1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tổng kết các giai đoạn Lịch sử Việt nam trong thế kỷ 20

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Dilac, 28/10/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Sáng 15-01-1974, tàu tách bếnTiên Sa. Những tia nắng yếu ớt của một ngày cuối đông đang cố gắng chọc thủng màn mây trắng dày để tỏa ánh sáng xuống mặt biển xanh rì trước mặt. Gió Ðông-Bắc cấp 2. Biển không động, nhưng khi bắt đầu quay mũi, tàu cũng lắc lư dữ dội. Bên phải, ngọn hải-đăng Sơn-Chà đã tắt, các tháp nhọn từ từ nhú lên sau dãy núi đen ngòm, trông như các đinh nhọn, chĩa mũi lên trời. Tại đây đáng lẽ tàu chuẩn bị quay phải, xuôi Nam kết thúc một chuyến công tác như lịch trình. Nhưng không, tàu tiếp tục Ðông-tiến, trực chỉ Hoàng-Sa. Vậy là niềm vui của thủy-thủ-đoàn chợt tắt, bỏ cái ước mơ của một chiều dạo phố Sài Gòn bên người yêu lại cho tuần sau. Hy vọng thế bởi vì chuyến hải hành phụ trội này dự trù kéo dài không quá 5 ngày. Và sau đó, tàu sẽ thảnh thơi nằm sửa chữa ở cầu B, để cho đám con có thì giờ thụ-thưởng cái đầm ấm và an-vui bên gia đình cho một cái tết hòa-bình đầu tiên.
    Chúng tôi nhận được lệnh đi Hoàng-Sa khi cả tàu đang nô-nức chuẩn bị lên đường về Saì Gòn. Hôm qua, ban ẩm Thực đã đi chợ xong, dầu nước đã nhận đầy đủ. Vậy mà, đùng một cái, buổi tối lại nhận lệnh mới. Sáng mai, HQ 16 phải chở ra Hoàng-Sa một phái đoàn của Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Chiến Thuật, nhằm khảo sát để thiết lập một phi trường cho C130 có thể đáp. Có lẽ đây là một mục tiêu lớn và lâu dài của chính phủ. Chúng tôi không biết. Phái đoàn gồm 6 người: 1 thiếu tá trưởng đoàn, 1 cố vấn Mỹ mặc áo dân sự, 2 trung úy cùng 2 trng sĩ thuộc ngành công binh. Ðối với tôi chuyến đi nào cũng thú vị, nhất là đây là lần đầu tiên có dịp ghé thăm Hoàng Sa, những hải đảo xa xôi cuối cùng của Tổ Quốc, sau chuyến công tác Trường Sa cách đây 2 tháng. Vả chăng, cũng còn đến 20 ngày nữa mới đến Tết, thì dầu mất đi 1 tuần lễ trước đó cho một dịp lãng du cũng chẳng nhằm nhò gì. Những năm trước, khi còn phục vụ trên một Hộ Tống Hạm (PCE), chuyến công tác nào cũng trên 2 tháng, có chuyến đến 100 ngày. Hồi đó, những lần trở lại Sài Gòn, tàu đã què quặt, lê lết, rên rĩ dưới tấm thân tàn ta và một thủy thủ đoàn rã rời. Bây giờ với Tuần Duyên Hạm Lý Thường Kiệt QHQ 16 bề thế, vững chãi, trọng tải lớn, tầm hoạt động dài, mới được tân trang để nhận lãnh từ Guam về, số lượng sĩ quan và thủy thủ đoàn đông hơn, nhưng trái lại thời gian công tác lại ngắn hơn chỉ 30 ngày. Thế cho nên tôi vững tâm lên đường. Ra khơi, cho "biết mặt trùng dương", cho có dịp "ghé những bến bờ, có những xóm dừa, chiều nhuộm vàng làn tóc ngây thơ"
    Tàu chạy với vận tốc tối đa, hai máy tiến full, có thể đạt tới 16 knots. Nhưng gặp gió Ðông Bắc, dù không mạnh lắm, nhưng cũng có thể làm cho tàu chậm lại, và độ dạt cũng khá lớn. Chỉ ít giờ đầu sau khi rời vùng biển Ðà Nẵng, những ngọn núi cao chót vót của Tiên Sa, Hải Vân bắt đầu mờ dần. Sau khi khuất hẳn, chúng tôi chuyển từ hàng hải cận duyên qua hàng hải viễn duyên, từ mắt thường qua radar và cuối cùng là Loran để định vị trí con tàu. Sĩ quan trưởng phiên bắt đầu làm con thoi từ đài chỉ huy xuống phòng Loran để kiểm tra lại vị trí phỏng định và chỉnh lại hải trình. Cả ngày hôm đó trời nắng nhẹ, gió Ðông Bắc cũng nhẹ nhàng thổi mang theo vị mặn của nước biển thấm đầy áo quần, mặt mũi, tóc tai. Tàu vẫn nhẹ nhàng lướt sóng, miệt mài đi giữa những âm thanh ngọt ngào của biển cả. Trên boang tàu, các hạ sĩ quan và thủy thủ ngành trọng pháo, vận chuyển đang lăng xăng với công việc thừơng lệ, gõ sét, lau chùi, sơn và vô dầu mỡ. Chẳng mấy ai băn khoăn vì đã trễ hẹn cho một ngày về, và cũng chẳng ai buồn nhớ đến câu thơ muôn thở của kiếp hải hồ:
    Năm năm gõ sét đau lòng lính
    Gõ sét năm năm sét vẫn còn.
