1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trà Dư Tửu Hậu

Chủ đề trong '1981 - Hội Gà Sài Gòn' bởi KemTra, 13/11/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vietgreat

    vietgreat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2005
    Bài viết:
    1.440
    Đã được thích:
    0
    Chín Chúa, Mười Ba Vua
    3. Chúa Nguyễn Phước Lan còn gọi là Chúa Thượng (1635-1648)
    Tranh giành ngôi báu
    Năm ất Hợi (1635) cháu Sãi mất, con là Nguyễn Phúc Lan lên nối nghiệp gọi là chúa
    Thượng.
    Nghe tin chúa Thượng nối nghiệp, hoàng tử thứ ba là Nguyễn Phúc Anh đang trấn giữ ở
    Quảng Nam âm mưu phản nghịch. Phúc Anh viết thư sai người mật ra Bắc, yêu cầu chúa
    Trịnh đem quân vào đánh, Anh sẽ tiếp tay. Lại mời ký lục Vân Hiên hiến kế đắp lũy Câu Đê
    làm kế cố thủ. Xuống lệnh cấm ở các cửa biển không cho dân chúng ra vào. Lại sai tướng
    Khang Lộc tiết chế thủy bộ quân làm tiên phong đem quân rải đóng ở cửa biển Đà Naüng,
    không chịu về triều nhận lệnh. Riêng Phúc Anh tự mình đem quân đến đóng đồn ở lũy Câu Đê
    để xem thế đánh giữ.
    Chúa Thượng nghe tin, cả giận bèn mới chú là Tường Quận Công Nguyễn Phúc Khê vào
    phủ khóc bảo rằng:
    "Cháu với Dương Nghĩa hầu (chỉ Phúc Anh) là anh em cùng cha một mẹ sinh ra, chung
    gốc liền cành, hoạn nạn giúp nhau, phú quý cùng hưởng. Ai ngờ Dương Nghĩa manh tâm tiếm
    đoạt phản nghịch, giết hại dân chúng trong miền. Cháu muốn nhường ngôi cho hắn để khỏi
    sinh sự tranh giành không biết có nên chăng? Mong tôn thúc liệu xét cho".
    Nguyễn Phúc Khê nghe xong bừng bừng tức giận nói:
    "Dương Nghĩa là đồ lục sục không nghĩ gì đến công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ. Nay hắn
    đã dấy binh làm loạn, tội khó dung tha còn phải hồ nghi gì nữa." Bèn sai tướng đem quân lên
    đường. Hai bên xáp chiến một trận bất phân thắng bại. Cai đội bộ binh, tước Dương Sơn và
    Công tôn Tuyên lộc bất ngờ đem quân đánh qua cửa Hải Vân, tiến vào Quảng Nam.
    Dương Sơn vào trước trong doanh trại của Dương Nghĩa hầu thu được quyển sổ "Đồng
    tâm hướng thuận". (cùng lòng theo về) chép tên họ các quan văn võ và dân chúng ước
    khoảng vài trăm người, trên hơn 10 tờ giấy. Suy đi nghĩ lại Dương Sơn xé bỏ khoảng 5,6 tờ.
    Tiếp đến Tuyên Lộc phóng hỏa thiêu cháy trại quân của Dương Nghĩa. Dương Nghĩa chạy trốn
    về phía cửa biển Đại Chiêm. Tuyên Lộc đuổi bắt được, đóng gông giải về.
    Đến khi luận tội Phúc Anh nằm rạp xuống kêu oan. Chúa Thượng không nở ra lệnh giết.
    Nguyễn Phúc Khê tâu:
    "Anh là kẻ phản nghịch, tội rất lớn, xin cứ phép gia hình để răn bọn loạn tặc"
    Chúa dù đau xót phải nghe theo.
    Chuỗi hoa tình ái
    Tống Thị, vợ của Hữu Phủ Khánh Mỹ, trấn thủ ở Quảng Nam là người có nhan sắc hoa
    nhường, nguyệt thẹn. Khánh Mỹ chết sớm, Tống Thị có dịp ra vào phủ chúa, ý muốn tư tình
    với Thượng Vương nhưng Vương không chú ý đến. Tống Thị về xâu một chuỗi hoa như vòng
    ngọc liên châu rất đẹp, sai người đêm đến dâng cho chúa. Chúa cầm lên ngửi thấy mùi hương
    thơm ngát xúc động lòng yêu. Từ đó, chúa đem lòng thương yêu Tống thị.
    Năm Kỷ Mão (1639) Tống Thị thân vào phủ chúa chầu hầu. Nàng sụp lạy dưới thềm,
    thưa trình về tình cảnh góa bụa thảm thiết, nhan sắc lại cực kỳ diễm lệ. Chúa Thượng nổi tình
    riêng, sau đó mời nàng vào nội thất chung chăn gối.
    Từ đó, chúa hết mực sùng ái Tống Thị. Nàng trình bẩm việc gì, chúa cũng nghe theo.
    Tống Thị lựa lời khéo léo để chúa vui lòng, nghĩ cách chiếm đoạt của cải của dân để làm giàu
    riêng. Các quan đại thần căm ghét Tống Thị, tìm cách can gián nhưng chúa không nghe. Cho
    hay, nhan sắc phái đẹp quả là có mãnh lực vô biên, làm lung lạc cả đấng quân Vương dũng
    cảm, sáng suốt. Sau này Phúc Lan trúng độc Tống Thị mà chết.
    Chiến công vang dội
    Làm vua được 9 năm vị Chúa đa tình này lập được chiến công vang dội. Lần đầu tiên
    trong lịch sử thủy chiến, thủy quân Việt Nam đã đánh thắng thủy quân Âu Châu.
    Năm 1643, Hòa Lan theo lời yêu cầu của chúa Trịnh cho 3 chiếc tàu đồng kiểu tròn, võ trang
    nhiều trọng pháo tiến vào cửa Eo (Thuận An) mưu đồ xâm lược.
    Chúa Thượng họp quần thần bàn định nên đưa chiến thuyền của mình ra đánh tàu Hoa
    Lan hay không. Vì chưa bao giờ xáp chiến với Tây Dương, nên quần thần không dám hứa
    chắc là thắng. Lúc ấy Chúa hỏi một người Hòa Lan giúp việc quân sư cho Chúa, người ấy tự
    phụ trả lời:
    "Tàu Hòa Lan chỉ sợ mãnh lực và quân đội của trời thôi."
    Nghe vậy, chúa cảm thấy bị xúc phạm. Ông thân hành đến cửa Eo, ra lệnh cho thủy quân
    chèo thuyền ra đánh thẳng vào 3 chiếc tàu của Hòa Lan.
    Hàng trăm chiếc thuyền Việt Nam xông thẳng vào các chiếc tàu Hòa Lan, mặc đại bác
    bắn ra như mưa.
    Bốn mặt tàu Hòa Lan đều bị tấn công. Nhờ thuyền nhỏ, cơ động nhanh nhẹn nên mặc
    dù bị một số đạn, tàu Việt Nam vẫn bao vây tấn công vào tàu Hòa Lan quyết liệt. Chúng vô
    cùng kinh hoàng không ngờ thủy quân chúa Nguyễn gan dạ đến thế. Chiếc nhỏ nhất vội luồn
    lách chạy thoát thân. Chiếc thứ hai thảng thốt đâm vào đá, cả thủy thủ đoàn và tàu chìm
    nghỉm xuống biển. Chiếc thứ ba lớn nhất chống cự lại. Các thủy quân Nguyễn bám sát tàu, bẻ
    bánh lái. Một số nhảy lên tàu, chặt gãy cột buồm. Bị dồn vào thế tuyệt vọng, thuyền trưởng
    Hòa Lan cho nổ kho thuốc súng. Thế là tất cả thủy thủ bị hỏa thiêu, chết la liệt trên biển. Có
    7 tên nhảy xuống biển, cố bơi thoát nhưng đều bị tóm cổ.
    Thắng trận trở về, chúa Thượng dẫn 7 tù binh đến trước mặt người Hòa Lan nói:
    - Cần chi mãnh lực và quân đội của trời mới phá được. Chiến thuyền của ta cũng khá
    đấy chứ.
