1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Topic Thơ

Chủ đề trong 'Nhạc Rock' bởi Rock_n_Roll4ever, 19/09/2014.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. AfoRhapsody

    AfoRhapsody Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    25/01/2004
    Bài viết:
    743
    Đã được thích:
    12
    Thơ Nguyễn Bắc Sơn:


    Afo: Vì thế hệ hôm nay khó hình dung và cảm nhận về chiến tranh. Nên tôi post nguyên cả bài bình luận về thơ Nguyễn Bắc Sơn của nhà phê bình Đặng Tiến. Bạn chịu khó đọc nhé!

    ++++++





    Đọc lại thơ Miền Nam, ba mươi năm sau ngày chiến tranh kết liễu :

    Mai ta đụng trận ta còn sống
    Về ghé Sông Mao phá phách chơi
    Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
    Đốt tiền mua vội một ngày vui


    Đây là một đoạn thơ Nguyễn Bắc Sơn đã từng làm xao xuyến dư luận khi xuất hiện trên báo giới Sài Gòn khoảng 1970, như trên tuần báo Khởi Hành của hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Nhiều người đọc, nhất là giới thanh niên, ngạc nhiên và sảng khoái trước những lời thơ ngang tàng, bi tráng, ý thơ u uất, kiêu bạc, bất cần đời. Câu thơ phơi trải tâm trạng một lớp thanh niên Miền Nam, vào thời điểm quyết định của chiến tranh — và từ đó — làm chứng từ cho một khía cạnh của cuộc chiến kéo dài non hai mươi năm.

    Tâm trạng kia và chứng từ nọ đã được ghi lại trong tập thơ Chiến Tranh Việt Nam và Tôi xuất bản năm 1972 1 thời đó đã ít người được đọc trực tiếp nguyên tác ; bây giờ dĩ nhiên là tuyệt bản. Năm nay nhiều cơ quan tổ chức kỷ niệm ba mươi năm chấm dứt chiến tranh (1975-2005), tưởng cũng nên đọc lại chứng từ Nguyễn Bắc Sơn. Thì may thay, các bạn ở nước ngoài đã sưu tầm và tái bản tập thơ để tặng biếu bạn bè. Đây là một việc làm cao đẹp, đi từ tình bằng hữu thủy chung và nồng nhiệt đến việc bảo tồn văn học lâu dài, bên ngoài mọi ý đồ chính trị. Thậm chí cái năm 2005 kỷ niệm này có lẽ cũng chỉ là tình cờ so với việc tái bản. Việc làm như thế đáng được giới thiệu rộng rãi và nhiệt thành cổ vũ.2

    Nhiều người nhớ đoạn thơ nói trên vì tâm tư một thời đại, nhưng nó tồn tại lâu dài trong tâm thức người đọc là nhờ giá trị nghệ thuật — bên cạnh giá trị lịch sử mà không ai chối cãi. Điển hình cho thi pháp Nguyễn Bắc Sơn là từ vựng: câu đầu trên 7 chữ, đã có 5 từ diễn tả niềm hoang mang trước cuộc sống mỏng manh, bao quanh một chủ từ «ta» phù du hiu hắt ; «mai» là cuộc sống đếm từng ngày ; động từ «đụng» vừa chủ động: có đi mới đụng, vừa thụ động vì có tính cách tình cờ, tai hại ngoài ý muốn: «anh đi nhè nhẹ, đụng giường má hay». Người lính đụng trận như người thường đụng xe, đụng mưa; bình thường, chính xác hơn, người khác sẽ nói: đụng giặc, đụng địch. Nhưng trong thơ Nguyễn Bắc Sơn không thấy có đối phương. Trong câu sau Sông Mao là một thị trấn nổi danh vì chiến tranh: từ 1955 Sư Đoàn 5, người Nùng đóng ở đó, với khu gia binh di cư vào, và đời sống mang sắc thái riêng, về sau là các căn cứ quân sự Hoa Kỳ. Do đó địa danh Sông Mao, tự nó đã có âm hưởng chiến tranh, và quả thật nơi đấy «có nhiều nhà điếm và nhiều trại lính» (tr. 11) như lời thơ Nguyễn Bắc Sơn.

    Nói phá phách chơi là phách lối chơi, nói cho hả, nói cho đã, chứ Nguyễn Bắc Sơn là binh nhì Địa phương Quân «hiền khô, lính cậu» thì sức vóc bao nhiêu mà phá phách, nhưng giọng thơ ngang tàng ở đây pha lẫn một ít Lương Sơn Bạc, Tiếu Ngạo Giang Hồ với tính cách lê dương mà tác giả, sinh năm 1944, còn ghi trong ký ức; «đốt tiền» cũng là lối nói ngông, như Nguyễn Bính «tiêu hoang cho đến hết», nhưng chữ «đốt» ngông cuồng, nóng nảy hơn, phục vụ đắc lực cho ý đồ «mua vội một ngày vui» với những âm môi m, v mấp máy và luyến láy, như hấp ta hấp tấp. Tâm tình tác giả buồn vui lẫn lộn, mâu thuẫn: chia sớt nỗi buồn nghĩa là nỗi buồn tràn bờ, nỗi buồn hiện hữu làm căn bản cho cuộc sống. Sau trận đánh còn sống, tự thân nó, chưa phải là niềm vui, cho nên phải đốt tiền để mua vui. Ở một bài thơ khác, tác giả nói rõ:


    Một trẻ con mới sinh
    Chắc gì là một điều đáng vui
    Một người chết
    Chắc gì đã là điều đáng tiếc
    (tr. 25)

    Một câu thơ khác, hào sảng, bi tráng hơn:


    Đời mình như ly rượu cạn,
    Hắt toẹt đời đi chẳng nhíu mày
    (tr. 58)

    Hắt toẹt là một hình ảnh khinh bạc chưa từng thấy trong thơ Việt Nam.

    Đời đáng sống hay không đáng sống là câu hỏi đã ngàn năm của loài người. Nhưng ở mỗi thời điểm nó dấy lên nét bi đát riêng. Vào khoảng 1970 hơi thơ Nguyễn Bắc Sơn tính phi lý và bi kịch đã được chiến tranh, vào giai đoạn cuối, nâng tầm lên cao điểm.

    Có nhiều lối nhìn khác nhau về bản chất cuộc chiến, thịnh hành nhất vẫn là lối nhìn từ bên chiến thắng. Đây là cách nhìn của Nguyễn Bắc Sơn:


    Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
    Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
    Lũ chúng ta sống một đời vô vị
    Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau
    Mượn trời đất làm nơi đốt hỏa châu
    Những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc.


    Đây là trò chơi súng đạn, sống chết và hai đối thủ xem nhau như cừu thù:


    Kẻ thù ta ơi những đứa xăm mình
    Ăn muối đá mà điên say chiến đấu
    Ta vốn hiền khô ta là lính cậu
    Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
    Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
    Xem cuộc chiến như tai trời ách nước
    Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
    Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi..


