1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trà Dư Tửu Hậu

Chủ đề trong '1981 - Hội Gà Sài Gòn' bởi KemTra, 13/11/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. boysaigon

    boysaigon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2003
    Bài viết:
    10.485
    Đã được thích:
    0
    ĐỒNG NAI
    [​IMG]
    Văn Miếu Trấn Biên - Biên Hoà - Đồng Nai
    Cù Lao Phố
    Từ trên cầu, ở ngã 3 sông về phía thượng lưu là Cù Lao Phố. Ngược dòng lịch sử, năm 1679, khi triều Minh ở Trung Hoa bị nhà Thanh lật đổ có khoảng 30.000 binh sĩ và gia đình trong nhóm bài Thanh phục Minh đã đến và xin Chúa Nguyễn cho làm dân Việt. Trong đó có một nhóm do Trần Thượng Xuyên làm thủ lĩnh đã đến cư trú tại đây và lập nên một cảng có hoạt động thương mại sầm uất được gọi là Nông Nại đại phố. Năm 1698, thừa lệnh của Chúa Nguyễn, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh đã vào Nam kinh lý, ông thấy vùng đất này trù phú và yên bình nên đã dừng chân tại đây. Ông đã chia đặt các đơn vị hành chánh và chình quyền tại Nam Bộ, hai huyện đầu tiên là Phước Long (thuộc Dinh Trấn Biên ?" Biên Hoà) và Tân Bình (Dinh Phiên Trấn ?" Sài Gòn). Sông Đồng Nai là ranh giới tự nhiên giữa TP.HCM và tỉnh Đồng Nai. Nông Nại đại phố tức là Chợ Lớn của xứ Đồng Nai, Đồng Nai âm theo tiếng Quảng Đông, viết chữ Nông Nại.
    Về chợ và cảng Cù Lao Phố, tư liệu ít thấy, cơ bản vẫn là Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, ông Trịnh Hoài Đức tiếc thay, chào đời vào khoảng 1765, khi được 10 tuổi ?ogặp buổi nhiễu nhương, mẹ dời đến Phiên Trấn và cho Trịnh Hoài Đức học với Võ Trường Toản? (Đại Nam liệt truyện).
    Tổ tiên của Trịnh Hoài Đức là tỉnh Phước Kiến (Trung Hoa), theo Đại Nam Liệt Truyện, thì sang Trấn Biên ?oLúc nhà Thanh chiếm Trung Hoa? cha làm quan thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, lúc Cù Lao Phố còn hưng thịnh nhưng ông nội Trịnh Hoài Đức là một trong những người sáng lập miếu Quang Đế (chùa Ông), có tên ghi trong danh sách những người đứng ra lập chùa, năm 1684, tức là sau khi Trần Thắng tài đến Biên Hòa. Tuy không nói rõ, ông nội của Trịnh Hoài Đức có thể đi theo Trần Thắng Tài, hoặc trước, hoặc sau vài năm. Và cha của họ Trịnh cũng góp công vào hương khói của chùa Quang Đế nói trên năm 1743.
    Như vậy, ta thấy những gì Trịnh Hoài Đức ghi chép về Cù Lao Phố là tư liệu đáng tin cậy nhất, ngoài ra tôi chưa gặp tư liệu nào tương đối cụ thể hơn. Họ Trịnh ghi lại: ?oNông Nại Đại Phố, lúc đầu khai thác do Trần Thượng Xuyên, tức Trần Thắng Tài chiêu tấp người buôn nước Tàu đến kiến thiết phố xá mái ngói tường vôi, lầu cao, quán rộng, dọc theo bờ sông liên lạc dài 5 dặm, chia và vạch làm 3 đường phố, đường phố lớn lót đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lót gạch xanh, đường rộng bằng phẳng, kẻ buôn tụ tập, ghe thuyền lớn ở biển và ở sông đến đậu, có những xà lan ( ngưòi dịch lại hiểu là kiểu bè chở hàng hóa), ấy là một chỗ đại đô hộ, những nhà buôn bán to duy ở đây là nhiều hơn? (Đoạn trích dẫn trên đây là ở mục ?oThành tri chí?).