  2. vietgreat

    vietgreat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2005
    Bài viết:
    1.440
    Đã được thích:
    0
    Chín Chúa, Mười Ba Vua
    4. Chúa Nguyễn Phước Tần còn gọi là Chúa Hiền (1648-1687)
    Chiến tướng khi còn thế tử
    Khi chưa lên ngôi Nguyễn Phúc Tần là một chiến tướng. Suốt thời gian làm chúa, ông
    đánh nhau với Trịnh nhiều phen.
    Trước khi lên ngôi vài tháng, Trịnh Tráng sai đô đốc Tiến quận Công là Lê Văn Hiểu (có
    nơi chép là Hàn Tiến) đem quân thủy bộ vào đánh miền Nam. Bộ binh đóng ở đất Nam Bố
    Chính; còn thủy quân thì đánh vào cửa Nhật Lệ.
    Bấy giờ hai cha con Trương Phúc Phấn quyết tâm ra sức giữ Lũy trường Dục, quân Trịnh
    đánh mãi không tiến lên được.
  3. phale81

    phale81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/09/2004
    Bài viết:
    1.967
    Đã được thích:
    0
    Xin lỗi các bạn post bài, có thể nào thống nhất trình tự đựơc không? Đang đọc thời sơ sử thì bay 1 phát sang 9 chúa 13 vua, đọc nhảy cóc thế thì không xuyên suốt rất khó thống nhất kiến thức về sử VN.
    Cám ơn
  4. boysaigon

    boysaigon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2003
    Bài viết:
    10.485
    Đã được thích:
    0
    Bởi vậy nên Lịch sử VN đành dừng lại chờ 9 Chúa 13 Vua thời Nguyễn diễn ra rồi mới tiếp tục đấy thôi.
    Sẽ sắp xếp cho hợp lý khi nhà Nguyễn kết thúc.
  5. vietgreat

    vietgreat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2005
    Bài viết:
    1.440
    Đã được thích:
    0
    Làm hết 9 chúa, 13 vua để anh Boy viết tiếp lịch sử Việt Nam.
    --------------------------------------------------------------------------------------
    Chín Chúa, Mười Ba Vua
    5. Chúa Nguyễn Phúc Trân còn gọi là Chúa Nghĩa (1687-1691) Người chọn Phú Xuân làm đất kinh thành.
    Người đời sau nhắc đến Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trân là nhờ chúa đã dời phủ từ Kim
    Long về Phú Xuân, địa thế bằng phẳng, đẹp đẽ, tiếp nối nhiều đời chọn làm kinh đô.
    Việc lập dinh định phủ có từ lúc Nguyễn Hoàng mới vào trấn đất Thuận Hóa thì đóng
    dinh ở ái Tử (thuộc huyện Đăng Xương, gần tỉnh lî Quảng Trị). 13 năm sau (1570) lại dời vào
    Trà Bát ở huyện ấy tức là Cát Dinh. Đến năm Bính Dần (1626) chúa Sãi khắp nơi chống nhau
    với Chúa Trịnh, mới dời dinh vào làng Phúc An (huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên). Năm
    Bính Tý (1636) chúa Thượng lại dời phủ vào Kim Long (huyện Hương Trà), tỉnh Thừa Thiên.
    Năm Đinh Mão (1687) chúa Nghĩa đem phủ về làng Phú Xuân, là đất kinh thành bây giờ, gọi
    là chính dinh. Chỗ phủ cũ để làm Thái tông miếu thờ chúa Hiền.
    6. Chúa Nguyễn Phước Chu còn gọi là Minh Vương (1691 - 1725) Vị Chúa mộ đạo
    Chúa Nguyễn Phúc Chu là chúa mộ đạo Phật. Năm 1710 Chúa sai đúc chuông lớn.
    Chuông đồng này cân nặng 3.285 cân, đặt trong một lầu chuông rộng lớn ở chùa Thiên Mụ,
    cúng Tam Bảo. Năm Giáp Ngọc 23 (1714) trùng tu nhà chùa. ất Mùi năm 24 (1715) cho dựng
    bia đá cao lớn, dày dặn, dựng trên lưng một con rùa bằng đá, đối diện trước chuông đồng
    trước cửa Thiên Mụ, ngự chế bài văn bia đá, chúa lại mời hòa thượng Thích Đại Sán, một lão
    tăng Trung Quốc sang Thuận Hóa giảng đạo. Lão tăng đã ở chùa Thiên Lâm hơn 5 tháng vào
    đầu năm 1695), rồi vào Hội An, về Quảng Đông. Tại Hội An, Đại Sán bị đau ốm, tàu trở gió
    nên phải hoãn cuộc hành trình. Đại Sán ra Thuận Hóa lần nữa vào ngày 22 tháng 11. Lần này
    Đại Sán trú tại chùa Thiên Mụ rồi cuối hạ tuần tháng 6 năm sau mới về Trung Quốc. Những
    điều mắt thấy tai nghe, Đại Sán ghi vào sách "Hải ngoại kỷ sự". Mục "Đàn chay" Đại Sán ghi
    lại cho ta thấy phần nào tính cách Quốc Chúa.
    ... Ngày 1 tháng 4 thuyền Sa - Nhi - Giới, Quốc Vương mở đàn chay, dâng lễ, tự mình
    đến thắp hương, mời ta thượng đàn thuyết pháp.
    Trước đó một ngày, dọp dẹp đường sá. Từ sáng sớ_____m có đội quân mão đỏ đẹp đường bắt
    người ta phải tránh xa ngoài một hai dặm. Đạo ngự đi có người theo hầu tả hữu, đều cầm kim
    đao, kim thương dài năm sáu thước (khoảng 2 thước tây). Quốc Vương ngồi trên kiệu Ly Điền
    giống hình con lừa. Quân khiêng kiệu 16 người, toàn người cao lớn, xõa tóc, mình trần chỉ có một sợi dây thắt ngang lưng, treo một vuông vải trước quấn lại cột chéo ra sau lưng (...)
    Quốc Vương đội mão xung thiên cánh chuồn, mặc đạo bào màu huyền, đi giày nhung, không
    mang bít tất, vào đền thắp hương lễ phật. Đoạn đi quanh đàn chay, xem xét trần thiết, cả
    mừng than rằng:ô May có lão hòa thượng đến đây, mới được thấy pháp môn quảng địa trang
    nghiêm như vậy.
    Vương tiến vào phương trượng tham kiến. Quốc cậu mặc áo mãng bào, cầm kim đao đứng
    hầu. Nhà Chúa dâng trà quả cơm chay đều không dùng, đã có nội giám đem trà để ngự dụng.
    Trong câu chuyện, phần nhiều nói về việc Phật....
    Ngoài vách chùa, quân lính đứng dày hai lớp. Lớp ngoài toàn người cao lớn râu ria, ai
    râu ít thì kẻ thêm râu giả, đội mão bằng gỗ đỏ, cầm kim thương đứng thẳng khít rịt. Lớp
    trong toàn thanh niên mạnh mẽ, chít khăn đà la ni đỏ, mặc áo nhung lục, cầm kim đao, cũng
    đứng như lớp ngoài. Cán dao và cán thương đều sơn màu anh đào. Mỗi khi Quốc Vương trong
    điện bước ra, quân lính đều xoay mặt ngó vào. Quốc Vương đi vào thì sắp hàng đứng hai bên
    đối diện nhau rất thẳng. Ngoài giậu có vài nghìn quân, thế mà ngự tọa lặng thinh, chỉ nghe
    tiếng chim kêu lá rụng mà thôi.
    Hát tuồng trong dinh Chúa
    Không những chúa Nguyễn Phúc Chu là một người mộ đạo phật, mà chúa cũng là người
    có tâm hồn nghệ sĩ, biết thưởng thức ca vũ nhạc và tuồng. Chính chúa là một tay đánh trống
    tuồng lão luyện vào thế kỷ XVII. Thích Đại Sán đã ghi lại trong ọ Hải ngoại ký sự những nhận
    xét của ông như sau:
    Cơm nước xong (...) kế khiến gọi ra bốn năm mươi cung nữ, người nào cũng thoa son đánh
    phấn, bận áo hoa màu lục dài phết đất, đội mão vàng... ra múa hát. Diễn tuồng xong nhà vua
    lấy ra năm mươi đồng tiền giao cho ta bảo thưởng cho tiểu hầu (...).
