1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

"trà " và "che" cả hai đều là âm Hán việt

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi wuyong, 20/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. wuyong

    wuyong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/03/2005
    Bài viết:
    4
    Đã được thích:
    0
    "trà " và "che" cả hai đều là âm Hán việt

    Thấy các bác bàn luận về vấn đề này tôi xin mạo muội góp lời.
    "O"theo thiết vận âm đọc là(.Strạch gia=tra)như vậy ngày nay chúng ta đọc là "trà" là âm hán việt. Vậy "chè '' thì sao? Đây cũng là âm hán việt nhưng là âm hán việt cổ có ngiã lf âm hán thời thượng cổ (từ đời đường về trước)còn "tra" là âm hán trung cổ (từ đời đường trở về sau).
    trong tiếng hán thường cổ có phân biệt rõ giưa "a" và "e".chữ "O" thuộc khai khẩu nhị đẳng gốc của nó là âm "a" hẹp lùi cho nên khi kết hợp với phụ âm thường bị biến đổi thành "e" cho nên ngày nay"O"am hán việt đọc là "trà " còn hán việt cổ đọc là "chè". Điều này rất nhiều nhầm rằng "chè " là âm thuần việt. Tương tự vấn đề này còn có các âm đọc như 车đọc là xa và xe,麻dọc là ma và mè.
    các bnj có thể tham khảo thêm tại quyển "lịch sử quá trình hình thành âm đọc hán việt" của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn hoặc phần"?S语"究" của giáo sư Vương Lực
  2. duongphuongbay

    duongphuongbay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/06/2003
    Bài viết:
    1.108
    Đã được thích:
    0
    Thì rõ ràng là thế rồi, có thể kể thêm một số ví dụ khác như: chém-trảm, chén-trản, cờ-kỳ, vuông-phương...Tuy nhiên từ "trà" cũng như các từ "trảm, trản, kỳ, phương.." được coi là từ Hán Việt, có cách đọc Hán Việt, còn các từ kia được coi là từ Hán Việt cổ, có người gọi là từ tiền Hán Việt (Lê Đình Khẩn), tuyệt đối không được nhầm lẫn giữa 2 khái niệm này. Ngày nay khi nói đến từ Hán Việt người ta không đưa "chè" vào trong ấy.
  3. haeyoungsmu

    haeyoungsmu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/04/2003
    Bài viết:
    285
    Đã được thích:
    0
    Ấn độ đọc Trà là trai. thế có thể coi là từ ấn việt không . "tra "chi co nguoi nam dung. nguoi bac goi la che. nhiều khi từ Hán việt lại ảnh hưởng bởi cantonese hay mandarine nên hơi khác nhau. miền nam có nhiều fuchienese cantonese nên ảnh hưởng khac miền bắc. nếu như bác bảo là hán việt cổ, tại sao từ chè khong thể là sự biến đổi của chính người việt ta trong quá trình sử dụng. nó có nguôn gốc nên vẫn được gọi là từ hán việt.
    em có thắc mác là người gọi tea là tra, chè tuy bác ở bắc nam. nhung nói đến chè dậu đen thì miền nào cung x nói giong nhau. cac bac hay giai thisch cho em di
  4. duongphuongbay

    duongphuongbay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/06/2003
    Bài viết:
    1.108
    Đã được thích:
    0
    1. Thói quen uống trà bắt nguồn từ TQ, vì thế chữ mang nghĩa "trà" ở nhiều nước trên thế giới đều bắt nguồn từ phát âm ''''cha'''' Trung Quốc. Người Nga gọi là "cha''i", (phát âm giống "chaye" - lá trà của cư dân phía bắc Trung Quốc). Người Anh có từ "tea", phát âm bản sao của người vùng Hạ Môn. Cách viết chữ ''''trà'''' Nhật Bản cũng tương tự chữ ''''trà'''' Trung Quốc, phát âm chỉ khác đôi chút. Người Việt ta cũng vay mượn chữ này. Cũng có thể người Ấn mượn chữ trà của TQ để tạo chữ "trai", vì thế không thể có chuyện người Ấn mượn chữ Trà của ta để tạo nên chữ Trai của họ, chuyện âm Ấn Việt là hoàn toàn không thể có.
    2. Những từ Hán mang âm tiếng Phúc Kiến ( Fuchienese) hay Quảng Đông (Cantonese) khi du nhập vào nước ta không được coi là từ Hán Việt. Những từ này mới du nhập khoảng đầu thế kỷ 20, ví dụ như: xường xám, lạp xưởng, tài xỉu, chạp phô, lục tàu xá, hoành thánh...Chúng chỉ được coi là từ ngoại lai, từ vay mượn.
    3. Từ "chè" là cách đọc của từ "trà" vào thời Hán, vì thế giới ngôn ngữ gọi loại từ này là từ Hán Việt cổ. Từ Hán Việt là chỉ những từ có cách đọc thời Đường, dưới sự chi phối của quy luật phát âm tiếng Việt mà dần dần có sự biến đổi, nhất là từ khi VN giành được độc lập vào năm 936, thoát ly dần với âm hệ thời Đường, hình thành nên 1 quy luật phát âm mang sắc thái của người Việt. Chỉ những từ có cách đọc thời kỳ này mới được coi là từ Hán Việt, và chúng có 1 hệ thống ngữ âm rất chặt chẽ, có thể đọc được tất cả các chữ Hán hiện nay.
    Các từ như tea, china hay kungfu, dimsun (món điểm tâm)... trong tiếng Anh không ai gọi chúng là từ Hán-Anh cả, mà chỉ coi như là từ ngoại lai trong tiếng Anh, vì chúng không có hệ thống ngữ âm như đã nói ở trên. Những từ này bản chất giống như những từ ở phần 2.
    4. Việc người Bắc gọi là chè còn người Nam gọi là trà có thể do món chè ngọt (để ăn) xuất hiện trong Nam trước (?), chủng loại phong phú hơn nhiều so với ngoài Bắc, nên để dễ phân biệt món chè (uống) và món chè (ăn) người ta dùng từ Trà để nói thay cho Chè (uống). Các bác ở ngoài Bắc nếu để ý sẽ thấy món chè (ăn) ở ngoài ấy không được phong phú cho lắm, lúc nào cũng chỉ mỗi món chè đỗ đen, nếu nhiều hơn thì trương bảng "chè Huế", thật hết biết.

Chia sẻ trang này