1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trận các ngọn đồi - Trận Khe Sanh lần thứ I

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ngthi96, 03/02/2020.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    DONALD A. HOSSACK (M/3/3). Mất 3 tháng nằm viện rồi quay lại nam VN để hoàn tất kỳ hạn phục vụ cho đến khi lên đường về nước tháng 12 năm 1967. Xuất ngũ với cấp bậc trung sĩ tháng 6 năm 1968, về học lấy bằng quản trị kinh doanh của đại học Wyoming. Gia nhập sở cảnh sát Kalispell, Montana năm 1973 và về hưu năm 1998 với cương vị phó cảnh sát trưởng. Từng 2 lần kết hôn nhưng hiện sống độc thân. Có 3 con, 2 cháu.

    MICHAEL A. HOUSE (M/3/9) được tặng thưởng huân chương Sao bạc vì chiến đấu dũng cảm trên cao điểm 881 Nam. Bị thương nặng ngày 3 tháng 6 năm 1967 vì mìn do viên trung sĩ đi gần đó đạp phải. Đi viện hết 4 tháng mới quay về đơn vị. Ra quân tháng 11 năm 1967. Đã lập gia đình được 26 năm, hiện sống cùng vợ ở Taunton, bang Massachusetts; làm đại diện cho hội cựu chiến binh.

    TOM HUCKABA (G/2/3). Bị thương ngày 3 tháng 9 năm 1967 nhưng vẫn quay về với đơn vị. Tháng 1 năm 1968, lại bị thương tiếp và được đưa ra khỏi vùng chiến sự. Xuất ngũ tháng 1 năm 1969 với cấp bậc trung sĩ với 1 huân chương Sao bạc, 3 huân chương quả tim tím. Về làm bưu tá và hiện làm trưởng chi nhánh. Đã cưới vợ, có 2 con, 4 cháu. Hiện cư trú tại Joliet, Illinois.

    RICHARD HUFF (B/1/9). Ra quân năm 1981 với hàm thượng sĩ nhất TQLC. Làm cảnh sát trưởng ở Pilot Knob, Missouri, đã nghỉ hưu. Tuy cư ngụ ở Greenville, Missouri nhưng thường đi du lịch khắp đất nước.

    WAYNE L. ITHIER (H/2/3) Chẳng bao giờ nhận được huân chương Sao đồng cho thành tích cứu thương binh trong trận ngày 30/4/1967 như lời hứa. Rời nam VN sau khi bị thương thêm 2 lần nữa vào ngày 18 và 30/6/1967. Tái ngũ tháng 2 năm 1969 nhưng sớm mắc chứng chứng trầm cảm sau chấn thương. Giải ngũ tháng 1 năm 1970. Sống ẩn dật 20 năm sau đó trên vùng núi phía tây bang Pennsylvania cho đến khi tiếp xúc với 1 chương trình giúp đỡ cựu chiến binh. Được đưa đi điều trị bệnh, được xác nhận mất sức lao động 100%, nhưng nay đã hồi phục. Đã lập gia đình về sống tại Fort Wayne, bang Indiana và dành thời gian của mình để giúp đỡ những cựu chiến binh khác.

    FRANK IZENOUR (E/2/3). Chết năm 1988.

    BRIAN R. JACKSON (pháo đội B/1/12 tăng phái cho đại đội Golf/2/3). Ở lại đại đội Golf cho đến tháng 12 năm 1967, khi tiểu đoàn rời khỏi Chiến đoàn đổ bộ đặc biệt. Sau đó làm sĩ quan liên lạc pháo binh của tiểu đoàn 2/3 cho đến tháng 5 năm 1968 thì về nước. Được tặng thưởng 1 huân chương Sao đồng, 1 huân chương quả tim tím. Xuất ngũ tháng 6 năm 1969 về làm kế toán viên cho Hội cựu chiến binh cho đến năm 1999 thì nghỉ hưu. Hiện sống cùng vợ tại Indianapolis, bang Indiana.

    RUSSELL H. JACOBSON (E/2/9) Mất 1 năm rưỡi nằm viện trị thương mới khỏi. Đi học lấy bằng cử nhân và thạc sĩ rồi về Cape Cod, Massachusetts làm bác sĩ và sống tại đó cùng vợ hơn 3 chục năm nay.

    WILLIAM H. JANZEN (G/2/3) Rời nam VN tháng 8 năm 1967. Năm 1969, quay lại phục vụ thêm kỳ hạn thứ 2 được 1 thời gian ngắn thì có lệnh cho giải ngũ. Sau khi ra quân năm 1970, về làm cho tập đoàn Xerox 18 năm rồi nghỉ hưu. Hiện đang ngụ ở Lake Forest, bang California.

