1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

TRẬN ĐẦU. Chiến dịch Starlite - trận Vạn Tường, bắt đầu món nợ máu của Mỹ tại Việt Nam

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ngthi96, 04/01/2016.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    1 quả đạn cối gần như đáp xuống ngay chỗ binh nhất C. B. Hitt, xạ thủ số máy số 2, hất anh văng lên không. Tuy ko bị thương gì nhưng Hitt phải nằm đờ mất 1 lúc mới hoàn hồn trở lại.

    Binh nhất L. M. Grant, xạ thủ súng phóng lựu M79, cũng dính chấu. Hạ sĩ Don Parker do bị thương ở tay không nhấc nổi khẩu súng trường nên bèn bò qua chỗ Grant lấy khẩu súng lục rồi tiếp tục tiến về phía địch cùng với nó.

    Trời đã xẩm tối nhưng những chiếc trực thăng Huey thuộc phi đoàn quan sát 2 vẫn tiếp tục đổ lửa xuống bờ đất trước mặt các TQLC.

    Bob Collins bỗng thấy nhói bên hông nên cứ ngỡ mình đã bị thương. Anh vội kiểm tra xem thì thấy hóa ra mình đang nằm đè lên quả lựu đạn mang theo khiến nó thúc vào mạng sườn. Anh thấy có thể xử lý được ổ súng máy đang bắn về phía mình bằng cách dùng lựu đạn. Khi Collins đang tiếp cận hầm súng địch thì 1 bộ đội bật dậy lia 1 băng đạn về phía anh rồi lại nạp đạn bắn tiếp. Collins hơi do dự vì chưa bao giờ phải giết ai cả. Hạ sĩ Larry Falls, xạ thủ súng trường tự động M14 chạy tới sau lưng anh quạt cả băng đạn bắn chết người lính địch. Cuối cùng thì Collins cũng ném lựu đạn. Sau tiếng nổ, quân địch bỏ chạy, 1 số chạy thẳng về phía 2 TQLC và bị bắn gục ngay. Ước tính có khoảng 16 bộ đội bị giết trong trận đọ súng nhưng số xác thực sự 'đếm được' thì chỉ có 5.

    1 bộ đội giải phóng dùng súng cạc bin bắn 1 trung úy TQLC. Hạ sĩ Charlie Davis, xạ thủ súng máy, cố bắn hạ người này nhưng súng lại bị hóc. Xử trí rất nhanh, Davis bỏ súng xuống rút khẩu súng lúc .45 ra nhả đạn về phía địch. Về sau anh được tặng huân chương Anh dũng bội tinh của Việt Nam. Súng của Davis ko phải là khẩu duy nhất bị kẹt đạn ngày hôm ấy. Súng của Guterba cũng bị kẹt khi anh đang cố nhắm bắn mấy lính đối phương bỏ chạy. Chờ tới lúc làm sạch được nó thì kẻ địch đã mất dạng.

    Trong lúc đi qua 1 góc ruộng, hạ sĩ nhất Collins phát hiện 1 con hào có bờ đất cao. Anh cùng các TQLC khác lần theo chiến hào thì chạm trán 1 quân giải phóng cách đó tầm 6-7 thước. Người lính địch quay đầu chạy, Collins nã theo 3 phát đạn. Trong bóng tối chập choạng, thấy chiếc xe bọc thép lội nước cháy đen trên đám ruộng bên trái trước mặt, Collins cùng 1 TQLC tên là Clark dừng lại nhìn. Trong lúc mọp sát đất cẩn thận quan sát lối mòn, bỗng có 1 giọng cất lên hỏi: "Các cậu đang làm gì thế, 'nứng' quá rồi sao?". Người đó chính là trung tá Joe Muir, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3/3, đang đi kiểm tra tình hình. Collins đáp: "Dạ tôi chỉ cố càng gần mẹ Đất nhất càng tốt thôi mà sếp". Viên trung tá bật cười rồi đi tiếp.

    ***

    Joe Muir là 1 chỉ huy từng ko quản gian nguy đích thân đi cùng các đại đội xung kích, luôn cố ra sát tiền duyên khi có thể. Tướng Walt đã nhiều lần la rầy ông vì cái tội hay chường mặt ra ở những chỗ ác liệt nhất. Suốt 3 ngày trong chiến dịch Starlite, ông đã hầu như ko ngủ. Dù rất anh dũng trong trận Vạn Tường nhưng chỉ 3 tuần sau đó ông đã thiệt mạng do dẫm phải quả mìn làm từ đạn pháo 155mm và chở thành vị tiểu đoàn trưởng đầu tiên của TQLC tử trận ở VN. Ông được truy tặng huân chương chữ thập Hải quân cho những thành tích trong chiến dịch Starlite.

    ***

    Phi vụ cuối cùng ngày hôm đó của thiếu tá Al Bloom, phi đoàn trực thăng 361 là đáp lại tín hiệu lựu đạn khói màu xin di tản thương binh. Bloom vừa cho người thương binh nặng lên máy bay và đang chuẩn bị cất cánh thì thượng sĩ Hooven báo cho ông biết trục dẫn động chong chóng đuôi (tail rotor drive shaft) chiếc H-34 đã bị bắn trúng. Trục này vốn là 1 cái ống mỏng, chạy dài suốt chiều dài đuôi máy bay rồi chui lộ ra chỗ khoang chở hàng. Nếu ko có cái trục này, chong chóng đuôi sẽ bị vô hiệu hóa khiến máy bay sẽ quay vòng vòng, chao đảo dữ dội quanh 1 trục thẳng đứng rồi rơi. Kiểm tra cần lái thấy máy bay vẫn điều khiển được, lại nghe Hooven bảo cái trục vẫn quay ổn định, Bloom bèn quyết định quay về căn cứ.

    Sau khi đáp xuống ở Đà Nẵng, thiếu tá Homer Jones, viên phi công chiến đấu ngồi ghế phi công phụ mới tuyên bố rằng đám phi công trực thăng đều điên cả nút và ông sẽ ko bao giờ bay cùng với bọn họ nữa.

