1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tổng kết các giai đoạn Lịch sử Việt nam trong thế kỷ 20

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Dilac, 28/10/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Chiều ngày 17/1/1974. Sau khi "đánh tan" 2 tàu Trung Cộng đi, HQ 4 cho đổ bộ khoảng 20 người nhái lên đảo Money, thu dọn cờ Trung Cộng, cắm cờ Việt Nam Cộng Hòa, và HQ 16 chuẩn bị 1 xuồng đổ bộ 15 nhân viên cơ hữu lên đảo Robert ngay tối hôm đó. 15 nhân viên này phần lớn được lựa chọn trong ngành trọng pháo, mang theo súng ống, đạn dựơc cá nhân đầy đủ, cùng thực phẩm khô dùng trong vài ba ngày. Toán đổ bộ do Hải Quân Trung Uý Lâm Trí Liêm Chí Huy. Liêm vốn là sĩ quan khóa 10 OCS, sau khivề nước, phục vụ phần lớn tại giang đoàn, do đó được Hạm Trưởng chọn lựa vì hy vọng rằng Liêm sẽ có kinh nghiệm trên đất liền nhiều hơn là trên chiến hạm. Kết quả cho thấy sự chọn lựa này rất đứng đắn, vì sau khi tàu 16 buộc phải rời vùng mà không thể bốc toán đổ bộ của Liêm, Liêm đã chỉ huy toán vượt biển trên xuồng đổ bộ và sau 15 ngày đói khát, đã được ngư dân Qui Nhơn cứu sống. Chỉ một người chết sau khi đã lên thuyền ngư dân. Súng ống, máy truyền tin được đem về đơn vị đầy đủ. Trong ngàyvượt thoát, toán đổ bộ chỉ còn 2 ngày lương khô và 1 can 18 lít nước đã dùng gần hết sau 2 ngày trên đảo. Toàn bộ 15 người - kể cả người đã chết - được thăng thưởng 1 cấp. Liêm được thăng đại uý nhiệm chức sau chưa đầy 1 năm mang lon trung uý.
    Khoảng 6 giờ chiều ngày 17/1/1974, lúc đó trời còn lại vài tia nắng yếu ớt chiếu rãi rác trên mặt biển xanh rờn, 2 chiến hạm thực thụ của hải quân Trung Quốc xuất hiện. Căn cứ theo sự quan sát lúc đó và trong ngày giao chiến, chúng thuộc loại Konstrat của Liên Sô chế tạo, dài khoảng gần 100 mét, nghĩa là gần bằng HQ 16, nhưng bề ngang hẹp hơn. Vận tốc tối đa khoảng gần 30 knots, nghĩa là gần gấp đôi HQ 16. Trang bị cũng không có gì tối tân lắm. 1 khẩu đại bác 100 ly trước mũi, 2 khẩu đại bác 37.6 ly hai bên về phía trước và hình như 1 khẩu phía sau. Còn ngoài ra là loại súng nhỏ. So sánh về hỏa lực thì bên ta có phần trội hơn. HQ 16 có 1 khẩu 5" (127) trước mũi. Sau đó là 2 khảu 40 ly đôi và 1 đại bác 40 ly đơn ở sau lái. Không kể 2 dàn đại bác 20 ly đôi bên hông phòng lái ngay dưới đài chỉ huy, 2 dàn 20 ly đơn ở sân thượng phía sau, cùng 5 khẩusúng cối 81 ly. Hai chiến hạm này sau khi nhập vùng, cũng chỉ về lẩn quẩn ở hai đảo Quang Hòa và Duy Mọng. Không thấy có hành động khiêu chiến, nhưng chúng chắc chắn giữ bằng được 2đảo đó mà hành động nghênh cản của chúng vào ngày hôm sau đã chứng tỏ điều đó.
    Bữa cơm tối ngày 17-01-1974, phòng ăn sĩ quan có vẻ trang nghiêm hơn lệ thường. Những tiếng nói cười cũng ít đi, tiếng hỏi đáp có vẻ cố hạ giọng chỉ vừa đủ cho người đối diện nghe. Không khí như ngưng lại dành chỗ cho loa phóng thanh phát đi bản tin hàng ngày. Cũng trái với lệ thường, bản tuyên cáo của chính phủ VNCH về vấn đề Hoàng Sa được đọc trước bản tin đầu giờ. Trong bản tuyên cáo đó, bộ Ngoại giao thay mặt chính phủ và nhân dân Việt Nam tuyên bố Hoàng Sa là vùng lãnh thổ không thể chuyển nhượng của mình, căn cứ trên thực tại và các chứng cứ trong lịch sử, đồng thời tố cáo trước dư luận quốc tế việc lấn chiếm hai đảo Quang Hòa và Duy Mộng của Trung Cộng - Sau cùng, để giải quyết vấn đề, chính phủ VNCH đề nghị cả hai cùng đưa vấn đề ra xét xử trước tòa án quốc tế La Haye. Mọi người cũng cố ý lắng nghe bản tin thời sự và chiến sự trong ngày. Như một sự tò mò cố hữu, ai cũng muốn biết đài phát thanh nói như thế nào về hoạt động của chính mình, những người đang đối diện với kẻ thù giữa đêm đông trong vùng biển xa khơi này. Tôi không nhớ rõ chi tiết bản tin, nhưng cái tên tuần dương hạm Lý Thường Kiệt được đài phát thanh nhắc nhở nhiều lần. Và chính sự nhắc nhở đó đã gợi cho một sĩ quan nào đó một sự so sánh tuy không chuẩn xác nhưng nghe đầy hào khí:
    - Ngày xưa vị anh hùng Lý Thường Kiệt đem quân đánh Tống, ngày nay lại tuần dương hạm Lý Thường Kiệt cũng sẽ sẵn sàng đuổi quân Trung Cộng ra khỏi Hoàng Sa.
    Câu nói vô tình bỗng nhiên phá vỡ cái vẻ trang nghiêm tạm thời và cái sinh hoạt sôi động của phòng ăn trở lại trạng thái nhộn nhịp như cũ. Mọi người thay nhau bàn luận về những việc hiện tại, cùng kể lại những bài học lịch sử đánh Tống bình Nguyên đuổi Minh của những vị anh hùng thời trước. Và nhờ đó, nhiệt tình của tuổi trẻ được dịp bốc cao như thử chúng tôi sắp sửa biến thành những anh hùng.
    Sáng ngày 18-01-1974, HQ5 hiện diện trong vùng như một sự tăng cường cần thiết. Ðây là một tuần dương hạm cùng loại với HQ16 (Whec) do một vị Trung Tá (Lê Văn Thự) chỉ huy. Cùng đi trên HQ5 là Hải quân Ðại Tá Hà Văn Ngạc, chỉ huy trưởng Hải đội 3 tuần dương trực thuộc Bộ Tư lệnh Hạm Ðội, được chỉ định làm Tư lệnh lực lượng đặc nhiệm Hoàng Sa. Như vậy, lực lượng hiện có 3 chiến hạm (HQ4 -HQ5-HQ16) và sẽ có thêm Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ10) đang trên đường đến nhập vùng. Sự hiện diện của một vị sĩ quan cao cấp đã từng tu nghiệp ở đại học hải chiến Hoa Kỳ làm cho chúng tôi thêm tin tưởng. Có lẽ để thực hiện cái sở học của mình, nên sau khi nhập vùng và nhận quyền chỉ huy, Ðại Tá Ngạc đã hội ý cùng các Hạm trưởng qua máy truyền tin và ngay buổi trưa hôm đó, hình thành một kế hoạch mà tôi tạm gọi là "phô diễn lực lượng" sẽ khởi sự vào buổi chiều. Có lẽ kế hoạch chỉ là để thăm dò khả năng của các chiến hạm hơn là một cuộc hành quân, bởi vì trong kế hoạch, mặc dù các chiến hạm đều ở trong nhiệm sở tác chiến nhưng mọi khẩu pháo đều được quay cao 45ậ.
