1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Topic dành cho Spam phần 3

Chủ đề trong 'Yoga - Khí công - Nhân điện - Thiền' bởi kundalini2, 29/11/2007.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dungwind

    dungwind Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/01/2006
    Bài viết:
    2.502
    Đã được thích:
    0
    Tự xưng khai ngộ là quyến thuộc của Ma-vương!
    "Nhưng không khi nào tự xưng: ''Tôi thật là bậc Bồ-tát." Bất luận là chư Bồ-tát, chư A-la-hán, hay chư Phật--như Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðức A-Di-Ðà Phật, Ðức Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật, Ðức Bảo Sanh Phật, Ðức Thành Tựu Phật--đích thân đến thế giới này thì từ đầu tới cuối chẳng bao giờ các ngài tự nói rằng: "Tôi đích thật là Bồ-tát. Tất cả quý vị phải tin tôi bởi tôi là một bậc Bồ-tát thực thụ!!" Các ngài cũng không tự xưng: "Tôi thật là bậc A-la-hán. Quý vị có nhận ra tôi không? Quý vị có biết tôi thật ra là ai không? Tôi là một vị A-la-hán thực thụ, quý vị biết chưa?" Kẻ nào dám tự xưng như vậy thì kẻ đó chính là quyến thuộc của Ma-vương!
    Giả sử có kẻ ca tụng, gọi quý vị là Bồ-tát, là A-la-hán, thì cho dù có đúng thật là như vậy đi chăng nữa, quý vị cũng không nên nhìn nhận: "Ðúng, tôi là Bồ-tát!" hay "Tôi là La-hán!" Vì sao? Vì quý vị không được phép làm "tiết lộ mật nhân của Phật."
    "Khinh ngôn với kẻ vị học." "Khinh ngôn" tức là nói năng một cách khinh xuất, hết sức tùy tiện, bừa bãi. "Ông ấy à, cứ tiết lộ lai lịch của mình một cách tùy tiện như thế sao được? Phải đợi đến lúc chết mới được tiết lộ. Hễ chưa chết thì chưa được nói ra!"
    Hễ tiết lộ thì không ở lại; mà ở lại thì không được tiết lộ.
    (Tiết tắc bất trú; trú tắc bất tiết.)
    Nếu quý vị tiết lộ lai lịch của mình, là một vị Bồ-tát hóa thân chẳng hạn, thì quý vị phải ra đi cho mau, phải chết cho lẹ; còn nếu chưa tiết lộ thì quý vị vẫn có thể lưu lại thêm ít hôm nữa. Vì sao? Bởi nếu quý vị tiết lộ rồi mà không ra đi, thì quý vị sẽ gặp nhiều sự rắc rối lắm.
  2. dungwind

    dungwind Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/01/2006
    Bài viết:
    2.502
    Đã được thích:
    0
    Ngay cả những loài sâu bọ nhỏ xíu chúng cũng giống như bạn. Một con sâu đang bò về phía bạn và bạn để ngón tay chạm vào nó, nó sẽ quay đầu ngay và thu mình lại để tự vệ. Dù đó là con sâu cái kiến rất yếu đưối, chúng cũng rán tránh khổ tìm vui. Nhìn những loài vật tội nghiệp đó, tôi không thể không buồn.
    Ngay cả thượng đế hay các bậc thần thánh cũng giống chúng ta trong sự tìm cầu hạnh phúc, tránh né khổ đau. Chúng ta thường cho rằng những bất hạnh là do quỷ quái gây ra, nhưng thay vì buộc tội chúng, ta hãy quán tưởng rằng chúng cũng như ta, chỉ mong có hạnh phúc chứ không muốn bị khổ đau. Nếu bạn có thể thấy được chúng sanh đều cùng một bản thể, bạn sẽ thấy không cần nhờ các thầy làm lễ trừ tà ma nữa. Bạn sẽ không bị tốn tiền bạc và năng lực.
  3. dungwind

    dungwind Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/01/2006
    Bài viết:
    2.502
    Đã được thích:
    0
    Một lần tôi được mời đi trừ ma quỷ đang lộng hành ở một địa điểm gần nơi tôi cư trú tại Dharamasala. Tôi phải đồng ý, làm như tôi biết phép trừ tà vậy, vì không có cách nào khác. Tôi tới đó và quán từ bi, chú tâm hết sức vào sự bình đẳng; mọi chúng sanh đều có bản chất giống nhau, đều sợ khổ, mong hạnh phúc. Tôi đặc biệt nghĩ tưởng tới những gì bị gọi là ma quỷ tại nơi đó; quán rằng chúng cũng có cùng bản thể với mình. Kết quả dân chúng cho biết tà ma đã rời đi, không còn quấy nhiễu họ nữa. Có thể đó chỉ là sự trùng hợp vô tình, hoặc tôi đã đạt được chút kết quả do quán từ bi. Trong đa số trường hợp như vậy, quán từ bi thực sự có thể giúp cho những loài chúng sanh đó. So sánh những hồn ma bóng quế ấy với các nạn nhân bị chúng quấy nhiễu thì chúng khổ đau hơn nhiều.
    Đức Ðạt Lai Lạt Ma
    Chân Huyền dịch
  4. dungwind