    Dưới hầm máy, nhân viên cơ điện khí cùng với Ðại Úy Hiệp và các sĩ quan phụ tá loay quay bên những cổ máy. Hai máy điện của hữu hạm đang trục trặc, tạm ngưng hoạt động.Máy ép gió nằm cùng bên cũng bị hư. Mọi hoạt động của tàu là nhờ vào phía tả hạm. Dầu sao tàu cũng đã qua hơn một tháng công tác ở cái vùng biển khốn khổ giá lạnh này. Quân số cũng chỉ còn lại khoảng hai phần ba, nghĩa là chỉ trên 100 mạng, sau khi đã thay phiên nhau đi phép mấy đợt mà chẳng ai trở lại trình diện vì tàu cũng sắp về. Hiện giờ có lẽ họ đã trình diện ở Bộ Tư Lệnh Hạm Ðội chờ "phương tiện", nhưng thực tế là chờ đón tàu về như những người khác. Bằng mọi giá, tàu vẫn phải hoàn thành công tác, và mọi công việc trên chiến hạm cứ tiếp tục chạy đều.
    Ða số sĩ quan trên chiến hạm đều còn trẻ, chưa quá 30, độc thân vui tính, kể cả sôi nổi nhiệt tình, một số ít thì rất to miệng, trong đó phải kể đến Trần Văn Bính khóa 19, Nguyễn Hữu Công khóa 20 cơ khí, và Ðoàn Viết Ất khoá 4/OCS. Trong giờ nghỉ trưa hoặc tối, phòng ăn sĩ quan lúc nào cũng trở thành một bãi chiến trường với nước bọt văng tung tóe; với Ra-my, xập xám, domino; với khói thuốc, hơi cà phê và hơi người. Giữa những tiếng nói, tiếng cười, tiếng cãi cọ, ồn ào như chợ vỡ là tiếng vo-vo, rè rè của bốn cái máy lạnh chạy hết tốc lực, được gắn 4 góc phòng. Hạm Trưởng, Trung tá Lê Văn Thự, khóa 10 là một người khắc khổ, khó tính nhưng không nạt đùa mà nói năng có phần hòa hoãn. Chuyến này, ông đang bận với hai ông khách (cố vấn và ông TT/BB), lại có phòng ăn riêng, nên cái giang sơn của đám sĩ quan trẻ trở thành tự do vô cùng. Nhất là trong đám đi phép lại có Hạm phó Thiếu Tá Trần Văn Hoa Em. Giang sơn chúng tôi hiện chỉ còn Ðại Úy Hiệp khóa 14 (cơ khí trưởng) là thâm niên hiện diện. Là một người trắng trẻo, cao ráo, đẹp trai, tính tình lại cởi mở, ôn tồn, Ðại Úy Hiệp còn là sĩ quan sẵn sàng hội nhập vào mọi cuộc vui của đám đàn em. Cũng xập xám, domino; cũng đấu đá bỡn cợt. Ngược lại, sĩ quan đệ tam, Ðại Úy Nam, khóa 15, nhỏ con và trầm lặng. Tuy vui vẻ dễ dãi nhưng ít khi nhập cuộc. Trước mọi bốc đồng năng nổ của chúng tôi, Ðại Úy Nam chỉ ngồi nhìn, mỉm cười. Thành ra, cái phòng ăn rộng thênh thang trên HQ 16 trở thành nơi tự do và thỏai mái cho đám sĩ quan lau nhau cỡ Trung Úy, Thiếu Úy sau mọi nhiệm sở và công việc. Từ sau hiệp định Paris, số sĩ quan được đào tạo từ lò Nha Trang và OCS được chuyển về rất đông, vượt xa bảng cấp số. Chả bù với thời gian lúc tôi mới được thuyên chuyển về Hộ Tống hạm Chí Linh HQ 11 vào khoảng tháng 10/1970, cả một chiếc PCE tối tân nhất thời đó, người Hạm Trưởng và cơ khí trưởng, kiếm cho đủ sĩ quan làm 3 trưởng phiên là đủ mệt. Hạm phó gần như do tôi xử lý thường vụ sau khi xuống tàu chưa được 1 tuần. Xuống tàu, làm phụ tá cho Hạm Phó Nguyễn Tường đúng 1 chuyến công tác 4 ngày trên biển cả là ông ta đi luôn, để lại cho tôi cả phiên, cả tàu trong khi tôi chỉ được coi như mới ra trường. Vì rằng sau khi đi thực tập đệ thất hạm đội về là làm cán bộ cho tiểu đoàn sinh viên OCS, một quân trường nối dài. Vậy đó, vậy mà giờ đây trên HQ 16, có đến 22 sĩ quan trên 14 ở bảng cấp số. Các thiếu úy và chuẩn uý được chuyển về ngủ ở phòng ngủ thượng sĩ. Hạm phó đương nhiên miễn đi quart, trưởng phiên lúc nào cũng có 2,3, sĩ quan phụ tá.