    Chúng tôi thực hiện kế hoạch thao diễn với lòng hăm hở được một dịp thực tập vận chuyển chiến thuật mà từ lâu đã bỏ quên sau khi rời khỏi ghế nhà trường. Những ý niệm về đội hình hàng dọc, hàng ngang; những màu cờ của Golf, Code; những quay phải quay trái; những vận tốc cùng hướng đi biểu kiến; tất cả sẽ được tái tạo lại trong một buổi chiều đẹp trời. Với ba chiến hạm, lực lượng của chúng tôi trông ra có vẻ hùng dũng lắm rồi. Ði đầu là hai tuần dương hạm bệ vệ (HQ16 rồi đến HQ5), nước sơn còn mới với hai khẩu đại pháo 127 ly, rồi sau cùng HQ4 tuy nhỏ con nhưng cũng nhanh nhẹn và đặc biệt lại còn mang hơi hướm hiện đại của một khu trục hạm của Hải Quân Hoa Kỳ. Bắt đầu chiến dịch với ba rừng cờ phất phới trên ba cột buồm, ***g lộng trong gió chiều và trong nắng vàng cuối đông. Những dàn ra đa khổng lồ đang quay chầm chậm vừa làm nhiệm vụ trấn thủ vừa cung cấp dữ kiện để đo khoảng cách và vận tốc của tàu địch. Trên đài chỉ huy, các giám lộ viên có tay nghề cao nhất đang chờ lệnh và sẵn sàng thực hiện những khẩu lệnh của Hạm trưởng liên quan đến cờ đèn và giải thích cùng báo cáo những hiệu kỳ của soái hạm. Chúng tôi tiến theo đội hình hàng dọc, từ phía nam đảo Pattle và trực chỉ 160ậ về hai đảo Quang Hòa - Duy Mộng. Tất cả cùng hai máy tiến 2, cách khoảng 500 mét, đàng hoàng tiến về phía địch như những hiệp sĩ thời trung cổ. Khi vừa chạy được 1 hải lý, hai chiến hạm Trung Cộng mang số hiệu 300 đang nằm im trong vùng biển, cùng nổ máy tăng tốc và cũng theo đội hình hàng dọc tiến đến hướng chúng tôi. Chiến hạm của chúng chạy rất nhanh, có lẽ hai máy tiến full, nên để lại đằng sau những bọt nước trắng xóa và tạo ra những làn sóng bập bềnh. Tuy nhiên, cả đội hình chúng tôi vẫn bình thản tiến theo lộ trình. Khi đến cách chúng tôi chừng dưới một hải lý, chiếc đi đầu bỗng quay trái, được một đoạn ngắn là quay trở ngược chiều (180ậ) chạy băng ngang trước mũi HQ16. Chỉ vừa qua khỏi, chúng lại lộn ngược trở lại về phía phải để làm một đường ngang khác. Và chiếc sau cũng lặp lại những động tác y như vậy để rồi cuối cùng cái đường dăng ngang của chúng chỉ cách mủi tàu chúng tôi chưa tới 150 mét. Vì chúng chạy với vận tốc tối đa, mà chúng tôi đo được 28 gút, khoảng cách lại quá gần nên những lượn sóng do chúng tạo ra làm tàu chúng tôi bồng bềnh như có gió mạnh. Cái hàng rào tưởng tượng mà chúng dăng ngang làm chúng tôi thấy khó xử. Không thể xử dụng võ lực, cũng khó tiến thêm vì có thể đụng chạm. Cuối cùng, chúng tôi được lệnh quay mũi theo hàng dọc trở về hướng Bắc. Kế hoạch "phô diện lực lượng" thế là hoàn tất, và mặc dầu không rõ hết ý đồ của vị Tư lệnh lực lượng, chúng tôi đều cảm thấy hài lòng với một vài dữ kiện có thể nắm được, đó là sự quyết tâm của các chiến hạm ta trong việc bảo vệ lãnh-hải. Chúng tôi cũng thấy cái lợi thế vận tốc gần gấp đôi của các chiến hạm địch (28/16) để đề-phòng.
    Buổi tối, ngay vùng biển phía bắc, giữa vùng lòng chảo của các đảo bao bọc, chỉ có một mình HQ16 đơn độc trấn đóng với một quân số chỉ hơn trăm người, HQ4 và HQ5 cùng trở về phía nam của hai đảo Quang Hòa, Duy Mộng, để rồi khoảng 10 giờ tối, HQ10 tới nơi và nhập với HQ16 trở thành phân đội 1 do HQ Trung tá Lê Văn Thự (Hạm trưởng HQ16) chỉ huy. HQ4 và HQ5 là phân đội 2 do Hạm Trưởng HQ4 chỉ huy. Tất cả đều dưới quyền chỉ huy thống nhất của Ðại tá Ngạc, tư lệnh lực lượng đặc nhiệm. HQ10 là một hộ tống hạm (PCE) dài khoảng 60 mét với một quân số trên 70 người theo bảng cấp số. Ðược trang bị một đại bác 76.2 ly ở trước mũi và 2 đại bác 40 ly đơn ở boong trên sau lái. Vận tốc tối đa là 13 gút. Hạm Trưởng là Hải quản Thiếu tá Nguỵ Văn Thà, hình như khoá 12 và Hạm phó là Hải quân Ðại uý Nguyễn Thành Trí khoá 17. Ðại uý Trí mới về làm hạm phó HQ10 chỉ trong vòng 3 tháng sau khi tốt nghiệp khóa 2/73 trung cấp chuyên nghiệp Hải quân tại Trung tâm Huấn luyện Hải quân Sài Gòn. HQ10 đến giữa lúc chúng tôi đang cảm thấy cô độc giữa các hòn đảo xung quanh và làm chúng tôi an tâm phần nào.
    Thực ra, sự phân chia thành phân đội cũng như lệnh bổ nhiệm các phân đội trưởng chỉ chính thức được ban hành cùng với lệnh hành quân do tư lệnh LLDN / Hoàng Sa gởi cho các chiến hạm vào khoảng 12 giờ đêm 18-01-1974. Mục đích của cuộc hành quân này là chúng tôi sẽ tái chiếm 2 đảo Quang Hòa và Duy Mộng vào ngày hôm sau (19-01-1974) và chúng tôi sẽ phải hoàn tất mọi sự chuẩn bị để sẵn sàng tác chiến trước 6 giờ sáng. Nhiệm vụ chính của phân đội 2 là đổ bộ khoảng một trung đội người nhái lên đảo và nhiệm vụ của phân đội 1 (HQ16 + HQ10) là yểm trợ hỏa lực. Tuy nhiên, ngoài việc phản công phân nhiệm, phần ghi chú cuối cùng trong lệnh hành quân có hai câu mang đầy mâu thuẫn : Tái chiếm hai đảo bằng bất cứ giá nào nhưng tránh tối đa việc xử dụng hỏa lực. Sự mâu thuẫn này đã gây ra một cuộc bàn cãi khá sôi nổi và mất không ít thời gian vào lúc một nhóm chúng tôi ngồi canh câu lạc bộ của chiến hạm để uống cà phê buổi sáng. Cuối cùng chúng tôi tạm đưa ra một kết luận rằng đây chỉ một đòn chiến tranh tâm lý để làm an lòng các sĩ quan và chiến sĩ thuộc quyền.
    Chúng tôi bị đánh thức dậy lúc khoảng 1 giờ sáng ngày 19-01-1974 và được lệnh tập họp tại phòng ăn đoàn viên. Hầu hết mọi người vẫn còn ngái ngủ hoặc đang mệt mỏi vì vừa giao ca xong lúc 12 giờ nên phòng ăn đông người mà vẫn yên lặng. Hơn nữa, lần tập họp bất thường giữa đêm khuya trong cái không khí căng thẳng và đầy thuốc súng này thì ai cũng hiểu là có chuyện. Và chuyện gì khác hơn là sự báo trước của một cuộc chiến sắp mở màn? Thời gian chờ đợi Hạm trưởng đến không dài và các cửa phòng đều đóng kín nhưng tôi tự nhiên thấy lạnh. Cơn lạnh cuồn cuộn bốc ra từ bao tử, lan dần đến ngực, bụng và toàn châu thân. Tôi ngần ngại nhìn mọi người vì cảm thấy không lẽ mình quá hèn nhát. Ðể trấn tĩnh, tôi vươn vai ngáp dài rồi đưa tay che miệng, sau đó lôi thuốc Bastos ra hút. Châm được điếu thuốc trên ngọn lửa của cái bật lửa zippo mà tôi cảm thấy khó khăn vì hình như ngọn lửa rung rinh trên bàn tay run rẩy. Hít được khói thuốc vào tận buồng phổi để thấy mình dễ chịu hơn đôi chút, tôi tập trung tư tưởng để tự mình thắng được nỗi sợ hãi và hèn nhát bằng niềm kiêu hãnh của một sĩ quan hải quân và nhờ đó giúp cho mình đứng vững.
    Hạm trưởng đến vừa đúng lúc cho tôi có dịp đứng dậy hô "vào hàng, phắc" dù là lúc nửa đêm. Tiếng hô làm cho mình thêm can đảm và cái lạnh không biết biến đi tự lúc nào. Với cái áo Jacket xanh khoác ngoài bộ quân phục màu nước biển, Hạm trưởng nom có vẻ mệt mỏi. Chính sự mệt mỏi này cùng với cái vẻ lè phè khi ông lê đôi dép Nhật tạo một sự gần gũi hơn so với thường ngày. Ông tóm tắt nội dung lệnh hành quân và ra lệnh cho toàn thể mọi người cố gắng vận chuyển hết đạn dược từ các kho lên đặt cạnh các ụ súng vì sự thiếu hụt quân số (đi phép và đổ bộ lên đảo) có thể cản trở rất nhiều trong việc tiếp tế đạn dược trong thời gian lâm chiến. Ông cũng yêu cầu Quản nội trưởng cùng tôi (SQ nội vụ) sắp xếp lại toàn bộ các nhiệm sở cho phù hợp với nhu cầu tình hình quân số lúc đó. Nhân viên trọng pháo bây giờ không còn được một nửa nên số này ưu tiên dành cho đại bác 127 ly ở trước mũi và Trung uý Ðoàn Viết Ất, sĩ quan trọng pháo làm trưởng khẩu. Ðích thân Hạm trưởng chỉ định tôi làm sĩ quan Hải hành và Ðại úy Nam,Trưởng khối hành quân phụ trách phòng CIC (Trung tâm hành quân thông báo).