    Trong Gia Định thành thông chí, ở mục ?oSơn duyên chí?, lại ghi về gành đá trên sông, nay còn thấy: ?oPhía bắc gành đá có vực sâu làm chỗ cho tàu biển các nước đến đậu. Xưa nay, thuyền buôn đến đây hạ neo xong thì lên bờ thuê phố ở, rồi đến nhà chủ mua hàng, tại đấy kê khai những hàng hóa trong thuyền và khuân cất lên, thương lượng giá cả. Chủ mua định giá mua bao tất cả hàng hóa tốt xấu, không bỏ sót lại thứ gì. Đến ngày trương buồm trở về gọi là hồi Đường (trở về Trung Hoa)?
    Đọc rải rác những tư liệu trong Gia Định thành thông chí, ta có thể tạm đúc kết:
    -Cù Lao Phố trở thành một cảng quan trọng đầu tiên của Nam Bộ, đón nhận thương thuyền nước ngoài, hưng thịnh suốt khoảng 90 năm từ khi Trần Thắng Tài đến với quân đội, suy thoái từ khoảng 1775, tức là khoảng sau 90 năm, để nhường cho Sài Gòn(sông Tân Bình). Trịnh Hoài Đức mô tả vị trí khá cụ thể, dài 5 dặm, đại khái từ miếu Quan Công nay hãy còn ăn về phía Bắc. Sản phẩm đưa vào cảng là món gì, họ Trịnh không nói rõ, cũng như số lượng tàu thuyền. Nhưng ta đoán là hàng tiêu dùng.
    -Trước khi Trần Thắng Tài được Chúa Nguyễn đưa đến Cù Lao Phố, đã có người Việt từ miền Trung đến ở núi Dinh (Mô Xoài) vùng Bà Rịa từ năm 1658 và vùng Long Thành. Nhờ vậy khi Trần Thắng Tài đến Cù Lao Phố đã có dân Việt, dĩ nhiên người dân tộc cũng tới lui trao đổi hàng hóa. Trần Thắng Tài đến với quân sĩ và gia quyến, nhưng quân sĩ này vẫn tiếp tục cầm vũ khí theo đưổi binh nghiệp. Số thương gia lại đến sau với vốn liếng để lập chợ. Kiểu mua bán ở Cù Lao Phố là dạng xuất nhập khẩu với kho hàng dự trữ hàng hóa nhập vào và dự trữ hàng hóa thâu mua với nhiều chân rết. Nên gọi đó là những ?oTư sản mại bản? chăng? Toàn là dịch vụ, phi sản xuất. Mức hưng thịnh của Cù Lao Phố phải chăng đạt đỉnh cao vào năm 1767, tức là 70 năm sau khi cảng này phát triển. Bằng cớ là năm 1747, có bọn thương khách người Phước Kiến với lãnh tụ là Lý Văn Quang tự xưng là Giản Phố đại vương cùng với 300 quân mưu toan đảo chính, chiếm lấy Dinh Trấn Biên, tức là toan nắm quyền ở khu vực Biên Hòa rộng lớn. Từ Cù lao, chúng vượt qua chiếc cầu ván bắt qua rạch Cát, rốt cuộc âm mưu thất bại. Giản Phố tức là Giản Phố trại (âm lại mấy tiếng Campuchia, vì viết chữ Đông và chữ Giản hơi giống nhau, nên lắm nơi đọc là Đông Phố hóa ra vô nghĩa).
    -Lâm sản, ngà voi, sừng tê giác, lộc nhung không thể tái sinh nhanh chóng, vì vậy mà cạn kiệt. Cù Lao Phố suy thoái vì thiếu hàng hóa đưa ra ngoài (cũng là trường hợp cảng Hà Tiên thời Mạc Cửu). Bấy giờ nhằm lúc Tây Sơn khởi binh, thương gia thấy không có lý do để bám Cù Lao Phố, họ thấy nên dời xuống Sài Gòn-Chợ Lớn để đón nhận nguồn lúa gạo dồi dào của Đồng bằng Sông Cửu Long bắt đầu dư để xuất cảng, dịch vụ lúa gạo xem ra bền vững hơn. Quân Tây Sơn sẵn cơ hội đó đốt phá chợ phố của Cù lao.