  2. altus

    altus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    1.503
    Đã được thích:
    1
    Thật, bác... ông Lợi trực tiếp tham gia đàm phán và hòan thiện văn bản trong suốt quá trình, viết cuốn sách hơn 700 trang trích dẫn tỉ mỉ thì bác bảo là sư thật bị cắt xén. Còn bác viết bao nhiêu thứ kiểu ''''Đại Nam quốc sử diễn...post'''' chả mấy khi trích dẫn nguồn (trừ thông tin là bác đệ nhất thiên hạ vô địch nhiều nguồn tại tư gia) thì mới đúng bản chất...

    Bác kể chuyện thú vị quá. Xin hỏi bác có nguồn tài liệu dẫn chứng không ? 250 đầu đạn tên lửa S-75 tại sao không được nhắc đến trong tổng kết này nhỉ:
    http://www.quandoinhandan.org.vn/right.php?id_new=43140
    Hay là họ ghép bừa Cuba vào LX ?
    Được altus sửa chữa / chuyển vào 04:42 ngày 24/01/2006
  3. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Bác thắc mắc rất có lý. Vì vậy mỗ đã tìm cách lục tung mọi tư liệu có thể tiếp cận được thì kết quả thu được thế này:
    1) Nguồn tư liệu chính thức:
    Trong một bài báo của QĐND thì nói đến là từ sau 1969 Liên Xô không viện trợ cho ta thêm bất cứ quả SAM 2 nào. Để có SAM đánh B52 ta đã phải vừa hết sức tiết kiệm, vừa tìm tòi cải tiến trong cách đánh, đồng thời kéo dài thời gian bảo dưỡng thêm lên 4 năm.
    Vì vậy, lượng tên lửa đánh trong suốt năm 1972 chỉ được dành cho B52. Tiểu đoàn tên lửa của Hải phòng dùng tên lửa bắn F4 đã suýt bị kỷ luật.
    Lượng tên lửa bắn của cả 10 tiểu đoàn bảo vệ thủ đô là rất ít, hiệu suất chiến đấu cao đến mức rất khó tin. Lượng đạn SAM 2 có trong tay ít đến mức không thể hiểu nổi. Mỗi tiểu đoàn chỉ có 2-4 quả. Do đó mỗi đêm chỉ bắn không quá 40 quả.
    Nội dung hoàn toàn ca ngợi QĐ ta, lờ hết các yếu tố bên ngoài.
    Hoàn toàn không tìm thấy tư liệu nói rằng Cu ba đã đem vũ khí mang sang cho ta, đặc biệt là các vũ khí kỹ thuật cao.
    Nhưng rõ ràng trong thời gian gần đây, nhiều bí mật cuộc chiến đã hé mở. Ví dụ, ta chưa bao giờ khẳng định công khai phi công Triều tiên đã tham gia đánh Mỹ, dù họ có cả 1 trung đoàn ở Kép, Bắc Giang. Rồi ?onhững bí mật Nga? đang công khai sự tham chiến của các sĩ quan Nga. Gần nhất, chính Cuba cũng công nhận đem nhân lực, khí tài và phương tiện khác để cùng xây dựng và bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh. Có lẽ dần dần mọi sự sẽ lộ ra.
    Tên lửa SAM do Nga viện trợ cho Cuba. Nếu theo chủ trương ngừng viện trợ cho ta từ sau 1969, thì đời nào Nga lại đồng ý cho Cuba đem tên lửa của mình sang Việt nam? Vậy có thể có nhiều tế nhị khiến cả ta và bạn đành lặng im, ngầm hiểu với nhau vậy. Trong các thông kê của bác hoàn toàn không đề cập nhiều đến Cuba, nhưng một dấu hỏi lớn là tại sao tình bạn giữa chúng ta và Cuba sâu nặng đến như vậy?! Phải chăng sự giúp đỡ của Cuba được gắn với những hoàn cảnh đặc biệt, và ?omột nắm khi đói bằng một gói khi no?
    2) Nguồn tư liệu phỏng vấn trực tiếp.
    Tôi đã hỏi lại trực tiếp người sĩ quan Hải quân (tên là Vượng) nay đã về hưu ở Cát Bi, Hải Phòng. Ông khẳng định như đinh đóng cột sự kiện này, và bảo con số trên chỉ là phỏng đoán, còn trên thực tế thì nhiều lắm. Đám vận tải tiếp nhận còn sung sướng bảo nhau ?o?phen này ta bắn thả cửa?.?
    Ngày 1.1.2000, vừa là ngày Tết, vừa là ngày Quốc Khánh. Vị Đại sứ toàn quyền của Cuba tại Việt nam đã xuống chúc tết tại Cảng Hải Phòng, trước toàn dân thiên hạ và chỉ cách mỗ chưa đầy 10m, chính Bà đã đề cập sự kiện này.