    IRA G. “RICKY” JOHNSON (M/3/9) Bị thương nặng trong trận đối phương tập kích bằng hỏa tiễn ngày 2 tháng 9 năm 1967 ở Đông Hà, giữa lúc đang chờ hoàn tất thủ tục về nước. Phải đi viện 5 tháng trời. Được ra quân khi vẫn còn điều trị. 2 tháng sau đó cưới vợ dù vẫn chưa bình phục. Về Oklahoma làm nghề xây dựng cho đến năm 1990 thì cùng gia đình chuyển đếnFlorida làm quản lý. Lấy vợ được 33 năm có 2 con trai, 3 cháu trai.

    MICHAEL JOSEPH (2/1) Hoàn tất kỳ hạn chiến đấu với vai trò sĩ quan điều không tiền tuyến tháng 9 năm 1968 rồi lại quay về Không đoàn 1 TQLC tại Đà Nẵng. Rời miền nam VN tháng 12 năm 1968, kết thúc kỳ hạn phục vụ ở Beaufort, nam Carolina. Giải ngũ mùa thu năm 1970 về kinh doanh cùng gia đình. Hiện đang là giám đốc điều hành của công ty DACOR, chuyên sản xuất thiết bị nhà bếp. Có 4 con, 3 cháu; hiện sống ở La Quinta, California cùng vợ.

    HAROLD E. KEPNER (M/3/3) Kết thúc kỳ hạn phục vụ tháng 11 năm 1967. Công tác 10 năm tại sở cảnh sát Parma, Ohio rồi chuyển đến Florida làm cho sở cảnh sát Miami-Dade. Nghỉ hưu với cương vị thám tử chống cướp có vũ trang năm 1999. Lấy vợ có 2 con, 3 cháu. Hiện sống tại Costa Rica.

    THOMAS G. KING (B/1/9). Tử trận ngày 2 tháng 7 năm 1967 gần Cồn Tiên khi đại đội Bravo bị bộ đội Bắc Việt tiêu diệt.

    RICHARD D. KOEHLER (F/2/3) Ở lại đại đội Foxtrot cho tới tháng 9 năm 1967, nhiều lần nắm quyền đại đội trưởng. Được tặng huân chương Sao đồng tháng 7 năm 1967 vì chiến đấu dũng cảm trong chiến dịch Buffalo. Phục vụ 3 tháng trong cương vị trợ lý của Lữ đoàn trưởng lữ đoàn Đổ bộ số 9 TQLC trước khi lên đường về nước tháng 1 năm 1968. Xuất ngũ năm 1969 với cấp bậc đại úy. Làm chủ ngân hàng, sống tại Lexington, Kentucky cùng với gia đình.
    samuelb, huytopcaonam_vOz thích bài này.
  2. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    EDWARD J. KRESTY (M/3/9) Hoàn thành kỳ hạn chiến đấu tại nam VN rồi về nước tháng 12 năm 1967, sau khi nhận 4 huân chương quả tim tím. Giải ngũ năm 1971 với hàm đại úy. Sống với vợ ở Jacksonville, Bắc Carolina, kinh doanh nhà hàng, khách sạn. Được 16 năm thì bán hết để mở tiệm bán súng. Đến năm 1996 thì nhượng lại nghỉ hưu.

    JOHN A. KROHN (K/3/9) bị thương nặng ngày 22 tháng 5 năm 1967 trong chiến dịch Hickory, dọc giới tuyến do bị đạn cối rơi trúng hầm khiến 1 người chết, 2 bị thương. Sau 5 tháng nằm ở bệnh viện Great Lakes, đến tháng 1 năm 1968 được giải ngũ. Sống tại Chicago với vợ và 3 con. Hành nghề thợ điện.

    KENNETH LEASE (B/1/9) Bị thương bởi pháo quân nhà sau khi rời Khe Sanh 10 hôm. Mất 4 tháng nằm viện tại Mỹ rồi về gác quân lao tại đảo Guam cho đến tháng 9 năm 1969 thì xuất ngũ. Có bằng thạc sĩ tư vấn về sống tại Crawfordsville, Florida làm bác sĩ tâm thần.

    CATHERINE LEROY. Nhận nhiều giải thưởng có uy tín cho những bức ảnh ấn tượng cô chụp binh nhất quân y Wike. Loạt ảnh của cô đã xuất hiện trên rất nhiều cuốn sách cũng như tạp chí viết về chiến tranh VN và là 1 trong số những tấm ảnh thời chiến nổi tiếng nhất mọi thời đại. Cô tiếp tục làm phóng viên ảnh trong 20 năm sau đó, tham gia đủ mọi cuộc chiến rồi mới về định cư ở Los Angeles, California. Hiện cô đang điều hành 1 trang web ảnh về thời trang.