    Đại Nam nhất thống chí ghi rõ quân Tây Sơn đến ?odỡ lấy hết nhà cửa, gạch đá, của cải chở về Quy Nhơn, từ thời Gia Long trung hưng tuy người ta có trở về, nhưng trăm phần chưa được một?.
    Chi tiết ?oNhà cửa gạch đá? bị cướp đi rất quan trọng. Theo kỹ thuật đi ghe buồm, ghe phải chở nặng chạy mới vững. Chuyến qua Cù Lao Phố, ghe chở thêm đá và gỗ mỹ thuật, khá nặng rồi ráp lại đã chạm trổ để xây cất chùa miếu, nhà cửa cho nhanh.
    Người Pháp đến khi Cù Lao Phố đã trở thành xóm làng bình thường, không còn dấu ấn gì về thới oanh liệt đã qua. Nay chọn cù lao là địa bàn của xã Hiệp Hòa, trong thành phố Biên Hòa. Con số đình chùa khá nhiều, của làng xưa nay đã trở thành ấp, chứng tỏ thời nhà Nguyễn ở đây có hơn 10 làng xã với đình làng. Người xưa còn đâu? Đọc lược sử Cù Lao Phố do nhà xuất bản Đồng Nai ấn hành 1994, thấy ghi các dòng họ Nguyễn, Lê, Trương, Huỳnh là những dòng họ lớn đến sinh cơ lập nghiệp từ lâu đời, chiếm tỷ lệ cao trong xã, còn ngôi mả ngói rất xưa mà họ Nguyễn nhận là của dòng họ mình. Và theo luận văn của Tôn Thị Điệp về Cù Lao Phố thì các dòng họ trên xuất hiện gần 300 năm nhưng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Lại còn ông Bì Văn Lâu cho biết họ Bì gốc Tàu, lại còn họ Tống Đình gốc Tàu.
    Nguyễn Hữu Cảnh đến Cù Lao Phố ngay lúc cù lao với cảng đang hưng thịnh, nhưng bấy giờ căn cứ và cơ cấu quân sự của ta đặt ở Sài Gòn rất quan trọng với đồn dinh ông. Nguyễn Hữu Cảnh vào Cù Lao Phố với thủy quân, tuy không ghi rõ nhưng ta chắc là vào Cù Lao Phố theo cửa Cần Giờ, ngược lên Biên Hòa. Và cuộc hành quân phía sông Cửu Long của ông theo đường thủy, khi ông mất ở Rạch Gầm, quan tài được đưa về Cù Lao Phố, không quàn ở Sài Gòn, từ Cù Lao Phố về miền Trung, chôn ở quê là Quảng Bình cũng theo đường thủy.
    Cơ ngơi mà nay hiểu lầm là phần mộ của ông chỉ là nơi quàn quan tài chứ không phải là phần mộ, đồng bào địa phương vì tôn kính ông nên đắp mộ tượng trưng để ghi nhớ. Nếu là mộ thì phải to hơn và đặc biệt phải có thành bao bọc phần đất rộng, theo tiêu chuẩn của quan to. Vị trí mà miếu Bình Kính thờ Nguyễn Hữu Cảnh thời xưa đã thay đổi, lâu ngày mục nát, nước xoáy lở vào bờ, nên đời Tự Đức năm 1851 phải dời vào phía trong vài mươi mét, ngay bờ cũ (Đại Nam nhất thống chí ghi dời ở phía sau 10 trượng).
    Nay có lẽ nên bố trí khu Cù Lao Phố thành một điểm du lịch lý tưởng. Đền thờ Quan Công còn đó, đình Bình Kính còn đây, sông Đồng Nai rộng, gió mát. Phía mé sông trước đình, có lẽ nên trồng cây bằng lăng, cây bản địa, trổ bông đẹp. Thời xưa, Trần Thắng Tài đóng quân bên phía chợ Biên Hòa, sử ghi xứ Bàn Lân, sau đổi thành Tân Lân. Có thể hiểu Bàn Lân là tiếng Bằng lăng nói trại ra.
    Cảng Cù Lao Phố thành hình trễ hơn phố cổ Hội An và suy thoái sớm hơn phố cổ Hội An.