    Đây là kinh nghiệm đánh chác:


    Dừng chân nơi đây nói chuyện tiếu lâm chơi
    Hãy tựa gốc cây, hãy ngắm mây trời
    Hãy tưởng tượng mình đang đi pic nic
    & Lúc này đây ta không thèm đánh giặc
    Thèm uống chai bia, thèm châm điếu thuốc
    Thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh
    .
    (Trích từ bài Chiến Tranh Việt Nam và Tôi, tr. 38)

    Sau cuộc chiến, nhà thơ Cao Tần di tản sang Mỹ, hồi tưởng lại đời lính, cũng chẳng khác chi Nguyễn Bắc Sơn:


    Hai mươi tuổi ta đi làm chiến sĩ
    Bước giày đinh lạng quạng một đời trai
    Vừa đánh giặc vừa lừng khừng triết lý
    Nhưng thằng này yêu nước chẳng thua ai

    (Cảm Khoái, 1977) 3

    Nguyễn Bắc Sơn không lừng khừng triết lý, mà để hồn mình bay bổng ra khỏi nhân gian:


    Đêm nằm ngủ võng trên đồi cát
    Nghe súng rừng xa nổ cắc cù
    Chợt thấy trong lòng mình bát ngát
    Nỗi buồn sương khói của mùa thu


    Khổ thơ này cũng như đoạn «mai ta đụng trận» trích ở đầu bài nằm trong một bài thơ mang tên Mật khu Lê Hồng Phong, một chiến trường ác liệt, chạy dài khoảng 40 cây số dọc biển, từ Phan Thiết đến Phan Ri. Nơi đây, năm 1970 đã xảy ra nhiều cuộc ác chiến — phần nào để giải tỏa bớt sức ép của chiến trường Căm-Pu-Chia vừa mới mở ra. Trước trận Sông Mao này không lâu, thì Thiện Giáo, 1969, cũng là chiến trường ác liệt.

    Chiều Thiện Giáo hồn mình đầy bóng núi
    Con đường mìn ươm vết máu đơm khô


    Nhưng nhà thơ «lao đao» vì bị lắc lư trong trực thăng nhiều hơn vì lo toan về chiến cuộc, vẫn thả hồn phiêu lãng:


    Đêm ngủ đổ ngâm thơ cùng đại bác
    Hồn lao đao trong chuyến trực thăng bay
    Đâu có chắc mặt trời mai sẽ mọc
    Trời rây mưa lành lạnh khiến thèm say


    Và anh ngờ vực viễn tượng hòa bình — trước sau gì cũng phải đến với hòa hội Paris đang hứa hẹn:

    Chiến tranh quá dài nên người quá khác
    Không thể mừng vui khi tiếp rước hòa bình
    Đên đen quá dài nên người quá khác
    Không thể nào tinh sẽ có bình minh



    Hai ông Sơn Trịnh và Sơn Nguyễn, cùng thế hệ, cùng tâm trạng nên có nhiều ý tưởng hao hao. Trịnh Công Sơn, 1968, cũng có hát: đêm nay hòa bình sao mắt mẹ chưa vui? Do đó, Nguyễn Bắc Sơn giữa chiến trận ngâm thơ cùng đại bác, đồng thời cũng lắng nghe:


    Chảy trong lòng men nhạc Trịnh Công Sơn
    Đêm không ngủ trong những ngày bão táp
    Ôi những ngày máu ứa xác quê hương...
    Tôi hởi tôi xin đừng chết nhé
    Bóng hòa bình thấp thoáng ở miền Nam.

    (tr. 45)

    Thơ trích từ bài Nhắc đến Ma Lâm, một thị trấn gần Phan Thiết, địa danh nghe ma quái như con sông Ma Hý gần đó:

    Buổi chiều uống nước đồng Ma Hý
    Thằng Xuân bắn chết thằng Mang Khinh


    Câu thơ nghe rờn rợn: Thằng Xuân, thằng Mang Khinh là ai? đồng đội hay đối phương? quan hệ thế nào với tác giả? Chữ “thằng” nghĩa là gì? bắn chết trong hoàn cảnh nào? Ở đây, sao cái chết dễ dàng quá, như trong một bài hát “chết chẳng hẹn hò, chết thật tình cờ, nằm chết như mơ”. Câu hát Sơn Trịnh là một hình ảnh văn học, ví von đúng quy cách, người nghe nắm bắt trọn vẹn ý nghĩa mà không thắc mắc. Trái với câu thơ Sơn Nguyễn trần trụi, bất ngờ. Bản thân tôi có kinh nghiệm đọc thơ, cảm nhận bi kịch trong câu thơ và nhận diện được câu thơ hay, mặc dù (hoặc bởi vì) không hiểu cặn kẽ ý nghĩa cụ thể của sự kiện được tường thuật. May mắn là được tác giả kể lại câu chuyện. Trong một cuộc hành quân cấp đại đội, anh đi làm thông dịch cho cố vấn Mỹ; đến một con suối thì dừng quân xuống tắm. Mang Khinh là một đồng đội gốc Chăm đứng chơi trên bờ. Xuân là trung đội trưởng, nghe thấy hay nhìn thấy động tĩnh gì đó, bèn lia một tràng đạn về phía khả nghi. Mang Khinh đứng chơi lớ ngớ bên bờ suối lãnh đủ băng đạn. Nhà thơ bơi nhởi trong lòng suối thì không việc gì, bàn luận về tử sinh, trong hai câu tiếp theo:


    Hỡi ơi sống chết là mưa nắng
    Gió tối mưa đêm chớ lạnh mình
    .
    (tr.37)

    Bài Thảo Khấu này, câu kết thật hay, bình thường nhưng thấm thía vì nhân đạo, nhưng cũng vì những cái chết phi lý mà Nguyễn Bắc Sơn đã kể ra tưng tửng:


    Chiến chinh chinh chiến bao giờ dứt
    Sắt đá ồ sao lại nhớ nhà

    (tr. 37)

    Nhạc Trịnh Công Sơn được người đời đặt tên là phản chiến. Nguyễn Bắc Sơn thẳng thừng tự xưng mình như vậy:


    Trong thành phố này ta là người phản chiến
    Ngày qua ngày ta chỉ thích đi câu
    (tr. 32)

    Bài thơ mang một tiêu đề tiêu biểu: cười lên đi tiếng khóc bi hùng.

    Lý do phản chiến thì nhiều: có khi vì lý tưởng hòa bình cao đẹp, có khi vì quan điểm chính trị, có khi vì sợ chết, sợ khổ. Nơi Nguyễn Bắc Sơn có thể còn lý do riêng: thân phụ anh đi kháng chiến chống Pháp, tập kết ra Bắc. Có thể ông lại vào Nam chiến đấu, và khách quan, có khả năng là đối tượng trước mũi súng Nguyễn Bắc Sơn, và anh khó bề dễ dàng, an nhiên “nhắm thẳng đầu thù mà bắn” như một khẩu hiệu có từ 1964.

