1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Topic về các loại tên lửa đất đối đất ( surface-to-surface missile )

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Su35FlankerE, 30/04/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Su35FlankerE

    Su35FlankerE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/01/2009
    Bài viết:
    493
    Đã được thích:
    0
    MGM-5 Corporal- USA
    [​IMG]
    MGM-5 corporal là tên lửa đầu tiên do Mĩ chế tạo có khả năng mang đầu đạn hạt nhân . Đây là một tên lửa đất đối đất có điều khiển có tầm bắn 75 dặm ( 139 km ), nó có thể mang đầu đạn hạt nhân hoặc đầu đạn HE .
    MGM 5 là thành quả của sự hợp tác giữa các công ty trực thuộc BQP Mĩ : công ty Firestone Tire and Rubber, công ty TNHH Gilfillan Brothers, công ty máy bay Douglas và phòng thí nghiệm nhiên liệu phản lực Caltech. Tên lửa được thiết kế như 1 vũ khí hạt nhân chiến thuật nhằm tấn công Đông Âu trong trường hợp chiến tranh nổ ra .
    Tiểu đoàn MGM 5 đầu tiên được triển khai ở Châu Âu trong năm 1955. 6 tiểu đoàn nữa được triển khai và ở lại trong biên chế cho tới năm 1964 , khi MGM 5 bị thay thế bởi hệ thống tên lửa tiên tiến hơn là MGM-29 Sergeant.
    MGM 5 là tên lưủa đầu tiên được phát triển ở White Sands Missile Range, bang New Mexico . Các bản vẽ kĩ thuật và thiết kế của nó là dựa trên kinh nghiệm mà người Mĩ thu được từ dự án tên lửa V 2 của Đức Quốc Xã trong Thế Chiến II . Năm 1954, nó được bán cho Anh và trở thành tên lửa đầu tiên của Mĩ phục vụ trong quân đội nưóc ngoài .Năm 1959, Anh và Đức đã bắn thử các tên lưủa này tại đảo South Uist thuộc Scotland .
    [​IMG]
    [​IMG]
    Do là tên lửa đầu tiên của dòng tên lửa mang đầu đạn hạt nhân nên MGM 5 không phải là tên lửa đáng tin cậy , trước tiên là về tính chính xác . Tên lửa này sử dụng nhiên liệu lỏng ( bao gồm nitric acid-HNO3 và hydrazine- N2H4) . Việc đốt cháy hợp chất này yêu cầu rất nhiều thời gian và 1 sự chuẩn bị cẩn thận trưóc khi phóng ---> thời gian thao tác rất lâu . Về hệ thống dẫn đường , tên lửa MGM 5 nhận lệnh và thông tin về mục tiêu qua 1 hệ thống Rada từ thời Thế Chiến II . Đến năm 1955, các vụ bắn thử ổn định chỉ đạt 50 % với một vài cải tiến nhỏ, ko đáng kể . Năm 1959, những vụ bắn thử của quân đội Anh chỉ mang lại tỉ lệ thành công có 46 % .
    Các thông số kĩ thuật cơ bản :
    Loại : tên lửa đạn đạo chiến thuật tầm ngắn
    Quốc gia : Mĩ
    Dài : 13.8 m (45 ft 4 in)
    Đường kính : 0.76 m (30 in)
    Nặng : 4200 kg (9250 lb)
    Vận tốc : 3500 km/h
    Đầu đạn : HE, hạt nhân 20 KT
    Tầm bắn : Min: 48 km (30 dặm); Max: 130 km (80 dặm )
    Nhiên liệu : Lỏng ( nitric acid-HNO3 và hydrazine- N2H4)
    Hệ dẫn đường : Rada
  2. Su35FlankerE

    Su35FlankerE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/01/2009
    Bài viết:
    493
    Đã được thích:
    0
    J-600T missile- Thổ Nhĩ Kì
    Dự án J là một dự án của Quân đội Thổ Nhĩ Kì nhằm phát triển một loạt các tên lửa đạn đạo chiến thuật .
    [​IMG]
    J-600T Yıldırım là 1 hệ thống tên lửa đạn đạo chiến trường truyền thống, có khả năng cơ động cao , được thiết kế để tấn công các mục tiêu như : trận địa phòng không ,trung tâm điều khiển , kho hậu cần, cơ sở hạ tầng ....của quân địch , chi viện hỏa lực cho lực lượng pháo binh để chiếm ưu thế trên chiến trường , mở rộng địa bàn chiếm đóng .