    ALFRED E. LYON (E/2/3). Ko được phép trở lại nam VN do 3 vết thương phải chịu. Kết thúc kỳ hạn phục vụ tại đảo Okinawa. Về Mỹ tháng 8 năm 1967 và đến tháng 12 thì giải ngũ. Đi học lấy bằng thạc sĩ rồi về làm cho công ty Pacific Bell. Nghỉ hưu năm 1991. Hiện cư trú ở Stagecoach, Nevada. Tháng 7 năm 2001 được nhận huân chương Sao bạc vì đã chiến đấu dũng cảm trong 'trận các ngọn đồi'.

    RAYMOND C. MADONNA (H/2/3) Quay lại nam VN phục vụ kỳ hạn thứ nhì năm 1971 với chức vụ đại đội trưởng đại đội Charlie, tiểu đoàn 1/5. Giải ngũ năm 1983 với hàm đại tá về phụ trách phát triển kinh doanh cho tập đoàn Motorola. Lấy vợ, có 2 con; cư trú tại Chester, Maryland.

    ROBERT J. MARAS (G/2/3) Bị thương nặng ở chân ngày 20 tháng 5 năm 1967; phải đi viện mất 2 tháng. Ngày 30 tháng 8 lại bị thương và đến hôm sau thì lãnh vết thương thứ 4 khiến phải nằm viện thêm mấy tháng nữa. Tháng 12 năm 1968, xuất ngũ về đầu quân cho sở cảnh sát Tulsa, Oklahoma. Tham gia quân dự bị và học lái máy bay trực thăng. Ra khỏi ngành cảnh sát năm 1988. Đến năm 1997 thì rời Vệ binh quốc gia. Sau khi được đạo diễn Francis Ford Coppola cho đóng 1 vai nhỏ trong phim The Outsiders, được Nghiệp đoàn Diễn viên trao giải thưởng thì năm 1990 chuyển tới Hollywood. Tham gia đóng 1 số phim truyền hình và kiêm cả nghề diễn viên đóng thế. Sau trở về Tulsa tiếp tục làm cảnh sát. Hiện sống đơn thân với 1 con trai.

    JAMES J. MARDEN (E/2/3) rời nam VN về nước đúng vào lúc kết thúc đời binh nghiệp tháng 1 năm 1968. Trở về Boston làm việc cho 1 công ty điện thoại. Sau ra ngoài mở công tin viễn thông riêng. Đã lập gia đình hơn ba chục năm nay, sống cùng vợ, 1 con trai (cựu binh TQLC trong chiến tranh vùng Vịnh), 1 con gái và 1 đứa cháu ở Gaylordsville, bang Connecticut.

    JAMES R. MASON (E/2/3). Ở lại đại đội E trong thời gian cuối cùng của kỳ hạn chiến đấu. Tháng 12 năm 1967 rời nam VN về nước. Ra quân sớm tháng 7 năm 1969 về St. Paul, Minnesota hành nghề bán thịt. 27 năm sau khi cưới vợ thì ly dị. Năm 1994 được công nhận mất 100% sức lao động vì chứng trầm cảm sau chấn thương. Cư ngụ tại Grove Heights, bang Minnesota. Tháng 7 năm 2001 được nhận huân chương Sao đồng vì đã chiến đấu dũng cảm trong chiến dịch Buffalo, tháng 7 năm 1967.

    ANDREW B. McFARLANE (G/2/3) Được cho về tháng 10 năm 1967 rồi đến năm 1970 lại quay sang nam VN phục vụ kỳ hạn thứ nhì. Giải ngũ năm 1971 với hàm đại úy. Trong suốt thời gian quân ngũ đã được tặng thưởng 3 huân chương sao Đồng, 1 huân chương Navy Commendation. Công tác trong ngành tư pháp cho đến năm 1991 thì nghỉ hưu. Hiện đang sống ở Saddle Brook, New Jersey làm bán thời gian chuyên tìm kiếm cầu thủ cho 1 giải bóng chày lớn.

    JACK M. McKENNA (K/3/9). Rời nam VN về nước tháng 9 năm 1968. Xuất ngũ tháng 5 năm 1970. Về quê ở Dothan, Alabama làm trong 1 công ty công ích. Nghỉ hưu tháng 3 năm 1999 sau khi bị tai nạn xe hơi trên đường đi làm. Đã lập gia đình sinh được 2 con.

    DOUGLAS W. McKESSON (M/3/3). Kết thúc kỳ hạn chiến đấu tháng 8 năm 1967. Sau khi giải ngũ với cấp bậc trung sĩ tháng 1 năm 1968 về làm việc trong nhà hàng nhiều năm rồi chuyển đến Sonoma, California. Cùng vợ mở 1 cửa hàng bán xe đạp tại đó. Họ có với nhau 2 người con.

    TERRANCE L. MEIER (M/3/3) được tặng thưởng huân chương Sao bạc vì chiến đấu dũng cảm trên cao điểm 881 Nam. Tử trận ngày 21 tháng 7 năm 1967 trên đường số 9, phía tây Cà Lu khi trung đội bị quân Bắc Việt phục kích. Được truy tặng huân chương Chữ thập Hải quân vì gương anh dũng.