    Trong thực tế, ông cụ đã vào Nam chiến đấu “phía bên kia”, cùng trong một địa bàn với con, ở cương vị phó chủ nhiệm cục chính trị quân khu 6. Trung ương Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa có lẽ cũng biết được nên đã đưa Nguyễn Bắc Sơn ra đơn vị chiến đấu. Sau ngày kết thúc chiến tranh, người cha đã trở về đoàn tụ với gia đình, trên cấp bực đại tá quân đội nhân dân. Ông có bao che cho con cái và bạn bè của con, trong cùng cảnh ngộ, như Lê Mai Lĩnh bị tù cải tạo đến cuối 1983, gần đây còn chân thành kể lại.4

    Ông cụ qua đời trong một tai nạn xe hơi đã gây nhiều nghi vấn. Nguyễn Bắc Sơn có làm bài thơ nhớ bố:


    Bố tôi qua đời đúng năm năm
    Tôi viết thơ này
    Để tâm sự cùng người khuất núi
    Bố tôi ước mơ làm cho loài người sung sướng
    Và thế là ông từ tuổi thanh xuân
    Cùng bạn bè đi làm cách mạng
    Ông càng làm cách mạng chừng nào
    Thì loài người càng thêm sặc máu

    Tôi ước mơ cõi đời tốt đẹp
    Và thế là tôi làm thơ ca tụng loài người
    Tôi càng ca tụng chừng nào
    Thì loài người càng xấu xa chừng nấy.

    Bố ơi bố đã ra về
    Con ở lại làm thơ và chữa bịnh
    Chúng ta đến nơi này để phát huy một tấm lòng son
    Thành hay bại chỉ là chuyện vặt.

    (Trích theo Lê Mai Lĩnh, số báo đã dẫn)

    Cái chết của Mang Khinh và hoàn cảnh bố con Nguyễn Bắc Sơn nhắc lại một câu chuyện Võ Phiến kể, cũng trong năm 1972, trong đó anh tóm tắt số phận người dân Việt Nam trong ba mươi năm chiến tranh, qua cái chết của hai anh em nhà kia, trong một câu súc tích, ngắn gọn đến tàn nhẫn “kể chết do cối, người chết do câu”5. Câu chuyện như sau: có hai anh em nhà kia, người anh đi dân vệ ở trong đồn, chết vì đạn súng cối bên ngoài nả vào, gọi là “mọt thụt” ; đứa em nhỏ lui cui trong vườn trúng đạn trọng pháo trong đồn “câu” ra. Rồi Võ Phiến thắc mắc: kẻ chết do cối người chết do câu, đố ai biết được giữa địch ấy và ta ấy, có cái gì khác nhau trong “tư tưởng”. Nhưng không phải vì lẽ không tìm được sự khác nhau mà bà con trong làng không giết nhau. (bài đã dẫn).

    Võ Phiến là nhà văn chững chạc, lập trường kiên định, không giống Nguyễn Bắc Sơn, kẻ làm thơ đôi khi biến thành du đãng ; nhưng cái nhìn về cuộc chiến, trên cơ bản, không khác nhà thơ. Vì vậy, từ 1970, Võ Phiến đã có bài giới thiệu thơ Nguyễn Bắc Sơn trên báo Bách Khoa, số Xuân Canh Tuất, 1970, in lại trong Chúng Ta Qua Cách Viết, 1972. Năm 1994, ở Mỹ, anh còn viết bài ca ngợi thơ mới làm sau này của Nguyễn Bắc Sơn mà dường như anh không quen biết.6

    *

    Chiến tranh, sau này ta mới biết, để lại những vết thương nan y, trên cơ thể và trong tâm hồn. Không cứ gì ở Việt Nam mà còn hoành hành nhiều nơi khác trên thế giới. Nguyễn Bắc Sơn đã tiên cảm được điều này:


    Ta mắc bệnh ung thư thời chiến
    Thoi thóp còn một trái tim khô
    Sợ hãi con người hơn thú dữ
    Nhìn nơi nào cũng thấy hư vô

    Mai kia trong những ngày ngưng chiến
    Ta chắc rằng không thể yêu ai
    Nhà thương điên nếu còn chỗ trống
    Xin chiếc giường cho xác tàn phai.

    (tr. 52)

    Nhưng rồi chiến tranh kết thúc, nhà thơ vẫn sống bình thường, bên cạnh vợ con, trong ngôi nhà xưa, thành phố cũ là Phan Thiết:


    Ta may mắn tay chân lành lặn
    Nhưng tâm hồn trống rỗng bơ vơ
    Mỗi ngày chữa bệnh bằng ly rượu
    Tối nằm đánh vật với cơn mơ
    . (tr. 51)

    Thỉnh thoảng trong đêm mù thác loạn, Nguyễn Bắc Sơn có những cơn khủng hoảng, nghe đâu có nhảy lầu tự tử hụt đôi ba phen. Nhưng thơ anh, như bài Tâm Hồn Trẻ Thơ kể chuyên đi hớt tóc, làm khoảng 1990, vẫn còn hào khí sung mãn, đoạn cuối thanh thản:


    Dường như đứa trẻ nghìn năm trước
    Bây giờ đây vẫn trẻ trong ta
    Khi về râu tóc còn nguyên vẹn
    Một ngày loáng thoáng một ngày qua
    .

    Một đứa trẻ con, một Lão Ngoan Đồng nào đó, hay sao Thiên Đồng đã cứu mạng Nguyễn Bắc Sơn, và giải thoát nhiều người trong mỗi chúng ta.

    *

    Thơ có tuổi và chiêm bao có tích, Hàn Mạc Tử nói thế, chắc cũng là cao hứng, nhưng câu thơ gợi lên một chân lý thâm hậu. Thơ Nguyễn Bắc Sơn cũng như bất cứ dòng thi ca nào đều có cội nguồn, đều đón nhận những mạch nước gần xa. Nguyễn Bắc Sơn suốt đời quanh quẩn trong quê nhà Bình Thuận, hành quân, đánh chác loanh quanh những Sông Lũy, Ma Lâm. Về mặt địa dư nguồn thơ hào sảng, ngang tàng, gần anh nhất là bài thơ Tống Biệt do Phan Khôi trích dẫn của một thi nhân Bình Thuận:


    Trái mù u trên núi
    Chạy xuống cửa Phan Rang
    Ông đi về ngoài nớ
    Trong lòng tôi chẳng an.
    Bao giờ ông trở vô
    Gặp tôi ở giữa đàng
    Nắm tay nói chuyện chơi
    Uống rượu cười nghênh ngang
    7

    Phan Khôi không tiết lộ tên tác giả, đời sau cứ xem như là thơ Phan Khôi, vì giọng thơ ngang tàng giống ông.