    Trong tiệc có diễn kịch, Quốc vương dắt bọn tiểu hầu đến, dọn lại bàn tiệc, nhường cho
    bọn tiểu hầu của vương hát trước. Trong cuộc hát, chủ nhân đặt một cái trống lớn (trống
    chầu - TTB chú) bên sân khấu, thỉnh thoảng điểm 2,3 tiếng trống cũng có ý nghĩa như gõ
    nhịp thuở xưa vậy. Ngày ấy vua rất cao hứng, tự đánh trống điểm nhịp cho bọn hát, thanh
    điệu lạ lùng, bộ tịch đường lối cũng khác, người trong tiệc ngồi xem cũng rất thú vị.
    Căn cứ vào sự kiện diễn tuồng mà Thích Đại Sán ghi lại ở dinh chúa Nguyễn, một số
    nhà nghiên cứu tuồng cho rằng, vào thế kỷ XVII, tuồng đã định hình ở Việt Nam.
    7. Chúa Nguyễn Phước Thụ còn gọi là Ninh Vương (1725-1739) Người sát nhập đất Gia Định vào Việt Nam
    Chúa Nguyễn Phúc Chu qua đời, con trưởng là Phúc Trú nói nghiệp, tự xưng là Tiết Chế
    thủy bộ chư dinh, Thái phó Đỉnh Quốc Công, tự hiệu là Vân Tuyền đạo nhân Công lớn của
    cháu Nguyễn Phúc Trú là đưa đất Gia Định về Việt Nam. Vào năm Long Đức thứ 1 (1732),
    Nhâm Tý, chúa sai tướng đi đánh Cao Miên, lấy đất Sài Gòn, lập dinh Long Hồ Châu Đinh
    Viễn.
    Y tông Vĩnh Hựu năm thứ 4 (1738), Mậu Ngọ Phúc Trú qua đời, coi việc nước được 13
    năm, thọ 43 tuổi, đặt thụy riêng là Đại nguyên súy Tổng quốc chính Tuyên đạt Vương, chỉ có
    3 con.
    Đất Gia định màu mỡ, nhập vào miền Nam nước Việt Nam cũng nhờ công lao của chúa
    Nguyễn Phúc Trú vậy.
    8. Chúa Nguyễn Phúc Khoát còn gọi là Võ Vương (1739-1765) Những trang đầu của lịch sử áo dài
    Chiếc áo dài tha thướt xinh đẹp hiện nay phải qua một quá trình phát triển. Nó được
    hình thành từ đời cháu Nguyễn Phúc Khoát. Nguyên cháu Nguyễn Phúc Khoát nghe người
    Nghệ An truyền câu sấm: Bát đại thời hoàn Trung nguyên (tám đời trở về trung nguyên),
    thấy từ đoạn Quốc Công đến nay vừa đúng 8 đời bèn xưng hiệu lấy thể chế áo mũ trong Tam
    tài đồ hội làm kiểu (...) lại hạ lệnh cho trai gái hai xứ đổi dùng quần áo Bắc quốc để bày tỏ sự
    biến đổi, khiến phụ nữ bận áo ngắn hẹp tay như áo đàn ông thì Bắc không có thế.
    Thế là do tinh thần độc lập, muốn dân chúng trong địa phận mình cai trị mang y
    phục riêng để phân biệt với miền Bắc, Nguyễn Phúc Khoát hiểu dụ:
    "Y phụ bản quốc vốn có chế độ, địa phương này từ trước cũng chỉ tuân theo quốc tục,
    nay kính vâng thượng đức, dẹp yên cõi biên, trong ngoài như nhau, chính trị và phong tục cũng nên thống nhất. Nếu còn có người mặc quần áo kiểu người khác thì nên đổi theo thể chế
    của nước nhà. Đội may y phục thì theo tục nước mà thông dụng vải lụa, duy có quan chức thì
    mới cho dùng xen the, là, trừu đoạn, còn gấm vóc và các thứ hoa rồng phượng thì nhất thiết
    không được quen thói cũ dùng càn. Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn
    tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. áo thì từ hai bên nách trở xuống phải khâu kín
    liền không cho xẻ mở, duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc
    thì cũng được. Lễ phục thì dùng áo cổ đứng tay dài, vải xanh chàm hoặc vài đen, hay vải
    trắng tùy nghi. Còn các bức viền cổ và kết lót thì đều theo như điều hiểu dụ năm trước mà
    chế dùng."
    Như vậy từ thế kỷ XVIII, chiếc áo dài đã được ra đời, dù ban đầu còn thô sơ, nhưng kín
    đáo. Nó là sản phẩm mang màu sắc dung hòa Bắc Nam. Cũng ở thời Nguyễn Phúc Khoát, phụ
    nữ đã biết trang điểm, thêu thùa hoa lá quanh cổ áo để tăng vẻ đẹp, hàng vải khá tốt và tinh
    xảo. Các loại áo đoạn hoa bát ty, sa, lương, địa, the là hàng hoa được mặc vào ngày thường,
    áo vải, áo mộc bị chê là vải xấu.
    Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã viết những trang lịch sử đầu cho chiếc áo dài.
    Thuận hóa giàu đẹp
    Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, Thuận Hóa được trải qua một thời gian bình yên
    nên công tư đều dồi dào về vật chất, cảnh xây dựng xa hoa phô bày. Lê Quý Đôn đã mô tả
    Quan viên nhà cửa không ai là không nhà cửa trạm gọt, tường vách gạch đá, the màn trướng
    đoạn, đồ đã đồng thau, bàn ghế gỗ đàn gỗ trắc, chén mâm đồ sứ đồ hoa, yên cương vang
    bạc, y phục gấm vóc, chiếu đệm mây hoa, phú úy phong lưu đua nhau khoe đẹp (...). Binh sĩ
    đều ngồi chiếu mây, dựa quả tựa hoa, ôm lò hương cổ,hãm chè hảo hạng, uống chén sứ bịt
    bạc và nhổ ống nhổ thau, đãi bát ăn uống thì không cái gì là không phải hàng Bắc, một bữa
    cơm ba bát lớn. Đàn bà con gái thì đêu mặc áo the là và hàng hoa, thêu hoa ở cổ tròn. Coi
    vàng bạc như cát, gạo như bùn, xa xỉ rất mực.
    Cảnh sắc thật huy hoàng, rực rỡ, nhộn nhịp đông vui;
    Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu, đổi tên đề biển, có hai điện Kim Hoa, Quang Hoa
    có các nhà Tụ Lạc, Chính Quang, Trung Hòa, Di Nhiên, đài Sướng Xuân, các Dao Trì, các Triêu
    Dương, các Quan Thiên, đình Thụy Vân, hiên Đồng Lạc, an Nội Viên, đình Giáng Hương, công
    đường, trường học và trường súng. ở thượng lưu về bờ nam có phủ Dương Xuân và phủ Cam.
    ở trên nữa có phủ Tập Tượng, lại dựng điện Trường Lạc, hiên Duyệt võ, mái lớn nguy nga, đài
    cao rực rỡ mà giải võ, tường bao quanh, cửa bốn bề, chạm khắc vẽ vời, khéo léo cùng cực.
    Các nhà đều lát nền bằng đá, trên lát ván kiền kiền, những máng xối đều làm bằng kẽm để
    hứng nước, trồng xen cây cối, cây vải cây mít đều to mấy ôm.