  4. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    http://www.ttvnol.com/uploaded/dilac/*******kehoach.gif
  5. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Đây là tư liệu của altus:
    Những nguồn chi viện lớn cho cách mạng Việt Nam
    Tài liệu trích từ đề tài nghiên cứu của các tác giả ở Viện lịch sử Quân sự sẽ tham luận tại Hội thảo khoa học "Đại thắng mùa xuân 1975 - Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam", tổ chức tại TP Hồ Chí Minh ngày 14 và 15/4.
    ... Sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là sự nghiệp chính nghĩa nên được các nước xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô và Trung Quốc, đồng tình ủng hộ.
    Sự kiện đoàn đại biểu Chính phủ ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu thăm ba nước Liên Xô, Trung Quốc và Mông Cổ trong vòng một tháng (22-6 đến 22-7-1955), đã mở đầu thời kỳ các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới ủng hộ và giúp đỡ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
    Đánh giá về ý nghĩa quan trọng của sự ủng hộ, giúp đỡ từ bên ngoài đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "10 năm trước đây (1945 - tác giả), chúng ta hầu như cô đơn, chỉ nhờ sức mạnh đoàn kết mà cách mạng thắng lợi. Ngày nay, nhân dân ta lại có đại gia đình gồm 900 triệu anh em từ Á sang Âu và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới ủng hộ. Cho nên cuộc đấu tranh chính trị để thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước tuy nhiều khó khăn, nhưng chúng ta nhất định sẽ thắng lợi".
    Tuy nhiên, Người cũng đồng thời nêu rõ: "Phương châm của ta hiện nay là: tự lực cánh sinh là chính, việc các nước bạn giúp ta là phụ. Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta. Ta khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta. Song nhân dân và cán bộ ta tuyệt đối chớ vì bạn ta giúp nhiều mà đâm ra ỷ lại".
    Ngay sau chuyến thăm, theo thỏa thuận giữa Chính phủ ta với Chính phủ Liên Xô, Trung Quốc và Mông Cổ, về kinh tế, trong hai năm Liên Xô giúp ta các thiết bị máy móc, kỹ thuật trị giá 306 ngàn triệu đồng (ngân hàng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) để khôi phục và phát triển 25 xí nghiệp; Trung Quốc giúp ta khôi phục hệ thống đường sắt, bến tàu, tu sửa cầu đường, xây dựng nhà máy dệt, nhà máy thuộc da, nhà máy giấy..., trị giá 1.224 ngàn triệu đồng trong 5 năm; Mông Cổ giúp ta 500 tấn thịt và một số bò và cừu để lập một nông trường chăn nuôi. Đến cuối năm 1962, Liên Xô đã giúp ta 1.400 triệu rúp, giúp xây dựng 34 nhà máy lớn, 19 nông trường và cải tạo 27 nông trường, một số trường đại học, một bệnh viện lớn...
    ... Khối lượng hàng quân sự Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa (bao gồm Tiếp Khắc, Ba Lan, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Ru-ma-ni, CHDC Đức, CHDCND Triều Tiên và Cu-ba) viện trợ từ năm 1955 đến 1975, qua từng giai đoạn như sau:
    - Giai đoạn 1955-1960: tổng số 49.585 tấn, gồm: 4.105 tấn hàng hậu cần, 45.480 tấn vũ khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: viện trợ 29.996 tấn, Trung Quốc viện trợ 19.589 tấn.
    - Giai đoạn 1961-1964: tổng số 70.295 tấn, gồm: 230 tấn hàng hậu cần, 70.065 tấn vũ khí, trang bị - kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 47.223 tấn: Trung Quốc 22.982 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác: 442 tấn.
    - Giai đoạn 1965-1968: tổng số 517.393 tấn, gồm: 105.614 tấn hàng hậu cần, 411.779 tấn vũ khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 226.969 tấn, Trung Quốc: 170.798 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác 119.626 tấn.
    - Giai đoạn 1969-1972: tổng số 1.000.796 tấn, gồm: 316.130 tấn hàng hậu cần, 684.666 tấn vũ khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô 143.793 tấn, Trung Quốc 761.001 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác 96.002 tấn.
    - Giai đoạn 1973-1975: Tổng số 724.512 tấn, gồm: 75.267 tấn hàng hậu cần, 49.246 tấn vũ khí, trang bị - kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 65.601 tấn, Trung Quốc: 620.354 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác: 38.557 tấn.
    Như vậy, qua 20 năm, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em đã viện trợ cho Việt Nam tổng khối lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn; khối lượng hàng hóa quân sự trên quy đổi thành tiền, tương đương 7 tỉ rúp.
    ... Đối với hàng hóa phục vụ quân sự, từ năm 1955 đến 1975, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa chi viện cho ta gồm nhiều chủng loại vũ khí, đạn dược và phương tiện chiến đấu, cụ thể theo bảng số liệu sau:(bảng dưới)
    ... Thành quả của cách mạng Việt Nam trong xây dựng đất nước, trong chiến tranh giải phóng Tổ quốc không tách rời sự ủng hộ, giúp đỡ trên tinh thần quốc tế vô sản của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc. Sự ủng hộ, giúp đỡ có hiệu quả đó của các nước trong phe XHCN nói riêng, của bầu bạn khắp nơi trên thế giới nói chung bắt nguồn từ tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến, từ đường lối, chính sách ngoại giao, đường lối quốc tế đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, với ảnh hưởng và uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
    Thắng lợi của chính sách ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh là thắng lợi của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; của chính sách ngoại giao trên tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, mềm dẻo, có tình, có lý. Chính vì vậy, ở vào thời điểm hai nước Liên Xô và Trung Quốc xảy ra những bất đồng quan điểm, vào lúc cuộc chiến tranh ở Việt Nam được Mỹ đẩy lên tới mức cao nhất, thì sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc cho cách mạng nước ta vẫn được bảo đảm.