    Phi hành đoàn khi đó mới tròn mắt kiểm tra những thương tích của con chim sắt, miệng ko tiếc lời ca ngợi Sikorsky, hãng sản xuất ra chiếc H-34. Thân tàu có ít nhất là 1 chục lỗ thủng cộng với 1 vết đạn gọt mất 1/3 đường kính trục dẫn động chong chóng đuôi. Về sau thượng sĩ Hooven kể cho Bloom rằng ông ko còn nghe thượng sĩ nhất Dorsett chê bai gì đám 'chó sục' nữa. Ông này hẳn cũng đã kể cho đồng đội bên bộ binh về những trải nghiệm chiến đấu trên không của mình.

    Tại Đà Nẵng, con số máy bay trực thăng còn bay được của phi đoàn 361 ngày càng giảm. Đến xế chiều thì bất chấp những nỗ lực phi thường của các đội nhân viên sửa chữa mặt đất, toàn phi đoàn chỉ còn có 8 chiếc trực thăng có thể bay. Chiếc nằm ngoài bãi biển đã hỏng nặng đến độ ko thể phục hồi phải xin máy bay tới oanh kích nhằm ngăn súng, đạn của nó ko lọt vào tay địch quân. Thay thế cho phi đoàn 361, phi đoàn trực thăng H-34 số 163 của trung tá Norm Ewers giờ đảm trách công tác tải thương và nhiều nhiệm vụ quan trọng khác sau khi đã đổ lính đại đội Lima, tiểu đoàn 3/7 lên bờ. Phi đoàn HMM-163 đã phục vụ ở VN từ hơn 4 tháng trước và được chuyển giao cho chiến đoàn đổ bộ đặc biệt (Special Landing Force - đơn vị tương đương cấp trung đoàn. ND). Theo tiêu chuẩn hồi ấy thì đây là 1 đơn vị lão luyện trong các hoạt động ở VN. Trong ngày 18 tháng 8, phi đoàn đã bay 232 phi vụ và qua tuần sau thì tổng số phi vụ đạt xấp xỉ con số 3000, trong số đó nó đã sơ tán được 197 thương binh TQLC.
    vacbay03, caonam_vOz, thanhVNW3 người khác thích bài này.
  2. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Sau tiếng nổ, quân địch bỏ chạy, 1 số chạy thẳng về phía 2 TQLC và bị bắn gục ngay. Ước tính có khoảng 16 bộ đội bị giết trong trận đọ súng nhưng số xác thực sự 'đếm được' thì chỉ có 5.

    với kiểu tính như thế thì việc quân Mỹ giết được 600 quân giải phóng trong trận này rất có thể là con số thổi phồng...Đó là chưa kể đến số dân thường bị chết trong giao tranh ko thấy đề cập tới, rất có thể họ đã bị gộp luôn thành VC. Điều này cũng có cơ sở, vì đây là khu dân cư, quân dân đều bất ngờ khi Mỹ tập kích nên khó có khả năng sơ tán kịp...
    Lần cập nhật cuối: 30/03/2016
    vacbay03gaume1 thích bài này.
  3. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    ***

    Trong cái buổi chiều dài lê thê ấy, trung úy Dave Steel đang rất cần đến chỗ của trung tá Muir. Anh chạy đến tìm đại tá Peatross và được ông này cho đi theo trực thăng của mình. Anh cùng Peatross rời tàu bay đi thăm tiểu đoàn 2/4 trước. Peatross đi đến chỗ Fisher bảo: "Ê, Bò đực, thế nào rồi?" Fisher 'bò đực' quay bộ mặt căng thẳng qua Peatross nói mấy câu đại để: "********! Mẹ nó chứ! Tôi cần nước uống! Ông có hiểu ko? Phải có nước cho quân của tôi. Tôi đang cần nước lắm!", Peatross vẫn điềm đạm quay đi lấy bi đông nước của mình đưa cho Fisher. Fisher ném nó xuống đất hét "Ko phải cho tôi. Mẹ kiếp. Tôi cần nước cho đám lính chết tiệt dưới quyền. Tôi cần nước uống ngay bây giờ!" Nhìn thấy trung úy Steel trong lúc tạm ngừng lấy hơi, Fisher nói: "Ồ. Chào Dave" rồi lại quay lại nói tràng giang đại hải về vấn đề nước uống. Peatross lập tức gọi điện đài làm hết sức mình để đưa nước uống tới cho quân lính.

    ***

    Trời đã tối tuy đạn địch vẫn ngăn cản số quân đi đầu của tiểu đoàn 3/7 tiến đến chỗ đám xe bọc thép nằm bất động nhưng họ cho rằng mình vẫn có thể tiếp cận xác 1 chiếc xe tăng. 1 trung úy đến bảo hạ sĩ nhất Bob Collins chọn 2 người tình nguyện băng qua đám ruộng đến chỗ cái xe xem có ai còn sống không. Vì cả Collins lẫn viên trung úy đều chẳng muốn bắt người khác phải đi nên họ đành vọt qua đồng lúa tới kiểm tra. Tổ lái đã chuyển đi hết nhưng mặt đất xung quanh hãy còn nhiều mảnh xác cùng mấy khẩu súng trường.

    Trong lúc vẫn còn ở trên chiếc tăng, Collins bỗng giật thót người khi có mấy tiếng súng nổ ngay bên cạnh. Trung sĩ Bill Stone hiện ra trong bóng tối lờ mờ giải thích mình vừa bắn vào 1 con chó định lôi xác chết đi. Stone cũng là 1 TQLC lão làng - với 16 năm trong binh chủng - từng tham gia đổ bộ lên Inchon trong chiến tranh Triều Tiên. Collins nhảy từ xác chiếc xe tăng xuống, nhặt mấy khẩu súng trường, lấy đạn ra, tháo cơ bẩm bỏ vào ba lô, rồi kê nòng vào xích xe bẻ cho cong đi để ko ai còn sử dụng chúng được nữa. Về tới vị trí, họ bỗng thấy có người từ phía sau tiếp cận. Sau khi hô lớn hỏi "Ai?" mà ko thấy trả lời, các TQLC liền nổ súng.

    ***

    đại đội Lima, tiểu đoàn 3/7 chuẩn bị 1 chặng hành quân đêm đầy khiếp hãi để quay về chu vi phòng thủ tiểu đoàn 3/3. Cách duy nhất để lính khỏi lạc nhau là nắm chặt thắt lưng người đi trước nhưng như thế nếu lọt phải ổ phục kích thì họ sẽ bị 'làm cỏ' dễ dàng.