    Vườn sau thì núi gả đá quý, ao vuông hào quanh, cầu vòng thủy tạ, tường trong tường
    ngoài đều xây dày mấy thước, lấy voi và mảnh sứ đắp thành hình rồng phượng, lân hổ, cỏ
    hoa. ở thượng lưu và hạ lưu Chính dinh đều là nhá quán bày hàng như bàn cờ. Những nhà
    của thủy quân lại ở đối ngạn. Xưởng thuyền và kho thóc thì ở các xã Hà Khê, Thọ Khang trên
    thượng lưu. Còn nhà vườn của các công hầu quyền quý thì chia bày ở hai bên bờ phía thượng
    lưu sông Phú Xuân, cùng hai bờ sông con bên hữu phủ Cam. ở thượng lưu, hạ lưu phía trước
    Chính dinh thì phố chợ liền nhau, đường cái đi ở giữa, nhà cửa chia khoảng tiếp nhau, đều là
    mái ngói. Cây to bóng mát, tả hữu thành hàng. Thuyền buôn bán, đò dọc ngang, đi lại như
    mắc cửi.
    9. Chúa Nguyễn Phúc Thuần còn gọi là Định Vương (1765-1777) Biến loạn trong triều đình .
    Hiếu Võ, Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát có 15 người con, con trưởng là Phúc Hiệu, xưng
    là Đức mụ, chết sớm, thứ là Chưởng Võ và Chưởng Văn, Phúc Khoát và mẹ Phúc Thuần là anh
    em đồng đường, cho nên Phúc Thuần được nuôi ở hậu cung, không lập làm kế tự. Con Đức
    mụ là Phúc Dương, gọi là Chi Dương, Phúc Khoát cũng không lập, muốn lập Chưởng Võ, bèn
    cho nội hữu ý Đức Hầu giữ nuôi. Năm ất Dậu, tháng 5, Phúc Khoát mất, thái giám Chữ Đức
    Hầu và nội tả Thân Kinh Hầu làm di mệnh giả cho ngoại tả Trương Phúc Loan lấy Phúc Thuần
    làm kế tự, bắt giam Chưởng Võ và giết ý Đức Hầu. Em Phúc Khoát là Thường Quận Công tên
    là Chưởng Vàng Bị Trương Phúc Loan ghét, sai người vu cho tội mưu phản, xét không có hình
    tích, lấy một khẩu súng riêng làm chứng, bỏ tù mấy năm, phát bệnh ung thư ở lưng mà chết.
    Năm Quý Tựu, Nguyễn Văn Nhạc khởi nghĩa, gửi thư cho tham mưu tá và giả làm lời của Phúc
    Loan ngầm sai nổi loạn. Tham mưu tá đem báo cho Chưởng Văn, Văn nói với Nguyễn Phúc
    Thuần sai các tướng họ Nguyễn cùng tra xét. Phúc Loan cố tranh biện chứng cớ không rõ ràng nên không bị bắt tội. Phúc Loan ngờ tham mưu Tá làm ra thư, triệu về khảo đánh, Tá không
    nhận nên bị giết. phúc Loan lại ngầm sai người tố cáo Chưởng Văn và đồ đảng thông với Tây
    Sơn, bắt hạn gục. Được mấy tháng thì Chưởng Văn trốn ra miền rừng Châu Bố Chính, bị
    người cáo giác, Nguyễn Phúc Thuần bảo Phúc Loan sai người bắt, dẫn đến Phá Tam Giang dìm
    chét.
    Những người Nguyễn Phúc Thuần tin dùng đều tham của, mê gái, ham chơi. Quốc phó
    Trương Phúc Loan thấy lợi thì tranh trước, nhà chứa vàng bạc của cải vô số mà còn không
    vừa. Chưởng Thủy cơ nguyễn Hoãn thích rượu, suốt ngày say sưa. Hữu Trung cơ Nguyễn
    Nghiễm mê gái, lấy vợ lẽ 120 người, buồng sau nhà chứa đầy châu ngọc, mắm muối trăm
    vạn thạch, hồ tiêu ngoài hai vạn học. Riêng Nguyễn Phúc Thuần năm Kỷ Sửu hạ lệnh cho các
    huyện lập một ban du xuân, mỗi ban 50 người, tiền thuế mỗi người một quan để khi có hội
    hè thì làm trò vui đánh đu. Chơi bời phóng túng như vậy, dùng người như thế, hỏi sao không
    mất nước.
  6. vietgreat

    vietgreat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2005
    Bài viết:
    1.440
    Đã được thích:
    0
    Mười ba vua triều Nguyễn​
    1. Vua Gia Long
    Tên thật là Nguyễn Phước Ánh sinh ngày 15 tháng 1 năm Nhâm Ngọ (8/2/1762).
    Năm 1774 quân Trịnh chiếm Thuận Hóa, Nguyễn ánh chạy vào Quảng Nam rồi vào Sài Gòn
    (Gia Định) với Nguyễn Phước Thuần.
    Năm 1780 lên ngôi Vương. Từ 1782-1786 nhiều lần thất trận phải chạy ra đảo Phú
    Quốc qua Thái Lan hai lần và cuối cùng phải gửi Hoàng Tử Cảnh sang Pháp cầu viện,
    Mùa hè năm tân Dậu (1801) chiếm lại Phú Xuân, cuối năm quật lăng mộ vua Quang Trung ở
    phủ cũ Dương Xuân.
    Năm Nhâm Tuất (1802) lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long.Tháng 6 đem quân ra Bắc Hà
    thống nhất đất nước. Năm Giáp Tý 1804 được nhà Thanh cho đổi tên là nước Việt Nam, ở
    rộng đất đai của thành Phú Xuân cũ, xây dựng lại Kinh thành mới tồn tại cho đến ngày nay.
    1814 cho xây dựng lăng Thiên Thọ (Lăng Gia Long sau này) tại Hương Thủy Thừa
    Thiên-Huế.
    1816 lập Nguyễn Phước Đảm làm thái tử.
    19 tháng 2 năm Kỷ Mão (3/2/1820) băng hà, thọ 58 tuổi.
    Có 13 người con trai và 18 người con gái.
    2. Vua Minh Mạng
    Con thứ tư của Vua Gia Long và bà Thuận Thiên Trần Thị Đang, sinh ngày 23 tháng 4
    năm Tân Hợi (25/5/1791) tại Gia Định
    Năm ất hợi 1815 được phong Hoàng Thái Tử vào ở cung Thanh Hòa để làm quen việc
    trị nước.
    Lên ngôi tháng giêng năm Canh Thìn.
    1821 dựng Quốc Sử Quán
    1822 bắt đầu thi Hội, thi Đình.
    1831 chia ranh giới 31 tỉnh thành, bỏ tên Quảng Đức đặt lại phủ Thừa Thiên.1832
    khước từ việc Hoa Kỳ xin thông thương. 1839 tự chế thành công một tàu chạy bằng hơi nước
    Mất ngày 28/12 năm canh Tý (20/1/1841)
    Có nhiều vợ, 142 người con : 78 hoàng tử và 64 công chúa.
    3. Vua Thiệu Trị
    Thật là Nguyễn Phước Miên Tông, hoàng tử của vua Minh Mạng và bà Hồ Thị Hòa.
    Sinh 11-5 năm Đinh Mão (16/6/1807).
    1830 được phong Trường Khánh Công
    1837 kiêm nhiếp Tôn Nhân Phủ Tả Tôn Chính
    10.1 Tân Sửu (11-2-1841) lên ngôi lấy niên hiệu Thiệu Trị
    Mất 27-9 năm Đinh Mùi (4-10-1847) thọ 41 tuổi.Có nhiều vợ, 31 bà có con, sinh 29
    Hoàng Tử và 35 Công chúa
    4. Vua Tự Đức
    Tên thật là Nguyễn Phước Hồng Nhậm, hoàng tử thứ hai của vua Thiệu trị và bà Phạm
    Thị Hằng (bà Từ Dũ) -người Gò Công
    Sinh ngày 28-5 năm Kỷ Sửu (22.9.1829)
    Lên ngôi vào tháng 10 năm Đinh Mùi (1847) lúc 19 tuổi lấy niên hiệu Tự Đức
    Năm 1874, Triều Đình Huế thất thủ miền Bắc phải ký Hòa ước Giáp Tuất
    Mất vào 16.6 Quý Mùi (19-7-1883)
    Có nhiều vợ, đứng đầu là bà Lệ Thiên Anh Hoàng hậu Võ Thị Duyên, không có con,
    nuôi ba người con nuôi Dục Đức, Dưỡng Thiện và Chánh Mông.