    Theo QĐND
    [​IMG]
    Bình luận: Có cả thảy 23 dàn phóng S-75M, như vậy ngay cả số liệu này cũng ít hơn thực tế. Vì nếu tập trung tất cả 10 tiểu đoàn thì số bệ phóng ít nhất đã là 30
    Được dilac sửa chữa / chuyển vào 10:10 ngày 24/01/2006
  6. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Tôi đã nói rồi, trong một lần ông Mười Hương cũng nói đến việc năm đấy nhờ tên lửa của Cuba mà mình mới đủ đạn để đánh.
  7. LananhHP

    LananhHP Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2005
    Bài viết:
    64
    Đã được thích:
    0
    Em thấy trong "Cát bụi chân ai của Tô Hoài có đoạn:
    "Đêm nay Hà Nội lại giao thừa.
    Chặp tối, năm hết tết đến, vẫn loa báo động máy bay địch cách 40 ki lô mét... máy bay địch 20 ki lô mét... trong cái thành phố thương tâm bất cần đời này, cái tết mơ ước vẫn đến như từ bao nhiêu năm qua. Tối rồi, vô khối xe đạp còn hối hả đi mua hoa - những bó hoa cúc vạn thọ vàng rỉ ế ẩm, người chơi hoa năm nào cũng khuân cúc vạn thọ sau cùng.
    Cả ngày ba mươi tấp nập. Trở trời, cá úi quẫy như đánh sóng trên mặt nước. ở hồ Hoàn Kiếm, hồ Bảy Mẫu, Ba Mẫu trẻ con vớt cá từng xâu. Từ gà gáy, người ùa ra ven hồ. Gậy, xiên sắt, túi, chậu... Tảng sáng, đám đông quanh hồ chen chân lẫn với công an và những người canh cá. Không ai bẻ cần câu, thu vó, đuổi người xúc, người câu ném như mọi khi. Mặt dầu, đã thành thói quen, túm được một con cá mè ranh, trẻ con lại len lét chạy ra xa. Quanh hồ, đông đến trưa. Được cá trời cho tất niên mà, ai cũng xoa xuê, vui vui. Rồi từ từ đêm giao thừa về. Hai cô bé tóc buông xoã vừa đi vừa hát ven hồ. Mùa xuân đã trở lại sao? Nửa đêm, người đi chơi đổ ra đông như hội. Trời rét cóng mà các quán bia hơi, bia chai sáng đèn suốt đêm. Mặt bàn lênh láng bia như tuyết tan. Nhiều người nước ngoài lẫn lộn giữa đám đông. Những người Cu Ba da màu vừa nhảy múa vừa vỗ trống. Có thể, họ là bộ đội pháo cao xạ hay tên lửa rời trận địa ra, vui nhộn đến thế. Hôm cuối năm, đi tảo mộ ở Văn Điển trông thấy sáu ngôi mộ xây, để tên các liệt sĩ Cu Ba."
  8. altus

    altus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    1.503
    Đã được thích:
    1
    LX ngừng viện trợ cho ta S-75 từ 1969 đến 1971, đến 1972 khi tình hình căng, ta xin thì lại cho tiếp, tháng 11,12/72 ta còn ngày đêm chở S-75 từ Bằng Tường về lắp liên tục 24/24 đấy bác. Bác vào mấy topic về 12/72 hay sang KTQS mà xem lại.
    Tại bác ít chịu nghe đài đọc báo thôi. Những thông tin này đựợc đăng báo, viết trong sách vở tại VN ít nhất từ những năm 1999-2000. Trong box này với bên KTQS nói đi nói lại mãi rồi.
    Chả phải. Đơn giản là tam đọan luận của bác bị sai từ giả thiết. Năm 1972 LX vẫn viện trợ S-75 cho ta. Nếu có tàu Cuba chở tên lửa thì tôi nghi là họ dùng cờ Panama để cửu vạn hộ LX. Có khi vì thế nên số đạn đó tính là của LX chứ không phải của Cuba.
  9. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Riêng chỗ này bác Dilac đúng đấy. Tiểu đoàn trên suýt bị kỉ luật vì vi phạm lệnh chỉ bắn B-52 (lệnh này chỉ có trong chiến dịch 12 ngày đêm). Còn ngay chính trong chiến dịch vẫn có khá nhiều trường hợp chỉ bắn 1 hoặc 2 quả.
