1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trân Châu Cảng - Walter Lord

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Excocet, 05/10/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Excocet

    Excocet Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/01/2005
    Bài viết:
    4.450
    Đã được thích:
    79
    Nhân viên phụ trách khẩu pháo số 3 là Russel Knapp hạ lệnh bắn 30s sau đó, lúc mục tiêu chỉ còn cách tàu có 50m, lần này anh ta gặp may. Viên đạn đã bắn trúng nắp tàu ngầm, làm nó chao đảo đi một chút, nhưng vẫn tiếp tục chạy tiếp. Giờ đây tàu ngầm đã ở sát bên sườn chiếc Ward. Pháo thủ Luis Gerner còn đủ thì giờ nhìn thấy chiếc thấu kính của kính tiềm vọng. Nhưng nó đã kịp vòng ra phía sau, lượn một vòng tròn xung quanh con tàu Mỹ.
    Bốn tiếng còi ngắn vang lên, báo hiệu cho trưởng tàu phóng ngư lôi Maskawilz, anh này kịp thời phóng ra 4 ngư lôi diệt tàu ngầm. Chiếc tàu ngầm biến mất ngay trong núi bọt nước bốc cao. Maskawilz đã điều chỉnh đầu đạn để nso nổ trong phạm vi 30m, và anh tở ra hài lòng khi chiếc tàu ngầm có vẻ như đã đi đời nhà ma.
    Trên chiếc thủy phi cơ của mình, thiếu úy phi công Tanner đang tự hỏi sẽ phải làm gì. Cá nhân anh, anh rất muốn đến giúp đỡ chiếc tàu ngầm lâm nạn, nhưng những mệnh lệnh ban bố ra rất chặt chẽ: phải tấn công và đánh đắm mọi tàu ngầm lởn vởn trong khu vực phòng thủ mà không được phép. Anh thấy đó là điều mà chiế Ward đang thực hiện. Sau giây phút lưỡng lự, Tanner lại lượn một vòng, và anh thả xuống những quả đạn chống tàu ngầm.
  2. Excocet

    Excocet Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/01/2005
    Bài viết:
    4.450
    Đã được thích:
    79
    Trên chiến hạm Ward, trung úy Goepner nghi ngờ chiếc tàu ngầm này là của Mỹ?. Thực ra thì nó chẳng có phận sự gì ở chỗ này cả, mà hình dạng cũng chẳng giống những tàu ngầm mà anh đã biết, nhưng liệu anh có thể mắc sai lầm chăng?. Nỗi lo lắng đó, thực ra, cũng đã được thiếu úy Tanner chia sẻ. Tanner và người bạn cùng bay, thiếu úy Clark Greevey cứ tìm cách trấn an lẫn nhau bằng cách cả 2 cùng nói với mình là chỉ biết thi hành mệnh lệnh cấp trên. Nhưng liệu Tanner có nhầm lẫn?
    Anh hình dung ra cảnh khi ra tòa án binh, anh bị liệt vào hạng người đã đánh đắm tàu Mỹ. Và trong những ngày còn lại của cuộc đời, anh hình dung cảnh mình bị đuổi khỏi hải quân và vất vưởng đi tìm một việc làm. Qúa buồn bã, anh đánh điện về văn cứ hải quân Kaneohe để báo cáo việc mình tấn công tàu ngầm, và chờ đợi ngày kết thúc binh nghiệp của mình.
    Chỉ có Outerbridge là luôn hoàn toàn tin tưởng. Thực ra, anh chỉ tiếc là mình đã không thảo bức điện của mình gửi lúc 6h51 một cách rõ rang hơn. Anh đã viết như sau: ?oĐã tấn công bằng thủy lôi chống tàu ngầm một tiềm thủy đỉnh đang hoạt động trong khu vực phòng thủ?. Nhưng cấp trên, trong khi đọc, có thể tưởng là anh chỉ mới phát hiện chiếc kính tiềm vọng của tàu, hoặc bộ phận định vị bằng âm thanh đã phát hiện ra điều gì khác thường. Trong những năm gần đât, đã có quá nhiều vụ ?otấn công? vào các phao tiêu, vào cả cá voi. Khiên cho ở đại bản doanh, người ta có thể bực bội khi đọc một bức thong điệp kiểu đó. Lần này đây, chiếc tàu Ward đã nhìn thấy chính chiếc tàu ngầm, và đó chính là chi tiết cần thiết để nhấn mạnh, để cho bộ chỉ huy làm điều gì đó khác hơn là cứ trả lời như thường lệ: ?oHãy kiểm tra lại và báo cáo?
    Do đó, Outerbridge lại vội vàng thảo một bức thông điệp mới, mà ông gửi tới bộ chỉ huy vùng 14 hải quân lúc 6h53. Nội dung như sau: ?oChúng tôi đã tấn công bằng đại bác và thủy lôi chống tàu ngầm và đã đánh chìm chiếc tiềm thủy đỉnh hoạt động trong vùng phòng thủ?.
  3. Excocet