    Bài thơ tân kỳ, hào hứng ; từ vựng hồn nhiên, mới mẻ, nhịp thơ phóng túng, nhanh nhẹn, khí thơ đi liền một mạch ; thơ làm vào những năm 1930 mà ngày nay ta vẫn thấy mới lạ. Và cái hào khí ở đây không khỏi nhắc ta nhà thơ Bình Thuận Nguyễn Bắc Sơn.

    Lần lên xa hơn nữa, theo lịch sử thì thơ cổ Trung Quốc đã có truyền thống trầm hùng, nhiều trước tác về chiến tranh như bài Văn điếu Chiến Trường Cũ của Lý Hoa, đầu đời Đường, nhưng được truyền tụng nhiều nhất là thi phẩm của Phái Biên Tái như Sầm Tham, Cao Thích. Gần Nguyễn Bắc Sơn nhất là bài Lương Châu Từ của Vương Hàn:


    Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
    Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
    Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
    Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi


    Phỏng dịch:
    Rượu hồng đêm ngọc chén lưu ly
    Men bốc tỳ bà ngựa dục đi,
    Dặm cát say khoèo ai chớ riễu
    Những bao chinh chiến những ai về
    .

    Nguyễn Bắc Sơn cũng có tâm tình na ná:


    Ngày vui đời lính vô cùng ngắn
    Mặt trời thoáng đã ở phương Tây
    Nếu ta lỡ chết vì say rượu
    Linh Hồn chắc sẽ thành mây bay

    (Mật khu Lê Hồng Phong)

    Thơ chinh chiến của cổ nhân là thơ quan quyền; ra quân phải có nhạc tỳ bà trên lưng ngựa; rượu thì phải Bồ Đào. Thơ Nguyễn Bắc Sơn là thơ lính, ra quân không đua đòi Mỹ Tửu nhưng phải có “đế Nùng” đặc sản do người Nùng địa phương Sông Mao sản xuất từ các trại gia binh.


    Khi tao đi lãnh khẩu phần
    Mày đi mua rượu đế Nùng cho tao
    Chúng mình nhậu để trừ hao
    Bảy ngày sắp đến nghêu ngao trong rừng
    Mùa này gió núi mưa bưng
    Trong lòng thiếu rượu anh hùng nhát gan
    Mùa này gió bụi mưa ngàn
    Trong lòng thiếu rượu hoang mang nhớ nhà
    (Một Tiếng đồng hồ trước khi lên đường hành quân)

    Ý thơ bình dị, lời dân dã, nhưng vẫn một giọng ngông nghênh, phúng thế và khắc họa một hình ảnh trong tâm lý thời chiến.

    Trong dòng thơ Việt Nam, tác gia gần Nguyễn Bắc Sơn nhất có lẽ là Tú Xương, với lối thơ ông tớp rượu vào ông nói ngông. Tú Xương dùng thể tự sự, tự riễu mình để mô tả thời thế. Lời thơ chua cay, khinh mạn:


    Hán tự chẳng biết Hán
    Tây tự chảng biết Tây
    Quốc ngữ cũng dốt đặc
    Thôi thì về đi cày

    Trồng khoai rồi trồng đậu
    Cấy chiêm lại cấy mùa
    Ăn không hết thì bán
    Bán đã có Tây mua.

    Được tiền thì mua rượu
    Rượu say rồi cưỡi trâu
    Cưỡi trâu thế mà vững
    Có ngã cũng không đau
    .

    Từ cách xử lý cuộc đời, lối nhìn vào xã hội, đến cách sử dụng ngôn ngữ, Tư Xương báo trước một Nguyễn Bắc Sơn, “thằng ta đây”:


    Bạn mày nằm nhà thất nghiệp dài
    Mẹ già không tính tiền cơm thuốc
    Ngày xưa văn nghệ ta mê làm
    Cách mệnh còn hăng say vượt bực
    Giờ tối nằm mơ chỉ thấy tiền
    Nhân nghĩa gì gì quên tuốt luốt
    Thèm tiền song quả đứa vô tài
    Nên thằng ta đây chỉ có nước
    Mỗi tuần một vé số mười đồng
    Thê thảm ôi làm sao tả được
    Hai ta cùng quẩn như thế này
    Nhắc làm chi nữa cho tủi nhục
    Vậy xem như mình đã chết rồi
    Chí lớn mộng to đều đã vứt
    Quên trời quên đất quên luôn ta
    Dăm đồng rượu trắng cùng say khướt

    (Bài Hát Khổ Nhục, tr. 56)

    Bạn ở đây là một người lính từ chiến trường về: thất thểu chỉ còn xương với cốt / chinh chiến sao mày không chết tốt.

    Trong văn chương truyền thống, tình bạn thường là quan hệ trí thức: tri âm như Bá Nha, Tử Kỳ, tri kỷ như Montaigne, La Boetie, khoa giáp như Nguyễn Khuyến, Dương Khuê. Dù có phải bưng thúng theo đàn bà, thì Nguyễn Vỹ và Trương Tửu vẫn tự hào về nghề văn nghiệp bút. Gần Nguyễn Bắc Sơn hơn, Hoàng trúc Ly có viết Ngươi bên chân trời đánh giặc mướn / Ta theo cuộc đời đi viết thuê thì hành trạng, hành trang vẫn trí thức.

    Trong thơ Nguyễn Bắc Sơn, tình bạn không có quy chế xã hội, bạn bè là một lớp bụi đời, bên lề xã hội, bên lề đường chinh chiến, như hạt bụi nằm con gió trớt. Họ là những mảnh vỡ mà cuộc đời vun lại bên nhau:


    Có khi nghĩ trời sinh một mình ta là đủ
    Vì đám đông quậy bẩn nước hồ đời
    Nhưng lại nghĩ trời sinh thêm bè bạn
    Để quàng vai ấm áp cuộc rong chơi

    (Mai sau dù có bao giờ, tr. 30)

    Thậm chí tình yêu cũng vậy, nó nằm ngoài quy chế văn học dù truyền thống hay lãng mạn, tân thời:
    Ta vốn ghét đàn bà như ghét *** (cut)
    Nhưng vì sao ta lại yêu em ?
    Ôi mắt em nhìn như là bẫy chuột
    Ta quàng xiên nên đã sa chân


    Chuyện tình yêu bẫy chuột này trích từ bài Trên đường tới nhà Xuân Hồng, tức là phu nhân tao khang của nhà thơ từ xưa đến nay.

