1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Topic về các loại tên lửa đất đối đất ( surface-to-surface missile )

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Su35FlankerE, 30/04/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Su35FlankerE

    Su35FlankerE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/01/2009
    Bài viết:
    493
    Đã được thích:
    0
    Tên lửa của Irắc , đã sử dụng nhiều và đã rơi vào quên lãng :
    AL HUSSEIN MISSILE- IRAQ
    Al Hussein hay Al- Husayn (tiếng Ả Rập: ا"حسS?) là một tên lửa đạn đạo tầm ngắn của Iraq. Tên lửa này ra đời là kết quả của việc nâng cấp tên lửa Scud ( LX) nhằm đạt được tầm bắn xa hơn, nó đã được quân đội Iraq sử dụng trong chiến tranh Iran- Iraq và chiến tranh vùng vịnh năm 1991.
    [​IMG]
    Nguồn gốc của Al-Hussein có thể truy trở về giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh với Iran . Iraq là nước đầu tiên sử dụng tên lửa trong thời gian chiến tranh Iran- Iraq ,các tên lửa Frog-7 của họ đã liên tục không kích vào 2 thành phố Dezful và Ahvaz. Iran phản ứng lại bằng các tên lửa Scud B mua của Liby , với tầm bắn 185 dặm, các thành phố chính của Iraq như Sulaymaniya, Kirkuk và thậm chí là cả thủ đô Baghdad cũng nằm trong tầm bắn của loại tên lửa này .
    Iraq cũng quyết định đưa tên lửa Scud B của họ vào tham chiến nhưng khổ nỗi là các trung tâm công nghiệp và cả thủ đô Tehran của Iran đều nằm cách biên giới đến hơn 300 dặm--> Scud của Iraq vô tác dụng . Đê phá vỡ những lợi thế của Iran , Iraq đã quyết định đề ra chương trình nâng cấp Scud thành các tên lửa đạn đạo có tầm bắn tới 500 dặm , các thiết bị để lắp ráp loại tên lửa mới này đã được tập kết gần Taji.
    Tên lửa Al- Hussein hay Dự án 1728 ban đầu có tầm bắn 400 dặm, nó cho phép quân đội Iraq tấn công vào những vị trí sâu bên trong lãnh thổ Iran . Sở dĩ loại " Scud mới " này có tầm bắn xa vậy là bởi Iraq đã giảm khối lượng đầu đạn từ gần 1000 kg xuống còn 500 kg và tăng thêm nhiên liệu phản lực . Tên lửa mang theo đầu đạn HE ( nó cũng có thể mang theo đầu đạn sinh học, hoá học, hạt nhân ). Theo báo cáo của các thanh tra Liên Hợp Quốc , từ năm 1991, Iraq đã có thể sản xuất tất cả các bộ phận chính của hệ thống tên lửa Al Hussein . Đó là một tên lửa dài 12,46 m , nặng 6400 kg và có đường kính 0.88 m, sử dụng hệ thống dẫn đường quán tính . Môtơ tên lửa được đốt cháy hết ở độ cao 31 dặm trong khi độ cao tối đa mà tên lửa đạt được trong hành trình là 94 dặm. Giống như các tên lửa Scud , độ lệch vòng tròn ( CEP ) của Al Hussein khá lớn, lên tới 1000 m . Các tên lửa mất 7 phút để bay hết 400 dặm .
    [​IMG]
    Cấu tạo Al Hussein
    Nhiên liệu cho Al Hussein là các nhiên liệu phổ biến của tên lửa chiến thuật trong thời kì chiến tranh lạnh , bao gồm dầu lửa, được đốt cháy bởi một chất ô-xi hóa axit nitric , gọi là IRFNA. Mỗi tên lửa mang theo 4500 kg nhiên liệu lỏng ( 22% dầu hoả và 78% của IRFNA ).
    Iraq cũng cải tiến luôn các xe chở tên lửa của Liên Xô cho phù hợp hơn với loại tên lửa dài như Al Hussein . Đơn vị đầu tiên được giao nhiệm vụ bảo trì, triển khai những tên lửa mới là Lữ đoàn 224 ( Lữ đoàn này được thành lập từ năm 1976 để tiếp nhận những tên lửa Scud nhập khẩu từ Liên Xô năm 1972 ) . Năm 1989, lữ đoàn tên lửa thứ 2 đi vào hoạt động ( lữ đoàn 223 ), với trang bị là 4 bệ phóng di động loại Al-Nida ( Bệ phóng di động do Iraq tự chế , thực ra còn 1 loại bệ phóng khác được chế tạo là Al-Waleed nhưng nó chưa bao giờ đi vào hoạt động ).
    Iraq cũng cho xây dựng các Silo ( hầm phóng ) ở Tây Ar Rutba, gần biên giới với Jordan. Nhưng những hầm phóng này đã bị các máy bay F15 của không quân Mĩ phá huỷ trong chiến dịch Bão Táp Sa Mạc năm 1991 .
    [​IMG]
    Tầm bắn của Al Hussein
    Al Hussien đã được Iraq sử dụng trong nhiều cuộc chiến mà điển hình là chiến tranh Iran- Iraq và Chiến tranh vùng vịnh lần I :
    Trong thời gian 1987-1988, Iraq đã phóng hơn 200 tên lửa vào các mục tiêu ở Iran ( các thành phố : Teheran, Qom và Isfahan ) , giết chết hơn 2000 thường dân . Tính chính xác thấp của Al Hussein không có hiệu quả trong các chiến dịch chiến lược nhưng tỏ ra rất hiệu quả trong việc " khủng bố " , buộc hàng ngàn người dân Iran phải di tản, tránh xa các thành phố . Các vụ bắn nhau liên tiếp bằng tên lửa đạn đạo giữa Iran và Iraq được biết đến dưới tên gọi " Chiến tranh của các thành phố " , toàn bộ chiến dịch quy mô đó kéo dài từ 29 tháng hai 1988 cho đến khi có hiệp định ngừng bắn giữa 2 bên vào ngày 20 tháng tư năm đó .
    Còn trong thời gian chiến tranh vùng vịnh lần 1, Iraq đã bắn 88 tên lửa Al Hussein vào liên quân ( Saudi Arabia dính 46 quả và Israel 42 quả ) trong tháng 1 và tháng 2 năm 1991. Thành tích lớn nhất mà tên lwủa này đạt được trong các lần bắn là đã tiêu diệt vào 1 doanh trại quân đội Mỹ ở Dhahran, Arabia Saudi, vào 25 Tháng hai 1991 , giết chết 28 lính Mĩ và làm bị thương 110 lính khác . Chỉ có 10 ( trên tổng số 46 quả ) Al Hussein bắn vào Saudi Arabia gây thiệt hại đáng kể bao gồm doanh trại lính Mĩ ở Dhahran , 1 toà nhà chính phủ và 1 vài công trình công cộng , khoảng 70 dân thường thiệt mạng trong các vụ không kích bằng tên lửa này . 4 trong số 42 quả tên lửa nhằm vào Israel đã rơi xuống khu vực Bờ Tây, làm chết 2 người ( 12 người khác chết vì các nguyên nhân gián tiếp cũng liên quan tới tên lửa Iraq ) , phá huỷ hàng ngàn căn nhà .Từ quan điểm chiến lược, các vụ phóng Al Hussein đã thành công, nó làm chệch hướng 40 % các nhiệm vụ của liên Quân để săn lùng các tên lửa và bệ phóng của Iraq .