    Excocet Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/01/2005
    Bài viết:
    4.450
    Đã được thích:
    79
    Nhưng như vậy, chính Outerbridge cũng cảm thấy chưa đủ. Lẽ ra anh có thể thông báo cái sự kiện đặc biệt đó qua một bức điện viết rõ ràng bằng chữ, không cần mã hóa, như thế sẽ nhanh hơn một vài phút. Anh cũng có thể thông báo bằng tín hiệu quang học cho đài quan sát của cảng. Anh có thể phải gửi ngay bức điện đi, thay vì ném vào ngăn kéo. Anh đã mở đầu nó như sau: ?oPhát hiện nắp một chiếc tàu ngầm kiểu dáng lạ, đã nã súng bắn 2 phát ở tầm gần??. Nhưng ít ra thì anh cũng đã làm được một điều gì đó. Trong khi những người khác còn đang bị huyễn hoặc bởi một viễn cảnh hòa bình, thì anh đã tỏ ra là người đã có gan thông báo là mình đã trực tiếp tấn công vào một kẻ nào đó.
    Dù sao chăng nữa thì cái ?okẻ nào đó? không phải là thiếu úy hải quân Sakamaki. Vào lúc 6h30, anh vẫn cùng Inagaki tìm cách cho chiếc tàu ngầm thăng bằng trở lại. Điều này không mấy dễ dàng. Khoang tàu chỉ đủ cho một người bò sấp người từ đầu này sang đầu kia của tàu. Họ thay nhau làm như vậy, tay luôn điều chỉnh các ngăn nước dằn, sờ soạng các thanh điều khiển sự lưu thông của không khí và nước bên trong các bình chứa. Loay hoay mãi trong một tiếng đồng hồ, họ đã làm cho tàu ngầm nằm ngang trở lại.
    Sau cùng, họ lại có thể cho tàu chạy và còn có thời gian ăn vội chút gì vào bụng. Họ ngồi đối diện nhau trong vị trí kiểm soát tàu bé nhỏ, cùng ăn cơm nắm và uống rượu sake. Sau đó họ siết tay nhau và hứa với nhau lần nữa là họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ.
    Mười phút sau đó, Sakamaki nhìn qua kính tiềm vọng và anh vô cùng hoảng hốt khi thấy tàu đi chệch hướng đến 90 độ. Anh cố sức để lấy lại hướng đi abn đầu nhưng không mấy kết quả. Chiếc tàu ngầm, thiếu la bàn hồi chuyển, cứ phải tự mò mẫm mà đi và hình nhưu nó vẫn đi sai hướng. Lúc đó đã gần 7h rồi mà thiếu úy Sakamaki, với đôi bàn tay run rẩy và nhớp nháp mồ hôi, vẫn còn thấy mình ở quá xa cửa vào Trân Châu Cảng.
  4. Excocet