    Phải mất hơn 2 giờ việc vận chuyển đạn dược mới hoàn tất. Mọi người, sĩ quan, hạ sĩ quan và đoàn viên, trừ những người đang đi "quart", đều lăn xả vào công việc. Khiêng, vác, bưng. Cả một chiến hạm rầm rập tiếng chân người chen lẫn tiếng vỏ đạn, thùng đạn chạm vào nhau hay vào thân tàu, sàn tàu, hợp thành một âm thanh hỗn độn. Ðèn đuốc được thắp sáng mọi nơi nhưng những ngọn đèn ở ngoài thì được che chắn cẩn thận để tránh sự nghi ngờ của địch. Chính nhờ những hoạt động năng nổ này làm mọi người quên đi nỗi lo âu cho số phận của mình vào ngày mai khi cuộc chiến bắt đầu, đẩy lùi lại phía sau nỗi sợ hãi, tính hèn nhát, cũng như những thắc mắc suy tưởng.
    Tôi trở lại phòng ăn đoàn viên sau khi xong việc, đến câu lạc bộ mua một ly cà phê rồi cùng một số sĩ quan khác ngồi ngay đó nói chuyện. Không ai trong nhóm này muốn trở về phòng để phải đối diện với thực tại đáng lo, rồi sinh ra bi quan chán nản để trở thành một tên hèn nhát. Chúng tôi nói mọi chuyện, từ nỗi thắc mắc về lệnh hành quân đến những câu chọc cười vô thưởng vô phạt. Nhưng đã không còn những tràng cười khoái trá mà chỉ còn là những nụ cười thật nhẹ, có chút gượng gạo nữa. Rồi lên phòng ăn sĩ quan, húp từng muỗng cháo nóng mà nhân viên nhà bếp mang lại. - đây, cũng lại cái không khí hơi thiếu tự nhiên dù ai cũng cố dấu kín tâm sự chính mình. Chỉ biết cố gắng hòa lẫn vào đám đông để khỏi đối diện với chính mình với bao bất trắc của sáng ngày. Rồi tôi lên tiếng, cố đùa:
    - Ðây có thể là tô cháo cuối cùng và vừa rồi có thể là ly cà phê cuối cùng.
    Nói xong câu này, không ai cười, nhưng trong tôi bỗng biến đổi. Một nỗi trống vắng, xa lạ xâm chiếm tâm hồn.Như không còn là tôi, không còn cần thiết gì nữa. Không còn ham muốn điều gì, kể cả sự sống. Không còn sợ hãi điều gì, kể cả cái chết. Không luyến thương vương vấn ai, kể cả mẹ già. Không thèm ăn, không thèm hút. Không thèm gì hết.
  2. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Ðúng 7 giờ, còi nhiệm sở tác chiến vang lên dồn dập, đồng thời ở mọi góc phòng, tiếng loa phóng thanh liên tục phát ra từ đài chỉ huy: "Tất cả mọi người vào nhiệm sở tác chiến". Tôi chạy vội về phòng ngủ, lấy một gói thuốc Bastos bỏ túi, mang áo phao, đội nón sắt chạy lên đài chỉ huy. Hạm trưởng đứng đó, cũng áo phao nón sắt, và ống nhòm đeo trên cổ đang cầm lên để quan sát tàu địch. Sau đuôi HQ16 là HQ10 đang chạy theo đội hình hàng dọc với 2 máy tiến 1. Về phía nam, hai chiếc tàu Trung Cộng có số hiệu 300 đang ở mặt bắc của đảo Quang Hòa, Duy Mộng và ở phía tây nam là 2 chiếc số hiệu 200 có lẽ mới nhập vùng đêm qua. Cả bốn chiến hạm địch cùng chạy chậm gần hai đảo, làm thành một vòng bán nguyệt. Xa hơn về phía nam là HQ4 và HQ5 giờ này có lẽ cùng đang trong tình trạng chuẩn bị tác chiến. Trên HQ16, mọi người đang lục tục chạy vào vị trí của mình. Trước mũi, nắp đậy của lỗ quan sát của khẩu pháo 127 ly bật tung và ngoi lên cái đầu của Trung uý Ất trưởng khẩu. Ất đội một nón sắt rộng vành có trang bị ống nghe nội bộ úp vào lỗ tai. Trên đó một tầng là khẩu 40 ly đôi dang được mở bọc bạt, nòng bắt đầu quay phải trái, lên xuống để điều chỉnh. Trong hai nòng, 4 kẹp đạn sáng chói đang chồng thành 2 cặp song song nhau. Cùng tầng đó, ngay hai bên hông đài chỉ huy là 2 khẩu 20 ly đôi cũng đang được lắp đạn. Sau đó, tiếng báo cáo từ phòng CIC của Ðại uý Nam vang lên từng chặp. Vừa lên đài chỉ huy, tôi nhận định vị trí rồi làm cái "point" đầu tiên của một sĩ quan hải hành, sau đó kiểm tra lại sổ hải hành, đọc lướt qua những diễn biến được ghi lại trong đêm. Một hạ sĩ quan giám lộ đang cầm bút sẵn sàng ghi chép vào đó những mệnh lệnh của Hạm trưởng, những báo cáo của phòng CIC, phòng truyền tin cùng những diễn biến quan trọng xảy ra. Công việc bận rộn với những hoạt cảnh trước mắt đã hoàn toàn xóa tan trong tôi cái cảm giác trống không trong phòng ăn, nỗi lo sợ và cái lạnh trong phòng họp. Cũng như mọi người, tôi hòa nhập vào nhiệm vụ, vào đám đông, bỏ quên mình để trở thành một mắt xích của một guồng máy đang quay đều.
    Trong vòng hơn một tiếng rưỡi đồng hồ sau đó, hầu như không có gì xảy ra cho chiến hạm. Những báo cáo, chỉ thị cứ tiếp tục được truyền đến và đi. Tiếng rè rè của máy truyền tin PCR 25 đặt bên cạnh thỉnh thỏang lại phát ra tiếng nói của những giới chức thẩm quyền từ các chiến hạm bạn. Cả hai phân đội cũng đang chạy vòng vòng, chầm chậm quanh khu vực mà mình trấn thủ, trong khi hai phân đội của địch cũng như đang được chia ra để thành hình từng cặp đối diện. Riêng tôi, cứ 15 phút lại làm một "point", kiểm soát sơ qua về những gì mà hạ sĩ quan giám lộ đã ghi trong sổ hải hành.