    Trong dòng thơ ngang tàng trước Nguyễn Bắc Sơn phải nhớ Độc Hành Ca của Trần Huyền Trân làm năm 1940:


    Nhớ xưa cùng dỗ bụi giầy
    Vỗ đùi ha hả thơ mày rượu tao
    & Đưa nhau qua bữa cơm nghèo
    Đứa sầu gào rượu đứa nheo mắt cười
    Vung tay như vạch ngang trời
    Bảo rằng đâu nữa cái thời ngất ngư


    Trong trường phái khí phách giang hồ này Thâm Tâm có bài Tống Biệt Hành nhiều người biết, ông còn những bài Tráng Ca, Vọng Nhân Hành, và nhất là Can Trường Hành, báo hiệu Nguyễn Bắc Sơn


    Phiếm du mấy chốc đời như mộng
    Ném chén cười cho đã mắt ta
    Thà với mãng phu ngoài bến nước
    Uống dăm chén rượu, quăng tay thước
    Cái sống ngang tàng quen bốc men


    Vào thời điểm bài thơ này, 1944, Nguyễn Bính vốn thân thiết với Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, đã sáng tác bài Hành Phương Nam nổi tiếng, trong cùng một nguồn thi hứng :


    Ta đi nhưng biết về đâu chứ
    Đã dấy phong yên khắp bốn trời
    Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
    Uống say mà gọi thế nhân ơi


    Nhưng trong lối thơ chếnh choáng hơi men này, đặc biệt nhất — không phải hay nhất — là bài Gửi Trương Tửu mà Nguyễn Vỹ sáng tác trong cơn say, trộn lẫn văn chương với chả cá.

    Chúng tôi nghĩ: đặt Nguyễn Bắc Sơn vào một dòng thi ca đã trường lưu, là một cách đánh giá nghiêm chỉnh và thông thoáng một tài thơ được khoanh vùng trong một hoàn cảnh chính trị và xã hội hạn hẹp. Và cũng giúp ích cho người đọc thưởng thức văn chương bên ngoài những chấn động của lịch sử.

    *

    Vào khoảng 1970, khi thơ Nguyễn Bắc Sơn xuất hiện và gây ngạc nhiên, nhiều người cho rằng có hơi hướm thơ Quang Dũng, có lẽ vì đề tài chiến tranh và lời thơ bi tráng. Nhưng xét kỹ thì không đúng: thơ Quang Dũng lãng mạn và lý tưởng, thơ Nguyễn Bắc Sơn ngược lại, phi lãng mạn và phi lý tưởng. So với các nhà thơ khác, mà chúng tôi vừa trích dẫn, thơ Nguyễn Bắc Sơn cũng có nét khu biệt, là chất bụi đời, mà nhà thơ tự cho là “du đãng”. Tống Biệt Hành là thơ để đời ; Nguyễn Bắc Sơn là thơ bụi đời. Độc Hành Ca là loại thơ “miếu đền”, Nguyễn Bắc Sơn là thơ lề đường, quán sá. Xã hội, hoàn cảnh Miền Nam thời đó đã tạo một nguồn cảm hứng như thế và chỗ đứng cho một thể loại bất cần đời như thế. Và dư luận thời đó, của những nhà văn tên tuổi có thế lực văn học, lập trường chính trị vững vàng, như Võ Phiến trên Bách Khoa, Chu Tử trên báo Sống, Doãn Quốc Sĩ trên báo Văn, đã đồng loạt hoanh nghênh.8

    Sau 1975 Nguyễn Bắc Sơn có bài Một Ngày Nhàn Rỗi:


    Buổi sáng mang tiền đi hớt tóc
    Vô tình ngang một quán cà phê
    Giang hồ hảo hán dăm thằng bạn
    Mải mê tán dóc chẳng cho về

    Về đâu, đâu cũng là đâu đó
    Đâu cũng đìu hiu đất Hán Hồ
    Hớt tóc cạo râu là chuyện nhỏ
    Ba nghìn thế giới cũng chưa to


    Vẫn một giọng thơ, một cốt cách, một phong thái. Võ Phiến, hai mươi năm sau cuộc chiến, có đủ bình tâm và khoảng cách để nhìn lại thơ văn và tâm tình một thời đại và thông hiểu thấu đáo hiện tượng Nguyễn Bắc Sơn, trước sau như nhất, “cũng cái ngông nghênh ấy” :

    “Ngày trước trong chiến tranh, ông kể chuyện chơi trò nổ súng cắc cù rất độc đáo ; ngày nay hòa bình thiên hạ hớt hơ hớt hải lăn xả vào cuộc giành giật đồng tiền, thì ông nói chuyện hớt tóc cạo râu : lại rất độc đáo.

    Thành thử giữa ông Nguyễn Bắc Sơn trong chiến tranh và ông Nguyễn Bắc Sơn sau chiến tranh vẫn có một chỗ nhất trí. Tuy hai mà một. Do hoàn cảnh khác nhau nên đề tài câu chuyện khác nhau; nhưng phong thái vẫn một thôi. Phong thái ấy khiến cho thời chiến ông là kẻ phản chiến, thời bình ông thành kẻ phản lao động. Thực ra thơ ông phát biểu về một thái độ sống, không phải chỉ là một thái độ đánh nhau hay một thái độ làm lụng. Sống là nhẹ, không phải chỉ riêng : đánh nhau là giỡn, là nhẹ. Đời không có nghĩa phải quấy. Một khi đời đã không có nghĩa, thì mọi hoạt động ở đời (kể cả chiến tranh) đều vô nghĩa. Hoặc giả nó có được trao cho ý nghĩa thì ông cũng không lý đến. Hớt tóc cạo râu là chuyện nhỏ; bắn nhau cắc cụp lỡ có trúng đạn chết tươi cũng là chuyện nhỏ thôi”.(1994) 9

    Làm sao mà Võ Phiến có thể viết sành sõi ngon lành như thế về Nguyễn Bắc Sơn? Xin thưa: vì anh tự viết về mình đó thôi. “Đời không có nghĩa phải quấy” là tư tưởng của Võ Phiến, là sợi chỉ xuyên qua nhiều tác phẩm của anh. Nhưng áp dụng vào thơ Nguyễn Bắc Sơn thì đúng boong.

    Nói vậy để thấy rằng tâm tình Nguyễn Bắc Sơn gửi gắm qua thơ là phổ biến, là niềm phân vân tự nhiên của nhiều người, của con người trước cuộc sống. Cơn bão lịch sử đã thổi tạt cái bình thường đến chỗ lạ thường, biến thành biệt lệ văn học: sắt đá ồ sao lại nhớ nhà...

    Tâm tình ấy được Nguyễn Bắc Sơn diễn đạt bằng một phong cách nghệ thuật tài hoa, vừa hồn nhiên vừa bi tráng. Kinh nghiệm sống chết hằng ngày được thăng hoa qua một thi pháp tươi trẻ mà già dặn.

    Tác phẩm Nguyễn Bắc Sơn, bên dưới những chứng từ lịch sử, là những bài thơ hay, trong lối văn “thốn tâm thiên cổ ”.

    Tấc lòng lưu vọng ngàn năm.