    Excocet Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/01/2005
    Bài viết:
    4.450
    Đã được thích:
    79
    Phụ lục 1:
    Kế hoạch sử dụng binh lực của Hải quân Nhật Bản
    Không lực của Hải quân của các tàu sân bay Nhật Bản tham gia vào các cuộc tấn công Trân Châu Cảng sử dụng ba loại máy bay chủ yếu, thường được biết đến với tên mã cho chúng trong Hải quân Hoa Kỳ: máy bay tiêm kích Mitsubishi A6M Kiểu 11 ("Zero"), máy bay phóng ngư lôi Nakajima B5N Kiểu 97/12 ("Kate") và máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A Kiểu 99 ("Val"). Đặc điểm của các phương tiện này như sau:
    ? Máy bay chiến đấu Mitsubishi A6M kiểu 11 ("Zero") do một phi công điều khiển; tốc độ tối đa 545 km/h; tầm hoạt động tối đa 1.870 km; được trang bị một súng máy 20 mm và hai bom 60 kg dưới cánh. Tổng số lần xuất kích trong trận đánh: 10 đợt từ các tàu sân bay Agaki, Kaga, Sōryū, Hiryū, Shōkaku và Zuikaku với 78 lần chiếc.
    [​IMG]
    ? Máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A kiểu 99 ("Val") do hai phi công điều khiển; tốc độ tối đa 450 km/h; tầm hoạt động tối đa 1.400 km; đuợc trang bị bom 250 kg dưới thân và 2 bom 60 kg dưới cánh. Tổng số lần xuất kích trong trận đánh: 6 đợt từ các tàu sân bay Agaki, Kaga, Sōryū, Hiryū, Shōkaku và Zuikaku với 129 lần chiếc.
    [​IMG]
    ? Máy bay phóng ngư lôi Nakajima B5N kiểu 97/12 ("Kate") do 2 đến 3 phi công điều khiển; tốc độ tối đa 360 km; tầm hoạt động tối đa 1.100 km; được trang bị một ngư lôi MK-91 457 mm hoặc một quả bom 800 kg dưới thân. Tổng số lần xuất kích trong trận đánh: 11 đợt từ các tàu sân bay Agaki, Kaga, Sōryū, Hiryū, Shōkaku và Zuikaku với 143 lần chiếc, trong đó có 49 lần chiếc mang bom 800 kg và 94 lần chiếc mang ngư lôi MK-91.
    [​IMG]
    Các tàu sân bay được hộ tống bởi một hạm đội tàu nổi mạnh gồm các thiết giáp hạm nhanh Hiei và Kirishima, tàu tuần dương hạng nặng Chikuma, 9 tàu khu trục. Soái hạm của hạm đội Nhật Bản là chiếc tàu sân bay Akagi.
  5. Excocet

