đầu bộc lộ những chủ quan, gây ra những thiệt hại rất đáng tiếc. Sư đoàn 308 Quả đấm thép nổi tiếng với câu ca dao ?o?không cho về phép thành Quả Đấm Nhôm, về phép mấy hôm lại thành Đấm thép?? được rút ra bắc, thế vào đó là Trung đoàn 18 (Sư đoàn 325), Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320b) gồm phần lớn là các sinh viên Đại học vừa ra trường nhập ngũ 1971, tiếp tục được lệnh tấn công vào ngày 20.6.1972. Lúc này họ đã vấp phải một lực lượng phòng thủ mới rất mạnh, mặt khác bị đánh phá ác liệt bằng đủ loại hoả lực của Mỹ với hàng trăm lượt B52 mỗi ngày lên thẳng tuyến xuất phát và đường vận chuyển tiếp tế. Lòng dũng cảm đã không thể bù đắp cho kinh nghiệm chiến trường của lớp tân binh, đã khiến họ thiệt hại nặng nề và bỏ dở cuộc tấn công, gần 2500 chàng trai trẻ đã ngã xuống. 27.6.1972, Phe tấn công trở thành phe phòng thủ.
    Tính đến ngày 27.6, Các đơn vị Sài gòn bị loại ra khỏi vòng chiến 27.458 lính, bị bắt làm tù binh 3.388, 636 xe tăng, xe thiết giáp, 1.870 xe quân sự, 419 khẩu pháo các loại bị mất, tổn thất 340 máy bay.
    Giữ thành cổ Quảng trị là các trung đoàn 48, Sư đoàn 320, sau đó được bổ sung thêm tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn 10 thuộc Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Trị, rồi trung đoàn 95 của Sư đoàn 325. Các lần bổ sung này được luân phiên gối đầu khi lực lượng tại chỗ đã bị bom đạn xoá trắng.
    Tiếp tế cho lực lượng phòng thủ là sư đoàn 325 với ba tuyến vận chuyển tiếp tế đường bộ: Đông Hà-Nhan Biều, Ba Giơ-Làng Nút-Nhan Biều, Đại Áng-Nhan Biều. Tuyến vận tải đường sông của Sư đoàn 320 đã bị pháo hạm đội 7 Mỹ và không quân Mỹ hoàn toàn gây tê liệt.
    Phòng thủ tại thị xã Quảng trị là một tiểu đoàn của trung đoàn 18, Sư đoàn 325, một tiểu đoàn của trung đoàn 165, Sư đoàn 312). Tiểu đoàn 24 Quân y sư đoàn 325. Tiểu đoàn 17 công binh, 4 đại đội 12,7mm của tiểu đoàn 16 súng máy cao xạ.
    Để chiếm lại Quảng trị, Phía VNCH có 5 sư đoàn (ba sư đoàn bộ binh cơ hữu của Quân Đoàn 1, tăng cường với 2 sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến) cùng với 1 liên đoàn Biệt Ðộng Quân và 9 tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân Biên Phòng, ngoài ra là các lực lượng phòng vệ lãnh thổ Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân. Cuộc tái chiếm này được đặt tên là chiến dịch Lam Sơn 72.
    Vừa chân ướt chân ráo đến Tri Bưu, chưa kịp đứng chân, một tiểu đoàn lính thủ đánh bộ đã thiệt hại hầu hết quân số vì bị tiểu đoàn 5, trung đoàn 95, tiểu đoàn 2, trung đoàn 48 và một đại đội của tiểu đoàn 6, trung đoàn 95 tập kích bất ngờ 5.8.1972. Tiểu đoàn 5 này thiết lập vị trí phòng ngự tại chỗ và trở thành mục tiêu đầu cầu có tính chất chiến lược của thành cổ Quảng trị. Một vị trí tiền tiêu chiến lược khác trên hướng đông nam là tiểu đoàn 4, trung đoàn 95. Suốt hai mươi ngày, sư đoàn lính thuỷ đánh bộ dũi vào hai mấu lồi này một ngày hơn mười lần. Cứ mỗi lần bật ra thì lại dùng bom, pháo chà đi xát lại cả mấy giờ đồng hồ. Nhưng kì lạ thay, lính thuỷ đánh bộ sau mỗi lần oanh tạc ấy, tưởng con kiến cũng không thể sống được thì vẫn bị đón tiếp nồng hậu, đến nỗi quân số của họ chỉ còn chưa đầy 2/3. Thêm vào đó, họ còn bị tiểu đoàn 7, trung đoàn 18 tiểu đoàn 3, trung đoàn 48 liên tục tập kích quấy rối, gây những tổn thất đáng kể.