    5. Vua Dục Đức
    Tên thật Ưng ái, con thứ hai của Thoại thái Vương Hồng Y và bà Đệ nhất Phủ thiếp
    Trần thị Nga.
    Năm 1869 được chọn làm con nuôi của Tự Đức và đổi tên thành Ưng Chân.
    Năm 1883 được phong làm Thụy Quốc Công
    Ngày 17-7-1883 theo di chiếu được nối ngôi, chưa yên vị đã bị truất ba ngày Bị Giam
    ở Dục Đức đường, Thái Y viện rồi vào ngục thất Thừa Thiên và bị bỏ đói.Mất ngày 6-9 Giáp
    Thân (24-10-1884) chôn tạm ở làng Anh Cựu, về sau Vua Thành Thái xây lăng đặt tên là Ăng
    Lăng. Năm 1892 Vua Thành Thái truy tôn là Cung Tôn Huệ Hoàng Đế
    Có 11 người con trai và 8 con gái.
    Con thứ 7 lên ngôi niên hiệu Thành Thái.
    6. Vua Hiệp Hòa
    Tên Nguyễn Phước Hồng Dật, còn có tên là Thăng, con thứ 29 của vua Thiệu Trị và bà
    Đoan tần Trương Thị Thận
    Sinh ngày 24-9 Đinh Mùi (1-11-1874)
    1878 được Phong Lãng Quốc Công.
    Lên ngôi 27-6. Quý Mùi (30-7-1883)
    30-10 Quý Mùi (29-11-1883) bị hai quyền thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn
    Tường cho người ép uống thuốc độc chết. Thọ 37 tuổi.
    7.Vua Kiến Phúc
    Tên Ưng Đăng, con trai của Kiên Thái Vương Hồng cai và Bùi Thị Thanh, em vua Đồng
    Khánh, anh Vua Hàm Nghi.
    Sinh ngày 2-1 Kỷ Tî (12-2-1869)
    Lên hai tuổi được Vua Tự Đức nhận làm con nuôi
    2-12-1883 lên ngôi ở Điện Thái Hòa lấy niên hiệu Kiến Phúc
    10-6 Giáp Thân mất một cách khó hiểu.
    8.Vua Hàm Nghi
    Tên thật là Ưng Lịch, công tự thứ 5 của Kiên Thái Vương Hồng Cai và bà Phan Thị
    Nhàn, em khác mẹ của Vua Đồng Khánh và Vua Kiến Phúc.Sinh 17.6 Tân Mùi (3-8-1871)
    Hai quyền thần Tôn thất Thuyết và Nguyễn văn Tường đưa lên làm vua ngày 12-6 Giáp Thân
    (2-8-1884) niên hiệu Hàm Nghi.
    23-5 ất dậu (6-7-1885) Kinh Thành thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn. 1886-1887
    lánh mình trong vùng thượng lưu sông Gianh (Quảng Bình)
    30-10-1888 bị thuộc hả Trương quang Ngọc làm phản bắt nộp cho Pháp sau đó bị đày
    sang Algiéri
    Cưới con gái viên chức Thương chánh Lalauer có hai tai một gái.
    Mất tại Alger 28-11 Nhâm ngọ (4-1-1943)
    9.Vua Đồng Khánh
    Tên thật Nguyễn Phước Ưng Biện con trưởng Kiên Thái Hồng cai và bà Bùi thị Thanh.
    Sinh ngày 12 - 1 Giáp Tuất (19-2-1864)
    1865 được Vua Tự Đức nhận làm con nuôi
    Tháng 8 năm ất dậu được cha vợ là Nguyễn Hữu Độ thương lượng với Pháp cho lên làm
    Vua thay
    Vua Hàm Nghi lấy niên hiệu Đồng Khánh
    1886 tuần du ra bắc dụ Vua Hàm Nghi không thành.
    Mất ngày 27-12 năm Mậu Tý (28-1-1889)
    10.Vua Thành Thái
    Tên thật Nguyễn phước Bửu Lân, con thứ 7 của Vua Dục Đức và bà Từ Minh Phan Thị
    Điểu. Sinh ngày 22 - 2 Kỷ Mão (14-3-1879)
    1883 cùng bị giam với vua Dục Đức ở giảng đường Thái Y Viện
    1-1889 lên ngôi lấy niên hiệu Thành Thái.
    Nhiều công trình mới mang niên hiệu Thành Thái : Bệnh Viện Trung Ương Huế, Trường
    Quốc Học, cầu Trường Tiền, chợ Đông Ba,...
    3 - 9 - 1907 bị phế vị, truyền ngôi cho Vĩnh San và bị Pháp đưa đi an trí ở Vũng
    Tàu.1916 cùng con là Vua Duy Tân đi an trí ở đảo Reunion
    1947 được tha về Sài Gòn
    1953 về thăm Huế lần cuối
    16 - 2 năm Giáp Ngọ (20-3-1954) mất tại Sài Gòn thọ 76 tuổi.
    Có 19 hoàng tử và 26 công chúa
    11.Vua Duy Tân
    Tên thật là Nguyễn Phước Vĩnh San, con thứ năm của Vua Thành Thái và bà Tài nhân
    Nguyễn Thị Định
    Sinh ngày 26 tháng 8 năm Canh Tý (19 - 9 - 1900)
    Ngày 28 - 7 Năm Đinh Mùi (5 - 9 - 1907) lúc 8 tuổi lấy niên hiệu là Duy Tân
    Đầu năm 1916 cưới bà Mai Thị Vàng
    Năm 1916 cùng với Thái Phiên và Trần Cao Vân khởi nghĩa chống Pháp bị thất bại
    Sau đó bị đày sang Reunion
    1927 lấy bà Fernande Antier
    Ngày 25-12-1945 bị tai nạn máy bay trên bầu trời Trung Phi
    1987 được cải táng hài cốt về thành phố Huế.
    12.Vua Khải Định
    Tên thật là Bửu Đảo con của vua Đồng Khánh và bà Tiên Cung Dương Thị Thục
    Sinh ngày 1 - 9 ất Dậu (8 - 10 - 1885)
    1916 lên ngôi với niên hiệu Khải Định
    1917 xây dựng trường nữ Đồng Khánh
    1918 mở khoa thi Hương cuối cùng
    1919 mở khoa thi Hội cuối cùng, lập đài chiến sĩ trận vong trước trường Quốc Học
    1922 ngự giá sang Pháp
    Mất ngày 6 - 11 - 1925
    13.Vua Bảo Đại
    Tên thật Nguyễn Phước Vĩnh Thụy, con trai độc nhất của vua Khải Định
    Sinh ngày 23 - 9 năm Quý Sửu (23 - 10 - 1913)
    1922 sang Pháp du học
    1925 về nước để tang vua Khải Định
    Đầu năm 1926 lên ngôi với niên hiệu Bảo Đại rồi sang Pháp tiếp tục việc học
    1923 về nước làm vua
    1934 cưới bà Nam Phương
    25-8-1945 tuyên bố thoái vị trở lại tên cũ Hoàng Thân Vĩnh Thụy.
    Chấm dứt thời đại quân chủ của Việt Nam
    -----
  7. boysaigon

    boysaigon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2003
    Bài viết:
    10.485
    Đã được thích:
    0
    Trước khi post tiếp chuyên đề Việt Nam, boy cũng nói trước là nhiều khi nó khô khan và mang tính tư liệu là chính. Sau này sẽ có những bài viết nhẹ nhàng hơn, và đôi khi ***g vào những câu chuyện lịch sử, văn hoá cho bớt ngán. Dzậy hen!
    VIỆT NAM​
    Việt Nam hình chữ S
    Một bán đảo xinh xinh
    Nằm trên biển Thái Bình
    Ở Đông Nam Châu Á ​
    [​IMG]
    Việt Nam là một trong những quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, diện tích lãnh thổ trên 330.000km2. Tọa độ cụ thể của lãnh thổ như sau: Từ 102o08?T đến 109o28?T kinh tuyến Đông. Từ 8o02?T đến 23o23?T vĩ tuyến Bắc. Lãnh hải rộng 12 hải lý (Tính từ đường cơ sở). Vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý (Tính từ đường cơ sở). Dân số gần 78 triệu người (số liệu thống kê năm 1998) với 54 dân tộc anh em.