    Excocet Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/01/2005
    Bài viết:
    4.450
    Đã được thích:
    79
    Phụ lục số 1 (tt)
    1. Phân hạm đội liên hợp số 1 của đế quốc Nhật Bản chịu trách nhiệm tấn công Trân Châu Cảng do đô đốc Nagumo Chūichi chỉ huy, có 2 tàu sân bay Akagi và Kaga với sự phân công nhiệm vụ như sau:
    1.1 Tàu sân bay Akagi do hạm trưởng Kiichi Hasegawa chỉ huy, chỉ huy không quân Masuda Shogo; được giao nhiệm vụ tấn công các thiết giáp hạm USS Maryland (BB-46), USS Tennessee (BB-43), USS West Virginia (BB-48), USS Oklahoma (BB-37) và USS California (BB-44); tàu chở dầu USS Neosho (AO-23), căn cứ không quân Hickam, căn cứ thủy phi cơ Ford, khu vực Eva. Trong biên chế có:
    1.1.1 Liên đội hỗn hợp phóng lôi - ném bom có 15 chiếc Nakajima B5N do thiếu tá Fuchida Mitsuo chỉ huy, gồm phi đội 1 của thiếu tá Fuchida, phi đội 2 của trung úy Goro Iwasaki và phi đội 3 của trung úy Izumi Furukawa.
    1.1.2 Liên đội phóng lôi có 15 chiếc Nakajima B5N do trung tá Murata Shigeharu chỉ huy, gồm các phi đội 1 và 2 do trung tá Shigeharu chỉ huy, phi đội 3 và 4 do trung úy Asao Negishi chỉ huy.
    1.1.3 Phi đoàn ném bom có 18 chiếc Aichi D3A do trung úy Takehiko Chihaya chỉ huy gồm các phi đội 21, 22, 23 do trung úy Takehiko Chihaya chỉ huy, các phi đội 25, 26, 27 do trung úy Zenji Abe chỉ huy.
    1.1.4 Liên đội tiêm kích đánh chặn có 18 chiếc A6M Zero do trung tá Shigeru Itaya chỉ huy, gồm phi đội 1 của trung tá Itaya, phi đội 2 của trung úy Saburo Shindo. Liên đội này còn có 9 chiếc A6M Zero dự trữ.
    1.2 Tàu sân bay Kaga do hạm trưởng Okada Jisaku chỉ huy, không quân do thiếu tá Sata Naohito chỉ huy; được giao nhiệm vụ tấn công các thiết giáp hạm USS Arizona (BB-39), USS Tennessee (BB-43), USS West Virginia (BB-48), USS Oklahoma (BB-37), USS Nevada (BB-36), căn cứ không quân Hickam và căn cứ thủy phi cơ Ford. Trong biên chế có:
    1.2.1 Liên đội hỗn hợp phóng lôi - ném bom có 15 chiếc Nakajima B5N do trung tá Kakuichi Hashiguchi chỉ huy, gồm phi đội 1 của trung tá Kakuichi Hashiguchi, phi đội 2 của trung úy Hideo Maki, phi đội 3 của trung uý Yo****aka Mikami.
    1.2.2 Liên đội phóng lôi có 12 chiếc Nakajima B5N do trung tá Kazuyoshi Kitajima chỉ huy, gồm các phi đội 1 và 2 của trung tá Kazuyoshi Kitajima chỉ huy, các phi đội 3 và 4 của trung úy Mimori Suzuki.
    1.2.3 Liên đội ném bom có 27 chiếc Aichi D3A do trung úy Saburo Makino chỉ huy, gồm các phi đội 21, 22, 23 do đích thân Makino chỉ huy, các phi đội 24, 25, 26 do trung úy Shoichi Ogawa chỉ huy, các phi đội 27, 28, 29 do trung úy Shoichi Ibuki chỉ huy.
    1.2.4 Liên đội tiêm kích đánh chặn có 18 chiếc A6M Zero do trung úy Yoshio Shiga chỉ huy, gồm phi đội 1 do đích thân trung úy Yoshio Shiga chỉ huy, phi đội 2 do trung úy Yaushi Nikaido chỉ huy. Liên đội này có có 9 chiếc A6M Zero dự trữ.
    2. Phân hạm đội liên hợp số 2 của đế quốc Nhật Bản chịu trách nhiệm tấn công Trân Châu Cảng do phó đô đốc Yamaguchi Tamon chỉ huy, có 2 tàu sân bay Sōryū và Hiryū với sự phân công nhiệm vụ như sau:
    2.1 Tàu sân bay Sōryū do hạm trưởng Yanagimoto Ryusaku chỉ huy; không quân do thiếu tá Kusumoto Ikuto chỉ huy được giao nhiệm vụ tấn công các chiến hạm USS Nevada (BB-36), USS Tennessee (BB-43), USS West Virginia (BB-48), USS Utah (BB-31), USS Helena (CL-50), USS California (BB-44) và USS Raleigh (CL-7); sân bay Wheeler và cơ sở sửa chữa máy bay tại Barbers. Trong biên chế có:
    2.1.1 Liên đội hỗn hợp ném bom - phóng lôi có 10 chiếc Nakajima B5N do trung úy Heijiro Abe chỉ huy, gồm phi đội 1 do trong úy Abe chỉ huy và phi đội 2 do trung úy Sadao Yamamoto chỉ huy.