    [​IMG]
    Trại lính Mĩ bị trúng tên lửa
    Chương trình tên lửa Al Hussein chấm dứt bằng hiệp định ngừng bắn kí vào tháng 3 năm 1991, theo đó, Iraq ko được phép sản xuất các tên lửa có tầm bắn trên 150 km, vào thời điểm đó, Iraq còn 61 quả Al Hussein trong kho, số tên lửa này bị tiêu huỷ dưới sự giám sát của LHQ , tuy nhiên, vẫn còn những nghi vấn là quân đội Iraq đã giấu chưa tiêu huỷ 200 quả tên lửa .
    Các thông số kĩ thuật cơ bản :
    Loại : tên lửa đạn đạo tầm ngắn .
    Quốc gia : Iraq
    Vào biên chế : 1987.
    Được sản xuất : 1987-1991
    Dài : 12.46 m (41.5 ft)
    Đường kính : 0.88 m
    Nặng : 6,400 kg.
    Đầu đạn : HE 500 kg, đầu đạn sinh học, hoá học, hạt nhân .
    Nhiên liệu : Lỏng ( hỗn hợp ).
    Tầm bắn : 400 dặm
    Độ cao tối đa : 94 dặm
    Vận tốc : 1.5 km/s
    Hệ dẫn đường : quán tính .
    Độ lệch vòng tròn ( CEP ) : 1000 m.
    Bệ phóng : MAZ ( LX ) ,Al-Whaleed ,Al-Nida ( sản xuất nội địa ), Silo.
    Được Su35FlankerE sửa chữa / chuyển vào 13:08 ngày 06/07/2009
  2. Su35FlankerE

    Su35FlankerE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/01/2009
    Bài viết:
    493
    Đã được thích:
    0
    ZELZAL MISSLLE - IRAN
    Có 3 loại tên lửa Zelzal được đưa vào trang bị trong quân đội Iran, đây là những tên lửa ít được nhắc tới nên thông tin về chúng ko nhiều lắm.
    [​IMG]
    ZELZAL 1
    ZELZAL 1 là tên lửa đạn đạo tầm ngắn do Iran sản xuất , nó dài 8,32 m, đường kính 0,61 m, trọng lượng 2.950 kg, có tầm bắn 150 km , được đưa vào trang bị trong lực lượng vệ binh cách mạng Iran từ năm 1990.
    ZELZAL 2
    Zelzal-2 (Tiếng Ba Tư: ز"زا" -2, từ tiếng Ả Rập, có nghĩa là "Earthquake") là một tên lửa đạn đoạ tầm ngắn của Iran , tên lửa này được phát triển từ những năm 90, dựa trên tên lửa FROG 7 của LIên Xô , nó có thể mang 1 đầu đạn nặng 600 kg và có tầm bắn khoảng 200 km.
    [​IMG]
    Tên lửa Zelzal-2 có chiều dài của 8.46 m,đường kính 0.61 m, nặng 3, 545 Kg .
    Giống như FROG 7, Zelzal 2 được đặt trên khung gầm xe MB LA-911. Về tầm bắn của tên lửa này thì còn nhiều tranh cãi, nó dao động trong khoảng 100-400 km, con số được đưa ra nhiều nhất trên các báo là 200 km, tuy nhiên, theo tính toán của các chuyên gia , tầm bắn thực tế của Zelzal 2 chỉ khoảng 100 km ( tức là tương đưong với nguyên mẫu của Liên Xô ).
    Đầu đạn 600 kg của tên lửa này có thể mang theo vũ khí hoá học và sinh học .
    Trong tháng 12 năm 2006, nhiều nguồn tin cho rằng Iran đã chuyển giao các tên lửa Zelzal 2 cho Libăng . Tình báo Israel cũng xác nhận có nhiều tên lửa cỡ lớn đã được chuyển sang Libăng , bao gồm cả pháo phản lực 122 mm'''' Katyusha'''' ( BM 21Grad ) , tên lửa Fajr-3 và Fajr-5.... Các tên lửa sau đó đã được sử dụng bởi lực lượng du kích Hezbollah trong cuộc chiến chống lại Israel năm 2006.
    [​IMG]
    ZELZAL 3
    ZELZAL 3 có tầm bắn 400 km , xa nhất trong các tên lửa Zelzal , được đưa vào biên chế năm 1993 .
    Các thông số kĩ thuật cơ bản :
    Loại : tên lửa đạn đạo tầm ngắn ( SRBM )
    Quốc gia : Iran
    Vào biên chế : 1990 ( Zelzal 1), 1993 ( Zelzal 2/3)
    Nặng : 3,545 kg ( Zelzal 2 ), 2,950 kg ( Zelzal 1)
    Đường kính : 0.61 m ( Zelzal 2), 0.601 m ( Zelzal 1)
    Dài : 16 m (Zelzal 2 ), 8.3 m (Zelzal 1)
    Số tầng : 1
    Tầm bắn : 150 km ( Zelzal 1 ), 200 km ( Zelzal 2 ), 400 km ( Zelzal 3 )
    Đầu đạn : 600 kg, sinh học, hoá học
    Bệ phóng : di động .

    Được Su35FlankerE sửa chữa / chuyển vào 13:43 ngày 07/07/2009
  3. Su35FlankerE

    Su35FlankerE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/01/2009
    Bài viết:
    493
    Đã được thích:
    0
    Lực lượng tên lửa Pakistan
    GHAURI MISSILE- PAKISTAN
    Ghauri ( hay Hatf V ) là 1 loạt các tên lửa đạn đạo tầm trung của Pakistan do phòng thí nghiệm Kahuta ( KRL) nghiên cứu chế tạo
    [​IMG]
    Ghauri I bắt đầu được nghiên cứu từ năm 1993 ,có tầm bắn 1500 km, có thể mang theo đầu đạn quy ước hoặc ko quy ước . Tên lửa có 1 tầng, sử dụng nhiên liệu lỏng . Ngày 6 /4 /1998, Pakistan bắn thử thành công Ghauri I , nó bay được 1500 km và mang theo 1 đầu đạn 700 kg . Lần thử thành công này là 1 bước tiến lớn trong chương trình tên lửa và vệ tinh của Pakistan .