    [​IMG]
    Từ những năm 1970-80 ,Thổ Nhĩ Kì bắt đầu đặt quan hệ hợp tác với Pakistan và TQ trong lĩnh vực chế tạo tên lửa đạn đạo . Dự án J giữa 3 nước này bắt đầu vào những năm 90, khi việc đàm phán để chuyển giao công nghệ sản xuất M-270 MLRS ( hệ thống pháo phản lực phóng loạt ) giữa Mĩ và Thổ Nhĩ Kì thất bại . Thổ Nhĩ Kì quyết định tìm phương án thay thế . Sau khi kí hợp đồng chuyển giao công nghệ sản xuất tên lửa WS-1A và WS-1B với TQ năm 1997, Thổ kí tiếp một hợp đồng nữa với công ty Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu Máy Móc Chính Xác ( CPMIEC ) để được TQ chuyển giao công nghệ sản xuất tên lửa đạn đạo tầm ngắn ( SRBM ) B 611 ( hợp đồng này bao gồm chuyển giao công nghệ để sản xuất 200 quả B 611 với tổng giá trị hợp đồng lên tới 300 triệu USD , được kí năm 1998 ) .
    J 600T được chế tạo bởi nhà sản xuất Rocketsan ( nhà sản xuất vũ khí chính của Thổ Nhĩ kì, có trụ sở tại Anatolian ) dựa trên B 611 SRBM của TQ là một hệ thống tên lửa đạn đạo chiến trường có tầm bắn 150 -300 km , bao gồm 2 biến thể là J 600T I và J 600T II.
    J 600T được đưa vào hoạt động trong quân đội Thổ Nhĩ Kì từ năm 2001 nhưung phải tới 6 năm sau nó mới được ra mắt công chúng trong lễ duyệt binh mừng ngày chiến thắng tại thủ đô Ankara, ngày 30 tháng 8, 2007. Trong lễ duyệt binh đó, J 600T đưọc gọi dưới cái tên hệ thống tên lửa Yıldırım .
    [​IMG]
    Hệ thống tên lửa Yıldırım bao gồm 2 thành phần chính là : tên lửa J 600T và xe phóng F 600T ( xe này dựa trên các xe tải MAN 26,372 6x6 sản xuất tại Thổ Nhĩ Kì . Mỗi xe F 600T mang 1 tên lửa J 600T sẵn sàng phóng , có thời gian thao tác không quá 25 phút .
    J 600T sử dụng hệ dẫn đường quán tính ( INS ), các dữ liệu về mục tiêu được truyền lên xe phóng F 600T trước khi bắn . tên lưủa cũng có thể được nâng cấp để sử dụng kết hợp cả hệ dẫn đường INS và GPS .
    Các thông số kĩ thuật cơ bản :
    Loại : tên lửa đạn đạo tầm ngắn ( SRBM ).
    Quốc gia : Thổ Nhĩ Kì .
    Sản xuất : Rocketsan.
    Vào biên chế : 2001.
    Đường kính : 600 mm.
    Dài : 6.10 m.
    Nặng : 2,100 kg.
    Đầu đạn : 480 kg TNT+RDX .
    Độ lệch vòng tròn ( CEP ) : < 15 m.
    Tầm bắn : 150 km ( J 600T I ), 300 km ( J 600T II ).
    .
    Hệ dẫn đường : quán tính ( INS ).
    Bệ phóng : xe phóng F 600T .
  3. Su35FlankerE

    Su35FlankerE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/01/2009
    Bài viết:
    493
    Đã được thích:
    0
    Abdali-I missile- Pakistan
    [​IMG]
    Abdali I là tên lửa đạn đạo tầm ngắn (SRBM) được phát triển bởi Pakistan. Tên lửa này ban đầu được thiết kế như 1 phiên bản 2 tầng của tên lửa Half I , nó sử dụng nhiên liệu rắn. Nhưng sau đó, dự án bị hủy bỏ trong năm 1994 vì TQ đã chuyển giao cho Pakistan loại tên lửa tầm ngắn tiên tiến hơn là DF 11. Một thiết kế khác của Abdali I đã được phát triển vào năm 1995 và hiện đang phục vụ trong quân đội Pakistan.