    ĐẶNG TIẾN

    Orléans, ngày 11/9/2005


    Nguồn: http://www.thotanhinhthuc.org/old/THTHTML-D/DTPheBinhNguyenBacSon.php
  2. AfoRhapsody

    AfoRhapsody Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    25/01/2004
    Bài viết:
    743
    Đã được thích:
    12
    Thơ Thanh Tâm Tuyền:


    LỆ ĐÁ XANH

    tôi biết những người khóc lẻ loi
    không nguôi một phút
    những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình
    em biết không
    lệ là những viên đá xanh
    tim rũ rượi
    đôi khi anh muốn tin
    ngoài trời chỉ còn trời sao là đáng kể
    mà bên những vì sao lấp lánh đôi mắt em
    đến ngày cuối
    đôi khi anh muốn tin
    ngoài đời thơm phức những trái cây của thượng đế
    mà bên những trái cây ngọt ngào đôi môi em
    nguồn sữa mật khởi đầu
    đôi khi anh muốn tin
    ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
    mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
    vòng ân ái
    đôi khi anh muốn tin
    ôi những người khóc lẻ loi một mình
    đau đớn lệ là những viên đá xanh
    tim rũ rượi








    Đêm

    Tặng Duy Thanh

    1.
    Những đêm nào chiến tranh đã quên
    Con mắt đen niềm im lặng
    Anh vẫn đi hoài trong thành phố
    Cô đơn
    Trưa nắng cháy
    Vào sâu trong ghẻ lạnh
    Với máu trong tim
    Chảy nhanh như máy móc đau ốm
    Ở cuối đêm
    Em rũ tóc nói những lời mê sảng
    Những ám hiệu
    Của mặt biển đen không
    Tình yêu tuyệt vọng
    Anh xé tóc em cùng những cành lá chết
    Mùa thu
    Ghi thương tích nơi cườm tay
    Khoá chặt
    Anh xô ngã em từ chóp đỉnh hạnh phúc
    Khuôn mặt vỡ tan
    Như cẩm thạch
    Như nước mắt
    Như muôn đời
    Không hối hận
    Con đường anh phải đi một mình
    Trần truồng dã thú
    Ðón anh ở cuối đường
    Hố sâu vĩnh viễn
    Không có em

    Bên kia bức tường
    Anh bị nhốt trong trại hủi
    Tiếng ngàn năm em gọi
    Yêu nhau hết một đời
    Hết một đời chưa đủ
    Còn kiếp nào gặp nhau
    Anh nguyền rủa
    Lời thằng du đãng
    Ðừng ràng buộc thiên tài
    Con chó vào cột nhà
    Cho đi hoang làm cơn lốc bi thảm
    Cuốn ngay chính mình chết theo không gian

    2.
    Ðêm tuôn dòng máu chảy
    Mạch mở ngỏ hết rồi
    Kẻ kia cười mọi rợ kẻ kia cười
    Tương lai đây chùm nho
    Như trò chơi
    Nó nói
    Tự trói hai tay lại
    Hạnh phúc sẽ đi tới
    Mặt mũi dùng làm gì
    Mọi người là đồng đội
    Trí não dùng làm gì?
    Chân lí không lừa dối
    Thiên tài dùng làm gì?
    Ðể gây ra tội lỗi

    Anh gọi em suốt hai bên thế giới
    Mùa thu đâu rồi? Sao bây giờ mùa xuân
    Anh đòi em đòi em hôm nay
    Không cần tương lai vo trong tay như hòn đất
    Không cần cuộc đời bằng hào quang vệ tinh
    Anh ráp lại những mảnh ngọc đớn đau
    Khuôn mặt em không nhìn thấy
    Trên môi anh những cạnh sắc ghim vào
    Trong hồn anh hầm hố bắt đầu đào

    Kẻ kia cười mọi rợ kẻ kia cười
    Thiên tài không tình yêu giống như con lợn lòi

    3.
    Ðêm hiền từ nhỏ to trên trán
    Màu đen sáng đủ ngó vào nụ cười
    Có đấy không này em mưa chan hoà
    Trên ngực trên ngực em bát ngát
    Một lần không gian xảo hết cả nhiệt tình
    Ðầy rất đầy hai trũng tay
    Người ta bảo đêm tháng giêng cỏ cây hiện thành người
    Anh bảo em chúng ta hãy là
    Những cây leo yếu đuối
    Những cỏ non dại dột
    Mùa xuân đòi em trong quấn quít chờ đợi

    Da trắng như tiếng hát ở trên trời
    Anh cúi hôn cánh môi tím màu đêm mà thương nhớ
    Từng chút một từng chút một
    Em biến thành pho tượng rực rỡ
    Anh biến thành thiên tài ngây thơ

    Trong đầu là hư vô
    Trong mắt là hoang đảo
    Trên môi là thần chú
    Trên tay là trống không
    Cả đời là sa mạc
    Cả tôi là tự do

    4.
    Những giấc ngủ xiềng xích
    Cuộc lưu đày thêm xa
    Tôi trốn về lẩn lút
    Ðất đai không tìm ra
    Ðâu cũng toàn quỷ sứ
    Giễu cợt tôi ngây ngô

    Cớ sao nhà ngươi khóc
    Muốn làm người là điên
    Con người thì cô độc
    Không phép thuật nhiệm mầu

    Tôi khóc mặt tôi khóc
    Bầy quỷ nhảy xung quanh
    Tôi khóc hoài tôi khóc
    Và chúng nó phát điên

    Chúng tước lấy tiếng nói
    Giam tôi trong bóng tối
    Tôi khóc không ra lời
    Và tôi đi lang thang

    Tôi đi tìm tiếng nói
    Cho cổ họng của tôi
    Tôi vẫn khóc vẫn khóc
    Hết linh hồn mới thôi

    Tôi đi tìm tiếng nói
    Cho ra tới ban ngày
    Người ta níu lại hỏi
    Cớ sao chịu đoạ đày

    Cớ sao mà không nói
    Nhìn người như điên khùng
    Thằng khùng điên khó hiểu
    Ðuổi ra khỏi cõi đời

    Tôi nhìn người tuyệt vọng
    Tôi nhìn người khẩn cầu
    Linh hồn tôi rách nát
    Lời nói còn ở đâu

    Cũng như loài quỷ sứ
    Người đầy vào lãng quên
    Tôi khóc người không thấy
    Suốt đời làm thằng điên

    Tôi khóc nào ai thấy
    Thằng điên vẫn đi tìm
    Ðất đai và tiếng nói
    Bởi đêm dài lặng câm