    Khoảng hơn 9 giờ, HQ16 nhận được lệnh cùng với HQ10 yểm trợ cho HQ4 đổ bộ người nhái lên đảo (tôi không nhớ là đảo nào) bằng cách cả hai chiếc chúng tôi làm một cuộc diễn hành hàng dọc nhắm thẳng hai đảo tiến tới làm như thể chúng tôi sẵn sàng áp sát đảo để đổ bộ hay tấn công gì đó. Có lẽ đây là cái kế "dương đông kích tây" của Tư lệnh lực lượng, nhờ đó phân tán được chiến hạm địch và có thể tạo sự chú ý của hai chiến hạm địch phía dưới để thừa cơ HQ4 đổ bộ. Lệnh thì phải thi hành, nhưng riêng tôi nhận xét thì kế này không thành công bao nhiêu vì hai chiến hạm số hiệu 200 của Trung Cộng ở mặt tây nam sẽ không cần được điều động lên mặt bắc vì với lực lượng tương đương, 2 chiếc số hiệu 300 cũng đủ cầm chân chúng tôi. Tuy nhiên tôi không rõ bằng cách nào mà sau đó khoảng hơn 30 phút, HQ4 báo cáo là đã đổ bộ xong toán người nhái lên đảo. Và từ đó, trên tần số thường lệ của máy PRC 25 lại vang lên thêm tiếng của một đơn vị bạn đang nằm ngay trong lòng địch. Tôi thấy rằng việc đổ bộ thành công này quả là một kỳ công của HQ4 bởi vì nó diễn ra trước mũi của hai chiến hạm Trung Cộng mà chỉ bằng những chiếc xuồng đổ bộ được chèo bằng tay. - phía trên, khi chúng tôi nhận được lệnh tiến về phiá đảo, HQ10 hình như có vẻ chần chừ vì khoảng cách giữa chúng tôi ngày càng xa và Hạm Trưởng HQ16 đã nhiều lần thúc dục HQ10 phải chạy sát nhau hơn. Khi chúng tôi chạy được nửa đường, hai chiến hạm Trung Cộng bắt đầu tăng tốc chạy ra ngăn cản. Lúc đó là gần 10 giờ. Chúng chạy thật nhanh đến phía chúng tôi rồi lại quay mũi, chạy hàng dọc ngang qua trước mũi tàu HQ16 để làm thành cái đầu của chữ T mà chúng tôi là thân chữ T - Và mọi chuyện xảy ra lại giống chiều hôm qua nếu như HQ16 không ngoan cố cứ tiếp tục thẳng tiến. Có lẽ thấy rằng khó có thể ngăn cản nổi chúng tôi mà không xảy ra một vụ đụng tàu bất ngờ và nguy hiểm, một chiếc đã chủ động chạy ra xa hơn rồi quay lại với một vòng rộng hơn để mũi tàu không băng ngang trước mũi tàu HQ16 mà lại đâm thẳng vào hông phải chúng tôi với một góc 90ậ. Lúc đó tôi đang đứng ngay la bàn hữu hạm, tầng dưới là cabin Hạm trưởng, phía ngoài của cabin là khẩu đại bác 20 ly đôi với hai nồi đạn đang nằm trên giá và nòng súng thì lúc nào cũng chĩa thẳng vào tàu địch. Tàu địch lúc đó đang tiến về phía HQ16 với vận tốc 15 gút và vận tốc của HQ16 chỉ khoảng 6.7 gút. Nhìn chiếc tàu địch đang sừng sững tiến về phía mình, nhắm đúng vào chỗ mình đang đứng, trong tôi không còn là nỗi lo sợ, không còn là sự hoảng hốt, chỉ thấy như thân mình bay bổng lên, nhẹ tênh và các phản ứng hầu như chết lặng đi một lúc. Tôi ghì mạnh hai tay, nắm vào thành tàu, cố giữ vững thế đứng và tạo sự bình thản trên khuôn mặt như một kẻ bàng quang đứng nhìn. Khi còn cách nhau khoảng 20 mét, tôi nghe tiếng Hạm trưởng: "Lấy hết tay lái bên trái". và tôi cũng đoán rằng tàu địch cũng đang lấy hết tay laí bên phải, nên khi hai chiếc chạm nhau, mũi tàu địch đâm vào một góc rất nhỏ, quệt dài theo hông bên phải cho đến mũi tàu. Hai chiếc song song chạy như đang cập vào nhau và tôi có cảm giác nếu như tôi đưa bàn tay ra là có thể với tới một bàn tay cũng đưa ra từ bên tàu địch. Mũi nhọn của chiếc neo hữu hạm HQ16 móc vào bè đào thoát của địch làm nó rơi xuống biển. Tôi nghe một cái rùng mình nhẹ của HQ16 nhưng tàu địch thì chòng chành như có sóng lớn làm một tên - hình như sĩ quan - té nghiêng vào thành tàu, còn một tay đầu bếp té ngửa đưa bốn vó lên trời khi đang mò ra boong chính. Hai tay y lúc đó đang bưng một rổ cà chua - Cùng với người, những trái cà chua đỏ mọng rớt xuống lăn long lóc trên sàn. Khi hai tàu hoàn toàn tách nhau, không hiểu sao tên sĩ quan bị té lại rút súng ngắn ra chĩa lên trời bắn một phát. Cái đụng chạm bất thần và ngắn ngủi dường như làm cả tàu ngơ ngẩn bàng hoàng như vừa trải qua một cơn ác mộng - Chúng tôi cũng không hiểu sao các xạ thủ vẫn bình thản nhìn sự việc xảy ra mà không hoảng hốt bóp cò. Chỉ một sự sai sót xảy ra, cả một chiến hạm địch sẽ hứng nguyên cả nhiều tràng đại bác 20 ly, mà không những cuộc chiến mở màn một cách đẫm máu và chúng tôi ở đài chỉ huy chỉ cách có 2 mét cũng không tránh được thương vong.
    Biến cố qua đi, tôi mới định thần và trở về với công việc. Sau đó HQ16 và HQ10 quay mũi trở về hướng bắc vì đã nhận được tin toán đổ bộ người nhái đã hoàn toàn xâm nhập đảo qua máy CR 25. Những tiếng báo cáo của họ về tình hình trên đảo nghe rõ mồn một. Ðại khái là Trung Cộng đã xây dựng trên đó những công sự phòng thủ kiên cố và một đài quan sát, được bảo vệ bởi gần một tiểu đoàn quân trú đóng. Toán đổ bộ cũng yêu cầu Tư lệnh LLDN cho phép được thay đổi kế hoạch để họ có thể xử dụng hỏa lực để chiếm đảo. Họ cũng e sợ rằng việc tránh xử dụng hỏa lực có thể làm cho họ hoàn toàn bị bắt sống bởi một quân số địch vượt trội khi họ tiến vào. Cho đến lúc này tình thế đã có vẻ gay go vì mục đích của cuộc hành quân sẽ không đạt được nếu không nổ súng. Nhưng nếu thế thì mọi chiến hạm đều phải nhập cuộc và một cuộc hải chiến khốc liệt sẽ mở màn, rất trái với tinh thần của lệnh hành quân. Vả chăng, việc khai chiến sẽ không nằm trong thẩm quyền của một vị Tư lệnh chiến dịch, cũng không hẳn ở một vị Ðô Ðốc Tư lệnh Hải quân, mà chắc chắn phải xuất phát từ vị Tư lệnh tối cao của quân đội.
    Vậy mà, chỉ chừng chưa đầy 10 phút sau đó, chúng tôi nhận được lệnh của vị Tư lệnh / LLÐN yêu cầu HQ16 và HQ10 chuẩn bị để tác xạ lên đảo để yểm trợ cho toán người nhái đang bắt đầu tiến vào. Trong khi đó HQ4 và HQ5 sẽ tác xạ trực tiếp vào tàu địch. Tôi nhận thấy rằng hiện tại nếu cuộc chiến xảy ra, tình thế đã chia làm 2 khu vực rõ rệt. HQ16 và HQ10 đang ở mặt tây Bắc của đảo, đang đối đầu với hai chiến hạm địch hiệu số 300. - mặt tây nam, HQ4 và HQ5 trực diện với hai chiến hạm khác. Khoảng cách giữa 4 chiến hạm VNCH có lẽ còn xa hơn 10 hải lý. Nếu chúng tôi, HQ16 và HQ10, chỉ chú tâm bắn lên đảo, hai chiến hạm 300 sẽ dễ dàng làm thịt chúng tôi. Và chúng tôi sẽ trở thành tấm bia cho chúng tập bắn. Với khoảng cách như vậy HQ4 và HQ5 đâu đủ sức để yểm trợ mình, đó là chưa kể họ còn phải lo liệu kẻ thù trước mặt, chưa chắc đã làm gì được chúng. Ngoài ra, còn cần phải có một tầm nhìn rộng rãi hơn để thấy rằng, với một trận chiến giữa biển khơi, ai làm chủ mặt biển, kẻ đó sẽ làm chủ đất liền. Sá gì một tiểu đoàn quân trú đóng chỉ được trang bị súng cầm tay nếu 4 cái gai trước mắt đã được thanh toán xong? Ý nghĩ đó của tôi tức thời được trình bày lên Hạm trưởng và ông rất đồng ý. Sau đó ông trao đổi với Ðại tá Ngạc để xin cho HQ16 và HQ10 được đánh phủ đầu 2 chiến hạm địch. Ông không đồng ý lúc đầu và tôi vì bận công việc không nghe rõ ý kiến phản bác của ông. Hạm trưởng vẫn không chịu và cuộc mặc cả dài đến hơn 5 phút rồi đi đến một biện pháp dung hòa. HQ10 tác xạ lên đảo và HQ16 sẽ tác xạ yểm trợ, bắn vào chiếc nào gần nhất. Ðây rõ ràng chưa phải là giải pháp tối ưu nhưng trước mệnh lệnh của cấp trên, chúng tôi phải thi hành. Và, tiếng súng của HQ10 trở thành tiếng súng lệnh để các chiến hạm bắt đầu cuộc hải chiến. Ðể có thể dễ dàng nổ súng, HQ10 từ sau lái tách qua bên phải để hai chiếc chạy song song hướng mũi về 2 đảo, nếu khi nào cảm thấy thuận tiện là HQ10 sẽ khai hỏa. Trong khi đó, toán người nhái trên đảo đã báo cáo là có xung đột với địch và sau nhiều lần yêu cầu cho nổ súng, họ báo cáo là có một sĩ quan người nhái bị giết. Không thể chần chờ được nữa, Tư lệnh lực lượng hối thúc HQ 10 nổ súng ngay.