    Đóng vai trò như 1 tên lửa đạn đạo chiến trường ,Abdali I có độ chính xác khá cao ( CEP chỉ khoảng 15 m ) cho phép nó thực hiện những đòn tấn công chính xác vào trận địa quân địch . Tên lửa được triển khai trên các xe phóng di động ( TEL ) . Việc là 1 tên lửa đạn đạo di động và sử dụng nhiên liệu rắn cho phép Abdali I dễ dàng bảo quản , triển khai, thời gian thao tác cũng nhờ đó mà được rút ngắn đáng kể .
    [​IMG]
    Tầm bắn của Abdali I đạt 180 km . Nó được trang bị một hệ thống dẫn đường quán tính , có thể mang một đầu đạn 500 kg HE ( cũng có khả năng mang đầu đạn hạt nhân ) . Tên lửa dài 9,75 m, nặng 1.750 kg và có đường kính 0,56 m.
    Bản gốc Abdali I được bắt đầu phát triển vào năm 1987 và được giới thiệu trong năm 1989, dự án này đã bị hủy khi Pakistan mua được DF 11 từ TQ . Sau đó, dự án được khởi động lại năm 1997 với một thiết kế mới hơn ( loại mà hiện nay quân đôi Pak đang dùng ) . Các lần bắn thử vào năm 2002, 2005, 2006. Hiện nay, Abdali I đang trong giai đoạn sản xuất hàng loạt để trang bị cho quân đội .
    Các thông số kĩ thuật cơ bản :
    Loại : tên lửa đạn đạo tầm ngắn ( SRBM )
    Quốc gia : Pakistan
    Vào biên chế : 1996
    Sản xuất : NDC
    Nặng : 1,750 kg
    Dài : 9.75 m
    Đường kính : 0.56 m
    Đầu đạn : 500 kg HE / nuke
    Số tầng : 1
    nhiên liệu : rắn
    Tầm bắn : 180 km
    Độ lệch ( CEP ) : 15 m
    Hệ thống dẫn đưòng : quán tính
    Bệ phóng : xe phóng di động ( TEL )
    Video Abdali : http://www.youtube.com/watch?v=v1VeTc-dV5I
  4. Su35FlankerE

    Su35FlankerE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/01/2009
    Bài viết:
    493
    Đã được thích:
    0
    DF 4- CSS 3 - CHINA
    [​IMG]
    DF 4 - Dong Feng 4 ( NATO gọi là CSS 3 ) là tên lửa đạn đạo tầm trung- xa (IRBM), 2 tầng đẩy, sử dụng nhiên liệu lỏng của CHND Trung Hoa . Tên lửa được phát triển bởi Học Viện Không Gian số 1 trong những năm 1960. DF 4 được đưa vào trang bị cho quân đội PLA năm 1980 với số lượng ban đầu khoảng 20 tên lửa , thuộc biên chế của Đoàn Pháo Binh Số 2 ( lực lượng tên lửa chiến lược TQ ). Công nghệ của tên lửa này cũng được sử dụng, góp phần đưa vệ tinh nhân tạo đầu tiên của TQ lên quỹ đạo năm 1970.
    Sau khi thử thành công bom nguyên tử ( bom A ) vào năm 1964 và bom khinh khí ( bom H) năm 1967 , TQ bắt đầu tập trung vào các chương trình chế tạo vũ khí chiến lược nhằm tăng tầm hoạt động của các lực lượng hạt nhân chiến lược . Tên lửa DF 4 bắt đầu được nghiên cứu từ năm 1967, nó được phát triển song song với dự án DF 3 ( CSS 2). Cả hai loại tên lửa này đều sử dụng nhiên liệu lỏng, nhưng DF 4 có thêm 1 tầng nữa, tăng tầm bắn của tên lửa này lên tới 4000 km . Trong quá trình thiết kế, các nhóm thiết kế gặp khá nhiều khó khăn về khả năng đốt cháy tầng thứ 2 và về đầu đạn của tên lửa
    [​IMG]
    [​IMG]
    Lần bắn thử đầu tiên của DF 4 diễn ra vào tháng 10/ 1969 nhưng thất bại, tên lửa đã nổ tung trên đường bay do 2 tầng của nó không thể tách ra được . Bản thiết kế đã được sửa lại sau đó để đảm bảo việc này không lặp lại và lần bắn thử thứ 2 vào tháng 1/ 1970 đã thành công . Một vài cải tiến phụ nhằm tăng tầm bắn của tên lửa đã được thực hiện trong năm 1976. DF 4 chính thức được trang bị trong Đoàn Pháo Binh Số 2 từ giữa năm 1979, đầu năm 1980.