  10. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Chúng tôi đến Hoàng Sa khi trời tối. Trăng thượng tuần mờ mờ ở phía Tây, sắp tắt. Len lỏi giữa những đảo nhỏ đầy những bãi san hô ngầm bao bọc chung quanh, với tầm nhìn hạn chế, chúng tôi phải rất thận trọng đưa tàu đến trước đảo Pattern (hay thừơng được gọi là Hoàng Sa), thả trôi cách đảo 1 hải lý về phía Nam. Trong bóng tối mờ mờ, giữa mặt biển mênh mông, chập chùng một màu xanh biếc đang chuyển dần sang một màu tối sẫm, nổi lên ba vành đai cát vàng ôm lấy ba chòm cây thấp tè ở giữa. Nếu chỉ nhìn lên một đảo ở trước mặt, hình ảnh đó trông cũng quen thuộc như khi tàu đi qua một vùng xóm làng ven biển nào đó của miền Nam với đất phù sa và rừng tràm, rừng đước. Không thấy gì rõ nét, nhưng chúng tôi cũng hình dung ra được những nét hân hoan của đoàn quân trú đóng trên đảo khi được chúng tôi báo tin là sẽ có một phái đoàn viếng thăm đảo vào ngày mai. Với những người mà đã mấy tháng trời như bị lưu đày giữa đảo hoang, làm bạn với chim cá, thì sự hiện diện của chiếc tàu và đoàn khảo sát là một biến cố trong đại trong thời gian ở đảo.
    Hoàng Sa là tên bằng tiếng Việt Nam để gọi chung một quần đảo gồm nhiều đảo rất nhỏ nằm ngoài khơi hai tỉnh Thừa Thiên - Quảng Nam, cách bờ biển nước ta khỏang chừng 350 km. Quần đảo có hai nhóm. Một nhóm nằm phía Ðông Bắc, có tên gọi là Amphibious đã bị Trung Cọng chiếm giữ đâu khoảng từ năm 1956-1957 gì đó. Nhóm hai nằm hướng Tây Nam Croissant, thuộc chu quyền trực tiếp của Việt Nam Cộng Hòa, có tên là Croissant, gồm 1 đảo lớn nhất tức đảo Pattern mà tàu chúng tôi đang đậu. Ðảo dài khoảng 1.5 mile, bề ngang khoảng 1 cây số. Phía Nam, hơi chếch về bên trái là 2 đảo Robert và Money, cách Pattern khoảng 3,4 hải lý. Xa hơn nữa, khoảng 7,8 hải lý và chếch về bên phải là 2 đảo Duy Mộng (Duymont) và Quang Hòa (Duncant). Nằm một mình lẻ loi giữa biển khơi bát ngát, phía Tây Nam của Pattern, cách đó chừng 15 hải lý là đảo Tri Tôn (Triton). Ngoài ra còn nhiều đảo nhỏ khác như những hòa đá khổng lồ nổi trên mặt nước, không tên, không tuổi, nằm rãi rắc đây đó; đặc biệt nhiều là bên cạnh nhóm Quang Hòa và Duy Mộng. Giữa vùng biển rộng mênh mông, những đảo nhỏ nhô lên như những dấu chấm trên hải đồ, và con người, một trung đội Ðịa phương quân, thuộc quân số tỉnh Quảng Nam, đóng lọt thỏm trên một đảo độc nhất, đảo Pattern, cùng 1 ông trưởng đài khí tượng, sẽ cảm thấy bé bỏng chừng nào trước cái bao la của biển cả, của trời xanh. Cặp mắt họ làm sao vượt ra khỏi khu vực đóng quân, doanh trại, nơi ăn chốn ở, và những lần câu cá nhặt trứng chim. Tâm hồn họ không thoát khỏi niềm ước mơ được có tầu tiếp tế, được có người đến thăm, nhận những lá thư, đọc câu chuyện tình hay chưởng. Còn trí óc thì mong chờ đến ngày hết hạn, có đơn vị khác thay thế, để cho họ qua khỏi giới hạn của 6 tháng lưu đày. Nhiệm vụ của họ cũng không phải là một hành động quân sự tích cực, mà như một thủ tục, sự hiện diện của họ như một cột mốc để tuyên bố chủ quyền. Thế cho nên khi chúng tôi phát hiện, thì quân đội Trung Cộng đã chiếm 2 đảo Duy Mộng và Quang Hòa không biết đã bao lâu rồi. Trên đó chúng đã đặt đài quan sát, xây dựng doanh trại, và theo báo cáo của nhóm người nhái đổ bộ trong ngày cuộc chiến xảy ra thì có cả một tiểu đoàn lính trú đóng. Có thể là sau khi hoàn tất chương trình trên hai hòn đảo phía Nam, chúng mới mon men lên phía Bắc, dự trù làm nốt đảo Money và Robert bên nách của Hoàng Sa. Nếu chúng không dùng chính sách tằm ăn dâu này, mà chỉ bằng lòng với khu vực phía Nam đó, thì có lẽ lịch sử đã đổi khác. Tàu chúng tôi sẽ lặng lẽ trở về Ðà Nẵng để về Sài Gòn, sẽ không có trận hải chiến Hoàng Sa, trận hải chiến độc nhất trong lịch sử của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, và đảo Hoàng Sa (Pattern) có lẽ sẽ không rơi vào tay Trung Cộng.