    Biên giới cụ thể: Phía Bắc giáp Trung Quốc, Tây giáp Lào và Campuchia, Đông giáp biển Đông, phía Nam và Tây Nam giáp biển Đông và Vịnh Thái Lan. Biên giới đất liền dài hơn 3730km, bờ biển dài hơn 3260km.
    f~ Chiều dài lãnh thổ ở nơi dài nhất (tính theo đường thẳng chim bay từ cực Bắc xuống cực Nam): 1650km.
    f~ Chiều dài lãnh thổ ở nơi rộng nhất: Bắc Bộ: 600km, và Nam Bộ: 400km
    f~ Nơi hẹp nhất của lãnh thổ (tính theo đường thẳng chim bay từ cực Tây sang cực Đông): chưa đầy 50km.
    Việt Nam có cả núi rừng, sông ngòi, đồng bằng, biển cả và hải đảo.
    Núi chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ. Cụ thể:
    f~ Loại có chiều cao so với mực nước biển từ 1000m trở xuống chiếm 85% diện tích núi.
    f~ Loại có chiều cao từ 1000m đến dưới 2000m so với mực nước biển chiếm 14% diện tích núi.
    f~ Loại có chiều cao từ 2000m trở lên so với mực nước biển chiếm khoảng 1% diện tích núi mà thôi.
    f~ Đỉnh núi cao nhất: Phanxipăng (Ở Lào Cai) cao 3143m.
    Rừng Việt Nam hiện tại chiếm khoảng 30% diện tích lãnh thổ. Tuy nhiên, phần lớn diện tích rừng cũng chính là diện tích núi.
    Việt Nam có tới hàng ngàn những dòng sông lớn nhỏ, phần lớn là ngắn và dốc chảy chủ yếu từ Tây Bắc ?" Đông Nam. Dọc theo bờ biển Việt Nam, cứ khoảng 20km lại có một cửa sông.
    Đồng bằng Việt Nam chỉ chiếm chưa đầy 1/4 diện tích lãnh thổ. Hai đồng bằng lớn nhất là:
    f~ Đồng bằng Bắc bộ (Châu thổ sông Hồng): 15.000km2.
    f~ Đồng bằng Nam Bộ (Châu thổ sông Cửu Long): 40.000km2.
    f~ Do sự bồi đắp tự nhiên, đồng bằng Việt Nam đang càng ngày càng được mở rộng.
    Vùng biển Việt Nam, theo công bố chính thức vào ngày 12/5/1977 của Thủ tướng CP thì lãnh hải Việt Nam rộng 12 hải lý (tính từ đường cơ sở).
    Biển Việt Nam có mấy điểm đáng lưu ý sau đây:
    f~ Nóng quanh năm. Nhiệt độ biển luôn luôn cao hơn nhiệt độ không khí (Trung bình khoảng 12oC vào mùa đông, khoảng trên dưới 27oC vào mùa hạ).
    f~ Chế độ thủy triều khá phức tạp: Có cả nhật triều lẫn bán nhật triều.
    f~ Trong vùng biển Đông của Việt Nam có hai dòng hải lưu lớn. Một dòng hoạt động mạnh vào mùa Hạ, chảy theo hướng Tây Nam ?" Đông Bắc. Một dòng khác hoạt động mạnh vào mùa Đông, chảy theo hướng Đông Bắc ?" Tây Nam.
    f~ Ngoài ra, trong khu vực Vịnh Bắc Bộ còn có thêm hai dòng hải lưu nhỏ nữa, thường thay đổi dòng chảy theo gió mùa.
    Việt Nam có khoảng hơn 4000 hòn đảo lớn, trong đó số đảo trong vịnh Bắc Bộ đã chiếm tới 3/4.
    (Còn tiếp)
  8. boysaigon

    boysaigon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2003
    Bài viết:
    10.485
    Đã được thích:
    0
    VIỆT NAM​
    Việt Nam hình chữ S
    Một bán đảo xinh xinh
    Nằm trên biển Thái Bình
    Ở Đông Nam Châu Á ​
    [​IMG]
    (Tiếp theo)
    Khí hậu Việt Nam hoàn toàn nằm trong vành đai nhiệt đới của Bắc Bán cầu, nhưng thiên về Bắc chí tuyến hơn là về xích đạo.
    f~ Nhiệt độ trung bình hằng năm từ 22oC đến 27oC.
    f~ Lượng mưa trung bình từ 1500mm đến 2000mm.
    f~ Độ ẩm không khí trung bình 80%, nhiệt bức xạ trung bình hằng năm là 100 Kcal/cm3.
    Nguồn tài nguyên của Việt Nam khá phong phú. Hiện tại có 4 nguồn tài nguyên sau đây đang được chú ý.
    f~ Tài nguyên rừng.
    f~ Tài nguyên thủy sản và hải sản.
    f~ Tài nguyên khoáng sản.
    f~ Tài nguyên du lịch.
    Đơn vị hành chánh địa phương lớn nhất là các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung Ương. Hiện nay, Việt Nam có tất cả 64 tỉnh thành trực thuộc Trung Ương.
    Quốc hiệu chính thức: Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
    f~ Thủ đô: Hà Nội.
    f~ Quốc kỳ: Cờ đỏ, sao vàng 5 cánh.

    TỔNG CỘNG CẢ NƯỚC VIỆT NAM CÓ
    - 64 Tỉnh thành, trong đó có 5 thành phố trực thuộc Trung Ương: Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ. Từ đầu năm 2004, tỉnh Cần Thơ tách thành TP. Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang (thị xã Vị Thanh); tỉnh ĐakLak tách thành ĐakLak và Đak Nông (thị xã Gia Nghĩa); tỉnh Lai Châu tách thành Lai Châu và Điện Biên (thành phố Điện Biên Phủ).
    - Trong 64 tỉnh thành, có 35 quận và 490 huyện và thị xã.