    DF 4 là loại tên lửa đạn đạo đầu tiên TQ chế tạo có mục đích nhằm vào Liên Xô ( lúc này 2 nước đang ở vào giai đoạn căng thẳng ) ,với tầm bắn lên đến 4.750 km, DF 4 đủ sức bắn tới Moskva và 1 số thành phố lớn của Nga . Mặc dù tên lửa chưa thể chạm tới Châu Mĩ nhưng nó vẫn đe dọa trực tiếp các căn cứ quân sự của Mĩ ở châu Á. Hệ thống dẫn đường quán tính là không đủ để tên lửa này nhằm trúng mục tiêu ( CEP lên tới 1500 m ) nhưng với 1 đầu đạn cỡ lớn, DF 4 có khả năng hủy diệt một vùng dân cư rộng lớn ( các căn cứ quân sự thì càng ko phải là ngoại lệ ) .
    [​IMG]
    Về thiết kế, DF 4 là tên lửa đạn đạo 2 giai đoạn , sử dụng nhiên liệu lỏng , có tầm bắn 4750 km, mang đầu đạn đơn nặng 2200 kg, ( hoặc 1 đầu đạn nhiệt hạch có đương lượng 1000- 3000 KT ), độ lệch ( CEP) đạt 1500 m. Tên lửa có 4 cánh tam giác ở tầng đầu tiên để đảm bảo cân bằng trong hành trình . Tầng đẩy thứ nhất của DF 4 giống của DF 3, sử dụng 4 Môtơ đẩy loại YF-2A ( tạo cho tên lửa lực đẩy tới 104 tấn ). Tầng đẩy thứ 2 sử dụng 1 Môtơ đẩy loại YF-3 tạo ra lực đẩy 32 tấn . Cả 2 tầng sử dụng chung nhiên liệu lỏng loại UDMH (Unsymmetrical dimethylhydrazine- C2H8N2 ) và AK 27
    Việc triển khai DF 4 đã bị chậm so với kế hoạch với chỉ 2 tên lưuar đi vào hoạt động trong năm 1980 và 25 -30 tên lửa trong những năm sau đó , trước khi DF 4 ngừng sản xuất hoàn toàn . Hầu hết các tên lửa này được triển khai ở khu vực Trung Tâm và phía Tây TQ để nhằm vào các mục tiêu ở châu Âu và Liên Xô . Ban đầu, các tên lửa được đặt trong Silo nhưng sau đó được đưa vào các tổ hợp nằm sâu bên trong các hang động trong lòng núi ( các tên lửa vẫn luôn sẵn sàng và có khả năng phóng ngay sau khi được đưa ra khỏi hang ). Các báo cáo năm 2008 cho thấy chỉ còn 20 DF 4 trong biên chế .
    Các thông số kĩ thuật cơ bản :
    Loại : tên lửa đạn đạo tầm trung- xa ( IRBM )
    Quốc gia : Trung Quốc
    Tên NATO : CSS 3
    Thiết kế : Học viện không gian 1
    Vào biên chế : 1980
    Dài : 28m
    Đường kính : 2.25m
    Nặng : 82,000kg
    Tầm bắn : 4750 km
    Đầu đạn : 2200 kg ( hoặc đầu đạn hạt nhân 1000-3000 MT )
    Cấu tạo : 2 tầng đẩy
    Nhiên liệu : lỏng gồm Unsymmetrical Dimethylhydrazine /Nitrogen Tetroxide mix (UDMH/N2H4)
    Độ lệch CEP: 1,500m
    Thời gian thao tác : 3-5 giờ ( với bệ phóng di động ) hoặc 2- 3 giờ ( nếu ở trong Silo )
    Hệ thống dẫn đường : quán tính
    Bệ phóng : Silo hoặc bệ phóng di động
    Được Su35FlankerE sửa chữa / chuyển vào 12:03 ngày 24/07/2009
  5. Su35FlankerE

    Su35FlankerE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/01/2009
    Bài viết:
    493
    Đã được thích:
    0
    Tiền bối của Topol M
    SS25 Sickle- RT-2PM Topol- Russia
    RT-2PM Topol (Tiếng Nga: РТ-2Yo ТополO; NATO gọi là SS 25 Sickle ) là một tên lửa đạn đạo liên lục địa ( ICBM ) di động được thiết kế bởi Liên bang Xô Viết , nó ra đời nhằm thay thế cho ICBM UR 100 ( SS 11 ) đã lạc hậu. Hiện tên lửa này đang phục vụ trong lực lượng tên lửa chiến lược Nga .