    đại đội Hotel, tiểu đoàn 2/4. 16g30 phút

    Số quân còn lại của đại đội Hotel, tiểu đoàn 2/4 về tới bãi đáp Blue vào đúng 16g30 phút. 1 đợt không kích nữa lại giáng xuống cao điểm 43 để đảm bảo ko còn quân giải phóng nào còn trên đó. Fisher 'bò đực; chỉ thị cho đại đội Hotel đóng lại bãi đáp Blue tổ chức vị trí phòng thủ ban đêm. Do những lính TQLC mệt nhoài vẫn thỉnh thoảng bị đạn súng cá nhân từ thôn Nam Yên 3 nhắm bắn nên các xe Ontos và xe tăng phải tiến hành san bằng mọi ngôi nhà còn sót lại để loại trừ mối đe dọa.

    Dù đã kiệt sức sau 1 ngày chiến đấu dài đằng đẵng, trung úy Mike Jenkins vẫn phải bảo 24 TQLC dưới quyền cùng với 3 tổ lái xe tăng, 3 tổ lái Ontos đào công sự thật sâu để vị trí cố thủ ban đêm thêm vững chắc. Khi trung úy Jack Sullivan hỏi Jenkins liệu John Wayne sẽ làm gì trong tình cảnh thế này thì anh lập tức trả lời: "Cho xe quây thành vòng tròn". Và họ thực hiện đúng như thế thật. Số thiết giáp liền lập thành vòng tròn, xe còn chạy được kéo theo xe bất động còn đám bộ binh thì đào công sự xung quanh hoặc dưới gầm xe. Đến 18g thì số TQLC này được tiếp tế đồ ăn, nước uống và đạn dược. Họ xin nhiên liệu cho các xe Ontos vì mỗi xe đều chỉ còn 1/8 lượng xăng trong bình nên ko thể đi đâu xa hết. Họ còn được tăng cường thêm 1 tiểu đội súng cối 81mm nữa. Binh nhất Jim Mazy, người có chiếc điện đài duy nhất còn hoạt động được, tất bật liên lạc với sở chỉ huy của trung tá Fisher suốt cả đêm. Tuy được kẻ địch để yên nhưng ai cũng căng thẳng dù đêm ấy khá yên tĩnh. Đám TQLC đứng ngồi không yên xả súng vào bất cứ thứ gì nhìn thấy trong thứ ánh sáng ma mị của đủ loại pháo sáng.




    Chương 11


    Tình thế lúc chiều muộn



    Đến xế chiều thì TQLC đã bao vây toàn bộ khu vực mục tiêu. Bờ biển chạy theo hướng tây bắc - đông nam thì hướng tây bắc đã bị đại đội Mike, tiểu đoàn 3/3 cùng đại đội Golf, tiểu đoàn 2/4 khóa chặt. đại đội Echo, tiểu đoàn 2/4 thì đã đứng vững ở mặt tây; đại đội Hotel, tiểu đoàn 2/4 tuy chật vật nhưng vẫn kiểm soát được khu vực tây nam của mình; còn các đại đội Kilo, tiểu đoàn 3/3 và đại đội Lima, tiểu đoàn 3/7 thì đang càn quét trên hướng đông nam. Giao tranh ác liệt ngày hôm đấy chỉ diễn ra trong khu vực rộng vài nghìn mét vuông quanh các thôn An Cường 2, Nam yên 3. Đoàn xe tiếp tế bị phục kích cũng trên đoạn đường ở giữa 2 ngôi làng ấy.

    Chú chó tên Combat


    Đến cuối ngày, khi giao tranh đã tạm lắng, 1 TQLC đại đội Kilo, tiểu đoàn 3/3 tìm thấy trong làng 1 con chó nhỏ bé, gầy nhom. Cũng như nhiều chàng trai Mỹ khác, anh bế 'chú chàng' lên cho theo cùng. Sau, đến khi trời tối khi phải ra lập chốt cảnh giới anh giao nó lại cho hạ sĩ Ed Nicholls, người sẽ chăm lo cho chú mấy tháng sau đó.

    Combat, theo tên anh đặt, đã trở thành 1 chú chó TQLC thực thụ. Nó béo lên nhờ ăn đồ hộp và tỏ ra rất thân thiện. Những bài viết về Combat đã xuất hiện trên mặt báo khắp nước Mỹ và chú chó cũng thường xuyên nhận được thư bày tỏ lòng hâm mộ của các cháu học sinh. Combat đã trải qua rất nhiều đời chủ khi họ kết thúc kỳ hạn phục vụ và phải về nước. Cuối cùng nó cũng chết như 1 TQLC do dẫm phải mìn bẫy của quân địch.
  4. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    đại đội India, tiểu đoàn 3/3 lúc xế chiều

    đại đội India, tiểu đoàn 3/3 vẫn tiếp tục đi tìm đoàn xe tiếp tế. Khi tới gần thôn An Cường 2, nó phải dừng lại vì bị bắn và phải gọi xin không kích. Máy bay phản lực TQLC đã ném nhiều quả bom 250 cân Anh xuống khu vực mục tiêu. Địch quân trong thôn hoặc đã chết hoặc rút chạy, ko còn thấy bắn ra nữa. Phía tây thôn là đồng ruộng với hàng rào cây có ở khắp nơi. Đây ko phải là ruộng lúa mà là ruộng trồng khoai tây hay hoa màu gì đó.

    Trừ cái trung đội vẫn ở lại phía sau với thiếu tá Comer, đại đội India hiện đã cách xa đội hình tiểu đoàn từ 2000 đến 2500m và nó vẫn chưa tìm thấy đoàn xe tiếp tế ở đâu hết.

    Khi đại đội India vượt qua thôn An Cường 2 tầm hơn 800m thì trời sụp tối. Trung úy Richard Purnell gọi điện đài xin chỉ thị thì được bảo quay về chỗ đóng quân của tiểu đoàn. Đêm đó, đại đội India, tiểu đoàn 3/3 đã ko thể tìm nổi đoàn xe tiếp tế.