    5.
    Ðêm nay anh không ngủ, anh cô đơn, anh bị chiếm đoạt
    Còn gì chỉ là kỉ niệm, kỉ niệm ở ngày mai một lời nói thoáng
    Anh ôm ghì sự bất lực đói khát, mũi dao nhọn giữa lòng tin
    Thân thể này không của anh cũng không của em
    Ðó là nỗi giận dữ chẳng muốn nguôi, nỗi giận dữ của con bò rừng
    Người ta quơ trước mắt tấm nhung đỏ và sửa soạn đâm trên lưng
    Con bò rừng ***g lộn rồi quỳ xuống (tiếng
    vỗ tay ào ào) nhưng khăng khăng không chảy nước mắt

    Có phải là ngu muội?
    Anh thề với em rằng
    Anh không bao giờ biết chảy nước mắt
    Dù bao nhiêu đêm nay anh vẫn thầm bảo: đêm là gì? Nếu không là những dòng lệ
    Những dòng lệ không một màu không đau xót

    Người đàn ông khóc vì phải khóc
    Như anh phải ôm em và tủi cực vô cùng
    Cuộc đời cứ mở tròn những con mắt thản nhiên nhìn tội lỗi
    Còn anh chụp lấy tội lỗi bỏ vào miệng nuốt
    Cho mọi người ghê tởm. Cho em xa lánh anh

    Tặng Mai Thảo

    6.
    Vừa có một ngôi sao băng ngoài trời
    Ngôi sao lạnh lẽo một giọt lệ đơn côi
    Em nhìn rõ trong mắt anh

    Khuya khoắt
    Như mặt đường xa lánh bờ sông
    Phải anh thường làm thơ
    Bằng dáng điệu khổ sở
    Mười đầu ngón tay rưng rưng môi sầu lúc nửa đêm
    Ngón tay anh đẹp như ngòi bút
    Những rễ cây những mộng mị bàng hoàng
    Hai giờ đêm trong tiệm rượu
    Em còn nhìn anh
    Giây phút chết khoảng cách ngăn hai người

    Cuộc đối thoại âm thầm
    Khúc tình ca não nùng
    Chiếc máy hát cũ đầu kim mòn
    Thời gian cháy tàn những đầu thuốc lá
    Ðừng trói anh vào trần gian bằng mắt em nhìn kia
    Ðừng ngồi trước mặt anh Minh Châu
    Khuôn mặt anh xấu xí anh thù em
    Dù em là Minh Châu
    Dù em là Phương Thảo
    là Liên là Liên là Liên còn trong Hà Nội
    Ðã mất
    Tiếng cười tan thành khói trên những búp tóc rối
    Quên anh đi về căn phòng của em đóng chặt cửa sổ
    Căn phòng nhốt ý nghĩ mệt nhọc trời gần sáng
    Anh muốn được một mình
    Ðứt đoạn
    Ôm những quầy hàng bàn ghế như nhau
    Nghe thấy không nghe thấy không
    Sao em lại bật lên tiếng khóc
    Minh Châu Minh Châu Phương Thảo Phương Thảo
    Liên Liên ơi

    7.
    Những bài thơ tình không viết được
    Những hồn ma hoang đầu ngọn cây
    Xác chết rữa nát
    Trong kẹt rừng khô
    Ðêm thức dậy mở mắt mắt đã mù
    Hai con sâu nằm trên chân mày đang khoét lỗ
    Con quạ hôi hám mở ***g ngực bay lên
    Mỏ ngậm quả tim đựng hình ảnh đời người
    Ðời người thản nhiên như tên gọi

    8.
    Hơi thở của người đàn bà ngoại tình
    Màu da trắng nõn man trá
    Ðường môi cong chẳng một niềm hối hận
    Vội vàng như sóng say
    Núm lưỡi lửa cháy tan lời ân ái
    Khi chọn đường tội lỗi
    Nên lặng thinh
    Mặc cho ác mộng
    Ðồng loã với bóng đêm
    Suốt đời trôi nổi trên luyến tiếc
    Mặt biển ngu đần mặt biển ngu đần
    Không dông bão
    Cho chạy trốn mùa xuân
    Mùa xuân làm gì trên mặt biển không
    Trên trời không
    Cơn gió lớn chìm tôi xuống đáy thuỷ cung
    Và tôi nhìn màu ngọc bích
    Màu ngọc bích thơm hương hoàng lan
    Hoàng lan mềm như ngón tay trong sạch
    Thời con gái ủ dưới mái tóc rêu
    Và tôi không còn nhớ thương
    Không còn tỉnh dậy
    Không còn là con rắn điêu ngoa
    Tôi là cây san hô giơ những cành hối hận
    Và nước biển mặn nồng hơn nước mắt
    Và không ai trừng phạt

    Tặng Trần Thanh Hiệp

    9.
    Một giọng trầm đêm
    Niềm cô độc sâu
    Nét nhạc xanh cung thương đen
    Mi mắt trĩu mùa đông cũ
    Cái chết bốc hơi
    Tiếng kèn rách vô hình dáng
    Người con gái áo đen xoã tóc ngất
    Hai cánh tay dài quằn quại hai con trăn hiền lành
    Không khí nhiễm độc
    Ðập vỡ
    Quá khứ hỗn xược trên da trống
    Ném mảnh chai lên mặt trời mù
    Nói thầm nói thầm
    Mưa rét mướt
    Thời gian dần trừ khử
    Giọng như hơi cháy dưới sình lầy
    Nhát búa hoảng hốt
    Tương lai thét đớn đau
    Lửa ma trơi vụt tắt
    Tiếng cười dữ tợn
    Người con gái áo đen
    Thổ máu
    Cái chết bốc hơi chóng mặt
    Nôn xuống chân giận hờn đá sỏi
    Ðập vỡ đập vỡ đập vỡ đập vỡ
    Niềm cô độc sâu
    Giọng trầm đêm hút

    10.
    Có ai gọi tên tôi giữa phố, phố vắng và cái
    tên âm lên sự thù hằn. Tôi dừng lại trả lời:
    để cho tôi yên với tất cả đêm nay đang ngấm
    vào máu tôi. Không phải em gọi đâu, anh
    biết, em chẳng cần rõ tên anh mới yêu anh,
    với em anh chỉ gồm chân tay mặt mũi hơi
    thở và nỗi cô độc em bằng lòng ôm ấp. Anh
    thán phục, anh yêu em khi em che chở vuốt
    ve nỗi cô độc ấy, em muốn nó sáng rực như
    mặt trời đốt bóng em, tận cùng tâm khảm
    em lủi thủi nhớ thương những điều không
    nhớ được.

    Có ai gọi tên tôi giữa phố, phố hoảng sợ
    cái tên lăn như một xác chết nhập hồn. Tôi
    dừng lại níu giữ lấy đêm tối lại: để cho tôi
    yên, đồ khốn kiếp tôi không phải cái tên, tôi
    là một người không bao giờ biết giết người.
    Anh không phải là một cái tên, sao người
    ta cứ gọi như hú kêu loài ma quỷ? Mỗi lần
    muốn gặp anh em chỉ việc chọc dao thẳng
    vào tim, máu sẽ chảy và anh tới theo con
    đường máu tinh khiết ấy. Anh sẽ uống những
    giọt máu thơm tho của tình yêu làm anh
    bất tử. Em mỉm cười héo hon, anh càng
    lúc càng khốc liệt em bằng lòng để máu
    chảy hết và yêu anh kì khôi.