    [​IMG]
    RT-2PM Topol đã trở thành ICBM di động đầu tiên của liên Xô được triển khai thành công . Việc tên lửa này đi vào hoạt động là kết quả , sự nỗ lực trong hơn 2 thập kỉ của các cục thiết kế nhằm tạo ra 1 hệ thống tên lửa đạn đạo di động đáng tin cậy . Thiết kế của RT 2 Topol là sự tổng hợp , hoàn thiện của 2 loại tên lửa đạn đạo di động trước đó là RT-21 Temp 2S ( SS 16 ) và RSD-10 Pioneer ( SS 20 ) . Hoa Kì cũng phát triển một loại tên lửa đạn đạo di động của riêng họ để làm đối trọng với RT 2PM Topol , đó chính là MGM 134 Midgetman, nhưng dự án đó đã bị hủy khi chiến tranh lạnh kết thúc .
    Việc phát triển RT 2PM Topol đã được phê duyệt vào 19/ 7/ 1977 và được thực hiện bởi viện Công Nghệ Nhiệt Moskva ( đứng đầu là A. D. Nadiradze ). Các chuyến bay thử nghiệm được tiến hành từ tháng 2 - tháng 12 năm 1985 tại bãi thử Plesetsk. Một vài vấn đề chính đã được khắc phục trong thời gian này . Sau loạt bắn thử thành công vào tháng 4/ 1985, 1 trung đoàn Topol đã đi vào trực chiến trong tháng 7 . Trung đoàn tên lửa đầu tiên này được trang bị 1 trung tâm lệnh di động đặt tại Irkutsk ( vùng Siberia ) . Các đợt thử nghiệm cuối cùng hoàn thành vào tháng 12/ 1987.
    [​IMG]
    [​IMG]
    Về thiết kế, PT 2 PM Topol là ICBM mang đầu đạn đơn , được đặt trên khung gầm xe tải hạng nặng (MAZ-7310 hoặc MAZ-7917). Các nghiên cứu được bắt đầu trong năm 1977 , các vụ thử diễn ra từ năm 1983 tới 1987, tên lửa đầu tiên đi vào phục vụ năm 1985. Tính đến năm 1996, đã có 360 tên lửa đi vào hoạt động , con số này bắt đầu giảm dần, đến năm 2005 còn 360 tên lửa trực chiến. Gần đây nhất , tháng 12/ 2008, chỉ còn 189 quả . Với 276 ICBM các loại đang hoạt động ( bao gồm cả 75 tên lửa R-36 và 75 Topol-M ) đã đưa tổng số ICBM trong kho vũ khí của Nga lên đến 465 tên lửa, lớn hơn con số 450 ICBM LGM-30 Minuteman của Mĩ .
    RT 2PM Topol là 1 tên lửa 3 giai đoạn ,cả 3 tầng của tên lửa đều được làm từ vật liệu composite, có chiều dài 29,5 mét, đường kính 1,7 m, kích cỡ nói chung tương tự như ICBM Minuteman của Mĩ. Nó mang theo 1 đầu đạn 1000 kg hoặc đầu đạn hạt nhân có đương lượng nổ 550 KT, độ chính xác ( CEP ) vào khoảng 900 m ( theo 1 vài báo cáo của Phương Tây thì chỉ 300 m ) . Việc là 1 tên lửa đạn đạo di động, có khả năng cơ động cao đã tăng khả năng sống sót của RT 2PM . Tên lửa phóng từ bệ phóng di động .Những xe phóng di động cần nhiều nhân viên bảo trì và vận hành hơn . Do vậy các hệ thống tên lửa di động Topol cần nhiều chi phí để duy trì và vận hành hơn so với các tên lửa phóng từ Silo .