    DAVID L. MELLON (B/1/9) Sau khi được sơ tán khỏi miền nam VN đã phải trải qua nhiều tháng trời tại các bệnh viện ở Mỹ mới có thể quay lại chiến đấu. Tháng 12 năm 1968 được cho giải ngũ. Làm việc trong lĩnh vực kinh doanh hóa chất cho đến năm 1999 thì nghỉ hưu. Cưới vợ có 2 con gái và 2 cháu ngoại. Hiện đang cư ngụ ở Laguna Niguel, California.
    convitbuoc, huytopcaonam_vOz thích bài này.
  3. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    JOHN R. MEUSE (E/2/3). Được truy tặng huân chương chữ thập Hải quân vì hành động anh dũng của mình.

    FREDERICK G. MONAHAN (E/2/3). Được tặng huân chương chữ thập Hải quân vì chiến đấu dũng cảm trận ngày 3 tháng 5 năm 1967. Ngoài ra còn nhận được 2 huân chương quả tim tím trong suốt kỳ hạn phục vụ. Ra quân tháng 1 năm 1968. Hành nghề xây dựng, đã nghỉ hưu và hiện đang sống cùng vợ tại Holland, Pennsylvania, với 2 người con gái.

    HARRY MONTGOMERY (B/1/9). Kết thúc kỳ hạn phục vụ tháng 8 năm 1967 rồi đến tháng 1 năm 1968 thì rời khỏi binh chủng. Về học tại đại học Kent State bang Ohio. Tham gia cuộc bạo loạn của sinh viên nhằm phản đối h xâm lăng Campuchia của tổng thống Nixon. Quá đau buồn trước việc Vệ binh quốc gia Ohio sát hại 4 sinh viên, anh bỏ học lang thang khắp châu Âu cả năm trời rồi mới quay lại Mỹ. Hiện là thợ sửa chữa của công ty Ameritech sống ở Sandusky, Ohio cùng vợ và 3 con trai.

    JOHN A. MOORE (B/1/9). Bị thương nặng ngày 7 tháng 6 năm 1967 vì 2 quả lựu đạn quân địch. Sau nhiều tháng nằm viện tới tháng 7 năm 1968 được cho giải ngũ, với 3 huân chương quả tim tím. Làm sĩ quan cảnh sát ở Richmond, bang California, và Reno, bang Nevada suốt 10 năm rồi chuyển đến Cour d’Alene, bang Idaho về công tác tại sở cứu hỏa. Nghỉ hưu năm 1995 và sống ở Cour d’Alene cùng với vợ.

    MICHAEL R. MORGAN (M/3/3). Được truy tặng huân chương sao Bạc vì lòng dũng cảm.

    ROBERT L. MORNINGSTAR (E/2/3). Tử trận ngày 5 tháng 7 năm 1967.

    DESMOND T. MURRAY (H/2/3). Bị thương nặng ngày 22 tháng 5 năm 1967. Mất cả năm nằm viện trước khi được xuất ngũ vì ko đủ sức khỏe tháng 4 năm 1968. Về Mỹ học đại học Luật trở thành luật sư chuyên về bất động sản. Cư trú ở Fairport, New York cùng vợ và con gái.

    ERNEST M. MURRAY (M/3/9). Rời nam VN tháng 7 năm 1967. Sau khi giải ngũ năm 1969, gia nhập lực lượng dự bị TQLC. Mấy năm sau đó lại quay về chiến đấu rồi nghỉ hưu năm 1991 với hàm thượng sĩ. Sống cùng vợ và 5 con tại Oceanside, California; hành nghề buôn bán ô tô.

    JOSEPH P. O’CONNOR (F/2/3) Hoàn tất kỳ hạn phục vụ tháng 8 năm 1967 với 1 huân chương quả tim tím do bị thương trong 1 trận khác. Về Mỹ làm nhân viên ngân hàng.

    HARRY J. O’DELL (K/3/9). Điều trị mất 1 tháng trên tàu bệnh viện Repose rồi quay trở lại đơn vị. Tuy nhiên do mảnh đạn nằm trong người gây đau đớn khiến ko thể mang nổi trang bị nên đại úy Giles lại cho anh quay về bệnh viện. Nằm trên tàu Repose thêm 6 tuần nữa thì được cho ra chiến trường. Bị thương nặng gần Gio Linh ngày 30 tháng 7 năm 1967 vì cối địch. Bị gãy tay, vỡ hàm cùng với nhiều mảnh đạn cắm vào chi, phải về bệnh viện Great Lakes nằm chữa mất 10 tháng mới bình phục. Được xuất ngũ tháng 6 năm 1968 trở về Michigan cưới người mình yêu, sinh được 3 con. Hành nghề thợ xây cho đến năm 1995 thì về nghỉ. Hiện đang ngụ ở Three Rivers, bang Michigan cùng vợ, con và 7 đứa cháu.