    2.1.2 Liên đội phóng lôi có 8 chiếc Nakajima B5N do trung úy Tsuyoshi Nagai chỉ huy, gồm phi đội 1 và phi đội 2 do trung úy Nagai chỉ huy, phi đội 3 và phi dội 4 do trung úy Tatsumi Nakajima chỉ huy.
    2.1.3 Liên đội ném bom có 18 chiếc Aichi D3A do thiếu tá Egusa Takeshige chỉ huy, gồm các phi đội phi đội 21, 22, 23 của thiếu tá Egusa Takeshige và các phi đội 24, 25, 26 của trung úy Masatake Ikeda.
    2.1.4 Liên đội tiêm kích đánh chặn có 18 chiếc A6M Zero do trung úy Masaji Suganami chỉ huy gồm phi đội 1 của trung úy Masaji Suganami và phi đội 2 của trung úy Fusata Iida. Liên đội này có 9 chiếc A6M Zero dự trữ.
    2.2 Tàu sân bay Hiryū do hạm trưởng Kaku Tomeo chỉ huy, Amagai Takahisa chỉ huy không quân, đuợc giao nhiệm vụ tấn công các chiến hạm USS Arizona (BB-39), USS California (BB-44), USS West Virginia (BB-48), USS Oklahoma (BB-37) và USS Helena (CL-50); các công trình ngầm và cơ sở sửa chữa máy bay tại Barbers. Trong biên chế có:
    2.2.1 Liên đội hỗn hợp ném bom - phóng lôi có 10 chiếc Nakajima B5N do trung tá Tadashi Kosumi chỉ huy gồm phi đội 1 của trung tá Kosumi và phi đội 2 của trung úy Toshio Hashimoto.
    2.2.1 Liên đội phóng lôi có 8 chiếc Nakajima B5N do trung úy Heita Matsumura gồm các phi đội 1 và 2 của trung úy Heita Matsumura, các phi đội 3 và 4 của trung úy Hiroharu Sumino.
    2.2.1 Liên đội ném bom có 10 chiếc Aichi D3A do trung tá Michio Kobayashi chỉ huy gồm các phi đội 21, 22, 23 của trung tá Michio Kobayashi, các phi đội 24, 25, 26 của trung úy Shun Nakagawa.
    2.2.1 Liên đội tiêm kích đánh chặn có 15 chiếc A6M Zero do trung úy Kiyokima Okajima gồm phi đội 1 của trung úy Kiyokima Okajima và phi đội 2 của trung úy Sumio Nono. Liên đội này có 9 chiếc A6M Zero dự trữ.
    3. Phân hạm đội liên hợp số 5 của đế quốc Nhật Bản chịu trách nhiệm tấn công Trân Châu Cảng do phó đô đốc Chūichi Hara chỉ huy có 2 tàu sân bay Shōkaku và Zuikaku với sự phân công nhiệm vụ như sau:
    3.1 Tàu sân bay Shōkaku do hạm trưởng Jojima Takatsugu chỉ huy, Wada Tetsujiro chỉ huy không quân đuợc giao nhiệm vụ tấn công căn cứ không quân Hickam, sân bay Kane''ohe và các trận địa cao xạ. Trong biên chế có:
    3.1.1 Liên đội hỗn hợp ném bom - phóng lôi có 27 chiếc Nakajima B5N do trung úy Tatsuo Ichihara chỉ huy gồm phi đội 1 của trung úy Tatsuo Ichihara, phi đội 2 của trung úy Tsutomu Hagiwara và phi đội 3 của trung úy Yoshiaki Ikuin
    3.1.2 Liên đội ném bom do có 27 chiếc Aichi D3A do trung tá Takahashi Kakuichi chỉ huy gồm phi đội 1 của trung tá Takahashi Kakuichi, phi đội 2 của trung úy Masao Yamaguchi và phi đội 3 của trung úy Hisayoshi Fujita.
    3.1.3 Liên đội tiêm kích đánh chặn có 5 chiếc A6M Zero do trung úy Tadashi Kaneko chỉ huy, liên đội này có 9 chiếc A6M Zero trong lực luợng dự trữ.
    3.2 Tàu sân bay Zuikaku do hạm trưởng Yokokawa Ichibei chỉ huy, Shimoda Hisao chỉ huy không quân, được giao nhiệm vụ tấn công căn cứ không quân Hickam, sân bay Kane''ohe và các trận địa cao xạ. Trong biên chế có:
    3.2.1 Liên đội hỗn hợp ném bom - phóng lôi có 27 chiếc Nakajima B5N do trung tá Shigekazu Shimazaki chỉ huy gồm phi đội 1 của Shigekazu Shimazaki, phi đội 2 của trung úy Takemi Iwami và phi đội 3 của trung úy Yoshiaki Tsubota.
    3.2.2 Liên đội ném bom có 27 chiếc Aichi D3A do trung tá Sakamoto Akira chỉ huy gồm phi đội 1 của Sakamoto Akira, phi đội 2 của trung úy Tomatsu Ema và phi đội 3 của trung úy Hayashi.
    3.2.3 Liên đội tiêm kích đánh chặn có 6 chiếc A6M Zero do trung úy Masao Sato chỉ huy và 9 chiếc trong lực lượng dự trữ.
    Tàu khu trục Akigumo thuộc lớp Yugumo hoạt động độc lập.
    wiki
  6. Excocet