    Ghauri II là một biến thể khác của Ghauri I . Nó có tầm bắn lên tới 2.300 km (1.429 dặm) chủ yếu nhờ tăng độ dài của động cơ đẩy và sử dụng nhiên liệu phản lực cải tiến .Ghauri II có chiều dài 18,0 m, đường kính 1,35 m, trọng lượng 17.800 kg .Nó mang theo một đầu đạn 750-1200 kg , có thể mang theo 1 đầu đạn hạt nhân 15- 30 KT . Tên lửa có 1 tầng, sử dụng nhiên liệu lỏng .Ghauri II được bắn thử lần đầu năm 1999 và hiện đang hoạt động trong lực lượng quân đội Pakistan
    Ghauri III có tầm bắn 3500- 4000 km đang được phát triển .Nó có 3 tầng nhiên liệu đẩy . Giống như Ghauri I/ II , nó đưọc phóng trên hệ thống xe di động ( TEL ) .Tên lửa này sử dụng hệ thống dẫn đường quán tính, có thể mang cả đầu đạn quy ước và đầu đạn hạt nhân .Bắt đầu được nghiên cứu từ năm 1999 , có quá ít thông tin xung quanh dự án này
    [​IMG]
    [​IMG]
    Tên lửa Ghauri được thiết kế phù hợp nhất để đầu đạn tên lửa bắt đầu tách khỏi thân 10 giây trước khi nhiên liệu của tầng động cơ đẩy được đốt hết ( giây thứ 110 ) . Vào thời điểm đó , các đầu đạn của tên lửa được tách ra và bay trên một quỹ đạo ổn định cho tới khi đến mục tiêu . Với sự hỗ trợ của hệ thống định vị GPS , độ chính xác của tên lửa được nâng lên đáng kể, vào khoảng 190 m .
    Người Mĩ tin rằng Ghauri của Pakistan đưọc phát triển dựa trên tên lửa Rodong 1 của Triều Tiên .
    Đầu những năm 1980, Trung Quốc công bố là đã cung cấp cho Pakistan thiết kế của một đầu đạn hạt nhân có đương lượng nổ 12-25 KT , loại mà Trung quốc sử dụng cho các đầu đạn của tên lửa DF 2A . Có điều, thiết kế của đầu đạn này không phù hợp với các tên lửa thời bấy giờ của Pakistan , nếu lắp lên tên lửa M 11 ( loại tên lửa chính của Pak hồi ấy ) thì tầm bắn của nó quá ngắn, không đủ để bắn đến Niu Đêli ---> chẳng doạ gì được Ấn Độ . Vì vậy, chương trình tên lửa Ghauri ra đời để tăng cường thêm khả năng tấn công hạt nhân của Pakistan .
    [​IMG]
    Tầm bắn của các tên lửa Pakistan ( hình hơi xấu )
    Pakistan đã tuyên bố rằng chương trình tên lửa mới ( Ghauri ) sẽ ko liên quan gì đến loại M 11 của Trung Quốc. các phân tích sau đó cho thấy rằng Ghauri sẽ được phát triển dựa trên cơ sở tên lửa Nodong của Bắc Triều .
    Tên lửa này ban đầu có tên là Hatf V, nhưng sau đó, thủ tướng chính phủ phê duyệt đổi tên nó là Ghauri . Cái tên Ghauri bắt nguồn từ câu chuyện về vua Shahbuddin Ghauri của Afgan hồi thế kỉ thứ 12 đã tấn công và chiếm được phần lãnh thổ phía Tây Ấn Độ từ năm 1176 - 1182 và sau đó chiếm được phần lãnh thổ Bắc Ấn Độ sau khi đánh bại vua Ấn- Prithvi vào năm 1192 .---> Ý của Pak là : tên lửa Ghauri với tầm bắn xa hơn nhiều sẽ đánh bại tên lửa đạn đạo Prithvi của Ấn .
    Trong lần bắn thử đầu tiên năm 1998 , tên lửa bay đưọc quãng đưòng 1100 km .Tên lửa được bắn từ Malute, gần thành phố Jhelum ở phía Tây Bắc Pakistan và bắn trúng mục tiêu gần thành phố Quetta.
    Ngày 11/ 4/ 1999, Ấn Độ thử tên lửa đạn đạo tầm trung Agni II . Pakistan phản ứng ngay lại bằng việc bắn thử Ghauri II ( ngày 14 / 4/1999 ), tên lửa tiếp tục được phóng từ Jhelum và bắn trúng mục tiêu ở sa mạc Baluchistan cách đó 1100 km . Mĩ cho rằng Pak có thể đã bắn thử 1 tên lửa trong ngày kỉ niệm độc lập của Ấn Đô ( 15/ 8/ 2000 ) . Những vệt khói trắng xuyên qua sa mạc Baluchistan có thể là tên lửa Ghauri III của Islamabad hoặc có thể đơn thuần chỉ là 1 sao băng .
    Các vụ thử tên lửa được Pakistan tiến hành cho tới năm 2004
    Các thông số kĩ thuật cơ bản :
    Loại : tên lửa đạn đạo tầm trung .( MRBM )
    Quốc gia : Pakistan
    Vào biên chế : 2003 ( Ghari I ), 2004 ( Ghauri II )
    Thiết kế : phòng thí nghiệm Kahuta ( KRL )
    Nặng : 15,850 kg ( Ghauri I) , 17,800 kg ( Ghari II ) ,20,800 kg (Ghari III )
    Dài : 15.90 m ( Ghauri I) , 18.00 m ( Ghari II ), 21 m (Ghari III )
    Đường kính : 1.35 m ( Ghauri I) , 1.35 m ( Ghari II ), 1.75 m (Ghari III )
    Số tầng : 1 ( Ghauri I / II ), 3 ( Ghauri III )
    Nhiên liệu : lỏng
    Tầm bắn : 1500 km ( Ghauri I ), 2000 -2500 km ( Ghauri II, cái này tuỳ vào đầu đạn ), 3000- 4000 km ( Ghauri III ).
    Đầu đạn : thông thường ( 700-1200 kg ) hoặc đầu đạn hạt nhân .
    Vận tốc : mach 10.
    Độ cao : trên 350 km
    Hệ thống định vị : quán tính , với Ghauri II/ III thì kết hợp thêm GPS .