    [​IMG]
    Trên quảng trường Đỏ
    Vào thời điểm kí kết hiệp ước START I năm 1991, Liên Xô đã triển khai 288 tên lửa Topol . Việc triển khai được tiếp tục ,đến năm 1996 đã có 360 tên lửa.
    Sau khi hiệp ước INF có hiệu lực vào năm 1987, 1 số tên lửa đạn đạo di động loại SS 20 của Nga đã được điều chỉnh để có thể phóng Topol. Người Mĩ đã đặc biệt quan tâm tới việc LX thực thi hiệp ước này . Khi các tên lửa SS 25 đã được triển khai trong các bệ phóng di động thì Mĩ vẫn cho rằng LX có giấu các tên lửa SS 20 vào bên trong các bệ phóng kín . Điều này thực sự đáng quan tâm bởi vì khác với RT 2PM chỉ có 1 đầu đạn , SS 20 mang tới 3 đầu đạn . Để xóa bỏ những nghi ngờ của người Mĩ, LX đã cho phép Mĩ sử dụng hệ thống dò tìm bức xạ để đo nhanh cường độ dòng Nơtron bên trong các ống phóng di động. Một ống phóng có chưa tên lửa mang đầu đạn đơn như RT 2PM phát ra dòng Nơtron có tốc độ nhanh hơn so với ống phóng chứa tên lửa mang đầu đạn chùm như SS 20.
    Hiệp ước SALT II được kí kết sau đó đã quy định không được triển khai nhiều hơn 1 loại ICBM mới ( trước đó, LX đã triển khai SS 24 ) . Để đảm bảo việc đưa RT 2PM vào hoạt động mà không bị cản trở bởi SALT II, LX đã tuyên bố RT 2PM chỉ là một biến thể khác của tên lửa RT 2 ( SS 13 ). Nhưng Mĩ không tin, đã có những cuộc tranh cãi nổ ra , chính phủ Mĩ cho rằng RT 2PM lớn hơn 5% so với RT 2 và khả năng mang vác của RT 2PM cũng gấp đôi ---> 2 loại trên không thể là 1 gia đình ---> chắc chắn RT 2PM là 1 loại tên lửa mới. Do đó, LX đã quyết định hủy vụ bắn thử RT 2PM ngày 1/ 9/ 1983 ( theo hành trình tên lửa sẽ bay từ Plesetsk và đến bán đảo Kamchatka sau 24 phút ) . Cái đêm mà vụ thử tên lửa ấy dự định sẽ diễn ra cũng chính là đêm xảy ra sự kiện chiếc máy bay chở khách số 007 của Korean Airlines xâm phạm không phận LX ( chiếc 007 bay vào khu vực đảo Sakhali và bị máy bay chiến đấu LX bắn rụng, toàn bộ 269 hành khách trên máy bay đã thiệt mạng .....xem thêm tại : http://en.wikipedia.org/wiki/Korean_Air_Lines_Flight_007 )
    [​IMG]
    [​IMG]
    Các xe hỗ trợ cho hệ thống tên lửa
    Một phiên bản RT 2PM Topol với 2 đầu đạn đã được thử trong năm 1991 và có lần, tên lửa đã được thử với 4 đầu đạn . Điều này đã trở thành vấn đề bàn luận của Hoa Kì trong hiệp ước START I năm 1991để tránh việc LX cố nhét thêm đầu đạn lên RT 2PM .
    Sự sụp đổ của LX đã tác động đáng kể đến chưong trình tên lửa Topol . Các nhà máy lắp ráp, sản xuất linh kiện cho hệ thống tên lửa này nằm rải rác ở các nước CH thuộc LB Xô Viết, nhưng khi các nước này tách ra độc lập, LB Nga gặp những khó khăn nhất định trong việc tiếp tục dự án Topol. Chẳng hạn, nhà máy sản xuất xe phóng di động đặt ở Belarus, 90 % linh kiện của hệ thống dẫn hướng được chế tạo tại các nhà máy của Ukraine....v...v.....