    TQLC quyết định thắp sáng khu vực bằng đạn pháo sáng do pháo hạm và pháo mặt đất bắn ra suốt đêm. Trong lúc pháo sáng giúp đoàn xe tự vệ dễ dàng hơn, gây khó khăn cho việc rút quân của quân giải phóng, thì nó cũng gây rắc rối cho đại đội India. Trên đường trở về sở chỉ huy tiểu đoàn 3/3, cứ được vài bước là lính tráng lại phải nằm dán xuống đất chờ cho dù pháo sáng lờ đờ rơi xuống đất mới dám đi tiếp. Nếu ko làm vậy họ sẽ trở thành mục tiêu rõ ràng cho những bộ đội vẫn còn hoạt động trong khu vực.

    đại đội India, tiểu đoàn 3/3 về được nửa đường thì lại ăn đạn. Lần này là của 5,6 địch quân nấp trong hàng rào cây. dù quân giải phóng chỉ cách đó khoảng 25-30m nhưng do sợ pháo sáng làm lộ, lính đại đội India đành nằm chết dí. 1 TQLC bị giết, 1 người nữa bị thương. Theo phản xạ, TQLC vận động sang bên sườn rồi nổ 1 cơn mưa đạn bắn trả địch. Khi tiếng súng dứt, 1 trung đội được phái lên kiểm tra hàng rào cây nhưng chẳng tìm thấy gì.

    Trong lúc tạm dừng trên quãng đường hành quân dài dằng dặc, 1 xạ thủ súng máy đi đoạn hậu của Purnell phát giác có 5 bộ đội khiêng theo 1 thương binh. Tay TQLC nằm dọc theo lối mòn, ẩn kín dưới đám cây bụi và có khả năng sẽ bị quân địch giẫm phải nếu ko hành động. Anh lấy đường ngắm, khai hỏa và giết sạch số địch. Lát sau, cậu TQLC xích hầu, khi tiến xuống 1 chiến hào tới 1 khúc quanh cũng trạm chán phải 1 bộ đội. Người này liền bị anh hạ sát.

    Trung úy Purnell xin máy bay tải thương đến gấp chở thương binh tử sĩ. Thiếu tá Comer liên lạc được với 1 chiếc trực thăng và được người phi công hứa sẽ đáp xuống nếu đúng là có trường hợp khẩn cấp. Sau viên phi công yêu cầu đại đội India bằng cách nào đó chỉ cho mình vị trí của họ. Tín hiệu dùng ban đêm khi đó chỉ có mỗi là đèn bin. Khi TQLC dưới dất báo họ sẽ bật 1 cái đèn bin thì viên phi công lại bảo đâu đâu anh ta cũng thấy ánh đèn cả. TQLC đoán chắc quân giải phóng đã nghe được cuộc gọi vô tuyến của họ.

    Cuối cùng họ phải lấy chăn ra bọc quanh đèn bin rồi hướng lên trời, bấm chớp tắt. Chiếc trực thăng liền hạ xuống. Thật đáng nể; chỉ cần có tí ánh sáng ấy thôi mà viên phi công đã đáp xuống ngay chóc. Tử sĩ, mấy thương binh, cùng 1 TQLC bị suyễn nặng lập tức được đưa lên máy bay, nó bay đi ngay sau đó.

    Phải mất hết đêm, đại đội India mới về đến mục tiêu vì những trận chạm súng, vì phải sơ tán lính thương vong, và vì lo sợ pháo sáng. Đến khoảng 4g30 thì đơn vị mới về được vị trí tiểu đoàn .


    tiểu đoàn 3/3 TQLC khi hoàng hôn xuống.

    Đại tá Peatross tới thăm trung tá Joe Muir, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3/3 vào lúc mặt trời lặn. Sau khi ông đi khỏi, Muir cho 2 đại đội còn lại tiến lên hướng bắc 1 chút để chiếm lĩnh vị trí phòng ngự nghỉ đêm có lợi hơn. Ông muốn chuyển lên đóng trên 1 quả đồi nhưng phải đảm bảo trên đó ko còn địch trước đã. Nhìn lên đồi Muir nói: "Tôi sẽ ko mất thêm TQLC chiến nào 1 cách vô ích nữa" rồi huy động 1 đợt hỏa lực 'hoành tráng' nhất mà trung úy Dave Steel từng thấy. Muir liên tục giã nát quả đồi bằng cả phi pháo, pháo hạm lẫn súng cối của mình. Steel khá kinh ngạc trước những gì Muir có thể làm với hỏa lực chi viện, dù từng loại hay đồng thời 1 lượt.

    Các bộ phận chính của tiểu đoàn 3/3 vừa bắt đấu tiến lên thì đại đội Lima, tiểu đoàn 3/7 gọi đến xin nước uống đồng thời báo Muir biết mình ko thể di chuyển. Muir quay sang đại úy Dave Ramsey, sĩ quan hành quân tiểu đoàn 3/3 nói "Tôi sẽ qua đó". Vào lúc ông tới chỗ đại đội Lima, tiểu đoàn 3/7 thì ở đây đang có quá nhiều ca cần phải đi sơ tán vì cái nóng, bao gồm cả đại đội trưởng.

    Trong khi vất vả tiến lên đồi, Dave Steel làm mất chiếc nhẫn kỷ niệm của trường đại học vì nó trượt ra khỏi ngón tay. Anh đứng nhìn theo nó lăn lông lốc xuống chân đồi 1 lúc rồi chửi "mẹ nó" và lại quay lên tiếp.

    Khi tiểu đoàn 3/3 lên đến nơi và yên vị thì đại đội Lima, tiểu đoàn 3/7 vẫn còn bên dưới chân đồi. Trời đã gần tối nên chỉ huy trung đội của Purnell lúc trước là trung sĩ trung đội phó Bill Wright phải xuống hướng dẫn lính tiểu đoàn 3/7 lên đồi.

    Trời vừa tối thì ko biết từ đâu mọc ra 1 xe bọc thép lội nước. Trung sĩ Bradley đã leo lên 1 xe chở đồ tiếp tế ngoài bãi biển rồi cứ thế rong ruổi đi tìm tiểu đoàn. Anh có rất nhiều nước uống, đồ ăn và đạn dược. Joe Muir tới bên Bradley bảo: "Được, tôi ko giận đâu nhưng cho tới mai thì cấm cậu ko được đi đâu hết". Với Bradley thì thế là tốt rồi. Dù là trung sĩ quân nhu nhưng anh vẫn muốn ra cùng đám lính trên tuyến đầu.
  5. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Đêm tới trên bãi chiến trường

    Trời vừa sập tối, đại đội Kilo, tiểu đoàn 3/3 gọi điện xin máy bay và pháo hạm dập xuống số ít quân địch đang vận động phía trước mặt họ tầm 200m. 1 phi vụ không kích đã gây ra vài tiếng nổ phụ.