    Bệ phóng : hệ thống xe phóng di động ( TEL )

    Được Su35FlankerE sửa chữa / chuyển vào 16:52 ngày 11/07/2009
  4. Su35FlankerE

    Su35FlankerE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/01/2009
    Bài viết:
    493
    Đã được thích:
    0
    SS 23 SPIDER ( OTR-23 OKA ) - LIÊN XÔ
    [​IMG]
    OTR Oka-23 ( tên số hóa là : 9K714 ,NATO gọi là SS 23 Spider ) là một tên lửa đạn đạo di động của LX được triển khai trong giai đoạn cuối của chiến tranh lạnh để thay thế các tên lửa đạn đạo SS 1 Scud . Tên lửa OKA này là một sự nâng cấp đáng kể cho lực lượng hạt nhân chiến thuật Xô Viết cả về tầm bắn cũng như tính chính xác . Tất cả những ưu điểm mới không chỉ cho phép nó tấn công vào các sân bay , kho vũ khí , trung tâm điều khiển của NATO mà còn cả các mục tiêu di động . Với thời gian triển khai nhanh ( khoảng 5 phút ) và gần như không thể bị bắn chặn, OKA có thể dễ dàng qua mặt các hệ thống phòng thủ tên lưả . Tuy nhiên, việc triển khai loại tên lửa này gặp khó khăn do sự cản trở của hiệp ước INF năm 1987 giữa LX và Mĩ ,theo hiệp ước này , 2 bên sẽ hạn chế sản xuất các tên lưủa đạn đạo và hành trình có tầm bắn từ 500 - 5500 km ( tầm bắn của OKA là 500 km ). Đã có nhưng tranh cãi ngoại giao gay gắt vào tháng 4 /1990 khi LX thông báo với Hoa Kì là có khoảng 120 quả OKA được chuyển giao cho các nước XHCN khối Warsaw ( Tiệp Khắc , Đông Đức và Bungari ) trong suốt thời gian đàm phán hiệp ước INF . Các bằng chứng sau đó cho thấy tên lửa được chuyển giao với đầu đạn thông thường , ko phải đầu đạn hạt nhân .
    Các biến thể :
    * 9M714V : mang đầu đạn hạt nhân AA 60 (9N63) và có tầm abwns 500 km
    * 9M714F : mang đầu đạn FRAG- HE 450 kg , tầm bắn 450 km.
    * 9M714K : mang đầu đạn hạng nặng 715 kg, tầm bắn 300 km .
    Ngoài các loại đầu dạn trên, SS 23 cũng có thể mang theo đầu đnạ hạng nặng .
    Các quốc gia sở hữu : Liên Xô , Đông Đức, Bungari, Tiệp Khắc ( hiện , các tên lửa này nằm trong biên chế của CH Séc và Slovakia ).
    Các thông số kĩ thuật cơ bản :
    Loại : tên lửa chiến thuật tầm ngắn .
    Quốc gia : Liên Xô
    Vào biên chế : 1980
    Thiết kế : KBM (Kolomna)
    Sản xuất : nhà máy Votkinsk
    Nặng : 4,360 kg (9,600 lb)
    Dài : 7.53 m (24.7 ft)
    Đường kính : 0.89 m (2 ft 11 in)
    Đầu đạn : hạt nhân (50-100 kT), đầu đạn HE, đầu đạn hóa học
    Cấu tạo : 1 tầng, nhiên liệu rắn
    Tầm bắn : 500 km ( 310 dặm )
    Hệ thống dẫn đường : quán tính + rada
    Độ lệch vòng tròn ( CEP ) : 30-150 m
    Bệ phóng : di động ( TEL )
    Được Su35FlankerE sửa chữa / chuyển vào 11:36 ngày 13/07/2009
  5. Su35FlankerE

    Su35FlankerE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/01/2009
    Bài viết:
    493
    Đã được thích:
    0
    ICBM của Mẽo
    MGM-134 MIDGETMAN
    MGM-134 Midgetman là một tên lửa liên lục địa ( ICBM ) cỡ nhỏ được phát triển bởi Hoa Kì .
    [​IMG]
    Các tên lửa Midgetman ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu của quân đội Mĩ những năm 1980 về một loại tên lửa đạn đạo liên lục địa cỡ nhỏ, có thể được triển khai trên các xe phóng di động . Lí do đơn giản là vì các Silo ( hầm phóng ) của Mĩ sẽ dễ bị phá hủy bởi các tên lửa đạn đạo Liên Xô . Kể từ thập kỉ 80 ,tính chính xác của các tên lửa đạn đạo LX đã được cải thiện đáng kể so với trước đây và chúng sẽ dễ dàng phá hủy các ICBM của Mĩ trước khi được triển khai .
    Sản xuất một ICBM mini , di động như thế này là việc không hề dễ . Quân đội Mĩ hi vọng loại tên lửa mới này sẽ trở thành đối trọng với ICBM SS 24 ( đoàn tàu tên lửa ) và SS 25 ( Topol ) của Liên Xô .
    Việc định nghĩa khái niệm và nghiên cứu các SICBM ( ICBM nhỏ ) được bắt đầu vào năm 1984 . Khoảng cuối năm 1986, Martin Marietta đã được giao nhiệm vụ nghiên cứu , phát triển MGM-134A Midgetman . Nguyên mẫu đầu tiên đã được đưa ra phóng thử vào năm 1989 nhưng tên lửa đã gặp trục trặc kĩ thuật và bị phá hủy ở giây thứ 70 trên vùng biển Thái Bình Dương . Ngày 18/ 4/ 1991 , tên lửa được thử thành công lần đầu tiên .
    Về thiết kế, MGM-134 là một tên lửa 3 tầng, sử dụng nhiên liệu rắn . Giống như LGM-118 Peacekeeper, MGM-134 sử dụng hệ thống phóng lạnh , theo đó, áp suất khí bị nén được dùng để ném tên lửa lên không trung , động cơ đẩy chỉ được khởi động khi tên lửa đã rời khỏi bệ phóng .
    [​IMG]
    Xe phóng di động kiểu Hard
    Midgetman được mang bởi một xe phóng di động Hard ( HML). Hầu hết các xe này nằm trong các căn cứ hạt nhân ( nói chung là ít hoạt động ) và chỉ được triển khai trong thời điểm khủng hoảng khi mà chiến tranh hạt nhân là điều không thể tránh khỏi .