    Excocet Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/01/2005
    Bài viết:
    4.450
    Đã được thích:
    79
    Phụ lục số 1 (tt và hết)
    4. Phân hạm đội thiết giáp hạm số 3 do phó đô đốc Gunichi Mikawa chỉ huy gồm hai thiết giáp hạm Hiei và Kirishima.
    5. Phân hạm đội tuần dương số 8 do đô đốc Hiroaki Abe chỉ huy gồm các tuần dương hạm Tone và Chikuma.
    6. Phân hạm đội khu trục số 1 do phó đô đốc Sentarō Omori chỉ huy chỉ có khu trục hạm Abukuma thuộc lớp Nagara.
    7. Phân hạm đội khu trục số 17'' gồm các tàu khu trục Urakaze, Isokaze, Tanikaze và Hamakaze đều thuộc lớp Kagerō.
    8. Phân hạm đội khu trục số 18'' gồm các tàu khu trục Kagerō và Shiranuhi thuộc lớp Kagerō, các tàu khu trục Arare và Kasumi thuộc lớp Asashio
    9. Đơn vị khu trục Midway do hạm trưởng Ohishi Kaname gồm các tàu khu trục Akebono (1930) và Ushio (1930) đều thuộc lớp Fubuki.
    10. Phân hạm đội tàu ngầm số 2 do hạm trưởng Imaizumi Kijiro chỉ huy gồm tàu ngầm I-10 thuộc lớp Kiểu A, các tàu ngầm I-21 và I-23 thuộc phân lớp I-15, Kiểu B1.
    11. Đoàn tàu vận tải số 1 gồm tàu chở dầu Kyokuto Maru, các tàu vận tải Kenyo Maru, Kokuyo Maru, Shinkiku Maru và Akebono Maru.
    12. Đoàn tàu vận tải số 2 gồm tàu chở dầu Tōhō Maru, các tàu vận tải Toei Maru và Nippon Maru.
    13. Hạm đội tàu ngầm số 6 do phó đô đốc Shimizu Mitsumi chỉ huy trong biên chế có:
    14. Phân hạm đội tàu ngầm số 1 do phó đô đốc Sato Tsutomu chỉ huy gồm tàu ngầm I-9 thuộc lớp I-9, kiểu A1, các tàu ngầm I-15, I-17 và I-25 đều thuộc lớp I-15 kiểu B1.
    15. Phân hạm đội tàu ngầm số 2 do phó đô đốc Yamazaki Shigeaki chỉ huy gồm tàu ngầm I-7 thuộc lớp I-7, kiểu J3, các tàu ngầm I-1, I-2, I-3, I-4 đều thuộc lớp I-1, kiểu J1, tàu ngầm I-5 thuộc lớp I-5, kiểu J1M và tàu ngầm I-6 thuộc lớp I-6, kiểu J2.
    16. Phân hạm đội tàu ngầm số 3 do đô đốc Shigeyoshi Miwa chỉ huy gồm các tàu ngầm I-8 lớp I-7 kiểu J3, I-68, I-69, I-70, I-71, I-72, I-73 đều thuộc lớp I-68 kiểu KD6A, các tàu ngầm I-74 và I-75 thuộc lớp I-74 kiểu KD6B.