    đại đội Mike, tiểu đoàn 3/7 lúc nửa đêm

    Trong đêm, đại tá Peatross đưa phần còn lại của tiểu đoàn 3/7 lên bờ. Lúc 18g thì đại đội India, tiểu đoàn 3/7 tới trung đoàn bộ và ở đó để tăng cường bảo vệ bộ chỉ huy. Trung tá Bodley cùng ban chỉ huy cũng tới sau đó 1 thời gian ngắn.

    Gần nửa đêm, đại đội Mike, tiểu đoàn 3/7 đi trên chiếc tàu chậm chạp USS Talladega cũng đã tới ngoài khơi bờ biển. Mặc dầu hầu hết giao tranh ngày hôm đó đã lắng xuống, những tiếng nổ và ánh chớp còn sót lại cũng khiến TQLC trên tàu mất tinh thần. Họ chen nhau ra đứng ở lan can bàn tán kiểu: "Ôi các cậu. Thật mừng vì ta ko phải tham gia vào mớ hỗn độn ấy." Mới được hưởng cảm giác làm khán giả có vài phút thì trung tá Bodley đã gọi cho đại đội trưởng của họ bảo chuẩn bị đổ bộ bằng xuồng lúc nửa đêm. Có tin đồn nói quân địch đang dùng thuyền nhỏ chuồn khỏi chiến trường nên phải có người ra chặn đường rút của họ. Thế là, lính đại đội Mike từ trên tàu Talladega phải leo lưới xuống y như trong phim để tiến hành đợt đổ bộ đường biển ban đêm đầu tiên trong cuộc chiến VN vì đêm ấy hạm trưởng ko muốn cho tiểu đỉnh đổ bộ LCVP xuống nước. Do hải đồ quá sơ sài, lại nghe sẽ phải đổ quân ở cái nơi bị "đạn từ khắp nơi bắn đến" nên ông ta nghĩ đi đỉnh lớn thì tốt hơn. Thế là toàn bộ đại đội với khoảng 200 mạng phải trèo lưới xuống mấy chiếc LCM để tiến vào bãi biển. Mấy chiếc LCM cũng ủi vào doi cát từng khiến ban chỉ huy tiểu đoàn 3/3 khổ sở và bị mắc cạn buổi sáng trước đó.

    Khi trung úy John Covert, trung đội trưởng nhảy qua thành chiếc LCM xem nước sâu chừng nào thì cả người anh chỉ trừ cái mũ sắt lập tức chìm mất. Covert phải cởi bỏ bớt trang bị mới ngoi lên nổi và được kéo khỏi mặt nước. Sau khi đến gần bờ hơn 1 chút thì mấy cái đỉnh cũng xoay xở hạ được tấm bửng xuống để cho đám TQLC lội vào.

    Lính đại đội Mike, tiểu đoàn 3/7 mới lên bờ được 1 đoạn ngắn thì tay trung sĩ tên là Tiger dẫm phải chỗ đất mềm khiến nó sụt xuống lộ ra 1 địa đạo có mà bộ đội đang tổ chức rút quân. Tiger cúi xuống tóm được 1 người tạo điều kiện cho đám TQLC mới đổ bộ được dịp tận mắt nhìn thấy 1 VC còn sống bằng xương bằng thịt.

    ***

    Với sự hiện diện của tiểu đoàn thứ 3, đại tá Peatross đã có thể hoàn thành kế hoạch hành động sẽ diễn ra ngày hôm sau. Ý niệm hành quân của vị trung đoàn trưởng về cơ bản vẫn như cũ: Siết chặt gọng kìm quanh lực lượng quân giải phóng và lùa họ ra phía biển. Dựa trên kết quả chiến đấu trong ngày đầu tiên, ông tiến hành điều chỉnh lại ranh giới các tiểu đoàn .

    ***

    đại đội Echo, tiểu đoàn 2/4 ở cách đại đội Hotel, tiểu đoàn 2/4 khoảng 3000m đã tổ chức phục kích sau khi trời tối và đã giết được 1 VC, qua những trang thiết bị mang theo người được lính Mỹ đoán là trinh sát súng cối. Ngoài 1 số phát đạn ko chính xác bắn về phía đại đội Echo, tình hình hầu như khá là yên tĩnh.


    Đoàn xe 21. Giao tranh vẫn tiếp tục

    Quân giải phóng đã tiến gần hơn tới đoàn xe tiếp tế nằm bất động. Tình thế đã trở nên bế tắc 1 cách tuyệt vọng. Trung sĩ Jack Marino cùng thành viên tổ lái dùng cả lựu đạn, súng lục, súng trường lẫn khẩu đại liên để chống trả. Công việc của các TQLC trở nên dễ dàng hơn do quân giải phóng hay có thói quen tụ lại thành từng toán có từ 10-15 người. Tuy nhiên bộ đội vẫn ko ngừng tiến đến.

    Tuy Marino thấy trong ruộng lúa hãy còn 4-5 TQLC nhưng anh ko biết trong họ có bao nhiêu người còn sống và có thể chiến đấu được. Anh vẫn còn 9 người còn trụ lại, nhưng hầu hết họ cũng đều đã bị thương. Trong những xe khác chỉ còn 1 chiếc là còn thấy 2 TQLC sống sót từ bên trong bắn ra. Số còn lại thì đều đã im lặng.

    Trận đánh thêm ác liệt. Marino ước tính 1 lực lượng quân giải phóng đông đến hàng trăm người đang áp sát đoàn xe. Cạnh xe của Marino có 1 xe bọc thép lội nước bị bỏ lại. 1 số bộ đội đang bám theo gờ cửa đổ quân để leo lên xe. Bóng 1 quân giải phóng hiện rõ mồn một. Khi người này đưa thứ gì đó cho 1 đồng đội xem thì trung sĩ Mulloy, từ vị trí của mình nơi ruộng lúa bắn cả 2 ngã xuống. Nghĩ lính trong 1 xe bọc thép khác còn sống, quân giải phóng đã bắn bồi thêm 1 quả B-40 nữa. Nhưng người duy nhất trong xe đó thì đã chết rồi. Xe của Marino trúng 1 phát đạn 57mm bắn thẳng khiến anh cùng mấy TQLC nữa bị thương. Nhiều người trong số đó đã bị thương đến 2-3 lần.