    SPENCER F. OLSEN (E/2/9). Được tặng thưởng huân chương Sao bạc vì chiến đấu dũng cảm trên cao điểm 861. Sau khi đi viện 3 tuần lễ thì quay về đơn vị. Rời nam VN tháng 7 năm 1967. Tiếp tục phục vụ TQLC cho đến năm 1983 mới về hưu với cấp hàm thượng sĩ cố vấn. Cưới vợ có 1 con trai hiện đang sống tại Fowler, bang Colorado.

    GERALD C. PETT (H/2/3). Rời nam VN tháng 8 năm 1967. Ra quân tháng 11 năm 1967 để đi học đại học. Sau nhiều năm làm nhân viên kinh doanh giờ quay về phát triển phần mềm máy tính. Đã lấy vợ được 26 năm có 3 con, 1 cháu và gần đây lại nhận thêm 1 đứa con nuôi nữa. Hiện gia đình đang sống ở Newman, Illinois.

    DANIEL W. POLLAND (B/1/9). Chuyển sang 1 đơn vị công binh đóng gần Phú Bài tháng 6 năm 1967. Hoàn tất kỳ hạn phục vụ ở đó và ra quân vào tháng 10 năm 1967. Tốt nghiệp cử nhân dược đại học Colorado năm 1973 rồi lấy bằng bác sĩ chấn thương chỉnh hình của đại học Kansas năm 1977. Tới năm 1982 thì trở thành bác sĩ gây mê. Sống tại Grand Junction, Colorado, cùng vợ và 3 con cho đến khi qua đời tháng 8 năm 2003.

    ALBERT W. POTTS (F/2/3). Kết thúc kỳ hạn phục vụ tháng 8 năm 1967. Xuất ngũ tháng 12 năm 1968. Về làm cho 1 xưởng sản xuất ở quê vợ cho đến năm 1982 thì chuyển sang 1 công ty khác làm thợ sửa khuôn. Năm 1971 tham gia lực lượng dự bị TQLC cho đến năm 1993 thì nghỉ hưu với hàm thượng sĩ. Đang sống với vợ tại Ellwood City, bang Pennsylvania.

    CLARENCE S. POWELL (F/2/3). Được chuyển đến Guam để điều trị các vết thương. Được lệnh quay về nam VN khi cánh tay vẫn chưa bình phục hẳn. 1 sĩ quan ‘có lòng nhân’ đã nói anh nên gọi về báo cho gia đình. Cha anh liên lạc được với 1 nghị sĩ, ông này can thiệp khiến lệnh trên phải thay đổi. Powell được kết thúc kỳ hạn phục vụ ở Hawaii. Giải ngũ tháng 5 năm 1969. Trở về Burlington, Iowa làm nghề thợ hàn suốt 20 năm mới nghỉ hưu. Sống đơn thân cùng 1 con trai, 1 cháu nội.

    LARRY J. PRATT (B/1/9) bị thương do bắn nhầm tháng 5 năm 1967; do bị địch bắn ngày 2 tháng 7 năm 1967. Chỉ 4 ngày sau đó, đại đội Bravo, tiểu đoàn 1/9 đã bị mất 2/3 quân số trong trận đánh của chiến dịch Buffalo gần Cồn Tiên. Sau 3 tháng nằm viện, được cho giải ngũ vì ko đủ sức khỏe. Giấc mơ phục vụ binh chủng lâu dài đã tan biến, anh trở thành thợ điện và về làm cho chương trình hỗ trợ cựu chiến binh bị thương tật của bang Illinois. Hiện cư ngụ tại Springfield, Illinois.

    IVORY PUCKETT (E/2/9). Bị thương 2 lần trước khi rời nam VN về Mỹ tháng 12 năm 1967. Sau khi xuất ngũ tháng 6 năm 1968 về làm công nhân sửa chữa đường ống của công ty Mobil Oil. Hiện vẫn đang công tác và sống tại Los Angeles, California.

    JAMES H. REEDER (Khe Sanh SOP). Nghỉ hưu năm 1973 với hàm đại tá. Mất ngày 13 tháng 11 năm 2002.

    ALFREDO V. REYES (B/1/9). Tử trận gần Cồn Tiên ngày 2 tháng 7 năm 1967, khi đại đội Bravo bị bộ đội Bắc Việt tiêu diệt.

    ALFONSO RIATE (K/3/3) bị bộ đội Bắc Việt bắt sống, tới năm 1973 thì được trao trả. Là 1 trong số ít tù binh Mỹ bị buộc tội đã hợp tác với đối phương. Về sau án này được giảm. Hiện ko rõ nơi đang cư ngụ.