    Có 21 thành phố trực thuộc tỉnh:
    , Thái Nguyên (Thái Nguyên)
    , Việt Trì (Phú Thọ)
    , Vinh (Nghệ An)
    , Huế (Thừa Thiên Huế)
    , Nha Trang (Khánh Hòa)
    , Buôn Ma Thuột (ĐakLak)
    , Biên Hòa (Đồng Nai)
    , Mỹ Tho (Tiền Giang)
    , Long Xuyên (An Giang)
    , Pleiku (Gia Lai)
    , Hạ Long (Quảng Ninh)
    , Nam Định (Nam Định)
    , Thanh Hóa (Thanh Hóa)
    , Quy Nhơn (Bình Định)
    , Phan Thiết (Bình Thuận)
    , Đà Lạt (Lâm Đồng)
    , Vũng Tàu (Bà Rịa-Vũng Tàu)
    , Cà Mau (Cà Mau)
    , Hải Dương (Hải Dương)
    , Điện Biên Phủ (Điện Biên)
    , Đồng Hới (Quảng Bình)
    Cả nước có 11 tỉnh có hai thị xã:
    , An Giang
    , Đồng Nai
    , Hà Tỉnh
    , Ninh Bình
    , Thanh Hóa
    , Hà Tây
    , Quảng Trị
    , Đồng Tháp
    , Quảng Nam
    , Yên Bái
    , Lào Cai
    Ngoài ra còn có 6 tỉnh có diện tích trên 10.000km2
    , Lâm Đồng: 10.172,6km2
    , Thanh Hóa: 11.168,3km2
    , Gia Lai: 16.212km2
    , Quảng Nam: 11.043km2
    , Sơn La:14.210km2
    , Nghệ An: 16.371km2
    - Tỉnh có diện tích nhỏ nhất: Bắc Ninh (797km2)
    Ngoài ra còn có 4 tỉnh thành có diện tích dưới 1000km2:
    , Đà Nẵng: 942km2
    , Hưng Yên: 889km2
    , Hà Nội: 921km2
    Hà Nam: 826,66km2
    Hai địa phương đông dân nhất:
    , TP.HCM: 5096.700 người
    Thanh Hóa: 3.613.400 người
    Ngoài ra còn có 5 tỉnh có dân số trên 2 triệu:
    , Nghệ An: 2.890.400 người
    , Hà Tây: 2.387.700 người
    , Đồng Nai: 2.040.500 người
    , Hà Nội: 2.420.200 người
    An Giang: 2.905.200 người
    Hai địa phương có mật độ dân số cao nhất:
    , Hà Nội: 2628 người/km2
    TP.HCM: 2439 người/km2
    Ngoài ra cả nước có 7 tỉnh thành có mật độ dân số cao hơn 1000 người/km2
    , Hưng Yên: 1249 người/km2
    , Bắc Ninh: 1189 người/km2
    , Hà Tây: 1100 người/km2
    , Hà Nam: 1010 người/km2
    , Thái Bình: 1227 người/km2
    , Hải Phòng: 1140 người/km2
    , Hải Dương: 1042 người/km2
    - Tỉnh có mật độ dân số thấp nhất: Kontum: hơn 28 người/km2
    Ngoài ra, còn có 11 địa phương có mật độ dân số chưa tơi 100 người/km2:
    , Lai Châu: 33 người/km2
    , Sơn La: hơn 61 người/km2
    , Cao Bằng: hơn 67 người/km2
    , Lào Cai: hơn 74 người/km2
    , Bình Phước: gần 83 người/km2
    , Lạng Sơn: gần 91 người/km2
    , Gia Lai: hơn 54 người/km2
    , Bắc Kạn: gần 67 người/km2
    , ĐakLak: gần 71 người/km2
    , Hà Giang: gần 78 người/km2
    , Lầm Đồng: hơn 86 người/km2
    - Địa phương có nhiều đơn vị hành chính cấp quận huyện và tương đương: Thanh Hóa: 27 đơn vị (một thành phố, hai thị xã và 24 huyện)
    - Địa phương có ít đơn vị hành chính cấp huyện và thị xã:
    , Ninh Thuận: 4 (một thị xã và 3 huyện)
    Bạc Liêu: 4 (một thị xã và 3 huyện)
    (Còn tiếp)
  9. boysaigon

    boysaigon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2003
    Bài viết:
    10.485
    Đã được thích:
    0
    VIỆT NAM​
    Việt Nam hình chữ S
    Một bán đảo xinh xinh
    Nằm trên biển Thái Bình
    Ở Đông Nam Châu Á ​
    [​IMG]
    (Tiếp theo)
    TÓM LƯỢC CÁC THỜI ĐẠI LỚN CỦA LỊCH SỬ VIỆT NAM
    1. Tiền Sử
    a. Đặc điểm nổi bật:
    Kết quả nghiên cứu hiện nay cho thấy cách đây khoảng 300.000 năm, loài người đã có mặt trên lãnh thổ nước ta. Dấu tích những chiếc răng vừa có đặc tính của người vừa có đặc tính của vượn (trong đó đặc tính của người là đặc tính trội) phát hiện ở Thẩm Hai, Thẩm Khuyên (nay thuộc tỉnh Lạng Sơn) đã tự nói lên điều đó. Với phát hiện này, các nhà sử học Việt Nam đã cho rằng Việt Nam là một trong những cái nôi của loài người.
    Ở nhiều khu vực khác trên thế giới, thời tiền sử thường chỉ tương ứng với thời đồ đá, bước sang thời đồ đồng thì cũng có nghĩa là đã bước sang thời đại có nhà nước. Nhưng kết quả nghiên cứu của giới sử học Việt Nam trong hàng chục năm qua lại cho một kết luận khác hơn, rằng: Thời tiền sử ở Việt Nam không chỉ bao gồm toàn bộ thời đồ đá mà còn băng qua cả toàn bộ thời đồ đồng. Có thể nói, đây là đặc điểm nổi bậc nhất.
    b. Các giai đoạn lớn của thời tiền sử:
    - Giai đoạn đồ đá:
    ? Mở đầu cách nay khoảng 300.000 năm
    ? Chấm dứt cách nay khoảng 4000 năm
    ? Giai đoạn đồ đá bao hàm bốn chặng lớn:
    , Đồ đá cũ: với các nền văn hóa tiêu biểu như Thẩm Hai, Thẩm Khuyên, Núi Đọ, Sơn Vi?, mở đầu cách nay khoảng 300.000 năm và chấm dứt cách nay khoảng 11.000 năm.
    , Đồ đá giữa: với nền văn hóa tiêu biểu nhất là Hòa Bình, có niên đại mở đầu cách nay khoảng 11.000 năm và chấm dứt cách nay khoảng trên 9000 năm.
    , Đồ đá mới: với các nền văn hoá tiêu biểu như Bắc Sơn, Quỳnh Văn, Bào Tró, Hạ Long?, mở đầu cách nay khoảng trên 9000 năm và chấm dứt cách nay khoảng 4000 năm
    , Đỉnh cao tột cùng của đồ đá mới: thể hiện tập trung ở văn hoá Phùng Nguyên. Đây cũng là giai đoạn sơ kỳ của giai đoạn đồ đồng ở Việt Nam
    - Giai đoạn đồ đồng:
    ? Mở đầu cách nay khoảng 4000 năm.
    ? Bị thay thế dần bởi đồ sắt cách nay khoảng 2500 năm
    ? Giai đoạn đồ đồng ở Việt Nam bao hàm bốn chặng lớn:
    , Sơ kì: với nền văn hoá tiêu biểu là Phùng Nguyên, niên hiệu mở đầu cách nay khoảng 4000 năm.
    , Trung kì: với nền văn hoá tiêu biểu là Đồng Đậu, có niên đại mở đầu cách nay khoảng 3300 năm.
    , Hậu kì: với nền văn hóa tiêu biểu là Gò Mun, có niên đại cách ngày nay khoảng 3100 năm.
    , Đỉnh cao tột cùng: với nền văn hóa tiêu biểu là Đông Sơn, có niên đại mở đầu cách nay khoảng 2800 năm. Ở khoảng giữa của văn hóa Đông Sơn, đồ sắt bắt đầu xuất hiện. Từ Đông Sơn và trên cơ sở Đông Sơn, sự chuyển hóa của xã hội diễn ra ngày một mạnh mẽ. Nhà nước ra đời.
    (Còn tiếp)
  10. boysaigon

    boysaigon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2003
    Bài viết:
    10.485
    Đã được thích:
    0
    VIỆT NAM​
    Việt Nam hình chữ S
    Một bán đảo xinh xinh
    Nằm trên biển Thái Bình
    Ở Đông Nam Châu Á ​
    [​IMG]
    (Tiếp theo)
    2. Thời Sơ Sử
    a. Khung niên đại:
    Về niên đại mở đầu, tất cả các bộ chính sử trước đây đều lấy năm Nhâm Tuất (2879 TCN). Khoa học lịch sử hiện đại đã bác bỏ niên đại mở đầu này. Hiện nay, niên đại mở đầu của thời sơ sử ở Việt Nam được xác định là cách ngày nay khoảng từ 2600 năm đến 2500 năm.