    Trong chiếc xe bọc thép có khẩu đại liên bị bắn hỏng từ đầu trận, 1 người trong số còn sống cố dùng súng trường bắn qua nắp cửa nhưng bị giết chết ngay. quân giải phóng cũng cố tung lựu đạn lọt qua nắp cửa đang mở trên xe của Marino. Khi định tới đóng cửa lại thì 1 loạt đạn khiến anh phải lùi lại. TQLC rốt cục cũng xoay sở đóng kín các cửa xe lại nhưng hơi nóng trong cũng xe lập tức tăng cao. Sau chừng 3 tiếng đồng hồ, lực lượng chính quân địch bỏ đi nhưng 1 toán chừng 50 người vẫn còn thấy trong đám cây gần đó lúc 1g sáng.
  6. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Trung sĩ Jack Marino cố liên lạc với trực thăng nhờ di tản thương binh nhưng vẫn chưa ai xác định được vị trí đoàn xe cả. Viên trung sĩ xin máy bay đến không kích nhưng 1 lần nữa các phi công đành bó tay vì Marino ko thể cung cấp được tọa độ của mình. Trung tá Lloyd Childers, phi đoàn trưởng phi đoàn trực thăng HMM-361 đã mấy lần bay sà ngang qua khu vực trước khi trời tối nhưng vẫn ko sao phát hiện được đoàn xe.

    Trung úy Dave Steel vẫn liên lạc suốt đêm với cậu TQLC đơn độc đang kêu cứu. Cậu này năn nỉ mãi ko thôi: "Tôi cần trợ giúp. Xin hãy đến cứu tôi." Steel đã bảo cậu ta lấy càng nhiếu thứ phủ lên người càng tốt, kể cả dùng xác đồng đội.

    Cậu lính khóc lóc trên điện đài cả đêm. Steel hỏi đại úy Dave Ramsey, sĩ quan hành quân tiểu đoàn 3/3 xem có cách gì đến chỗ cậu ta được ko? Ramsey thẳng thừng từ chối; đó là 1 quyết định khó khăn nhưng chẳng thể làm được gì đêm đó cả. Họ ko biết chắc vị trí của cậu ta và liệu quân giải phóng có rình sẵn ở đó hay ko? Họ cũng chẳng cách nào biết được còn ai khác nữa trong đoàn xe còn sống. Người TQLC đơn độc cảm thấy mình bị bỏ mặc. Quyết định ko đi tìm cậu ta là cái quyết định khó khăn nhất mà trung tá Muir và đại úy Ramsey từng thực hiện.





    Chương 12


    Ngày thứ nhì


    Đúng 7g30 sáng ngày 19 tháng 8 năm 1965, các đại đội Kilo và Lima, tiểu đoàn 3/3 tiến song song với nhau tấn công về phía đông bắc. đại đội Lima, tiểu đoàn 3/7 làm dự bị. Cùng lúc đó, các đại đội Echo và Golf của tiểu đoàn 2/4 cũng tiến về phía đông ra biển để bắt tay với tiểu đoàn 3/3. đại đội Hotel đã tả tơi của tiểu đoàn 2/4 cùng đại đội India, tiểu đoàn 3/3 rút về trung đoàn bộ cho các đại đội India và Mike, tiểu đoàn 3/7 tiến ra tìm đoàn xe tiếp tế và đi về hướng thôn An Thới 2 lập chốt chặn ngăn ko cho quân giải phóng rút về phía nam. đại đội Mike, tiểu đoàn 3/3 được lệnh tiếp tục ở nguyên vị trí chốt chặn trên mặt bắc.

    đại đội Lima, tiểu đoàn 3/7 hoàn tất chuyến càn quét ra bãi biển mà ko gặp phải sự cố đáng kể nào. Vài phát bắn tỉa lẻ tẻ vô hại là tất cả những gì các binh sĩ vấp phải. Khi quan sát thôn Vạn Tường 1 họ phát hiện 1 số quân giải phóng và liền gọi xin không kích. Khi trận oanh tạc khiến địch chạy tứ tán, trung đội 3 đã nổ súng bắn số quân đang đối phương chạy và hạ sát khoảng 19 người.


    Chuyến giải cứu

    Mãi tới khi trời ngày 19/8 sáng rõ thì vị trí chính xác của đoàn xe 21 mới được xác định. Trung úy Howie Schwend, sĩ quan điều không tiền tuyến của tiểu đoàn 3/3 đã yêu cầu tất cả các máy bay đang họa động trong vùng đi tìm và anh đã thành công.

    tiểu đoàn 3/7 TQLC đã tiến vào vùng hoạt động của mình, nơi diễn ra trận ác chiến hôm 18/8. Nó phát hiện rằng hầu hết quân giải phóng đều đã rút đi. Không gặp kháng cự gì khi đi ngang qua thôn An Cường 2, các TQLC bèn tới hội quân với đoàn xe tiếp tế.

    Sáng đó, khi cậu lính trẻ kêu cứu trên điện đài cả ngày lẫn đêm hôm trước được giải cứu. Cậu ta chạy ra khỏi chiếc xe bọc thép khóc rống lên vì chuyện bị bỏ rơi "Họ cứ để mặc tôi ở đó! Họ đã bỏ rơi tôi!". Mỉa mai thay dù rất cay chuyện ấy, anh ta vẫn chọn theo nghiệp TQLC.

    quân giải phóng đã gài lại 1 trái nổ chứa trong vỏ lon đồ hộp khẩu phần C trên cửa chiếc xe gần chỗ Marino. Nó bị công binh phát hiện và vô hiệu hóa. Hơn 60 xác đối phương được tìm thấy gần đoàn xe. Số tử sĩ còn lại hẳn đã được địch đưa đi hết.

    1 xe bọc thép ko còn cách nào sửa chữa được nữa nên được công binh phá nổ ngay tại chỗ. Đống sắt vụn ấy đến nay vẫn còn và người VN đã xây dựng tại đó 1 bia kỷ niệm. Trong số xe cơ giới còn lại chỉ 1 chiếc là còn có thể tự mình di chuyển, số kia phải nhờ xe dắt lên kéo về.