    dungwind Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/01/2006
    Bài viết:
    2.502
    Đã được thích:
    0
    GIỚI THIỆU PHÁP THIỀN NGUYÊN THỦY
    của Đức Phật
    "Này Aggivessana, những tôn giả Sa-môn hay Bà la môn nào sống không xả ly các dục vọng về thân, về nội tâm chưa được khéo đoạn trừ, chưa được khéo làm cho nhẹ bớt, những tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy không có thể chứng được Vô thượng Chánh đẳng giác... Nếu tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn nào sống xả ly các dục vọng về thân... và nội tâm đã được khéo đoạn trừ, đã được khéo làm cho nhẹ bớt, những tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy có thể chứng được tri kiến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác".
    "Nhưng ta với sự khổ hạnh khốc liệt như thế này vẫn không chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thăng xứng đáng bậc Thánh. Hay là có con đường nào khác đưa đến giác ngộ?".
    "Và này Aggivessana, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm có tứ. Này Aggivessana, như vậy là thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tĩnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Xả niệm xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta".
  5. dungwind

    dungwind Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/01/2006
    Bài viết:
    2.502
    Đã được thích:
    0
    "Nhờ hiểu biết như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Ta đã biết: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành. Việc cần làm đã làm. Không còn trở lui trạng thái này nữa". Này Aggivessana, đó là Minh thứ ba, Ta đã chứng được trong canh cuối, vô minh diệt minh sanh, mê tối diệt ánh sáng sanh, do ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần" (Trung Bộ Kinh).
    "Này các Tỷ-kheo, khi các người hội họp lại, thường có hai việc phải làm: một là đàm luận về Phật pháp, hai là giữ im lặng của một bậc Thánh" (
    "Và này Ananda, ở đời Tỷ-kheo quán thân trên thân... quán thọ trên các cảm thọ.... quán tâm trên tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ưu ở đời. Như vậy này Ananda, Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa một vị khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác. Những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta" (Trường Bộ Kinh, Kinh Đại Bát Niết Bàn).
  6. dungwind

    dungwind Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/01/2006
    Bài viết:
    2.502
    Đã được thích:
    0
    HAI CỰC ĐOAN
    Mở đầu Kinh Chuyển Pháp Luân Đức Phật dạy: "Này chư tỳ kheo, có hai cực đoan mà hàng xuất gia không nên hành theo: Một là đắm say trong các dục, thấp hèn, thô tục, phàm phu, không xứng bậc thánh, vô ích. Hai là tự hành khổ mình, khổ đau, không xứng bậc thánh, vô ích. Từ bỏ hai cực đoan này, Như Lai đã chứng ngộ con đường Trung Đạo, đem lại tuệ nhãn, chánh trí, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết Bàn."
    Lần đầu tiên Đức Phật gọi năm vị đạo sĩ là "các Tỳ Kheo" dù các vị này chưa xuất gia với Đức Phật. Do vậy chúng ta có thể căn cứ theo chú giải từ:
    "Tỳ Kheo" là chỉ cho bất cứ ai hành theo pháp. Sau này nhiều kinh Đức Phật thuyết cho chư tỳ kheo không có nghĩa là cư sĩ không hành theo được, đưa "Chư tỳ kheo" lên hàng đầu bởi vì quí Ngài là tấm gương sáng về thực hành pháp. Từ "Cực đoan" nghĩa là điều gì thái hóa, quá độ, không hợp lẽ tự nhiên. Lợi dưỡng là một cực đoan vì làm trì trệ sự tiến bộ tinh thần. Khổ hạnh là một cực đoan vì làm suy nhược trí tuệ. Nên nhớ trước khi giác ngộ, Đức Phật đã thực hành hai cực đoan trên: khi là một hoàng tử Ngài đã sống cực kỳ xa hoa; khi từ bỏ cung vàng điện ngọc Ngài đã trải qua 6 năm khổ hạnh chưa có đạo sĩ nào vượt qua khỏi. Do đó nêu ra hai cực đoan là một vấn đề thực tiễn vì cả người giảng và người nghe điều có trải qua. Kế đó Đức Phật thuyết về pháp hành trung đạo để chỉ cho thấy lợi dưỡng là con đường lạc quan và khổ hạnh là con đường bi quan. Trung đạo này không lạc quan cũng không bi quan và là pháp hành duy nhất đưa đến giác ngộ.
  7. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2

    For Noble Truth
    I). The Nature of Suffering (Dukkha):
    "This is the noble truth of suffering:
    birth is suffering,
    aging is suffering,
    illness is suffering,
    death is suffering;
    ; separation from what is pleasing is suffering;
    not to get what one wants is suffering;
    in brief,
    the five aggregates subject to clinging are suffering."[9][10]

    II). Suffering''s Origin (Samudaya):
    "This is the noble truth of the origin of suffering: it is this craving which leads to renewed existence, accompanied by delight and lust, seeking delight here and there, that is, craving for sensual pleasures, craving for existence, craving for extermination."[9][10]