    Tất cả mọi người trên đài chỉ huy đều tập trung chú ý vào HQ10 chờ lệnh khai hỏa và tất cả các ổ trọng pháo trước mũi cũng như bên hữu hạm đều nhắm vào chiến hạm địch gần nhất, cách chúng tôi khoảng hơn 2 hải lý. Sau một tiếng nổ ầm từ khẩu 76.2 ly của HQ10 và tiếng la của Hạm trưởng "tác xạ", cả chiến hạm như bị giật lùi vì tiếng khai hỏa của đại pháo 127 ly. Những người trên đài chỉ huy chú tâm đến nỗi ai cũng có cảm tưởng mình nhìn thấy được đường đi của viên đại bác đầu tiên. Rồi tiếng nổ dồn dập của khẩu đại bác 40 ly đôi trước mũi và khẩu 40 ly đơn sau lái hữu hạm, cùng với tiếng nổ liên hồi của đại bác 20 ly làm thành một hòa âm khó tả. Khói thuốc súng từ trước mũi, sau lái, boong trên phía sau và ngay đài chỉ huy phía dưới bay lên làm mờ cả một vùng trời trên chiến hạm. Ngửi mùi khói đang bay ấy, con người mình như được kích thích bởi một cái gì, hăng hái hơn, nhanh nhạy hơn, can đảm hơn. Những tiếng nổ đinh tai nhức óc vang rền khắp chốn cũng tạo thêm một niềm tin mới, niềm tin của sự chiến thắng.
  3. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Từ lỗ tròn của ổ đại bác 127 ly trước mũi, Trung uý Ất đã đứng hẳn người lên, nhô cả thân mình lên trên ụ súng để tận mắt chứng kiến kết quả của những viên đạn đang nổ, điều chỉnh những sai sót. Tiếng oang oang thường ngày của Ất được dịp phát ra từ đó mà ở đài chỉ huy chúng tôi nghe được: "Lên hai độ", "xuống một độ", "bên phải", "bên trái một chút". Cả đài chỉ huy cùng chăm chú theo dõi từng viên đại pháo nổ xung quanh tàu địch, bỗng ồ lên như ong vỡ tổ: "Trúng rồi" Tôi nhìn lên, chếch về phía bên phải mũi tàu, một chiến hạm địch đang bốc khói. Có lẽ đó là khói của viên đạn nổ tung ngay đài chỉ huy vì sau đó, dường như hoạt động của tàu này có phần chậm lại - Tôi nhìn ra xung quanh chiến hạm mình, hàng trăm viên đạn nổ lõm chỏm giữa nước. Phía trước, phía sau, tả hạm, hữu hạm. Ðạn nổ đều khắp làm tôi mường tượng như đang ở giữa một trận mưa đá khổng lồ. Nhưng sao chiến hạm vẫn bình yên vô sự như có một sự che chở thiêng liêng nào? Tôi bỗng nhìn lại về phía trước, khẩu đại bác 40 ly đôi đang chĩa mũi lên trời mà nhả đạn liên tiếp. Tôi chỉ tay cho Hạm trưởng, rồi như một phản ứng kỳ diệu, tôi chạy xuống hai lần cầu thang ngoài trời, hấp tấp leo lên cạnh xạ thủ chiều cao. Tôi dựng đầu anh ta dậy, không nói gì cả, chỉ cho anh ta thấy tàu địch, bắt hạ mũi súng xuống và nhìn thẳng vào lỗ nhắm. Anh ta quay lại nhìn tôi rồi làm theo lệnh. Tôi an tâm chạy ngựơc trở lại đài chỉ huy giữa lúc cuộc bắn giết đang diễn ra sôi động và khốc liệt giữa tiếng pháo nổ ầm ầm. Trên đó, ai vẫn làm công việc của người đó, một cách bình thản. Bỗng tôi nhìn thấy HQ10 đang nằm bình yên giữa biển khơi cách HQ16 khoảng một hải lý bên hữu hạm. Nhấp nhô giữa biển là một vài đốm nhỏ như những tấm ván nổi lềnh bềnh. Chúng tôi đoán rằng HQ10 đã đào thoát nhưng không rõ lý do vì không nghe tiếng báo cáo nào về tình trạng của tàu. Chỉ biết thế mà không còn thì giờ thắc mắc bởi sự chú tâm độc nhất của mình bây giờ là chiến đấu trong khi không còn khả năng nào để cứu vớt đồng đội. Rồi giọng anh truyền tin nội bộ báo cáo: Trình Hạm trưởng, kho đạn 127 ly trước mũi bị thủng một lỗ.
    - Nước có vào kho không?
    Anh liên lạc lặp lại câu hỏi cho sân mũi, rồi trả lời:
    - Có, nhưng ít thôi. Chỉ khi nào mũi tàu chúi xuống thì nước có vào chút đỉnh.
    - Cô lập phòng đó lại.
    Không biết bao lâu sau đó, giữa khói đạn mịt mù, tiếng báo cáo từ hầm máy vang lên qua máy phóng thanh, có vẻ hốt hoảng:
    - Hầm máy tả hạm bị thủng một lỗ lớn, nước vào rất mạnh.
    Tiếng Hạmg Trưởng:
    - Còn gì nữa không, báo cáo.
    - Một máy điện bị phá huỷ, Trung sĩ điện khí Xuân bị trọng thương.
    - Gọi y tá đem lên băng bó gấp.
    Ngừng một lát:
    - Toàn hầm máy chỗ nào cũng bị điện giật cả. Tất cả đều đã rời khỏi hầm... báo cáo Hạm trưởng, tàu sắp chìm.
    Nghe lời báo cáo sau cùng, cả đài chỉ huy lặng đi một phút, và cùng nhận thấy tàu hơi nghiêng về phía tả hạm, rồi tình trạng nghiêng càng ngày càng lớn. Hạm Trưởng ra lệnh lấy hết tay lái qua trái, làm một vòng để quay ngược tàu chạy về hướng bắc để rời xa vùng chiến trận. Các ổ trọng pháo 40 ly sau lái bây giờ được tăng cường hoạt động ở cả hai phía. Ðồng thời, ông chụp vội lấy micro và ra lệnh: "Tất cả chiến hạm vào nhiệm sở đào thoát:. Ông lặp lại 3, 4 lần câu nói rồi đến bên tay lái, điều khiển tàu thay nhân viên lái đi vào nhiệm sở của mình - Tiếng chân rầm rập mọi nơi vang lên có vẻ nhanh hơn lúc có còi nhiệm sở tác chiến buổi sáng. Ðài chỉ huy trong một phút bỗng vắng tanh vắng ngắt. Tôi chợt nhớ lại số tiền 100.000 đồng của bà mợ ở Ðà Nẵng nhờ đem vào cho chú em đang theo học đại học ở Sài Gòn. Tôi chạy thật vội về phòng, nhưng đừơng cầu thang tối thui. Tàu lại nghiêng khá lớn nên việc di chuyển càng khó khăn thêm. Mò mẫm số tiền để trong tủ không khóa, lấy thêm 1 gói Bastos, tất cả đút váo áo phía dưới bụng, tôi chạy ngược lên đài chỉ huy mà lòng bỗng thấy sợ vì sự dại dột của mình vì tôi đang liên tưởng đến cái chết của một người bạn cùng khóa trên HQ 225 ở Năm Căn vào năm nào.
    Trên đó, Hạm trưởng đang nặng nhọc lái tàu, bên cạnh là Ðoàn Viết Ất. Cả hai không nói gì. Nhìn cái dáng cao gầy của ông đứng trước tay lái trong khung cảnh vắng lặng của đài chỉ huy, tôi như cảm thấy hết nỗi cô đơn của ông, của một Hạm trưởng đang trong tình trạng tuyệt vọng; nhưng trên nét mặt phong trần và đôi mắt đăm chiêu vẫn chứng tỏ nét kiêu hùng. Dáng đứng chơ vơ đó gây cho tôi một ấn tượng rõ nét và cho đến bây giờ, trong tôi vẫn dấy lên một niềm đồng cảm, mến phục. Ðó là dáng đứng mang đầy vẻ hiên ngang.
    Ngày 17 tháng 4 năm 1974, chiến hạm Vĩnh Long HQ-802 (LST) của chúng tôi bỗng sôi động hẳn lên với lệnh rời vùng trách nhiệm Trường Sa để tiến về quần đảo Hoàng Sa. Có tin đồn Trung Cộng sắp tấn công tấn chiếm quần đảo Hoàng Sa, và Hải Ðội III Ðặc Nhiệm trực thuộc Hạm Ðội chuẩn bị nghênh chiến. Chiến hạm chúng tôi được điều động đi yểm trợ tiếp vận vì đã được thực tập trong lực lượng đặc nhiệm Hải Ðội III năm 1973, vừa là 1 tàu với nhiều máy móc kỹ thuật. Phản ảnh sự sôi động của tình hình bây giờ, người ta còn nghe mọi thủy thủ trên tàu trong câu chuyện thường nhật lại nói chêm thêm dăm ba câu tiếng tàu vào các câu đùa cợt trong suốt hải trình ra vùng Hoàng Sa. Ðời quân đội là thế, thằm chút khôi hài trong cái cực nhọc để tìm chút vui tươi. Cá nhân tôi, vừa được đi du tập qua các quốc gia Á Châu trong vùng trách nhiệm của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ về lại Hạm Ðội VN, nhận thấy quá rõ ràng thái độ mới của chính trường Hoa Kỳ và sự bấp bênh của chính quyền Nixon, lòng tôi âu lo về sự xuất hiện của loài cá mập này càng làm gia tăng gánh nặng cho HQVN. Như vậy, thật bất ngờ, trận hải chiến Hoàng Sa sắp thành sự thật.