    THOMAS E. RICE (E/2/3). Rời nam VN tháng 11 năm 1967; giải ngũ 2 tháng sau đó. Học lấy bằng của đại học Bách Khoa bang California ở San Luis Obispo. Hiện sống ở thành phố Lincoln, bang Oregon.

    DAVID G. ROGERS (pháo đội C/1/12 phối thuộc đại đội Mike/3/3). Về Mỹ tháng 10 năm 1967 khi kết thúc kỳ hạn phục vụ. Sau khi giải ngũ năm 1968 với cấp bậc đại úy anh theo đuổi sự nghiệp trong ngành hàng không rồi về làm nhân viên điều khiển không lưu cho Cục hàng không Liên bang. Sau đó chuyển sang làm chuyên viên về hệ thống dữ liệu. Khi nó chuyển sang tư nhân hoá năm 1986, Rogers chuyển sang làm nhân viên 1 công ty Khoa học quốc tế. Hiện sống tại Arlington, Texas cùng vợ. Có 1 con gái.

    THOMAS F. RYAN (B/1/9) Chuyển sang đại đội India, tiểu đoàn 3/3 sau khi rời Khe Sanh 2 tuần và ở đó cho tới khi kết thúc kỳ hạn chiến đấu tháng 3 năm 1968. Sau khi ra quân tháng 9 năm 1969, đã trải qua rất nhiều công việc cho tới khi được tư vấn và xác nhận mắc chứng trầm cảm sau chấn thương, mất sức lao động 30%. Hiện công tác trong ngành bưu chính ở Philadelphia. Đã lấy vợ, có 2 con.
    gaume1, convitbuoc, huytop2 người khác thích bài này.
  4. lamali1

    lamali1 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    11/05/2009
    Bài viết:
    7.268
    Đã được thích:
    13.204
    Phía Mỹ thật bại như này rồi mà không hiểu sau chỉ vài năm sau người Nga lại mang quân vào Apganistan , cũng là để đánh nhau với nhân dân nhỉ :eek:
  5. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    WILLIAM A. RYAN, JR. (F/2/3). Rời nam VN tháng 9 năm 1967 do bị chấn thương cột sống khi lao xuống hố trên đồi 881 Bắc ngày 5 tháng 5. Được giải ngũ ngày 1 tháng 4 năm 1969. Sau khi học đại học về công tác trong ngành cảnh sát. Rời sở cảnh sát Lake Worth, Florida về hưu năm 1996. Đã lập gia đình, có 2 con. Hiện đang sống với vợ ở Weare, New Hampshire.

    CHARLES B. SALTAFORMAGGIO (K/3/9), Kết thúc kỳ hạn chiến đấu ở nam VN tháng 12 năm 1967. Sau khi xuất ngũ tháng 2 năm 1969 gia nhập lực lượng cảnh sát bang Louisiana. Sau 4 lần bị bắn năm 1971, mới biết làm cảnh sát còn nguy hiểm hơn cả khi phục vụ tại VN. Về hưu năm 1999 với hàm trung úy chuyển sang làm hướng dẫn viên du lịch cho những cựu chiến binh sang thăm lại VN. Sống tạiMetarie, Louisiana ; đã có 1 vợ, 2 con.

    MICHAEL W. SAYERS (B/1/9) Kết thúc kỳ hạn phục vụ trong vai trò trợ lý hành quân trung đoàn 9 TQLC. Rời nam VN tháng 10 năm 1967 với 1 huân chương sao đồng, 1 huân chương quả tim tím. Giải ngũ năm 1979 với cấp bậc thiếu tá. Sau đó về làm phó chủ tịch của 1 ngân hàng ở Fort Smith, Arkansas 1 thời gian rồi mở công ty tư vấn. Luôn cảm thấy buồn vì vai trò của đơn vị mình đã ko được công nhận hiều hơn trong trận đánh.

    ROBERT J. SCHLEY (M/3/3). Được truy tặng huân chương chữ thập Hải quân vì long dũng cảm.

    JAMES P. SHEEHAN (G/2/3). Bị thương tháng 7 năm 1967 trong chiến dịch Buffalo, được tặng huân chương Sao bạc và huân chương quả tim tím. Sau đó chuyền về tiểu đoàn làm sĩ quan tham mưu. Kéo dài thời hạn phục vụ sau khi được thăng cấp thiếu tá và ở lại trung đoàn 4 TQLC cho đến tháng 12 năm 1968. Kết hôn với nữ y tá Hải quân quen khi phải đi viện rồi giải ngũ năm 1989 với hàm đại tá. Hiện sống ở Silverdale, Washington.

    CHARLES R. “DICK” SHOEMAKER (K/3/3) Rời nam VN đúng kỳ hạn với 1 huân chương sao đồng. Được thăng lên chuẩn úy TQLC năm 1970. 7 năm sau rời binh chủng hành nghề kinh doanh bán lẻ rồi nghỉ hưu năm 1996. Đã lập gia đình, hiện đang ở với vợ tại Prescott, bang Arizona.