    III). Suffering''s Cessation (Nirodha):
    "This is the noble truth of t he cessation of suffering: it is the remainderless fading away and cessation of that samecraving, the giving up and relinquishing of it, freedom from it, nonreliance on it."[9][10]

    IV). The Way (Mārga) Leading to the Cessation of Suffering:
    "This is the noble truth of the way leading to the cessation of suffering: it is the Noble Eightfold Path; that is,
    right view,
    right intention,
    right speech,
    right action,
    right livelihood,
    right effort,
    right mindfulness,
    right concentration."
    ________________________________________
    Cessation: Ngừng;chấm dứt; đình chỉ.
    illness: bệnh tật; ốm yếu;suy nhược.
    separation from what is pleasing is suffering: Chia cắt khỏi những cái gì dễ chịu
    Origin:Nguyên do;nguyên cớ;duyên cớ;gốc; nguồn gốc; căn nguyên;khởi nguyên
    Craving (danh từ): sự thèm muốn;lòng khao khát.
    Lust (+for): thèm muốn; khao khát.
    Seeking: Tìm; đi tìm; cố tìm cho được;mưu cầu;theo đuổi;nhằm vào;cố gắng;theo đuổi;săn đón;lục tìm;lục soát
    relinquishing: Từ bỏ ;buông ra; thả ra
  8. vithuymylove

    vithuymylove Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/05/2007
    Bài viết:
    1.170
    Đã được thích:
    1
    Thất tình, muốn đi tu quá trời, không biết có ni cô nào chứa không nhỉ!

  9. dungwind

    dungwind Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/01/2006
    Bài viết:
    2.502
    Đã được thích:
    0
    (1) Một hôm có một giáo sư tự cho mình công phu thiền định rất cao, sáng sớm đường đột bước vào thiền đường của Người. Chẳng nói chẳng rằng, ông ta tự động ngồi xuống; Sư cũng yên lặng không nói lời nào. Qua một lúc khá lâu, ông giáo sư mở lời trước :
    - Thưa Hoà thượng ! Ngài xem thử tôi đạt tới thiền thứ mấy?
    Hoà thượng nói :
    - Tôi không thấy.
    - Nghe nói công phu thiền định của Ngài rất cao, tôi đã đến đệ tứ thiền sao ngài không thấy?
    Hoà thượng trả lời :
    - Tôi chỉ biết ngày ăn ba bữa, chẳng làm việc gì.
    Tiếp đó Người đưa tay lấy tờ giấy vệ sinh, nhép miệng mấy cái quay đầu lại hỏi ông ta :
    - Giấy vệ sinh đang nói với tôi, ông có nghe được không?
    Ông giáo sư như gặp phải ?o Kim Cang hai trượng chẳng với tới đầu ?, lặng lẽ rút lui .
    (Hòa Thượng Quảng Khâm )
  10. dungwind

    dungwind Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/01/2006
    Bài viết:
    2.502
    Đã được thích:
    0
    (2) Có một vị Pháp sư đến thăm, nói với Người:
    - Khi ở nước ngoài mỗi lần có động đất hay gió bão, tôi dùng pháp sau đó động đất và gió bão đều biến lặng.
    Người đáp :
    - Bần đạo thì chẳng làm gì cả.
    Lần thứ hai đến, vị Pháp sư lại nói:
    - Hoà thượng ạ, hiện nay tôi không làm gì hết.
    Ngừơi nói:
    - Bần đạo mỗi ngày ăn cơm, ngủ nghỉ, đi tản bộ.
    Công phu thiền định tự nhiên như thế, không có cái tôi đang làm gì, không chấp có cũng không chấp không. Nếu có người tự bảo ?o tôi có? công phu gì, Người dùng ?~ không ?T để đáp lại, còn người nào bảo ?~ không ?T thì Người lấy ?~ có ?~ mà ứng đối .
    Vị Pháp sư ấy sắp ra về, nói với Người: ?o Thỉnh Hoà thượng nên ra nước ngoài hoá độ chúng sanh ?
    Ngừơi gật đầu :
    - Ngài đến đó thì tôi đến!
    Pháp sư nghĩ là Hoà thượng sẽ hiển thần thông, bèn hành trang trở lại xứ người. Song chờ mà chẳng thấy Hoà thượng tới, Pháp sư thấy sốt ruột. Lần sau trở lại Đài Loan thăm, Pháp sư hỏi:
    - Trước đây Hoà thượng chẳng bảo rằng tôi đến thì Ngài đến sao?
    Lâu quá chẳng thấy Ngài đến?
    Người cười đáp:
    - Ngài tới đây bần đạo tiếp Ngài ra sao, đã nói những gì, hẳn là Ngài đã hiểu rất rõ ràng ? Khi Ngài trở về, đem những gì bần đạo nói với Ngài nói cho họ nghe, đó chẳng phải là Ngài đến thì tôi đến hay sao ?
    Pháp sư khách hốt nhiên hiểu ra, im lặng chẳng nói lời gì
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này