    Trung sĩ James Mulloy, người nấp trong ruộng lúa đã làm kỳ đà cản mũi nỗ lực diệt sạch đoàn xe của quân giải phóng suốt nhiều giờ. Anh đã gây cho đối phương nhiều tổn thất. Sáng hôm ấy, khi cứu binh tới nơi, anh vẫn còn lo sơ tán toàn bộ thương binh rồi mới nghĩ đến mình. James Mulloy đã được tặng thưởng huân chương chữ thập Hải quân vì thành tích anh dũng ấy.

    Trung sĩ Jack Marino, cũng được tặng thưởng huân chương Sao bạc vì đã chiến đấu dũng cảm, ước tính xe mình bị trúng tới 5 phát B-40 hoặc ĐKZ. Hơn 300 lỗ đạn cùng sức công phá đạn cối 82 ly gây nên đã khiến động cơ xe bị hỏng hoàn toàn.


    tiểu đoàn 3/7

    đại đội Lima, tiểu đoàn 3/7 tới vị trí chốt chặn lúc 15g. Binh sĩ của đơn vị đã bắt được ở các thôn Vạn Tường 3, Vạn Tường 4, 8 thanh niên trong lứa tuổi quân dịch, bàn giao cho sĩ quan tình báo để thẩm vấn.

    Các đại đội India và Mike của tiểu đoàn 3/7 tiến hành càn quét khu vực mà đại đội Hotel, tiểu đoàn 2/4 đã kịch chiến ngày hôm trước. Họ thấy 1 vài ba lô, mảnh vụn trang thiết bị nhưng chúng chẳng có mấy giá trị.
    vacbay03, huytop, bloodheartvn4 người khác thích bài này.
  7. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    tiểu đoàn 2/4 và tiểu đoàn 3/3

    Lực lượng chính của các tiểu đoàn 2/4 và tiểu đoàn 3/3 TQLC trên đường càn ra phía biễn đã chạm trán với những toán nhỏ quân giải phóng. Địa hình ở đây rất phức tạp: các thửa ruộng đều có hàng rào cây và bờ đất bao quanh gây trở ngại cho việc vận động cũng như quan sát. Số quân giải phóng ít ỏi còn lại thì đều chuyển xuống nấp dưới các địa đạo, hang hốc. Địch thường xuyên bắn tỉa phía sau lưng TQLC khi họ di chuyển qua khu vực này. Phá hủy các hang động, địa đạo là công việc nguy hiểm và tốn rất nhiều thời gian.

    đại đội Echo, tiểu đoàn 2/4 cùng ban chỉ huy tiểu đoàn cũng càn qua thôn Vạn Tường 1. Trung sĩ nhất Ed Garr nghĩ đây là 1 nơi hãi hùng nhất mình từng thấy. Ông hườm sẵn trong tay cả 2 khẩu súng lục, cố tránh xa mấy chú lính có cần ăng ten trên đường đi. Mục tiêu ưa thích của lính bắn tỉa địch chính là các điện đài viên cùng những người đi, đứng gần đó vì đa số họ đều là thành viên ban chỉ huy cả.

    Hàng rào cây, giậu tre quây kín buộc người ta phải đi theo những lối nhỏ hẹp, những nơi có điều kiện lý tưởng để gài mìn bẫy hoặc mai phục. TQLC phát hiện trong sân trường học có đến hàng ngàn chiếc chông tre chắc là do đám trẻ con vót trong giờ giải lao. 1 cụ già tới giúp lính Mỹ tiêu hủy chúng.

    Dù lúc này trời đã sáng bạch, ngôi làng vẫn có vẻ âm u, hắc ám dưới 2 tầng tán lá. Cũng như hầu hết các thôn trong vùng có thể thấy hầm được đào khắp nơi trong làng.

    Do thu được khá nhiều ba lô, dây điện thoại nên TQLC đoan chắc nơi đây chính là bộ chỉ huy của trung đoàn 1 quân giải phóng. Đó là điều chính xác. Cho rằng cần phải tìm hiểu kỹ hơn nữa các chỉ huy quân Mỹ gọi về trung đoàn bộ trung đoàn 7 TQLC đề nghị cho 1 đơn vị VNCH tới đây lục soát thật kỹ sau khi họ đi khỏi. Các đơn vị Mỹ đã ra tới bờ biển. Đến đêm thì sự kháng cự có tổ chức chấm dứt.


    Lạc lối

    Buchs và Rimpson, lính thuộc tiểu đội của hạ sĩ nhất Robert O’Malley đã ở trên tàu bệnh viện 1 đêm nhưng rồi lại cho rằng mình chỉ bị thương nhẹ và vẫn còn có thể quay lại chiến đấu cùng đơn vị. Đang lan truyền tin đồn, kiểu vẫn hay xuất hiện trong và sau các trận đánh lớn, là đại đội India, tiểu đoàn 3/3 đã bị xóa sổ.

    2 TQLC xin đi quá giang về kho vũ khí của tiểu đoàn ở Chu Lai, lĩnh súng mới rồi lại xoay sở quay lên tàu. Sau đó leo lên 1 xe bọc thép lội nước tiến vào bờ và về lại tiểu đoàn. Tới thời điểm này thì giao tranh đã lụi tắt. đại đội India được rút về bãi biển làm nhiệm vụ bảo vệ sở chỉ huy. 1 thời gian dài sau trận đánh, những binh sĩ khác vẫn còn thấy ngạc nhiên trước việc có 2 tay với đầy đủ lý do chính đáng để tránh xa chiến trường đầy nguy hiểm lại quyết định quay về. Dù rất ngưỡng mộ trước quyết định cuả họ, những người khác vẫn trêu chọc 2 người mãi ko thôi. Nhất là Rimpson, anh này đã được đặt cho cái biệt hiệu là " Rimpson lạc lối".