    Buổi sáng ngày 16/1/74, chúng tôi chuẩn bị một xuồng đổ bộ và 4 nhân viên, trong đó có một hạ sĩ quan vận chuyển, chở 6 ngừơi của phái đoàn lên đảo rồi sau đó đem xuống về tàu. Công tác hoàn tất tốt đẹp. Thế là những người khác của chúng tôi đã giã từ và theo dự trù sau vài ngày, chúng tôi sẽ vào đón họ để đưa trả họ lại cho Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Chiến Thuật. Ngày hôm đó nắng đẹp và có vẻ chói chang hơn hôm trước. Trời trong xanh. Tàu chúng tôi vẫn trong tình trạng thả trôi trong vùng biển yên lặng. Không một ngọn gió nào, sóng vẫn lăn tăn, và vùng biển êm như mặt hồ. Tôi nhận quart trưa 1200 - 1500H. Không có việc gì làm, chỉ theo dõi tình trạng trôi của tàu, nếu cần điều chỉnh lại chút đỉnh. việc đổ bộ đã hoàn tất vào buổi sáng. Hạm trưởng xuống nghỉ trưa. Các sĩ quan phụ tá và nhân viên đi quart tụ lại nói chuyện phiếm. Tôi ngồi lên thành tàu, bên cạnh khảu đại liên 30 và ngay dưới chân phía sau lưng, ở tầng dưới có buồng lái, là một ỏ đại bác 20 ly đôi đang nằm trong bọc bạt. Buổi trưa hơi nóng, lại không có việc gì làm, chuyện trò rồi cũng hết hứng thú. Im lặng lại trở về sau khi mỗi người dãn ra một góc, lơ đãng nhìn trời. Tôi cũng im lặng thả từng hơi khói thuốc Bastos ra trước mặt, lơ lửng cuộn thành vòng tròn rồi tan vào khoảng hư không, trí óc bổng trở nên phiêu đảng bồng bềnh.
    Bỗng tôi chú ý ở trước mặt đảo Robert, ngang hông chiến hạm, một chiếc tàu đang lửng lơ bên cạnh đảo. Chiếc tàu nhỏ, cỡ bằng những chiếc tàu đánh cá Ðài Loan mà tôi thường gặp trong vùng biển cận duyên. Tôi cũng cho đây là tàu đánh cá, nhưng hơi lạ là nó vào sát bờ quá. Mà tàu đánh cá nào lại không biết đây là hải phận Việt Nam, trong khi chúng tôi, anh khổng lồ HQ 16 và cờ vàng ba sọc đỏ đang bay phất phới? Tôi nói thầm, đi đâu cũng gặp mấy người Ðài Loan cả. Nhưng khi đưa ống nhòm lên nhìn, nó không giống với những chiếc tàu đánh cá thường gặp. Thân nó hơi ngắn so với bề ngang to bề, đài chỉ huy lại có vẻ bề thế như một chiếc tàu đuân sự. Tàu lại sơn màu tối, như màu ô-liu, phía đuôi có treo cờ tuy không trông rõ màu sắc. Lúc đó, mọi người trên đài chỉ huy chẳng ai quan tâm về sự hiện diện của tàu đánh cá, nhưng vì ngạc nhiên, tôi cho lệnh giám lộ viên đánh đèn để hỏi và đồng thời cho nổ máy, quay mũi, trực chỉ phía Nam. Có lẽ vì trời nắng, mọi người nghỉ trưa nên ánh sáng đèn scott không đánh động được ai. Tàu địch vẫn im lặng, hình như không bắt được tín hiệu. Sau khi hội ý với Hạm Trưởng, tôi cho khai hỏa khẩu đại liên 30, vừa để gợi sự chú ý, vừa có ý đuổi nó ra xa khỏi đảo. Tiếng súng nổ đòn dã giữa buổi trưa yên tĩnh dường như làm cả tàu thức giấc nhưng đối tượng vẫn không nhúc nhích. Bao nhiêu ống nhòm đổ đồn vào nó, và khi tàu đến gần hơn, nền cờ đỏ và 5 ngôi sao vàng ở ngay góc làm cho tôi hơi khựng lại. Tàu Trung Cộng. Sự phát giác này là một điều gây ngạc nhiên cho nhiều người. Hầu hết đều cho là tàu đánh cá của Ðài Loan, hay nếu ai có trí tưởng tượng phong phú hơn, cho là tàu đánh cá Liên Sô để đi dò thám như chúng tôi thường gặp khi thực tập trên Ðệ Thất Hạm Ðội. Chưa ai nghĩ đây là tàu Trung Quốc, và càng không ai nghĩ xa hơn đến dã tâm xâm lược của Trung Cộng. Khi Hạm Trưởng lên đài chỉ huy thì chúng tôi đã gần nhau lắm rồi, chưa đầy 500m. Mọi người đã thấy rõ cờ Trung Cộng bằng mắt thường. Hạm Trưởng khẩn báo về Trung Tâm Hành Quân Hải Quân Ðà Nẵng và xin chĩ thị, đồng thời cho nhân viên dùng tay, dùng cờ, dùng máy phóng thanh phát bằng tiếng Tàu để yêu cầu nó ra khỏi hải phận Việt Nam. Mặc dù chúng tôi không nhận được sự trả lời nào, cũng không thực hiện lời yêu cầu của chúng tôi, nhưng sự xuất hiện của chúng tôi có lẽ cũng khuấy động sự yên lặng cố hữu lì lợm của tàu Trung Cộng. Hàng chục nhân viên lên boong tàu nhìn sang chúng tôi, kỳ lạ, xoi mói và ngạc nhiên. Phần đông mặc áo thun trắng quần cụt. Một số mặc áo quần bộ đội Trung Quốc, màu ô-liu nhạt hơn màu tàu.