    17. Phân hạm công kích đặc biệt do hạm truởng Sasaki Hanku chỉ huy tàu ngầm "mẹ" gồm các tàu ngầm "bỏ túi" I-22 và I-22A do thuyền trưởng Naoji Iwasa chỉ huy, I-16 do thuyền truởng Hiroshi Hanabusa chỉ huy, I-16A, I-18, I-18A, I-20, I-20A, I-21 và I-21A.
    18. Đơn vị tàu ngầm trinh sát do hạm trưởng Kashihara Yasuchika chỉ huy gồm các tàu ngầm I-10 và I-26 do Minoru Yokota chỉ huy.
    wiki
  7. Excocet

    Excocet Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/01/2005
    Bài viết:
    4.450
    Đã được thích:
    79
    CHƯƠNG 5
    Từ 7h đến 7h45
    Đó là một buổi sang như mọi buổi sang khác ở trạm radar quân sự Opana, bên cạnh mũi Kahuku nằm ở đầu bắc đảo Oahu. Bình thường ra, 2 anh lính Lockard và Elliott có thể ghi nhận 25 lần có máy bay xuất hiện trong phiên trực gác của họ kéo dài 3 tiếng từ 4h đến 7h sang. Nhưng buổi sang nay, chủ nhật, họ không ghi nhận được điều gì cả.
    Opana là một trong 5 trạm radar lưu động nằm rải rác theo chu vi của đảo Oahu. Cả 5 trạm này đều được nối với trung tâm thông tin của Fort Shater, có nhiệm vụ theo dõi các đường bay phát hiện bởi các trạm. Hệ thống này, một khi đã hoạt động bình thường, sẽ cho phép định vị bất kỳ một máy bay nào trong đường kính 150 hải lý. Nhưng nó cũng mới chỉ đưa vào hoạt động vào cuối tháng 11, và vẫn chưa được coi là hoàn hảo. Lockard, Elliot và các chiến hữu của họ đều dành phần lớn thời gian công tác để tập luyện và sửa chữa máy móc.
    Ban đầu, các trạm chỉ hoạt động từ 7h sang đến 4h chiều. Nhưng sau vụ cảnh báo của Whashington ngày 27 tháng 11, tướng Short mới quyết định cho trậm làm việc từ 4h sang, bởi theo ông buổi sang sớm là thời điểm nguy hiểm nhất. Mọi người tiếp tục tập luyện từ 7h đến 11h trưa, sau đó về nghỉ. Các ngày Chủ nhật, họ chỉ làm việc từ 4h đến 7h.
    Tất cả đều diễn ra một cách đơn giản ở Opana, nơi xa nhất của 3 trạm và 6 con người làm việc ở đó đều ít hay nhiều phó mặc cho chính mình. Căn cứ của họ nằm ở Kawaida, cách trạm khoảng 12km dọc bờ biển. Họ đều làm việc ở trạm rồi trở về căn cứ trên những chiếc xe vận tải. Theo nguyên tắc, họ làm việc theo từng êkip gồm 3 người. Nhưng hôm nay là chủ nhật, họ tựu cho là chỉ cần 2 người trực là đủ. Do đó, Lockard lãnh trách nhiệm thao tác viên, còn Elliot vừa phụ trách động cơ, vừa theo dõi đánh dấu vị trí máy bay. Còn nhân vật thứ 3 của êkip này còn tranh thủ ngủ nướng them một lát.
    Họ nhận công tác bàn giao vào trưa ngày mùng 6 tháng 12. Họ vừa có nhiệm vụ bảo vệ trạm với khẩu sung lục với 7 viên đạn, vừa cho trạm hoạt động từ 4h đến 7h sang hôm sau. Họ để đồng hồ báo thức lúc 3h45, sau đó để radar hoạt động từ 4h như thường lệ, rồi trong 3h tiếp theo, họ chờ xem có điều gì xảy ra không. Hôm nay chỉ có một lần có báo máy bay lúc 6h45, có thể có 2 máy bay đến từ hướng Đông Bắc, cách khoảng 130 hải lý, sau đó không còn tín hiệu gì nữa.
    Vì thế, họ không chút ngạc nhiên khi trung tâm thông tin Shafer điện thoại lúc 6h45 để nói họ cho đóng cửa trạm lại.