    Tên lửa Midgetman có tầm bắn đến 11000 km (6.800 dặm) , có thể mang theo đầu đạn nhiệt hạch loại W87-1 có công suất 475 kiloton ( đây cũng là loại được sử dụng trên tên lửa LGM-118 Peacekeeper )
    Với sự kết thúc của Chiến tranh lạnh năm 1990, Mĩ trở lại với các chương trình vũ khí hạt nhân cỡ nhỏ . Vì thế, chương trình tên lửa Midgetman chấm dứt vào tháng 1 năm 1992 . Loại tên lửa tương đương với Midgetman của Liên Xô là RSS 400 Kuryer vì thế mà cũng không được thử nghiệm dù mọi sự chuẩn bị đã hoàn tất ( với LX /Nga điều này mở đường cho sự phát triển của ICBM di động cỡ lớn hơn là Topol M )
    Các thông số kĩ thuật cơ bản :
    Loại : tên lửa đạn đọa liên lục địa ( ICBM )
    Quốc gia : Mĩ
    Lần thử đầu tiên : 1989
    Bị hủy bỏ : 1/1992
    Thiết kế : công ty Martin Marietta
    Dài : 14 m (46 ft)
    Đường kính : 1.17 m (3 ft 10 in)
    Nặng : 13,600 kg (30,000 lb)
    Tầm bắn : 11,000 km (6,800 dặm)
    Cấu tạo : 3 tầng
    Nhiên liệu : rắn
    Đầu đạn : nhiệt hạch W-87-1 (475 kiloton)
    Bệ phóng : xe di động Hard
    Được Su35FlankerE sửa chữa / chuyển vào 16:55 ngày 13/07/2009
  6. Su35FlankerE

    Su35FlankerE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/01/2009
    Bài viết:
    493
    Đã được thích:
    0
    DF 11-CSS-7- M 11 - CHINA
    DF 11 ( NATO gọi là CSS 7 , phiên bản xuất khẩu là M 11) là tên lửa đạn đạo di động tầm ngắn ( SRBM ) của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, được phát triển bởi tập đoàn không gian CASIC Sanjiang ( còn gọi là cơ sở 066) tọa lạc tại tỉnh Hồ Bắc. Tên lửa được chở trên khung gầm của xe 8 bánh ( loại xe của Scud B do Liên Xô sản xuất ) . DF 11 được bắt đầu phát triển vào những năm 1980 với mục đích chủ yếu dành cho xuất khẩu . Một biến thể với tầm bắn xa và độ chính xác cao hơn là DF 11A đã được quân đội PLA đưa vào trang bị cho lục quân từ năm 1999.
    [​IMG]
    DF 11 được phát triển vào cuối những năm 1970 như là tên lửa chiến thuật tầm ngắn đầu tiên của PLA . Năm 1987, tên lửa này và xe phóng 8 bánh của nó lần đầu tiên được giới thiệu . Vụ phóng thử đầu tiên diễn ra năm 1990. DF 11 là loại tên lửa hoàn toàn tuân thủ các yêu cầu của hiệp ước Kiểm Soát Công Nghệ Tên Lửa ( MTCR)( hiệp ước này cấm xuất khẩu các tên lửa có tầm bắn trên 300 km và mang theo đầu đạn trên 500 kg ) .
    Biến thể DF 11A bắt đầu được PLA phát triển vào những năm 1993 .Ngoài tầm bắn mở rộng , đạt đến hơn 500 km, phiên bản mới này còn có độ chính xác vượt trội với sự kết hợp của hệ thống dẫn đường INS/ GPS . Lần bắn thử đầu tiên diễn ra thành công ngày 6/ 10/ 1997. Tuy nhiên, đến lần bắn thử thứ 2 diễn ra sau đấy vài tháng, tên lửa mất kiểm soát sau khi rời bệ phóng được gần 1 phút . Lần thử thất bại này làm chương trình tên lửa DF 11A bị hoãn lại cho đến năm 1998 . Năm 1999, tên lửa này chính thức được đưa vào trang bị trong 1 lữ đoàn tên lửa chiến thuật ở Nanjing.
    DF 11A được triển khai nhằm lấp đầy lỗ hổng về tầm bắn giữa các pháo phản lực phóng loạt ( tầm bắn 50- 100 km ) và các tên lửa chiến thuật ( tầm bắn trên 600 km ). Vào cuối những năm 90, lữ đoàn tên lửa ở Nam Kinh đã có 20- 30 DF 11A trong trang bị . Năm 2007, các báo cáo của BQP Mĩ cho thấy đã có khoảng 575 ~ 625 tên lưả và khoảng 110 ~ 130 bệ phóng được triển khai ở vùng Eo Biển Đài Loan .
    [​IMG]
    [​IMG]
    Về thiết kế, DF 11 là tên lửa đạn đạo di động tầm ngắn , một tầng , sử dụng nhiên liệu rắn , tầm bắn từ 280- 350 km, mang theo đầu đạn 500 kg . Phiên bản DF 11A có tầm bắn 500 ~ 700km, có thể mang theo đầu đạn HE , đầu đạn (FAE), đầu đạn hạng nặng, đầu đạn hóa học ..... và đầu đạn hạt nhân 2- 20 KT.
    DF 11 sử dụng hệ dẫn đường quán tính + Rada nên độ lệch vòng tròn ( CEP ) là tương đối lớn ( 500- 600 m ) . Những cải tiến trên DF 11A , sử dụng hệ dẫn đường quán tính + GPS làm cho độ chính xác tăng lên đáng kể, CEP chỉ còn hơn 200 m . Tên lưả có 4 cánh ở cuối để tăng độ ổn định, cân bằng trong hành trình bay và 4 cánh nhỏ ở phần thân để điều chỉnh hướng trong giai đoạn cuối .
    Các tên lưả được chuyên chở và phóng trên hệ thống xe 8 bánh WS2400 ( TEL ) .Xe được sản xuất tại Xưởng sản xuất Xe Đặc biệt Wanshan, một chi nhánh công ty Sanjiang dựa trên mẫu xe MAZ543 TEL của LX ( xe chở Scud )
    [​IMG]
    Năm 1992, vệ tinh của Mĩ đã chụp được ảnh tên lưả M 11 ( phiên bản xuất khẩu của DF 11 ) được chuyển đến căn cứ không quân Sargodha gần Lahore, Pakistan. BQP Mĩ kết luận là TQ đã chuyển giao các tên lửa M 11 và công nghệ sản xuất nó cho Pakisstan mặc dù chưa có bằng chứng trực tiếp . Tháng 8 / 1993, Mĩ tuyên bố TQ đã vi phạm vào hiệp ước kiểm soát công nghệ tên lửa ( MTCR) khi bán các tên lửa cho Pakistan .
    Pakistan phát triển tên lửa Shaheen-I và Shaheen-II trên cơ sở của M 11nhưng với tầm bắn mở rộng ra đến 600- 700 km . 30- 50 hệ thống tên lửa di động này có thể đã được gửi đến Iran năm 1995 , Iran cũng dựa vào M 11 để phát triển mẫu tên lửa đạn đạo di động của riêng mình và các SRBM nội địa .
    Các thông số kĩ thuật cơ bản :
    Loại : tên lửa đạn đạo tầm ngắn ( SRBM )
    Quốc gia : Trung Quốc
    Phiên bản xuất khẩu : M 11
    Tên của NATO : CSS 7
    Sản xuất : tập đoàn không gian CASIC Sanjiang ( còn gọi là cơ sở 066)
    Vào biên chế : 1999 ( DF 11A )
    Dài: 7.5m (DF-11); 8.5m (DF-11A)
    Đường kính : 0.8m
    Nặng : 4,200kg
    Số tầng : 1
    Nhiên liệu : rắn
    Đầu đạn : 500 kg HE ( DF 11 ), đầu đạn HE , đầu đạn (FAE), đầu đạn hóa học và đầu đạn hạt nhân 2- 20 KT ( DF 11A )
    Tầm bắn : 280- 350 km ( DF 11 ), > 500 Km ( DF 11 A )
    Độ lệch vòng tròn ( CEP ) : 500~600m (DF-11); <200m (DF-11A)
    Thời gian thao tác : 15- 30 phút
    Hệ thống dẫn đường : quán tính + Rada ( DF 11 ), Quán tính + GPS ( DF 11 A )
    Bệ phóng : xe di động 8 bánh WS2400 ( TEL )
    Được Su35FlankerE sửa chữa / chuyển vào 17:17 ngày 14/07/2009
  7. QDNDVN2010

    QDNDVN2010 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/04/2008
    Bài viết:
    735
    Đã được thích:
    1
    Su35 thi ĐH thế nào tốt kô mà chăm chỉ dịch thế . Đ/c có vẻ giỏi T.Anh nhỉ chả bù cho tớ !