    Cũng vậy, sự hiện diện của tàu Trung Cộng đảo lộn hết mọi công tác hàng ngày. Hạm Trưởng chú tâm đến tàu địch cùng liên lạc với Vùng 1 Duyên Hải, sĩ quan thì tụ tập từng nhóm bàn tán đủ mọi giả thuyết. Nhân viên đứng đầy một bên lan can tàu nhìn sang như đang nhìn một quái vật. Trong khi đó trên đài chỉ huy vẫn oang oang phát ra từng chập những lời lẽ bằng tiếng Trung Quốc yêu cầu ra khỏi hải phận Việt Nam. Luc đầu là cuộc đối thoại với người câm nhưng sau đó, họ cũng dùng loa phóng thanh cầm tay để yêu cầu ngược lại, chúng tôi phải rời khỏi hải phận Trung Quốc. Cứ như vậy mà tiếp tục suốt cả buổi chiều mà chẳng bên nào nhượng bộ. Ðêm đó chúng tôi đành bỏ dở chương trình phát thanh để chạy ra xa hơn đễ giữ an toàn cho chiến hạm. Và cũng từ đêm đó, nếp sinh hoạt trong phòng ăn cũng thay đổi tuy tiếng nói cười vẫn oang oang như lệnh vỡ. Những trò chơi cũ như xập xám, domino ế khách. Các sĩ quan quay quần quanh bàn ăn để tiếp nối những cuộc thảo luận "trời ơi đất hỡi" về việc xuất hiện của tàu Trung Cộng. Buổi sáng ngày 17/1/74, bổn cũ được soạn lại, Nghĩa là cũng máy phóng thanh, phát ra và trả lời, cũng mấy anh thủy thủ gốc Chợ Lớn làm xướng ngôn viên. Chỉ khác một điều là thêm một tàu đánh cá khác xuất hiện cạnh đảo Money. và trăm lá cờ Trung Cộng được cắm rãi rác dọc bờ biển trên vùng cát trắng. Chỉ có đảo Rorbert mà tàu tôi ở gần là còn trinh bạch, chưa bị hoen ố bởi cái rừng cờ màu máu đó. Chúng tôi cũng không hiểu là có phải cờ đó được cắm trong đêm hay đã nhiều ngày qua, nhưng dầu sao giả thuyết được cắm trong đêm cùng với sự xuất hiện của tàu thứ hai có vẻ đúng đắn. Khoảng 2 giờ chiều hôm đó, khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 nhập vùng cùng 1 trung đội người nhái. Hạm Trưởng là Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu San, đã từng một thời là Hạm Trưởng HQ 11 khi tôi phục vụ trên đó. Có lẽ ông đã nhận được mật lệnh và kế hoạch từ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I, nên vừa nhập vùng, ông đã hành động ngay. HQ 4 từ phía Nam đảo Money chạy lên, HQ 16 từ đảo Pattern xuống, chúng tôi như hai gọng kềm kẹp chặt hai chiếc tàu đánh cá nhỏ bé của Trung Cộng vào giữa. Có lẽ cũng ngán chúng tôi sẽ có thái độ khác với những ngày qua, chiếc thứ hai từ đảo Money chạy lên họp cùng chiếc thứ nhất và ra xa khỏi đảo Robert khoảng hơn 1 hải lý. Thế là gọng kềm lại siết chặt hơn. Cuộc chiến bằng nước bọt lại bùng nổ dữ dội. Mặc dù cỏ vẻ e dè, 2 chiếc tàu Trung Cộng vẫn ngoan cố bám vùng, và vẫn trả lời chúng tôi bằng giọng điệu cố hữu: "Hãy ra khỏi hải phận Trung Quốc". Bốn chiếc tàu, 2 lớn ở ngoài, 2 nhỏ ở giữa vẫn thả trôi bình yên để mặc cho con người đấu khẩu. Có lẽ không còn kiên nhẫn được nữa, HQ 4 nổ máy đâm thẳng ngang hông tàu địch, đẩy nó ra khơi. vì vận tốc chậm, có lẽ khoảng 2 máy tiến 1, nên không có thiệt hại nào cho bên địch, nếu có, có lẽ bát đũa nồi nêu cơm nước bị đổ bể tùm lum trong phòng ăn và nhà bếp. trước thái độ quyết liệt của HQ 4, tàu Trung Quốc đành nhượng bộ, mở máy, từ từ tăng tốc độ chạy về phía Nam của 2 đảo Duy Mộng và Quang Hòa, để lại chiến trường một vùng nước bọt trắng xóa. Chúng tôi toàn thắng mà không tốn một viên đạn (chỉ tốn một cái húc của Trung Tá Vũ Hữu San).

Chia sẻ trang này