    [​IMG]
    Trạm radar Opana
  8. Excocet

    Excocet Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/01/2005
    Bài viết:
    4.450
    Đã được thích:
    79
    Tại trung tâm thông tin, trung úy Kermit Tyler, vị sĩ quan duy nhất công tác ở đây cũng vừa trải qua 1 đêm yên tĩnh. Theo thường lệ, cả 5 trạm thường điện thoại về báo khi có ?oxuất hiện? máy bay. Và mọi người ở đây sẽ dung những mũi tên gỗ đánh dấu vị trí máy bay trên một cái bàn tìm kiếm lớn. Công việc nói chung mang tính chất một bài tập, bởi vì chưa có sĩ quan phụ trách việc phân biệt các máy bay ?ota? và ?ođịch?, nhưng công việc này cũng khá hiện thực. Vị sĩ quan kiểm tra sẽ chuẩn bị việc ?ochặn? địch lại. Người phụ việc cho ông ta, một sĩ quan rượt đuổi sẽ truyền mệnh lệnh của ông ta về các phi đội khu trục cơ mẫu. Cũng đôi khi họ thực tập với máy bay thật.
    Nhưng vào cái ngày Chủ nhật này thì không có động thái gì. Ít có ?oxuất hiện? máy bay, cũng chẳng có người nào ghi lại số máy bay được ghi nhận. Không có sĩ quan nào kiểm tra để tổ chức việc đánh chặn máy bay địch. Ngoài số binh lính đứng chung quanh chiếc bàn, chỉ có trung úy Tyler, sĩ quan phụ trách việc theo dõi. Những cũng chẳng còn ai để ra lệnh cho Tyler, cũng không có máy bay nào để theo dõi, vì vậy anh cũng chẳng còn gì để làm, đây mới là lần thứ 2 anh đảm nhiệm công việc này.
    Thực ra, người ta điều Tyler về đây chỉ với mục đích tập huấn. Ông thiếu tá Kenneth Berghuist, chỉ huy mạng lưới radar, muốn tất cả các phi công trẻ phải càng quen với kỹ thuật này càng tốt. Mà hôm nay là đến phiên Tyler, và anh cố gắng để đừng ngủ gật.
    Trong 2 tiếng đồng hồ ban đầu, không có chuyện gì xảy ra. Lúc 6h10, một trong các trạm radar báo có một mục tiêu ?oxuất hiện? và các nhân viên phụ trách ?ođánh dấu? bắt đầu cho chiếc mũi tên chuyển động trên chiếc bàn. Vào lúc 6h45, đã có một số mũi tên chĩa vào Oahu với khoảng cách 130 hải lý về phía Bắc. Vào lúc dồng hồ chỉ 7h, tất cả mọi người bỏ công việc lại để đi dung bữa điểm tâm. Chỉ còn lại 1 mình Tyler ở lại trong phòng. Do đó một trong những điều bí mật mà các quân nhân không tiết lộ ra, công việc của anh kéo dài đến 8h, 1h kéo dài hơn các người khác. Xung quanh anh không còn ai để ra lệnh, để nhận lệnh và cũng chẳng có ai để nói chuyện.
    Ở Opana, ca trực của Lockard và Elliot cũng chính thức chấm dứt mà cũng chẳng có điều gì lớn đối với 2 anh, bởi vì các anh phải chờ xe tải mang bữa điểm tâm tới. Thường ngày, xe tới lúc 7h, nhưng đôi khi xe đến trễ. Hôm nay họ quyết định tiếp tục công việc cho đến khi xe tải đến. Vì là lính mới của đơn vị này nên Elliot cũng muốn luyện tập thêm chút nữa. Anh bắt đầu khai thác các tay quay trong khi Lockard giải thích cho anh nhận biết các tiếng ?obíp, bíp? khác nhau. Bỗng nhiên có 1 tiếng ?obíp? rất lớn, lớn hơn những lần khác mà Lockard được biết, vạch trên màn hình radar 1 đường sang ngoằn nghèo. Đường sang lướn ngang với xung điện chính mà máy có thể phát ra. Thoạt nhiên Lockard nghĩ là có chập mạch gì đây, anh vội đẩy Elliot sang một bên và đích thân anh cầm lấy cần tay quay. Rất nhanh chóng, anh hiểu là máy móc vẫn bình thường, tiếng ?obíp? lớn này là do sự xuất hiện của một số lượng máy bay quá lớn gây ra. Chỉ trong vài giây, hai người có thể định vị được vị trí các máy bay: khoảng cách là 137 hải lý về hướng Bắc, lệch 3 độ sang Đông.

    [​IMG]
    Màn hình radar SCR-270 ở Opana
  9. vucong1

    vucong1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/11/2006
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    hay quá nữa đi bác
  10. con_ech_gia

    con_ech_gia Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2006
    Bài viết:
    1.773
    Đã được thích:
    65
    Ới bác Ex, bác đi kiếm ăn tận đâu vậy? Tròn tuần rồi mà bọn Mẽo vẫn nhởn nhơ chơi đấy!

Chia sẻ trang này