    Hạnh phúc là đấu tranh !
  8. Su35FlankerE

    Su35FlankerE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/01/2009
    Bài viết:
    493
    Đã được thích:
    0
    Chắc cũng đỗ, bác ạ, Hix , định bắt chước bác Trùm và bác tombuy, làm topic theo kiểu liệt kê các loại tên lửa , nhưng cũng hơi " phê " . Mà hình như năm nay bác cũng thi đúng ko, bác thi trường gì ?
    SS 12 SCALEBOARD ( TR- 1 TEMP ) - LIÊN XÔ
    [​IMG]
    TR 1 Temp là một tên lửa đạn đạo di động được phát triển trong thời kì chiến tranh lạnh của Liên Xô . NATO gọi nó là SS 12 Scaleboard. Phiên bản sửa đổi, cải tiến của loại tên lửa này đưọc NATO gọi là SS 22 nhưng sau đó , nhận ra đây chỉ là một phiên bản có những thay đổi không đáng kể nên tên của nó được duy trì là Scaleboard . Tên lửa này được đưa vào trang bị trong quân đội Xô Viết từ năm 1960
    Cũng giống như Scud, Scaleboard được thiết kế để tấn công vào một vị trí đã định trước sau đó nhanh chóng cơ động đến vị trí khác ( hit and run ) nhằm tránh bị đối phương phát hiện và đánh trả . Tên lửa được đặt trên khung gầm xe MAZ 543 .
    Scaleboard hoạt động trong quân đội Xô Viết như một hệ thống vũ khí hạt nhân chiến lược- chiến thuật hiệu quả . Tên lửa được triển khai ở phần lãnh thổ Châu Âu của Liên Xô và các nước Đông Âu nhằm thực hiện nhiệm vụ tấn công hạt nhân vào Trung và Tây Âu trong trường hợp có chiến tranh hạt nhân .
    [​IMG]
    SS 12 Scaleboard được triển khai từ năm 1960 và bị thay thế từ năm 1979 bởi một phiên bản có tầm bắn tương đương nhưng độ chính xác cao hơn , phiên bản ấy được gọi là SS 22 hay SS 12 B ( cũng được gọi là SS 12M Scaleboard B ) .Đến đầu những năm 80, LX đã hoàn thành việc thay thế các hệ thống tên lửa SS 12 bằng SS 22 và bắt đầu phát triển SS 23 Spider.
    Ngày 1/ 6/ 1987, hiệp ước vũ khí hạt nhân tầm trung và tầm ngắn ( INF) được kí giữa Liên Xô và Mĩ và bắt đầu có hiệu lực ngày 1/ 6/ 1988. Hiệp ước này quy định về việc cắt giảm số lượng tên lửa có tầm bắn từ 500- 5500 km của 2 bên . Do có tầm bắn nằm trong phạm vi hiệu lực của hiệp ước nên những tên lửa đạn đạo di động của LX như SS 22, SS 23 đều bị đưa ra khỏi biên chế . Những quả SS 12/ 22 cuối cùng được đưa tới phá hủy tại Saryozek ( tổng cộng là 718 quả ) tháng 7/ 1989.
    Tháng 2 /1997, Cuba bị cáo buộc là sản xuất vũ khí sinh học để sử dụng cho 5 tên lửa SS 22 được triển khai gần thành phố Santa Clara ( những tên lửa này bị nghi ngờ là do Nga chuyển giao năm 1991 ) . Nhưng chính phủ Cuba đã phủ nhận những tin đồn vô căn cứ này .
    Các thông số kĩ thuật cơ bản :
    Loại : tên lửa đạn đạo tầm ngắn ( SRBM )
    Quốc gia : Liên Xô
    Tên của NATO : SS 12 Scaleboard
    Vào biên chế : 1969
    Thiết kế : Nadiradze OKB
    Sản xuất : nhà máy Votkinsk
    Nặng : 9,700 kg (21,000 lb)
    Dài : 12.4 m (41 ft)
    Đường kính : 1.01 m (3 ft 4 in)
    Đầu đạn : hạt nhân 500 KT .
    Cấu tạo : 1 tầng.
    Nhiên liệu : lỏng
    Tầm bắn : 900 km
    Hệ thống dẫn đường : quán tính
    Độ lệch vòng tròn ( CEP ) : 750 m ( SS 12 ) , 370 m ( SS 22 )
    Bệ phóng : xe phóng di động ( TEL )
    Được Su35FlankerE sửa chữa / chuyển vào 16:06 ngày 14/07/2009
  9. Su35FlankerE

    Su35FlankerE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/01/2009
    Bài viết:
    493
    Đã được thích:
    0
    SS 18 Satan - R 36 Missile- Russia
    [​IMG]
    [​IMG]
    R 36 là một gia đình tên lửa đạn đạo liên lục địa được sản xuất bởi Liên Bang Xô Viết trong thời kì chiến tranh lạnh . Bản gốc của R 36 được sản xuất, lấy kí hiệu là 8K67 ( NATO gọi phiên bản đầu tiên này là SS 9 Scarp ) . Phiên bản hiện đại hóa là R 36M đã được sản xuất dưới sự giám sát của GRAU ( cơ quan phụ trách về tên lửa và pháo binh LB Nga ) lấy kí hiệu là 15A14 và 15A18 ( NATO gọi phiên bản hiện đại hóa này là SS 18 Satan ). SS 18 Satan ra đời đã giúp Liên Xô chiếm ưu thế hạt nhân trong cuộc chạy đua vũ trang với Mĩ bởi khả năng vô địch về mang nặng và mang nhiều đầu đạn của nó ( tối đa, tên lửa này có thể mang hơn 10 đầu đạn hạt nhân với tổng trọng lượng mang theo lên tới gần 9 tấn hoặc 1 đầu đạn cỡ lớn có công suất lên tới 20 MT ! ). Xét về lí thuyết, nó có khả năng được triển khai với số lượng lớn, thậm chí lớn hơn rất nhiều so với ICBM Minuteman III của Mĩ . Vào đầu những năm 1970, cục tình báo trung ương Mĩ ( CIA ) đã tính toán rằng sẽ chỉ có 1 số lượng nhỏ Silo ( hầm phóng ) của Mĩ sống sót qua đợt tấn công đầu của các tên lửa SS 18 Satan .