    Trong tháng 12/ 1995 ,63 tên lửa RT-2PM Topol ở Belarus đã được đưa về Nga .Belarus có 2 trung đoàn tên lửa với 18 đầu đạn hạt nhân đóng trên lãnh thổ mình. Trước đó, tháng 7 năm 1992, Belarus kí kết thỏa thuận để đặt các trung đoàn tên lửa dưới sự kiểm soát của Nga .Trong tháng 9/ 1993 Moscow và Minsk kí thỏa thuận để đưa tất cả tên lửa và đầu đạn về Nga cuối năm 1996.
    Từ cuối những năm 1990 do gặp những khó khăn về nhân lực, tài chính bắt buộc lực lượng tên lửa chiến lược phải cắt giảm biên chế với 2 trung đoàn tên lửa bị giải tán . Còn lại 40 trung đoàn với 9 đầu đạn hạt nhân ( mỗi trung đoàn ).
    [​IMG]
    [​IMG]
    Tháng 2/ 2001, tên lửa Topol được bắn thử và đã bắn trúng mục tiêu ở Kura thuộc bán đảo Kamchatka .
    Ngày 18/ 10 /2007, 1 thử nghiệm thành công khác được tiến hành , tên lửa bay từ Plesetsk tới Kamchatka . Lần thử này cho thấy tên lửa sẵn sàng hoạt động thêm 21 năm nữa .
    Lần thử 28/ 8/ 2008 đã kiểm tra khả năng tránh các hệ thống Rada của đối phương. Tên lửa mang theo loại đầu đạn mới có khả năng xâm nhập các hệ thống phòng thủ tên lửa .
    Mới đây, 12/ 10/ 2008, tên lửa tiếp tục được phóng từ Plesetsk tưói Kamchatka dưới sự giám sát trực tiếp của Tổng Thống Dmitry Medvedev.
    Dự kiến, tên lửa RT 2PM Topol sẽ được thay thế bởi phiên bản hiện đại hơn là Topol M ( SS 27 Stalin ).
    Các thông số kĩ thuật cơ bản :
    Loại : tên lửa đạn đạo liên lục đia ( ICBM )
    Quốc gia : Liên Xô/ Nga
    Vào biên chế : 1988
    Sử dụng : lực lượng tên lửa chiến lược Nga .
    Thiết kế : Viện công nghệ nhiệt Moskva.
    Sản xuất : VMBP ( Votkinsk Machine Building Plant )
    Nặng : 45,100 kg (99,000 lb)
    Dài : 21.5 m (71 ft)
    Đường kính : 1.8 m (5 ft 11 in)
    Đầu đạn : 1 đầu đạn hạt nhân 500 KT.
    Cấu tạo : 3 tầng
    Tầm bắn : 10500 km (6,500 dặm)
    Hệ thống dẫn đường : quán tính, tự động
    Độ lệch : 900- 300 m
    Bệ phóng : xe phóng di động .
    Xem RT 2PM Topol phóng :
    http://www.youtube.com/watch?v=ODdeZfJR8OE&feature=related
    Được Su35FlankerE sửa chữa / chuyển vào 22:31 ngày 25/07/2009
  6. QDNDVN2010

    QDNDVN2010 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/04/2008
    Bài viết:
    735
    Đã được thích:
    1
    Su35 ơi tớ add nick cậu rồi mà sao kô thấy cậu ol mấy nhỉ .
    Mod thông cảm nha em nói ở đây cho tiện 1 tí !
    Hạnh phúc là đấu tranh !
  7. Su35FlankerE

    Su35FlankerE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/01/2009
    Bài viết:
    493
    Đã được thích:
    0
    MGM 18 Lacrosse- USA
    [​IMG]
    MGM-18 Lacrosse là một tên lửa đạn đạo chiến thuật- chiến trường tầm ngắn dùng để hỗ trợ bộ binh . Tên lửa được thử nghiệm lần đầu trong năm 1954 và được đưa vào biên chế quân đội Hoa Kì năm 1959 mặc dù vẫn đang trong giai đoạn phát triển. Nhưng sau đó, do chương trình này gặp phải nhiều rào cản kĩ thuật khó có thể vượt qua nên tên lửa bị rút khỏi biên chế quân đội Mĩ vào năm 1964.