    ROBERT SLATTERY (E/2/9) Rời nam VN trở về nước khi kết thúc kỳ hạn phục vụ tháng 6 năm 1967 với 1 huân chương quả tim tím. Sau khi ra quân tháng 11 năm 1967, về công tác tại sở cảnh sát thành phố New York. Nghỉ hưu trong cương vị thám tử năm 1989. Hiện làm việc trong bộ phận bảo vệ của ngân hàng Merrill Lynch. Lấy vợ, có 4 con, hiện đang sống tạiLynbrook, New York.

    MERLE G. SORENSEN (F/2/3). Trở lại nam VN sau 1 tháng đi viện trị thương. Sau khi từ chối quay về đại đội Foxtrot, làm trợ lý hành quân của trung đoàn 9 TQLC cho đến khi về nước tháng 2 năm 1968. Giải ngũ năm 1979 với cấp bậc thiếu tá. Hoạt động trong ngành bất động sản nhưng đã nghỉ hưu. Đang sống ở Escondido, bang California.

    BAYLESS L. SPIVEY (K/3/3). Hoàn tất kỳ hạn phục vụ tháng 7 năm 1967. Ở lại binh chủng cho đến năm 1981 mới giải ngũ với cấp hàm trung tá. Sau đó chuyển sang kinh doanh bất động sản. Lập gia đình, có 4 con và đang điều hành 1 khu nghỉ dưỡng của tập đoàn KOA tại bãi biển Myrtle Beach, nam Carolina.

    GEORGE STERNISHA (E/2/3). Hoàn tất kỳ hạn phục vụ, rời nam VN tháng 10 năm 1967. Giải ngũ tháng 3 năm 1968. Trở về Crest Hill, Illinois làm trong ngành xây dựng. Hiện đang làm đốc công. Đã lập gia đình, có 2 con trai.

    ROBERT W. STEWART (Pháo đội F/2/12 phối thuộc đại đội Kilo/3/9) Mất 6 tuần trong bệnh viện để điều trị các vết thương. Sau đó được binh chủng cho nghỉ phép 1 tháng vì gia hạn kỳ hạn phục vụ và thêm 1 tháng an dưỡng nữa. Tháng 7 năm 1967, trở lại nam VN và phục vụ tại đây cho đến tháng 12. Giải ngũ tháng 5 năm 1969 với tỉ lệ thương tật là 50%. Về học tại đại học Alabama, lấy bằng quản trị kinh doanh năm 1972. Làm kế toán cho công ty Big Eight international CPA nhiều năm rồi trở thành giám đốc tài chính của nhiều tập đoàn lớn. Năm 2000, được chẩn đoán mắc chứng trầm cảm sau chấn thương, nghỉ hưu với xác nhận mất 100% sức lao động. Hiện đang sống cùng vợ và 2 con ở Largo, Florida.

    ROBERT W. SWIGART (M/3/3). Bị mất chức chỉ huy tháng 6 năm 1967. Tử trận ngày 4 tháng 7 năm 1967.

    WILLIAM B. TERRILL (E/2/9). Kết thúc kỳ hạn phục vụ tại nam VN với chức vụ sĩ quan phụ trách hành quân tiểu đoàn. Sau khi trở về Mỹ tháng 8 năm 1967 thì giải ngũ. Về quê hương ở San Angelo, bang Texas kinh doanh đồ gỗ với gia đình. Hiện sống với vợ ở Mertzon, Texas.

    WILLIAM VAN DEVANDER (K/3/9). Đi viện 2 tuần lễ rồi trở lại chiến trường. Thời gian này gia đình đã nhận được tin báo nhầm rằng anh đã tử trận. Rời nam VN tháng 6 năm 1967. Ra quân tháng 9 năm 1968 với 3 huân chương quả tim tím. Suốt 13 năm sau đó phải bươn chải làm nhiều công việc lặt vặt, nghiện rượu, hay gây gổ đánh nhau. Cuối cùng được chẩn đoán mắc chứng trầm cảm sau chấn thương, mất 80% khả năng lao động. Bị tai nạn ô tô năm 1992 buộc phải bỏ công việc đang làm ở cục quản lý dịch vụ. Lấy vợ, có 3 con chuyển về Huntington, Tây Virginia quản lý 1 trang trại nuôi ngựa giống Tennessee.

    KENNETH D. VERMILLION (B/1/9) Nhận 2 huân chương quả tim tím trước khi rời nam VN lên đường về nước tháng 6 năm 1967. Ra quân trong tháng 9. 10 năm làm công nhân sản xuất thép lá rồi chuyển sang nghề buôn bán ô tô. Hiện sống tại Marlboro thượng, bang Maryland với vợ con.