    Về thiết kế, R 36 ( SS 9 ) là một tên lửa đạn đạo 2 tầng đẩy ( 2 giai đoạn ), sử dụng nhiên liệu lỏng bao gồm UDMH ( Unsymmetrical dimethylhydrazine - C2H8N2 ) và nitơ tetroxide ( N2O4 ) như là chất oxi hóa . Nó mang 1 trong 3 loại đầu đạn khác nhau được phát triển cho từng phiên bản của loại tên lửa này :
    _ Mod 1 và Mod 2 là đầu đạn hạt nhân đơn, đương lượng nổ từ 18 -25 Megaton ( MT )
    _ Mod 4 mang theo 3 đầu đạn MIRV ( đầu đạn chùm ) .
    Thêm một loại đầu đạn Mod 3 đã được đề xuất ( nó sẽ là một hệ thống vũ khí tấn công từ quỹ đạo thấp - FOBS ) nhưng không được thực hiện do vướng phải hiệp ước OST ( tạm dịch là " hiệp ước không gian ngoài Trái Đất " ) được kí năm 1967 . Biến thể R 36P đã được phát triển để mang đầu đạn loại Mod 4 trong khi biến thể R-36O (chữ O) được phát triển để mang đầu đạn Mod 3 FOBS. R 36 và R 36P được phóng từ Silo ( hầm phóng ) .
    [​IMG]
    Gia đình tên lửa R 36
    R 36M ( SS 18 Satan ) tương tự như R 36 về thiết kế nhưng có khả năng gắn 1 đầu đạn hạt nhân cỡ lớn 20 MT hoặc 1 MIRV ( đầu đạn chùm ) với 10 đầu đạn con ( bên trong cái đầu đạn chùm ấy ) , mỗi đầu đạn con có đương lượng nổ 550-750 kilôton ( KT ) . Tổng trọng lượng đầu đạn mà SS 18 có thể mang theo lên đến gần 9 tấn. Điều này làm cho R 36 trở thành ICBM vô địch thế giới về mang nặng và mang nhiều , loại tương tự của Mĩ là LGM-118 Peacekeeper không phải là đối thủ của nó ( Peacekeeper cũng mang 10 đầu đạn nhưng mỗi đầu đạn chỉ có đương lượng nổ khoảng 300 KT (chỉ bằng 1 nửa so với các đầu đạn của R 36M ) và tổng trọng lượng đầu đạn có thể mang theo chỉ đạt 4 tấn ). Tên lưả R 36M có 2 tầng đẩy , trong đó, tầng đầu tiên chứa Môtơ đẩy , 4 buồng đốt và ống xả , tầng thứ 2 là Môtơ và 1 buồng đốt .
    Tất cả các phiên bản của R 36 đều được thiết kế để có thể phóng từ Silo ( các Silo được xây dựng ở những địa điểm phân tán, rất khó phát hiện ) . R 36M được đặt trong các Silo có dạng hình ống ,sâu dưới lòng đất 39 m . Sau khi khởi động, tên lửa bắn ra khỏi ống nhờ 1 pít tông sử dụng khí nén từ thuốc nổ đen cháy chậm . Khi tên lửa đã bay lên cách mặt đất hàng chục mét, động cơ chính của tên lửa mới được đốt cháy để tránh những hư hại cho Silo .
    [​IMG]
    Cấu tạo cơ bản của R 36M ( SS 18 Satan )
    Thiết kế của R 36 đã được cục thiết kế 586 ( Yuzhnoye) ở Dnepropetrovsk, Ukraina thực hiện năm 1962 dựa trên chương trình tên lửa R 16 ( SS 7 ) .Người thiết kế Chính là Mikhail Yangel. Các chuyến bay thử nghiệm về quỹ đạo, khả năng mang vác cho thiết kế mới đã được thực hiện từ năm 1962- 1966 . Tin tức về sự phát triển của 1 loại tên lửa Xô Viết mới gây hoang mang cho các nước Phương Tây , họ cho rằng sau khi loại tên lửa này hoàn thành LX có khả năng tung , phóng 1 số lượng lớn vũ khí hạt nhân vào quỹ đạo . Viễn cảnh của việc sử dụng vũ khí hạt nhân trên quỹ đạo hiện ra dẫn dắt cả 2 bên ( LX và Phương Tây ) cùng kí vào hiệp ước cấm sử dụng các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt trong vũ trụ .
    Năm 1970, một phiên bản mang nhiều đầu đạn đã được phát triển và mang ra thử nghiệm trong năm tiếp theo .
    Việc cải tiến của R 36 đã dẫn đến sự ra đời của R 36M , loại tên lửa mà theo lí thuyết có khả năng tiêu diệt hầu hết các Silo và trung tâm điều khiển của ICBM LGM-30 Minuteman ( Mĩ ) chỉ với một loạt tấn công đầu tiên , điều này sẽ làm thiệt hại nặng nề khả năng tiến công hạt nhân của Mĩ . Tuy nhiên, cả Liên Bang Xô Viết và Liên bang Nga đều chưa bao giờ công khai về vai trò đặc biệt của tên lửa này trong kho vũ khí hạt nhân của họ .
    Thiết kế ban đầu của R 36M là tên lửa mang một đầu đạn đơn có đương lượng nổ tương đương 12 MT và có tầm bắn 10.600 km. Tên lửa lần đầu được bắn thử vào năm 1973 nhưng thất bại . Sau một vài sự trì hoãn , cuối cùng R 36M đã được triển khai trong tháng 12 / 1975 . Thiết kế Mod 1 này mang 1 đầu đạn đơn có đương lượng từ 18- 20 MT , có tầm bắn 11000 km . Phiên bản này được NATO gọi là SS 18 Satan .
    Tên lửa SS 18 đã qua 6 lần sửa đổi trong thiết kế . Sửa đổi đầu tiên ( Mod 1 ) được bắt đầu năm 1984 và lần sửa đổi cuối cùng ( Mod 6 ) là phiên bản R 36M2 "Voevoda" đã được triển khai vào tháng Tám năm 1988 . Với thiết kế cuối này, tên lửa có khả năng mang một đầu đạn hạt nhân 18 -20 MT và có tầm bắn lên tới 16000 km . Các sửa đổi, bổ sung trước Mod 6 chủ yếu là về khả năng mang nhiều đầu đạn của tên lửa . Những lần cải tiến ( Mod -2, 4, và 5 ) đã giúp SS 18 Satan vượt mặt LGM-118 Peacekeeper của Mĩ về khả năng mang nhiều, mang nặng và đương lượng nổ nhưng lại thua về tính chính xác ( CEP ).