    Dự án Lacrosse này bắt đầu khi thủy quân lục chiến Hoa Kì yêu cầu 1 loại tên lửa tầm ngắn dùng để hỗ trợ bộ binh và pháo binh trên chiến trường . Công việc nghiên cứu và thiết kế nó được bắt đầu vào năm 1947 bởi Trường đại học Johns Hopkins và phòng thí nghiệm hàng không Cornell .
    Lần thử nghiệm đầu tiên diễn ra trong năm 1954 và tên lửa đã sẵn sàng được sản xuất năm sau đó. Nhưng những khó khăn về thiết kế bắt đầu phát sinh và phải khắc phục, mãi đến năm 1959, nó mới chính thức vào phục vụ trong quân đội Mĩ. Những vấn đề phát sinh chủ yếu là về độ tin cậy của hệ thống dẫn đường.
    [​IMG]
    Năm 1956, phòng thí nghiệm viễn thông liên bang đã nghiên cứu 1 hệ thống dẫn đường mới cho tên lửa , tạm gọi là Mod 1. Tuy nhiên , Mod 1 chấm dứt trong năm 1959 , điều này khiến cho thủy quân lục chiến Hoa Kì rút khỏi dự án. Các đơn vị quân đội đầu tiên nhận hệ thống tên lửa này vào năm 1959 mặc dù nó vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện, loại bỏ các nhược điểm .
    Đơn vị đầu tiên được trang bị Lacrosse là tiểu đoàn số 5 , đoàn pháo binh số 41 , đóng tại Fort Sill, Oklahoma. Trong 8 tiểu đoàn được trang bị Lacrosse , hầu hết đi Châu Âu, 1 tiểu đoàn đến Hàn Quốc và 1 tiểu đoàn ở lại Mĩ.
    Các thông số kĩ thuật cơ bản :
    Loại : tên lửa đạn đạo chiến thuật tầm ngắn.
    Quốc gia : Mĩ
    Vào biên chế : 1959- 1964
    Thiết kế : đại học Johns Hopkins và phòng thí nghiệm hàng không Cornell .
    Thời gian thiết kế : 1947-1956
    Sản xuất : công ty Glenn L. Martin
    Thời gian sản xuất : 1956-1960
    Nặng : 2360 lb
    Dài : 19 feet 2 inches ( 5,8 m )
    Đường kính : 20.5 inches ( 0,52 m )
    Đầu đạn : thông thường ( 245 lb ) hoặc hạt nhân ( 1.5-10 kT)
    Nhiên liệu: rắn .
    Tầm bắn : 8-30 km
    Vận tốc : mach 0.8
    Được Su35FlankerE sửa chữa / chuyển vào 16:55 ngày 27/07/2009
  8. thaison0212

    thaison0212 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    11/07/2008
    Bài viết:
    431
    Đã được thích:
    60
    Bác cho em hỏi. Tất cả các Tl của BC đều là nhiên liệu lỏng à. Chắc khi chiến đấu thời gian chuẩn bị tầm 30p nhỉ
  9. Su35FlankerE

    Su35FlankerE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/01/2009
    Bài viết:
    493
    Đã được thích:
    0
    Không hẳn, bác ạ. Các thế hệ tên lửa cũ của BC như DF 1, DF2, DF3, DF4, DF5..... phát triển từ những năm 60- 70 thì đúng là sử dụng nhiên liệu lỏng , thời gian thao tác rất lâu ,phải từ 2- 5 tiếng mới có thể phóng được .Nhưng thế hệ tên lửa mới ( được phát triển từ những năm 80 tới nay ) như DF 11, DF 15, DF 21, DF 31, DF 41 thì lại sử dụng nhiên liệu rắn, thời gian thao tác của bọn này do đó mà rất nhanh , chỉ mất khoảng 15- 30 phút .
  10. thaison0212

    thaison0212 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    11/07/2008
    Bài viết:
    431
    Đã được thích:
    60
    Cám ơn bác. Kiểu này thì khi BC chế tạo được tên lửa đạn đạo chống hạm tầm >1k km thì khi có biến xảy ra. Tàu chiến bên ngòai có muốn vào giúp mình cũng khó nhỉ.
    Buồn thiệt

Chia sẻ trang này