    Nhiệm vụ của Hải Ðội đặc nhiệm được thành lập từ năm 1973 nhằm đối phó với vấn đề đặt quân trú phòng trên lãnh hải Hoàng Sa và Trường Sa, song song với việc thăm dò tài nguyên thiên nhiên dầu hỏa thuộc về chủ quyền VN. Hải Ðội đặc nhiệm được chỉ huy bởi HQ Ðại Tá Hà Văn Ngạc (Khóa 5), cũng là Chỉ Huy Trưởng Hải Ðội 3 (Hải Ðội Tuần Dương), thuộc BTL Hạm Ðội. Thành phần của Hải Ðội đặc nhiệm cùng thao dượt mùa hè 1973 gồm có: CXH HQ-802 (Hạm Trưởng HQ Trung Tá Vũ Quốc Công) là soái hạm, CXH HQ-801 (có chở theo các Sinh Viên Sĩ Quan thuộc Trung Tâm Huấn Luyện HQ Nha Trang), Khu Trục Hạm HQ-4 (DER) và 3 Tuần Dương Hạm (WHEC). Ngoài ra còn được tăng phái 1 số hạm trưởng thâm niên để thực tập các công tác tiếp vận quy mô ngoài khơi.
    Trước đó khoảng 3 tháng, bỗng dưng Bắc Kinh lên tiếng tuyên bố chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa. Ngoại trưởng VNCH ông Vũ Văn Bắc liền lên tiếng bác bỏ và cực lực lên án ý đồ xâm lăng này của Trung Cộng. Ngày 16-1-1974 Trung Cộng mang 2 chiến hạm số 402 và 407 cùng nhiều ngư thuyền vũ trang đổ bộ lên đảo Cam Tuyền, một đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa. Ngày 17-1-1974, Khu Trục Hạm HQ-4 đến Hoàng Sa gây áp lực buộc lức lượng Trung Cộng rút khỏi 2 đảo Cam Tuyền và Vĩnh Lạc. Tuy nhiên, chiến hạm của Trung Cộng vẫn lảng vảng trong vùng. Chiều lại, tin báo cáo cho biết có thêm 2 chiến hạm săn tàu ngầm loại Kronstad của Trung Cộng được tăng cường. Nhận thấy tình hình nghiêm trọng, Bộ Tư Lệnh HQ Vùng 1 Duyên Hải ban hành lệnh hành quân Hoàng Sa 1 nhằm chiếm lại các đảo Cam Tuyền, Quang Hòa, Duy Mộng và Vĩnh Lạc. Ðồng thời, tăng cường thêm Tuần Duyên Hạm HQ-5 (Cruiser) và Hộ Tống Hạm HQ-10 (Escort) vào vùng chiến cùng với Khu Trục Hạm HQ-4 (Destroyer) và Tuần Duyên Hạm HQ-16 (Cruiser). Tăng cường thêm có Toán Hải Kích SEAL điều động bởi HQ Ðại Úy Nguyễn Minh Cảnh (Khóa 20), và toán Biệt Hải điều động bởi HQ Trung Úy Lê Văn Dũng (Khóa 20), 1 Trung Ðội Ðịa Phương Quân đang trú phòng tại đảo chính, đảo Hoàng Sa, và 1 phái đoàn công binh của Quân Ðoàn 1 (do Thiếu Tá Hồng chỉ huy) tăng viện để xây cất một phi đạo trên đảo Hoàng Sa. Lực lượng HQ Trung Cộng có 11 chiến hạm và ghe thuyền (gồm các tàu Khinh Tốc Ðỉnh Komar với hỏa tiễn hải-hải, Vớt Mìn, Trục Lôi Hạm và Hộ Tống Hạm), tổng số binh sĩ Trung Cộng hiện diện không rõ.
    Chiến hạm chúng tôi, HQ-802, hai máy tiến full vận chuyển với tốc độ nhanh đến vùng 1 Duyên Hải ngày 18-1-1974 để nhận lệnh. Trên đường đi Hạm Trưởng HQ Trung Tá Vũ Quốc Công ra lệnh hạm phó, Thiếu Tá Thái, chỉ huy bắn thử các trọng pháo để thao dượt tác xạ. Mỗi phát đại bác bắn đi, tàu chúng tôi rung chuyển khắp thân của khối sắt nỗi, hầu hết thủy thủ đoàn đều lên boong tàu lúc thao dượt tác xạ. Chúng tôi chỉ biết HQ-5 đã tiến ra Hoàng Sa với toán SEAL, HQ-4 mang theo toán Biệt Hải, và HQ-16 đang có mặt ngoài khơi Hoàng Sa. Dĩ nhiên là mọi thủy thủ đều quan tâm đến những diễn tiến đầy kinh ngạc này. Ðang bận đương đầu với chiến cuộc với CSVN mà HQVN tham dự bằng yểm trợ hỏa pháo từ mặt biển, nay nghe tin HQ Trung Cộng sử dụng chiến hạm với tốc độ nhanh trang bị hỏa tiễn vượt trội hơn hỏa lực HQVN, ai cũng lo ngại về sự bất cân bằng của trận hải chiến. Trước đó khoảng 1 năm, CXH Vĩnh Long HQ-802 được lệnh đi thao dượt tập đội tại ngoài khơi Trường Sa, theo các tin tức là 2 quần đảo Trường và Hoàng Sa có thể có các mỏ dầu quan trọng. Từ đó chúng tôi rời đất liền với những công tác dài hạn kéo dài vài ba tháng lênh đênh chỉ thấy những nước và sóng biển, thèm khát mặt đất, cây cối, nhà cửa và những tà áo dài. Hải đảo Trường Sa buổi chiều các hải âu bay về hòn đảo nhỏ với số lượng đông đảo làm đen cả bầu trời và tiếng kêu chíu chít nhộn nhịp của bầy chim có thể nói kinh khủng như phim "Birds" của vua kinh dị Hitchkok. Ai muốn bắt bao nhiêu chim và lấy bao nhiêu trứng chim hải âu này đều được cả. Chỉ cần lấy xoong, giỏ ra mà xúc bắt vì chúng nhiều vô số. Các sinh vật dưới biển nhiều con thật lạ lùng, các anh Ðịa Phương Quân ăn phải cá biển độc bị sưng phù và nhiễm bệnh nhiều đến nỗi chúng tôi phải chở thêm y sĩ ra trị bệnh. Có buổi chiều tàu bỏ neo, tôi đứng gần anh hạ sĩ Ðương đang thả mồi câu cá. Mồi nhấp nhấp rung dưới nước, hạ sĩ Ðương giật lên 1 con cá khá lớn. Anh vừa kéo cá lên khỏi mặt nước khoảng 1 mét, bỗng từ dưới nước nổi lên 1 con cá mập phóng ngang qua táp mất con cá của hạ sĩ Ðương, cắn đứt luôn cả dây câu, và biến vào lòng biển. Mọi người chúng tôi đều nhìn nhau kêu "Ồ" một tiếng. Từ hôm ấy, chúng tôi không rủ nhau nhảy xuống biển vùng ấy để bơi lội khi trời nóng bức, điều mà chúng tôi vẫn thường làm mấy hôm trước. Cả hai vùng biển Trường và Hoàng Sa đều nổi tiếng là có nhiều đá ngầm tức là các đỉnh núi của những núi chìm với chân núi sâu một hai ngàn thước, ví như các bãi chông dễ thọc lũng các tàu bè. Các tàu khi mắc đá ngầm bị bể nát cả thân, chỉ nỗi lềnh bềnh phần trên trở thành xác khô phơi thân cùng sương gió. Ngày còn phục vụ trên HQ-800 tàu chúng tôi cũng đã trợ giúp kéo tàu Trường Xuân của Vishipcoline khi tàu này bị mắc cạn ở Trường Sa. Có trải qua cái khổ tâm đó thì mới hiểu cái kinh dị của hai vùng biển này.
    Sáng sớm ngày 19-1-74, trong khi tàu chúng tôi được lệnh bỏ neo ngoài khơi, quá Ðà Nẵng ngang hòn Tri Tôn, Hạm trưởng Công ra lệnh 2 toán đặc biệt trang bị vũ khí và áo phao có cả 2 binh sĩ người nhái trực thuộc HQ-802 hạ xuồng chuẩn bị ứng chiến. Tuy nhiên, lệnh từ Bộ Tư Lệnh Vùng 1 vẫn giữ chúng tôi trong tình trạng chờ để yểm trợ. Cùng lúc ấy, tại quần đảo Hoàng Sa, toán Hải Kích SEAL (Người Nhái) của HQVN được lênh đổ quân lên đảo Quang Hòa do Trung Cộng chiếm cứ. Quân Trung Cộng nổ súng khiến cho 2 người nhái VN chết (Hạ Sĩ Long "sandwich", và HQ Trung Úy Ðơn). Toán Hải Kích rút về chiến hạm HQ-5 lúc 9:30 sáng. Trận hải chiến ngay sau đó bắt đầu lúc 10:00 sáng. Tôi được biết chiến hạm 2 phía dàn hình đối mặt, HQ Việt Nam ở vòng ngoài tiến về hướng Ðông Nam vào, Trung Cộng vây quanh đảo Quang Hòa, hướng về phía Ðông Bắc nghênh chiến. Sĩ quan chỉ huy chiến thuật (HQ Ðại Tá Ngạc) ra lịnh khai hỏa, tác xạ trực tiếp vào tàu địch. HQ Trung Cộng phản công. Trận hải chiến diễn ra với tổn thất hai bên như sau:
    - VNCH: HQ-10 bị chìm tại trận. HQ-16 bị hư hại nặng, (phòng máy bị trúng đạn nhưng còn hải hành được). HQ-5 và HQ-4 bị hư hại nhẹ. Gần 50 binh sĩ bị tử thương, kể cả hạm trưởng HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà của HQ-10 cùng chết theo tàu.