    [​IMG]
    [​IMG]
    Bên trong và bên ngoài Silo
    Trong thực tế , các tên lưả SS 18 chưa bao giờ được triển khai với trên 10 đầu đạn nhưng với đương lượng nổ lớn, tên lửa này cũng có sức mạnh răn đe rất lớn . Các đề án mà LX xem xét những năm 1970 bao gồm 15A17 và sau đó là R-36MUTTH (15A18). Theo 2 đề án này, tên lửa có khả năng mang theo tổng trọng lượng đầu đạn tới 9.5 tấn và số lượng đầu đạn mang theo cũng nhiều hơn . 5 phiên bản khác nhau được xem xét . Trong đó, 3 phiên bản với số lượng đầu đạn và đương lượng nổ như sau : 38 x 250 KT, 24 x 500 KT và 15- 17 x 1 MT , 2 phiên bản còn lại sử dụng đầu đạn có điều khiển , mang theo số đầu đạn và đương lượng nổ là 28 x250 KT hoặc 19 x 500 KT . Tuy nhiên, có những phiên bản được nghiên cứu xong nhưng lại chưa bao giờ được sử dụng . Hiệp ước SALT II được kí vào năm 1979 quy định cấm tăng số lượng đầu đạn mang theo của mỗi ICBM . Từ một quan điểm chiến lược , việc tập trung quá nhiều đầu đạn vào các tên lửa trong Silo không phải là điều đáng mong ước, nó sẽ khiến cho 1 tỉ lệ lớn đầu đạn trong kho vũ khí hạt nhân của LX bị phá hủy sau loạt tấn công đầu tiên của lực lượng hạt nhân Mĩ ( nếu Mĩ chủ động tấn công ) .
    Sự triển khai hoạt động của R36M / SS 18 gồm 2 phiên bản là R-36MUTTH mang 10 đầu đạn 500 KT và R-36M2 (15A18M) mang 10 đầu đạn 800 KT ( hoặc 1 đầu đạn đơn 8- 20 MT ). Với 10 đầu đạn được trang bị trên mỗi tên lửa, việc đánh chặn của các ABM ( hệ thống phòng thủ tên lửa ) sẽ trở nên cực khó khăn nếu không muốn nói là bất khả thi .
    Tên lửa R 36M nhanh chóng được đưa vào triển khai, việc triển khai hoàn tất ngay trước khi LB Xô Viết tan rã năm 1991 , 308 Silo đã được lắp đặt . Sau sự tan rã của LX, còn 204 Silo trên lãnh thổ LB Nga và 104 Silo trên lãnh thổ Kazakhstan. Trong những năm sau đó, Nga cắt giảm số lượng Silo xuống còn 154 để đảm bảo phù hợp với hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược START I. Còn ở Kazakhstan, các tên lửa R 36M đã bị phá hủy năm 1995 . Dự kiến, khi hiệp ước START II được kí kết, toàn bộ số tên lửa R 36 sẽ bị loại khỏi biên chế ( nhưng ít nhất cho đến lúc này, khi hiệp ước đó chưa được kí kết , R 36M vẫn tham gia trực chiến trong quân đội Nga .
    Việc phát triển tên lửa R 36 thành một hệ thống vũ khí tấn công ở quỹ đạo tầm thấp ( FOBS ), tạm gọi là R 36orb (8s69) được bắt đầu ngày 16/ 4/ 1962 . Một tên lửa " quỹ đạo " như vậy sẽ cung cấp những lợi thế nhất định so với 1 ICBM truyền thống . Tổng cộng đã có 15 lần bắn thử thành công và 4 lần thất bại . Cuối cùng, R 36orb bị loại bỏ khỏi biên chế năm 1983 như là một phần của hiệp ước SALT II.
    [​IMG]
    Trong hơn một thập kỉ qua, lực lượng vũ trang Nga đã dần dần dần giảm số lượng tên lửa R 36M đang hoạt động thông qua việc phá hủy các tên lửa có tuổi thọ quá cao, nâng cấp thêm và dự kiến sẽ có khoảng 40 tên lửa R 362M ( hay RS-20 V phiên bản hiện đại nhất ) ở lại trực chiến cho tới năm 2019. Loại tên lửa sẽ thay thế vai trò của R 36M - SS 18 Satan trong lực lượng tên lửa chiến lược sẽ là SS 27 Stalin ( Topol M ). Tháng 3 / 2006, Nga thỏa thuận hợp tác với Ukraine trong việc bảo trì số tên lửa R 362M còn lại trong biên chế .Sự hợp tác này sẽ đảm bảo tuổi thọ cho các tên lửa này phục vụ chí ít là từ 10 -28 năm nữa .
    Tính đến tháng 12 /2008, còn 75 tên lửa R-36MUTTH/R-36M2 đang hoạt động.
    Vài tên lửa SS 18 đã được sửa đổi để mang vệ tinh lên quỹ đạo thấp.
    Các thông số kĩ thuật cơ bản :
    Loại : tên lửa đạn đạo liên lục địa ( ICBM )
    Quốc gia : Liên Xô/ Nga
    Vào biên chế : 1967
    Sử dụng : lực lượng hạt nhân chiến lược Nga
    Thiết kế : cục thiết kế Yuzhnoe
    Sản xuất : nhà máy Yuzhny ( nay nằm ở Ukraine )
    Nặng : 209,600 kg (462,000 lb)
    Dài : 32.2 m (106 ft)
    Đường kính : 3.05 m (10.0 ft)
    Đầu đạn : hạt nhân các loại từ 250 KT- 20MT
    Số lượng đầu đạn : trên 10
    Tổng trọng lượng đầu đạn mang theo : 7.2 - 9.5 tấn
    Cấu tạo : 2 tầng
    Nhiên liệu : lỏng , bao gồm UDMH và nitơ tetroxide
    Tầm bắn : 10,200 - 16,000 km
    Vận tốc : trên 7.9 km/ s
    Độ lệch vòng tròn : 500- 1000 m
    Thời gian đốt cháy : 700 s
    Hệ thống dẫn đường : quán tính, tự động .
    Bệ phóng : Silo
    Thông tin thêm về các thông số kĩ thuật của từng phiên bản :
    http://www.fas.org/nuke/guide/russia/icbm/r-36m.htm
    [​IMG]
    Được Su35FlankerE sửa chữa / chuyển vào 12:22 ngày 16/07/2009
  10. QDNDVN2010

    QDNDVN2010 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/04/2008
    Bài viết:
    735
    Đã được thích:
    1
    Tớ năm nay định làm hồ sơ thi vào HVANND nhưng mà do chủ quan nên kô làm đc hồ sơ để năm sau làm lại và thi lại . Năm nay thi vào HV Báo chí - tuyên truyền , thử sức mình xem đến đâu để năm sau thi lại , nói chung làm bài tốt , thi khối C có lẽ đc tầm trên 22đ mà cái khoa mình đăng kí năm trước lấy có 17-18đ jì đấy ! Thế đ/c thi trương nào có ji mình làm bạn nhé !
    Hạnh phúc là đấu tranh !

Chia sẻ trang này