    THOMAS A. VINEYARD (K/3/3) Để ngón cái tay trái bị cắt cụt tại trạm y tế Phú Bài rồi chuyển đến bệnh viện Letterman General ở San Francisco điều trị cho đến lúc ra quân tháng 11 năm 1967. Đi học lấy bằng kế toán viên; về làm cho công ty Peat Marwick nhiều năm rồi mở công ty riêng. Hiện đã bán nghỉ hưu, sống tại Palm Desert, bang California.

    LEWIS W. WALT (tư lệnh Lực lượng thủy bộ III). Rời nam VN tháng 6 năm 1967. Hồi hưu với quân hàm đại tướng. Mất năm 1989.

    THOMAS C. WHEELER (M/3/3) mất 40 ngày nằm trên tàu bệnh viện USS Repose để trị thương. Thay vì chấp nhận về Mỹ vì lý do sức khỏe lại tình nguyện quay lại đơn vị. Rời nam VN tháng 9 năm 1967 sau đó tới tháng 3 năm 1969 thì xuất ngũ về công tác trong ngành xây dựng. Hiện cư trú tại Tampa, bang Florida; đã nghỉ hưu.

    PETER A. WICKWIRE (1/3) Giải ngũ với quân hàm đại tá năm 1980. Hành nghề thầu xây dựng. Hiện ngụ tại Townsend, bang Georgia.

    VERNON WIKE (G/2/3). Ở lại đơn vị cho tới tháng 9 năm 1967, rồi phải sơ tán vị bị thương ở hông. Sau 5 tháng nằm viện thì được cho giải ngũ. Trở về Phoenix làm bác sĩ tai mũi họng. Do vết thương hông ngày càng chuyển biến xấu nên đến năm 1979 thì được Bộ cựu chiến binh xác nhận mất 100% sức lao động. Hiện đang sống ở Prescott, bang Arizona.

    GARY WILDER (3/3). Kết thúc kỳ hạn phục vụ tại nam VN tháng 7 năm 1967. Giải ngũ năm 1977 với hàm đại tá về chăm lo cho người vợ bị tai nạn ô tô. Sau khi vợ mất năm 1992, tới đại học miền trung Florida làm việc với vai trò nghiên cứu, thử nghiệm chiến thuật, chiến lược cho binh chủng TQLC. Sống ở Longwood, bang Florida.

    ISAMU S. “SAM” YOSHIDA (K/3/3). Sau nhiều tháng nằm viện ở miền nam VN và Mỹ cuối cùng cũng phục hồi thị lực. Hoàn tất kỳ hạn phục vụ tại căn cứ Pendleton, California và giải ngũ tháng 12 năm 1968. Về học lấy bằng kỹ sư và bằng luật tại đại học California ở Berkeley. Hiện đang ngụ tại Redwood City, California với vợ. Là 1 chuyên gia về bất động sản.








    HẾT

    đã hết sạch...cảm ơn các bác đã theo dõi... cảm ơn quyết liệt các bác đã like nhiệt tình giúp e có động lực hoàn thành cuốn sách này ạ...Đặc biệt đề nghị không phát tán bản dịch này cũng như sử dụng cho mục đích thương mại..
  6. tga150306

    tga150306 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    05/08/2007
    Bài viết:
    466
    Đã được thích:
    14
    Tôi ko đi kính nên ko biết khăn trắng có dễ bị phát hiện hơn các màu khác hay ko. Nhưng năm 1972 khi đi sơ tán về Thường Tín, Hưng Yên để tránh B-52 và bom Mỹ nói chung, thì người nông thôn rất sợ người thành phố mặc áo trắng đi trên đường, ngoài đồng khi có báo động máy bay Mỹ đang chuẩn bị đến tấn công. Họ chửi người thành phố là muốn chết hay sao? Có thể nó nguy hiểm hơn thật !!!
  7. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927
    Thời sơ khai mà bác ơi...Tôi cũng từng đi sơ tán thời đó mà....
    tga150306 thích bài này.
  8. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    các bác cho e hỏi do trực thăng chở nặng quá nên the rotor turns drooped below 80 per cent -we lost generators, SAS, ATS and the radios là sao ạ?...thanks các bác.
    convitbuoc thích bài này.
  9. convitbuoc

    convitbuoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2008
    Bài viết:
    1.153
    Đã được thích:
    914
    Vòng quay roto giảm xuống dưới 80% -> chúng tôi mất máy phát điện, mất hệ thống SAS, ATS và các hệ thống radio. (SAS với ATS là cái gì thì phải tra sau :D )
    danngocngthi96 thích bài này.
  10. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    8.673
    cám ơn bác....sau đó là 1 loạt các động tác kỹ thuật của phi công mà e chả hiểu gì cả...nhờ các bác cố vấn giúp : I dropped collective slightly, edged the cyclic forward, and we descended down the hill, gaining speed and recovering our turns
    convitbuoc thích bài này.

Chia sẻ trang này