    - Trung Cộng: Chiếc Kronstad 271 (soái hạm ) bị chìm. Ba chiến hạm tham chiến còn lại bi hư hại nặng và trung bình. Con số tử vong và bị thương không rõ.
    Chúng tôi nóng lòng theo dõi các diễn tiến của trận hải chiến và rất đau lòng trước cái chết của một số đàn anh và các chiến hữu mà chúng tôi đã gặp từ Hải Ðội 3 Duyên Phòng (Vũng Tàu). . . Một lần nữa cái đau xót xưa lại trở về, kẻ thù Phương Bắc lại dày xéo mãnh giang sơn mà cha ông chúng ta đã lập nên. Sau trận Hoàng Sa, Trung Cộng lập tức huy động một lực lượng hùng hậu kết hợp Hải-Lục-Không Quân với gồm cả 42 chiến hạm và 2 tiềm thủy đĩnh tấn công đổ bộ bao vây tấn chiếm đảo chánh Hoàng Sa và các đảo kế cận, bắt giữ tất cả binh sĩ VN trên các đảo giải về Trung Cộng.
  4. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Sáng ngày 20-1-74, hai chiến hạm HQ-4 và HQ-5 về lại Ðà Nẵng cập bến an toàn gặp lại HQ-16 đã về đó trước, tất cả các chiến hạm đều bị trúng đạn. Chiến hạm chúng tôi sau đó được lệnh trở về Vũng Tàu. Sau này khi tàu về đến Vũng Tàu, tôi thấp thỏm mong tin về các bạn SQ cùng khóa tham dự trong trận đánh đó là HQ Ðại Úy Nguyễn Minh Cảnh (Người Nhái) và nhất là HQ Trung Úy Lê Văn Dũng (Biệt Hải) bị HQ Trung Cộng tiến chiếm đảo Hoàng Sa bắt mang về Trung Cộng, cùng với các Ðịa Phương Quân và toán Công Binh. Khi thoáng thấy HQ-471 do HQ Ð/Úy Hoàng Thế Dân (Khóa 20) làm Hạm Phó lù lù xuất hiện về lại cửa biển Vũng Tàu từ vùng chiến Hoàng Sa, chúng tôi đã lên máy truyền tin và vì quá mong đợi tin an nguy lẫn nhau đã liên lạc trực tiếp bằng bạch văn về tin tức của trận hải chiến, bất chấp các lệnh mã hóa truyền tin.
    Trong hải sử cận đại mà các cuộc hải chiến xảy ra rất hiếm hoi, biến cố Hoàng Sa là trận hải chiến đã hâm nóng lại mối thù sâu xa với kẻ thù Phương Bắc, mà liên tục qua nhiều thế kỷ đã tìm cách xâm chiếm và xâm phạm chủ quyền nước Việt Nam, như một anh láng giềng ngoan cố tệ hại nhất. Trận hải chiến Hoàng Sa đã để lại tâm khảm tôi một số ưu tư dằn vặt mà qua thời gian tôi vẫn không thể nào khuây. Chúng ta không thể nào quên được ý đồ xâm chiếm của kẻ thù Phương Bắc. Kém may mắn thay, đi kèm với hành động xâm lăng ấy là một thái độ trở cờ của chính trường HK, hậu quả của lỗi lầm về chánh trị của Tổng Thống Nixon trong vụ Watergate. Nước VN đã bị cô lập và bị từ khước các chọn lựa bằng giải pháp ngoại giao, để rồi phải chọn hình thức hi sinh, chiến đấu trong vô vọng, liều chết để bảo tồn danh dự trước kẻ thù mạnh hơn mình về quân sự. Tuy nhiên có lẽ niềm đau day dứt nhất vẫn là cái chết đáng thương của các chiến sĩ Hải Kích kiêu hùng mà quân chủng Hải Quân đã phải tốn bao nhiêu công sức để đào tạo. Họ được lệnh đổ bộ lên đảo trước các mũi súng địch đang gờm chờ sẵn trong hàng phòng thủ, mà không hề được hải pháo dọn bãi yểm trợ. Rồi nghĩ lại hoàn cảnh HQ-10 trong tình trạng bán khiển dụng (tàu có 2 máy chánh nhưng một đã bị hư), mà vẫn được lệnh tham chiến để rồi bị trúng đạn chìm vào lòng biển cả. Người lính VN đã phải trực diện với bao phi lý của thời cuộc như thế chỉ để nối tiếp các thế hệ đàn anh viết lên những trang sử đỏ thẳm bằng máu của chính họ. Xin đốt một nén hương lòng cho các anh hùng Hoàng Sa và mượn lời thơ của Nguyệt Trinh để ghi khắc công trạng ấy và cầu mong cái chết của họ không trở thành vô nghĩa:
    Sóng biển chiều nay cuồn cuộn quá
    Còn đây uy dũng pháo Hoàng Sa
    Vành khăn tang trắng đầu con trẻ
    Kinh buồn vĩnh biệt tiếng cười cha
    Nguyễn Văn Sáng
  5. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Giai đoạn lịch sử 1976 - 1980
    Năm 1975, Chính quyền Sài gòn sụp đổ. Đất nước Việt nam thống nhất. Tại Hà nội, người ta ùa ra đường ôm nhau nhảy múa. Chiến tranh đã kết thúc, ai ai cũng hy vọng, những người ở Hậu phương trông chờ sự trở về của người thân ngoài mặt trận. Những người lính thì thở phào "như anh nông dân vừa cày xong thửa ruộng", họ mong ngóng trở về. Trong suốt hai năm 1975-1976, từng đoàn bộ đội xuất ngũ hồi hương. Trên vai họ là con búp bê, cái khung xe đạp. Một số người còn đem theo các dàn Casset Akai, sony...thế là cả miền thôn quê miền Bắc tự nhiên vang lên những giọng ca bị cấm ngặt một thời như Chế Linh, Thanh Tuyền, Khánh Ly...Lẫn trong những người trở về ấy có bốn anh lính xe tăng 390, những người đầu tiên xông vào dinh Độc lập, hang ổ cuối cùng của Chính quyền Sài gòn. Họ bỏ lại vinh quang đằng sau lưng, mặc cho viên Đại đội trưởng Bùi Quang Thận ôm hết công lao, trái tim họ chỉ còn rực lên hai chữ "Quê nhà", với niềm hy vọng sáng ngời "...thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng bằng mười hôm nay..."
    Với dân tộc Việt nam, có lẽ chưa bao giờ hạnh phúc hơn thế. Cả nước chìm trong niềm vui xum họp. Các bậc lãnh đạo ôm nhau sau chuyến bay chuyên cơ đầu tiên nối liền hai miền Tổ quốc Gia lâm - Tân Sơn Nhất. Hình ảnh người mẹ già ôm người con trai tử tù Côn Đảo trở về có thể được xem là hình tượng đẹp nhất trong ngày vui xum họp. Người ta phấn khởi, tự hào. Nhưng họ không biết rằng họ sẽ phải đối mặt với những tai ương khó khăn chồng chất trước mắt. Và cái tư tưởng thái quá "...đến Mỹ ta còn đánh thắng thì có khó khăn gì mà ta không làm được?..." đã một lần nữa khiến người dân Việt lao đao.
    Đại hội Đảng IV năm 1976 đã làm nên những bước ngoặt.
    Sự khẳng định bắt đầu giai đoạn quá độ tiến lên chủ nghĩa Xã hội bằng phương pháp dùng Chuyên chính vô sản, bạo lực cách mạng để tước đoạt toàn bộ tư liệu sản xuất từ giai cấp tư sản, xoá bỏ triệt để tàn dư phong kiến, tích luỹ cơ sơ vật chất để xây dựng XHCN. Thế là giai đoạn công tư hợp doanh, tổ đổi công chấm dứt. Toàn bộ các cơ sở công thương nghiệp của Tư sản Dân tộc Miền Nam bị công hữu hoá. Chúng đã nhanh chóng bị xoá sạch trong thời gian ngắn.
    Đảng Lao động Việt nam chính thức đổi tên thành **********************. Nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà mang tên mới nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt nam. Mặt trận Dân tộc Giải phóng MNVN sáp nhập vào mặt trận Tổ quốc Việt nam và hoàn toàn bị hoà tan. Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội tự tuyên bố giải tán, chấm dứt vai trò lịch sử của mình.