    Những ngày cuối tháng 7.1972, mưa liên miên làm cho nước sông dâng cao. Nước ngập băng khu vực Thành cổ Quảng Trị khiến cho cả khu vực bị ô nhiễm nghiêm trọng, nhiều xác chết của cả hai phía đã làm cho bệnh tật phát sinh: bệnh ngoài da, bệnh đường ruột, bệnh sốt rét, bệnh bại liệt...phe phòng thủ đã bị đặt trong tình thế hết sức nghiêm trọng. Trong lúc đó tiểu đoàn 15 biệt động quân và hàng chục xe tăng M48 phối hợp với sư đoàn lính thủy đánh bộ mở tiếp những đợt tiến công ồ ạt. Các đợt oanh kích bằng máy bay B52, Pháo hạm đội 7 đã ngăn chặn hữu hiệu sự tiếp ứng của phe Giải phóng, họ đã không thể bù đắp được con số thương vong đồng đều tại Thành cổ mỗi ngày 1 đại đội và địa bàn phòng thủ bắt đầu dần dần bị co hẹp. Toàn bộ Thành cổ Quảng trị nay đã thành bình địa.
    Đêm 4.9.1972, trung đoàn 95 CS dồn lực lượng đánh chiếm gọn khu vực nhà mái bằng thuộc làng Hải Tri, cắt ngang đường tiến quân của sư đoàn dù từ ngã ba Long Hưng vào thành cổ. Nhờ đó, tất cả các lực lượng còn lại trong thành cổ mở đường triệt thoái vượt sông Thạch hãn trong làn đạn pháo đối phương, kết thúc quá trình phòng thủ ở đây, nhường quyền kiểm soát Quảng trị cho sư đoàn lính thủy đánh bộ SG, kết thúc 82 ngày đẫm máu nhất trong lịch sử chiến tranh Việt nam.
    Phe Giải phóng thêm hơn 8.000 binh sĩ, phần lớn đều là sinh viên đại học mới tốt nghiệp năm 1971, những người con trẻ tuổi đầy tri thức vô cùng quý giá cho công cuộc xây dựng lại đất nước sau chiến tranh đã dùng máu của mình để làm xanh những thảm cỏ non thành cổ, nhuộm đỏ dòng Thạch Hãn mà ngày nay, ai ai đi qua cũng phải nhỏ lệ cảm thương. Họ đã chết vì bản anh hùng ca bất hủ của dân tộc, nhưng cũng không thể phủ nhận những sai lầm của các vị chỉ huy, vì đã đặt những mục tiêu chính trị lên trên xương máu đồng đội, đẩy họ vào những vị trí mà toạ độ đã được căn định sẵn bởi những lực lượng quân sự hiện đại và khoa học, có hoả lực mạnh nhất thế giới là Mỹ, nên đã chịu những hy sinh vô cùng đáng tiếc.
    Phe Sài gòn, dù được tiến công trong sự iểm trợ tối đa và hữu hiệu của hoả lực hiện đại nhất thế giới nhưng cũng phải gánh chịu những tổn thất nghiêm trọng, hơn 7000 binh sĩ đã từ giã thế giới. Ngay người lính dù vừa cắm được lá cờ ba sọc lên thành cổ đã lập tức bỏ mạng vì trúng miểng pháo đối phương. Cuộc chiến Quảng trị 1972 đã tạo ra những ấn tượng mạnh đến nỗi bản thân chính phủ Mỹ hoàn toàn thất vọng, tìm mọi giá để rút chân khỏi Nam Việt Nam một cách nhanh nhất. Bản thân những người lính Sài gòn sau khi đã chứng kiến mức độ khốc liệt khi đụng đầu với các sư đoàn chủ lực của miền Bắc, đã chọn giải pháp tháo chạy khẩn trương khi phải đối diện với họ những năm sau đó để mong bảo toàn mạng sống. Cuộc tiến công cũng không giải quyết dứt điểm các mục tiêu đặt ra là tái chiếm hết những vùng bị mất. Rất nhiều các vị trí chiến lược đã không bao giờ được khôi phục.
    Cả hai phe đến tháng 9.1972 coi như hoàn toàn kiệt sức. Họ chỉ nghĩ đến việc củng cố và chờ đợi, không một ai có ý định tiếp tục phá vỡ thế cân bằng mới vừa lập ra.
    Toàn bộ ý chí kéo dài chiến tranh của người Mỹ đã hoàn toàn bị đánh quỵ. Dân Mỹ đã quá choáng váng vì mức độ khốc liệt đã không cho phép chính phủ của họ kéo dài cuộc chiến, dù chỉ một ngày. Nhưng chính phủ Nixon vẫn tiếp tục thể hiện bản chất hiếu chiến và quỷ quyệt hơn cả người tiền nhiệm, đã có thêm những hành động điên rồ bậc nhất khi quyết định ném bom hòng huỷ diệt Hà Nội, Hải phòng, Thái Nguyên, Bắc Giang sau đó.
    (Còn tiếp)

Chia sẻ trang này