    Có ai gọi tên tôi giữa phố, ngay sau lưng
    phố cụt cái tên mọc hai cánh tay chới với.
    Tôi dừng lại rút khí giới, con dao của em,
    hét: Ðể cho tôi yên, quân vô lại, tôi sẽ không
    làm thơ nữa, tôi sẽ trừng phạt mày. Tình
    yêu anh đã giết em, trời ơi; anh hiểu, anh
    hiểu thấu mấy nghìn năm cái ngông cuồng
    rồ dại của anh, chàng Orphée đòi bỏ trần
    gian qua bao nhiêu miền địa ngục. Nhưng
    anh thì không bao giờ gặp em nữa, không
    bao giờ, vì anh đã nuốt chửng em hơn cả
    loài cầm thú dã man.

    Sao không ai gọi tôi nữa? Tôi đứng im đây,
    vực sâu trước mắt, cái tên sau lưng. Sao
    không ai gọi tên tôi nữa? Tôi quay lại, con
    dao trong tay, cái tên chết điếng. Sao không
    ai gọi tên tôi nữa? Kìa đồ khốn kiếp, quân
    vô lại, tôi cầm dao đâm mày đây, không
    một lời cầu cứu? Ðồ khốn kiếp...
    Hoá ra tôi đâm tôi chết tốt. Cũng xong.


    Nguồn: Thanh Tâm Tuyền, Liên Đêm mặt trời tìm thấy, Sáng Tạo xuất bản, Sài Gòn 1964







    Chiều trên phi trường

    Chiều trên phi trường anh bỗng nhớ em, nhớ
    chuyến đi xa ước hẹn. Ðây mùa xuân không
    đến, những đám cỏ hèn bên diện tích xi măng
    khô, bánh thép lăn nhanh thành chấn động cuồng
    điên, sự đổ vỡ của vô vàn ảo vọng, thuyền
    không gian chở người đến mùa đông tuyết giá
    đang già, anh ngồi lặng nhìn anh ở lại.

    Bầu trời nắng như mầu bơ vơ, nắng nhiệt đới
    xoè bàn tay run rẩy.

    Tiếng động cơ xô anh vào bẫy, trên cát lầy lún
    mãi, tuổi thiếu niên chạy về nhảy múa trên tóc
    anh và gọi. Mày đã trồng những mặc cảm sum
    suê trên thân đơn, những rễ chùm ác nghiệt
    luồn tới não tuỷ mày, biết không một loài cây
    ăn thịt. Mày đã đội vòng gai nhọn trên đầu,
    máu tuôn, gai tẩm độc làm rữa dần vô thức.
    Thôi mày hãy ôm khối lửa đỏ, định mệnh mày
    cừu địch, những hân hoan ngu tối cùng tự do khốn nạn.

    Một lần anh hỏi em: nếu anh cho em một điều
    ước duy nhất trong một đời, em phải chọn?
    Trong hộp đêm vừa đủ gió lùa giả tháng mười
    ở quê hương đã mất, có tiếng hát sâu dầy
    như quá khứ, giữa chúng ta, những người tình
    đã hắt hủi anh, những người tình em liệng vào
    quên lãng, anh dẫn em đi những vòng quanh
    quẩn ngoài hiện tại để em nhìn vào mộng, em
    đáp: em xin được đi xa.

    Ðiều chẳng khi nào anh tưởng đến. Như tình
    yêu buổi ngây thơ em vẫn còn hối tiếc.

    Anh biết trả lời sao? Bởi anh thường tự phụ
    hồn anh dài bằng vô cực năm ánh sáng cho dù
    mãn kiếp anh chẳng thể nào vượt hết. Bởi anh
    thường hổ thẹn khi nghĩ tổ quốc của riêng anh,
    người mẹ thất lạc anh tìm kiếm, sẽ không
    nhìn được mặt anh.

    Ngày qua ngày, rồi em từ biệt, mang theo tình
    yêu còn sống sót của hai đứa, tấm chăn đơn
    của kẻ nghèo ngày đông tận, anh trần truồng,
    dòng suối cạn từ nguồn không hay biển khơi
    vẫn vồ vập.

    Anh đưa tiễn em, gửi theo những giấc mộng
    giấu kín hết đời, em lên đường và anh chỉ còn
    chân tay tẻ nhạt vô duyên như xứ sở tang
    thương vì bom đạn.

    Chiều trên phi trường anh bỗng nhớ em, nhớ
    chuyến đi xa hẹn ước.
    Không bao giờ nữa.


    Nguồn: Thanh Tâm Tuyền, Liên đêm mặt trời tìm thấy, Sáng Tạo xuất bản, Sài Gòn 1964




    Bạn có thể xem thêm thơ Thanh Tâm Tuyền tại Thi Viện.
  3. AfoRhapsody

    AfoRhapsody Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    25/01/2004
    Bài viết:
    743
    Đã được thích:
    12
    Một bài thơ mà tôi chưa chắc chắn lắm về tác giả:


    Uống nữa đi và nói tục tĩu nữa đi
    Chuyện trăm năm thôi déo có ra gì
    Say một tối và vui một tối...




    Thực ra chỉ có vài câu vậy thôi, nhà văn Nguyễn Việt Hà đã viết lại chúng trong tác phẩm "Ba Ngôi Của Người". Dựa vào văn phong tôi đoán là thơ của Nguyễn Bắc Sơn.
  4. AfoRhapsody

    AfoRhapsody Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    25/01/2004
    Bài viết:
    743
    Đã được thích:
    12
    Đính chính: Ở trên tôi đã trích một câu thơ mà tôi tưởng của Lorca:

    ...Người muốn đi xuyên tường, xuyên thời gian chất để tráng gương, xuyên dịu ngọt hoa thuỷ tiên mùi hương của em...

    Xin được đính chính lại như sau:

    Phần chữ màu tím "hoa thuỷ tiên mùi hương của em" là ở trong bài Hoa Thuỷ Tiên của Lorca. Nếu tôi không nhầm.

    Phần chữ màu xanh lá cây là sáng tác của Tấn Phong. Nguyên văn cả câu trên tôi lấy trong bài "Lúc Ấy và Bằng Ấy" trong tập thơ cùng tên của Tấn Phong.

    ++++

    Thông báo với các bạn là tôi vẫn còn giữ một số cuốn tập thơ "Lúc Ấy và Bằng Ấy" của Tấn Phong có chữ ký của tác giả do NXB Văn Học xuất bản. Bạn nào muốn có thì liên hệ với tôi nhé!

Chia sẻ trang này