    "Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu"
    Cụ thể hoá đường lối, người ta đã làm một việc khá khó hiểu, đó là sáp nhập các tỉnh nhỏ theo phân chia địa giới cũ thành một loạt các tỉnh lớn, gây ra một loạt xáo trộn và lãng phí. Việc góp nhỏ thành to này cuối cùng để rồi sau nhiều năm người ta lại phải...tách ra!
    "Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học, kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc"
    "Dự kiến bình quân hàng năm sản phẩm xã hội tăng từ 14 - 15%, thu nhập quốc dân tăng 13 - 14%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 8 - 10%, giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 16-18%. Năng suất lao động xã hội tăng 7,5 - 8%. Trong quá trình chỉ đạo thực hiện, cần phấn đấu đạt tốc độ phát triển cao hơn các chỉ tiêu đó, nhất là về những lĩnh vực có điều kiện, đặc biệt trong nông nghiệp."
    Trích Văn kiện ĐH Đảng IV ĐCSVN

    Tuy nhiên, không thể không ghi nhận là trong văn kiện Điều lệ Đảng ban hành năm 1960, dòng "tư tưởng Mao Trạch Đông" nay đã bị xoá bỏ vĩnh viễn.
    Tất cả những điều ấp ủ to lớn ấy đã phản tác dụng, gây nên những thiệt hại cho đến nay cũng khó một ai đánh giá hết, sau này đã được người ta gói gọn trong từ "duy ý chí"
    Thiệt hại đầu tiên, để lại hậu quả và di chứng rất lâu dài là việc bỏ lỡ sự bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ.
    "Việc ta từ chối lời đề nghị ?obình thường hoá quan hệ không điều kiện? của Mỹ, làm cao trước việc ASEAN ngỏ ý muốn Việt Nam tham gia tổ chức khu vực này, theo tôi, đã đưa lại những hệ quả vô cùng tai hại cho nhân dân và đất nước ta. Liệu Trung Quốc có dám tiếp tay cho bọn diệt chủng Polpot khiêu khích ta và có dám đánh ta năm 1979 nếu như Việt Nam sau Chiến thắng 1975 có một chiến lược ?othêm bạn bớt thù? thực sự cầu thị hơn ? Việc bình thường hoá quan hệ với Mỹ và việc gia nhập khối ASEAN mãi ngót 20 năm sau (1995) ta mới thực hiện được một cách khá chật vật."- Trích hồi ký của ông Trần Quang Cơ
    Đầu năm 1977, các nhóm FULRO trỗi dậy tại Tây nguyên đã gây ra không ít các "sự cố" buộc người ta phải trấn áp xoá sổ. Cuộc truy quét dai dẳng trong một năm bằng cả những biện pháp quân sự, chính trị, xã hội đã đập nát bộ máy chính quyền tự phong, vô lối và vô học ấy.
    (Còn tiếp)
  6. diendanrieng

    diendanrieng Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/10/2004
    Bài viết:
    318
    Đã được thích:
    0
    Trong thế kỷ 20 nếu nhân dân VN mà không anh dũng thì không biết bây giờ chúng ta sẽ như thế nào ? những sai lầm trong sự lựa chọn của các nhà chính trị đã đẩy đất nước vào những cuộc chiến kéo dài và vô cùng tàn khốc. Nếu có thể nói về thời kỳ này ta có thể tóm lại : rất anh hùng nhưng cũng rất bi thương. Các thế hệ sau này sẽ thương cảm với cha ông mình ngày đó nhưng cũng không bao giờ lặp lại những sai lầm tương tự như vậy. Họ sẽ ngẩng cao đầu đi tới tương lai trong tư thế của những người chân chính, sáng tạo ra lịch sử và là những người chinh phục những đỉnh cao của cuộc sống.Họ có thể ngẩng cao đầu với thế giới mà không cần phải viện đến những cuộc chiến tranh trong quá khứ, dù rằng có những cuộc chiến rất vinh quang, bởi bản thân họ đã là những người chiến thắng. Còn những người vẫn ôm lấy những giấc mộng của một thời mà ngăn cản dân tộc đi lên sẽ chỉ sống trong những ảo tưởng của mình và những đau khổ mà họ gây ra cho chính mình. Lịch sử sẽ không quên lãng họ nhưng sẽ nhớ tới họ với lòng thương hại mà thôi.
  7. langtudien

    langtudien Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/06/2004
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Có nhiều topic trước đây trong đó các cao thủ đã phân tích rất rõ ràng là không thể tránh được chiến tranh, mặc dầu đã có những cố gắng để tránh khỏi chiến tranh. Mời bác tự tìm mà tham khảo.
    Theo tôi thì ý kiến của bác chỉ đúng với trường hợp chiến tranh với bọn Tàu thôi.
    Và lịch sử sẽ không thương hại cho những người đã hi sinh xương máu để dành độc lập tự do trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp,Mỹ mà họ sẽ tự hào, tiếp bước những giá trị anh hùng đó để xây dựng Tổ Quốc . Cũng giống như thái độ của chúng ta với 3 lần kháng chiến chống Mông Nguyên vậy thôi.
    Hiện tượng Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm đã nói lên rằng, giới trẻ, những người không thuộc về chiến tranh, đã rất tự hào với chiến thắng, những gương anh hùng của dân tộc (?).
    Mời bác Dilac tiếp tục post nào!
  8. diendanrieng

    diendanrieng Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/10/2004
    Bài viết:
    318
    Đã được thích:
    0
    Nói chung mỗi người có con đường của mình. Bạn và những người như bạn hãy đi theo con đường của mình. Tôi có con đường của tôi và tôi coi đó là con đường tốt nhất mà mình có thể lựa chọn. Lịch sử sẽ cho ta câu trả lời, con đường nào là sự lựa chọn của lịch sử. Mặt khác tôi xin nói rõ thêm : các thế hệ sau này có thể tự hào về sự anh dũng của lớp người đánh Pháp và đánh Mỹ nhưng sẽ không đồng ý với sự lựa chọn của những người lãnh đạo thời ấy ! Hai vấn đề khác nhau đấy. Nhưng có một điều bạn nên nhớ các thế hệ sau này sẽ đọc những trang lịch sử do những người cùng thời với họ viết ra chứ không phải những người như bạn viết đâu. Điều này chắc bạn cũng đồng ý với tôi
  9. kien0989

    kien0989 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    04/02/2006
    Bài viết:
    4.157
    Đã được thích:
    1.672
    Chỉ hy vọng họ (bọn con cháu chắt chút chít chụt chịt của ta ấy) không viết rằng thế hệ HCM là lũ cực đoan dân tộc, đã nổi loạn quấy nhiễu sự yên bình của Liên hiệp Pháp, đã phá vỡ sự ổn định hùng cường của đại quốc Phú Lang sa
    Thằng con cháu chắt chút chít chụt chịt gì đó của tôi mà dám nghĩ như thế, tôi về tôi bóp cho lè lưỡi
    Chỗ bôi vàng nên viết lại thế này cho nó có vẻ có học thức hơn:
    "Thời gian sẽ cho ta câu trả lời, con đường nào là sự lựa chọn của lịch sử"
    Còn câu trả lời có rồi đấy, TK20 đã lựa chọn xong rồi, đã trở thành lịch sử rồi, không dùng nếu với giả sử để thay đổi được điều gì đâu. Cố viết sử cho 100 năm sau đi thì may ra...
    Được kien0989 sửa chữa / chuyển vào 22:42 ngày 10/04/2006
  10. masktuxedo

    masktuxedo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/02/2002
    Bài viết:
    1.625
    Đã được thích:
    1
    Bạn đi con đường của bạn, tôi đi con đường của tôi. Chỉ e rằng con cháu chúng ta sau này cũng sẽ đi theo con đường của riêng chúng. Cho nên đừng có vội kết luận rằng các thế hệ trẻ sau này sẽ đánh giá thế nào về lớp trước. Cho đến giờ thì tôi vừa tự hào về sự anh dũng của lớp người đánh Mông Cổ thời Trần, đánh quân Minh thời Lê, hay đánh quân Thanh thời Quang Trung. Còn thế hệ sau đánh giá thế nào về cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở thế kỷ 20 thì để cho thế hệ sau đánh giá đi. Bác đã ko thuộc vào "thế hệ sau" thì có cái tư cách gì mà phát biểu hộ cho thế hệ sau cơ chứ? Mà thế hệ sau có đọc sử thì sử đó cũng sẽ việt dựa trên các bộ sử của người đời nay viết mà thôi. Mà người đời nay thì gồm cả người từ hai phía, mỗi phĩa sẽ viết sử theo nhận định riêng của mình, rồi các bên thứ 3, thứ 4 khác cũng sẽ viết sử theo quan điểm của họ. Người sau sẽ tự tổng kết các nguồn này, cộng thêm vào đó quan điểm nhân sinh đương thời mà phán xét.

Chia sẻ trang này