    Về niên đại kết thúc, tất cả các bộ chính sử trước đây đều lấy năm 208 TCN. Khoa học lịch sử hiện đại đã bác bỏ niên đại kết thúc này. Hiện nay, niên đại kêt thúc của thời sơ sử được xác định là năm 179 TCN, năm Triệu Đà đánh bại An Dương Vương và xác lập nền đô hộ ở nước ta.
    b. Hai giai đoạn lớn của thời sơ sử:
    Thời sơ sử (hay thời dựng nước) ở nước ta bao gồm hai giai đoạn lớn:
    f Giai đoạn Hùng Vương với nước Văn Lang, mở đầu cách đây khoảng từ 2600 năm đến 2500 năm và chấm dứt vào năm 208 TCN (tức là cách nay 2200 năm). Sử cũ có nói đến 18 đời Hùng Vương với những tên gọi rất cụ thể. Tuy nhiên, đó chỉ là lịch sử hóa các chuyện kể dân gian chứ không phải là lịch sử. Văn Lang là một giai đoạn có thật của lịch sử Việt Nam, nhưng sự thật lịch sử về Văn Lang không hoàn toàn như mô tả của sử cũ. Kinh đô của Văn Lang xưa, được xác định là khu vực huyện Phong Châu của tỉnh Phú Thọ ngày nay.
    f Giai đoạn An Dương Vương với nước Âu Lạc, mở đầu năm 208 TCN và kết thúc năm 179 TCN (tức là tồn tại trước sau khoảng 30 năm). Kinh đô của Aâu Lạc là Cổ Loa (nay thuộc huyện Đông Anh-Hà Nội)
    Tuy có hai giai đoạn như đã trình bày ở trên, nhưng do chỗ giai đoạn sau quá ngắn, vả lại, tính chất chung của cả hai giai đoạn cũng không có gì khác biệt lớn, vì thế các nhà sử học vẫn gộp lại mà gọi chung là thời sơ sử, thời dựng nước, hoặc thậm chí cũng có khi gọi đó là thời Hùng Vương.
    3. Thời Bắc Thuộc
    a. Khung niên đại:
    Các bộ chính sử trước đây đều lấy năm 111 TCN (năm nhà Tây Hán lật đổ Nam Việt rồi thay Nam Việt thống trị nước ta) là năm mở đầu. Khoa học lịch sử hiện đại đã bác bỏ niên đại này. Và thay vào đó là năm 179 TCN, năm Triệu Đà (vua Nam Việt) đã đánh bại An Dương Vương, thiết lập nền đô hộ đối với nước ta.
    Các bộ chính sử cũng lấy năm 938 (năm Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán) hoặc năm 968 (năm Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong Loạn 12 Sứ quân và lên ngôi Hoàng đế, xưng là Đinh Tiên Hoàng) là năm kết thúc thời Bắc thuộc. Khoa học lịch sử chọn năm 905 (năm Khúc Thừa Dụ đã khôn khéo thiết lập nền độc lập và tự chủ), vì cho rằng kể từ đây, nền đô hộ của các triều đại Phong kiến Trung Quốc đối với nước ta đã chấm dứt.
    b. Các triều đại Phong kiến Trung Quốc đã nối nhau thống trị nước ta trong thời Bắc thuộc (từ 179 TCN đến 905 Sau CN).
    , NAM VIỆT (họ Triệu): Thành lập năm 206 TCN. Đô hộ nước ta từ năm 179 TCN. Chấm dứt ách đô hộ từ năm 111 TCN. Tổng cộng 68 năm.
    , TIỀN HÁN (hay Tân Hán ?" họ Lưu): Thành lập năm 206 TCN, lật đổ Nam Việt rồi thay Nam Việt để đô hộ nước ta từ năm 111 TCN. Chấm dứt ách đô hộ năm 08 sau CN. Tổng cộng 119 năm.
    , NHÀ TÂN (Vương Mãn): Lật đổ và thay Tiền Hán đô hộ nước ta. Thành lập năm 08, đô hộ nước ta từ năm 08. Chấm dứt ách đô hộ năm 25. Tổng cộng 17 năm.
    , HẬU HÁN (hay Đông Hán ?" họ Lưu) dẹp bỏ nhà Tân rồi thay nhà Tân đô hộ nước ta: Thành lập năm 25. Đô hộ nước ta từ năm 25. Chấm dứt ách đô hộ năm 220. Tổng cộng 195 năm.
    , NHÀ NGÔ (họ Tôn): là một trong 3 nước của thời hỗn chiến Tam Quốc (Ngô, Thục và Ngụy). Đô hộ nước ta từ năm 220. Chấm dứt ách đô hộ năm 280. Tổng cộng 60 năm
    , NHÀ TẤN (họ Tư Mã): Thống nhất Trung Quốc thay nhà Ngô đô hộ nước ta. Khởi đầu năm 280. Chấm dứt ách đô hộ năm 420. Tổng cộng140 năm
    , NAM TRIỀU (Tống, Tề, Lương, Trần): Đây là thời loạn lạc của Trung Quốc, sử gọi là thời Nam- Bắc triều. Nam triều với nhiều triều đại khác nhau đã trực tiếp đô hộ nước ta. Khởi đầu năm 420. Chấm dứt ách đô hộ năm 542 (Nam triều còn tồn tại cho đến năm 581, nhưng từ năm 542, ta giành được độc lập nhờ thắng lợi của cuộc khởi nghĩa do Lý Bí lãnh đạo). Tổng cộng 122 năm.
    , NHÀ TÙY (Họ Dương): Thành lập năm 581. Xâm lược và đô hộ nước ta từ năm 602. Chấm dứt ách đô hộ nước ta từ năm 618. Tổng cộng 16 năm.
    , NHÀ ĐƯỜNG (Họ Lý): Thành lập năm 618. Thay nhà Tuỳ đô hộ nước ta từ năm 618. Chấm dứt ách đô hộ năm 905. Nhà Đường còn tồn tại đến năm 907, nhưng hai năm sau cùng, chúng không còn đủ sức để đô hộ nước ta. Vả chăng, năm 905, họ Khúc đã khôn khéo thiết lập được chính quyền độc lập và tự chủ. Tổng cộng: 287 năm.
    c. Tính chất của thời Bắc thuộc
    - Dòng nổi bật thứ nhất của lịch sử thời Bắc thuộc là dòng đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Đây là thời đen tối nhất của lịch sử nước nhà trong thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Quân đô hộ đã quyết tâm xóa bỏ cho bằng được nền độc lập và tự chủ của nhân dân ta, vơ vét và bóc lột nhân dân ta một cách rất thậm tệ. Đây cũng là thời mà những âm mưu đồng hóa nguy hiểm được thực hiện rất ráo riết.
    - Dòng nổi bật thứ hai của lịch sử thời Bắc thuộc là dòng đấu tranh liên tục và ngoan cường của nhân dân ta. Hàng loạt những cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ, tấn công không khoan nhượng vào toàn bộ cơ đồ thống trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc đô hộ. Điểm lại, chúng ta thấy nổi lên những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất sau đây:
    f Khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nổ ra năm 40, chống lại ách đô hộ của nhà Đông Hán (tức Hậu Hán). Hai bà đã dành được chính quyền trong ba năm (40-43). Sử gọi là thời Trưng Nữ Vương
    f Khởi nghĩa Bà Triệu (tức Triệu Thị Trinh), nổ ra năm 384, chống lại ách thống trị của quân đô hộ nhà Ngô.
    f Khởi nghĩa Lý Bí (tức Lý Bôn) diễn ra năm 542, chống lại ách đô hộ của nhà Lương (một trong những triều đại của Nam Triều). Đầu năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng Đế, xưng là Lý Nam Đế. Đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đặt niên hiệu là Thiên Đức (cũng có sách chép là Đại Đức), trên danh nghĩa nước Vạn Xuân tồn tại đến năm 602.
    f Khới nghĩa Lý Tự Tiên và Đinh Kiến, nổ ra năm 687, chống lại ách đô hộ của nhà Đường.
    f Khởi nghĩa Mai Thúc Loan, nổ ra năm 722, chống lại ách đô hộ của nhà Đường, Mai Thúc Loan lên ngôi hoàng đế, xưng là Mai Hắc Đế.
    f Khởi nghĩa Phùng Hưng (?- 791), chống lại ách đô hộ của nhà Đường, Phùng Hưng đã dành được chính quyền trong môt thời gian khá dài. Ông qua đời (789), con ông là Phùng An đã tôn cha là Bố Cái Đại Vương.
    f Khởi nghĩa Dương Thanh, nổ ra năm 819, kéo dài đến năm 820, chống lại ách thống trị của nhà Đường.
    Lịch sử thời Bắc thuộc tuy có hai dòng hoàn toàn khác nhau, nhưng điều đáng nói nhất là ở chỗ, cuối cùng dòng đấu tranh ngoan cường của nhân dân ta đã dành thắng lợi.
    (Còn tiếp)

Chia sẻ trang này