    (Còn tiếp)
  2. boysaigon

    boysaigon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2003
    Bài viết:
    10.485
    Đã được thích:
    0
    Mạnh Mẫu dạy con trai về sự khiếm nhã


    Mạnh Tử học thầy Tư Đồ Ngưu ba năm, sau đó ông trở về nước Lỗ lấy vợ năm 19 tuổi. Điền Thị - vợ ông là người nết na hiếu thảo, được Mạnh mẫu vừa ý nhắm cho con trai mình.
    Một hôm, Mạnh Tử bất chợt bước vào phòng, thấy vợ đang thay áo để ngực trần. Theo Nho giáo nghiêm khắc mà Mạnh Tử vừa học và đang ra sức truyền bá, thì hành động của vợ là sự khiếm nhã lớn xúc phạm chồng. Do đó ông lớn tiếng đuổi vợ ra khỏi nhà.
    Thật ra Mạnh Tử đuổi vợ không hẳn vì lý do đạo đức, mà chính vì Điền Thị xấu (Ngay từ đầu ông đã chê vợ nhưng không dám trái ý mẹ).
    Mạnh mẫu quyết không để con dâu hiền thục ra khỏi nhà mình, liền hỏi con trai:
    - Thế trước khi vào phòng, con có gõ cửa không?
    Mạnh Tử lúng túng:
    - Thưa... không ạ!...
    - Vậy chính con mới là người khiếm nhã. Con được ăn học, biết lỗi thì phải sửa. Con nghĩ thế nào khi đã xúc phạm vợ mình?
    Mạnh Tử phải xin lỗi mẹ, xin lỗi vợ, và mời nàng ở lại.
    Từ đó ông trở thành người chồng mẫu mực và rất yêu thương vợ.
    Trích ?oTÚI KHÔN NHÂN LOẠI?
    (do Phan Đức Nam tuyển chọn và biên soạn)
  3. boysaigon

    boysaigon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2003
    Bài viết:
    10.485
    Đã được thích:
    0
    Thơ tứ tuyệt bình dân
    Ngày xưa, chỉ giới nho sĩ mới dùng thể thơ tứ tuyệt. Tuy nhiên, đôi khi giới bình dân cũng có dùng thể loại này để làm thơ hài hước. Xin giới thiệu ba bài:
    VỊNH CÁI CỐI XAY
    Trời đất sinh ra cái cối xay
    Thớt dưới nằm lặng, thớt trên xoay
    Xoay đi xoay lại, mòn đi cả
    Trồi lên một cái bằng cổ tay
    (?oCái bằng cổ tay? là cái trục cối xay).
    Hai bài sau đây chắc cũng là tác phẩm của người Nghệ Tĩnh:
    VỊNH CON ONG BÙ
    Con gì kêu vù vù
    Ờ ra con ong bù
    Cái giống eo lưng rứa mà độc
    Đằng trốc không cắm, cắm đằng khu
    (Phương ngữ Nghệ Tĩnh: ong bù, ong bầu, trốc: đầu phần trên (như trong thành ngữ ăn trên ngồi trốc; troốc - đọc như trốt, âm nhẹ - là cái đầu trong phương ngữ Thừa Thiên trở ra Bắc Trung bộ); cắm: có nghĩa là ?ocắn?, và cũng có nghĩa là ?ocắm vào?).
    Một anh chàng nọ bắt được con ếch, đem biếu bố vợ. Có người mượn lời mẹ anh ta, làm thơ mắng:
    Con ếch tháng mười béo quá ga
    Đem cho bọ gấy, nỏ cho choa
    Mồ cha cái đứa bất nhân rứa
    Biết lộ vô, không biết lộ ra
    Phương ngữ Nghệ Tĩnh: ga; gà; bọ gáy; bố vợ; nỏ: không, chẳng; tao; lộ: vừa có nghĩa là cái lỗ, vừa có nghĩa là chỗ (lộ mô: chỗ nào). ?oBiết chỗ vô không biết chỗ ra? là một thành ngữ nói về người khù khờ.
    Dùng từ ?olỗ ra? để chỉ người mẹ và từ ?olỗ vô? để chỉ người vợ thì quả là rất ?ođộc?.
    Nhất Tiếu

Chia sẻ trang này