    Những thứ còn tồn tại

    Tướng Walt tiếp tục tiến hành chiến dịch Starlite thêm 5 ngày nữa với hy vọng lính mình sẽ tìm thấy thêm nhiều kẻ thù dưới các địa đạo, hang động. Các tiểu đoàn của Fisher và Muir rút quân ngày 20 tháng 8 để cho tiểu đoàn 1/7 TQLC của trung tá James Kelly vào khu vực hoạt động cùng với tiểu đoàn 3/7. Đến ngày thứ 3 của chiến dịch Starlite thì lính sư đoàn 2 VNCH cũng tới tham gia tiến hành tảo thanh, quét sạch số quân giải phóng nào vẫn còn hoạt động bên rìa bán đảo. Họ rải 3-4 tiểu đoàn dọc theo vùng bờ biển từ phía nam Chu Lai trở xuống để ngăn ko cho quân giải phóng rút về hướng đó. Cố gắng của phía VNCH chẳng đem lại mấy kết quả. Chuẩn tướng Hoàng Xuân Lãm, sư đoàn trưởng sư đoàn 2 đã làm việc với đại tá Peatross nhiều lần. Peatross tuyệt đối tin tưởng Lãm và ko sợ bị ông này làm rò rỉ thông tin. Lãm đã cùng 1 số sĩ quan tham mưu tới thăm Peatross và trung đoàn 7 TQLC trong thời gian diễn ra chiến dịch và sau 2 người càng cộng tác với nhau thêm khăng khít.

    ***

    quân giải phóng chính là những người chủ động rút. Đối phương ra đi từ đêm đầu tiên bằng cách luồn qua sát trận địa nghỉ đêm của đại đội Hotel, tiểu đoàn 2/4 rồi vượt qua 1 tiền đồn VNCH đã bị họ mua chuộc ở phía nam, lính đồn chỉ việc tảng lờ như ko thấy.

    Bộ đội tuyên bố mình dứt chiến từ cuối ngày thứ nhất vì "cả mình lẫn quân Mỹ đều mệt mỏi". Họ để lại phía sau 1 đại đội dưới quyền chỉ huy của Phan Tan Huan để giúp dân làng chăm sóc người bị thương và quấy rối quân Mỹ. Đụng độ giữa 2 phe diễn nói chung là nhẹ, thiệt hại của TQLC khá ít. Để trả giá cho nỗ lực này quân giải phóng đã phải hy sinh thêm khoảng 60 chiến sĩ nữa. Ko có TQLC nào bị giết trong những cuộc chạm súng này.

    quân giải phóng cho hay khi trận đánh nổ ra, họ đã định đưa 2 tiểu đoàn khác từ phía nam lên nhưng sau đã từ bỏ ý đồ này vì ngại nếu hành quân vào ban ngày sẽ bị tổn thất lớn vì hỏa lực Mỹ.

    ***

    Trận Vạn Tường đã kết thúc nhưng nó sẽ sống mãi trong ký ức binh chủng TQLC Hoa Kỳ.
  8. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Chương 13

    Những phản ứng


    Vào lúc những TQLC được cứu thoát về tới bộ chỉ huy trung đoàn 7 thì xuất hiện khoảng 25 phóng viên tới đưa tin về chiến dịch. Ký giả người New Zealand là Peter Arnett kéo cậu lính khóc lóc trên điện đài ra 1 góc để phỏng vấn những sự kiện diễn ra hôm trước. Thế rồi chẳng thèm cho ai biết, Arnett rời đi viết 1 bài báo nói rằng TQLC đã thua trận, thất bại trong việc cứu lính, các cấp chỉ huy ko nắm chắc tình hình chiến đấu ngày 18/8. Đại úy Richard Johnson, sĩ quan tham mưu thuộc phòng hành quân sư đoàn 3 TQLC lại kể 1 câu chuyện thứ nhì khác nhiều so với chuyện của Arnett. Anh làm thế theo yêu cầu của đại tá Don Wyckoff, sĩ quan phụ trách hành quân của Quân đoàn III thủy bộ sau khi có nhiều truy vấn do hậu quả bài báo của Arnette.

    Ngày 21 tháng 8, đại úy Johnson cùng 1 số sĩ quan khác đã vào Sài Gòn tường trình với tướng Westmoreland cùng bộ tham mưu. Sau đó họ được yêu cầu ra trả lời giới phóng viên tại trung tâm báo chí Sài Gòn. Tham gia phát ngôn cho binh chủng TQLC ngoài Johnson còn có thiếu tá Williamson, sĩ quan tình báo sư đoàn 3 TQLC; 1 tiểu đội trưởng thuộc đại đội Hotel, tiểu đoàn 2/4; 1 phi công lái máy bay F4; 1 sĩ quan quan sát đường không. Tất cả số này đều có tham gia vào chiến dịch. Buổi họp báo đang tiến triển tốt cho đến gần cuối thì Arnett giơ tay hỏi lý do khiến Johnson phản bác bài báo của anh ta.

    Johnson thuật lại mọi việc và nói rõ anh chỉ ở cách chiến trường có vài trăm mét trong khi Arnett thì ko.

    Arnett phản pháo bảo Johnson là tên nói dối rồi thách anh đến gặp mình ở văn phòng hãng thông tấn AP (Associated Press), nơi có tài liệu minh chứng. Do xuất hiện tranh cãi nên người đứng đầu trung tâm báo chí đã cho cuộc họp báo chấm dứt. Johnson cùng những người khác bị các phóng viên vây chặt xin phỏng vấn.

    Phải mất 15 phút đồng hồ Johnson mới phá được vòng vây để tới văn phòng hãng AP, nơi nó đang đóng cửa. Cũng thấy tăm hơi Arnett. Họ rất ngạc nhiên vì hầu hết các cơ quan báo chí đều mở cửa 24 giờ 1 ngày.

    Johnson ko bao giờ tái ngộ Arnett nữa nhưng người ký giả đã đạt giải Pulitzer lại nổi danh chính từ bài viết này trong khi tính xác thực theo TQLC thì vẫn còn phải tranh cãi.

    ***

    "TQLC dồn vào bẫy 2000 VC" là 1 trong số những tiêu đề được đưa lên trang nhất trên mặt báo cả nước Mỹ. Đó thực sự là quãng thời gian đầy hứa hẹn cho những cố gắng của Hoa Kỳ tại VN. Tổng thống Lyndon Johnson ngây ngất đến độ gửi điện cho các tướng Westmoreland và Walt trong đó có đoạn "Xin gửi lời cảm ơn chân thành và chúc mừng các đơn vị dưới quyền các anh vừa giành thắng lợi to lớn trước trung đoàn 1 VC tại Chu Lai. Đất nước rất tự hào về những người chiến sĩ của nó. Nhân dân ở quê nhà đã xác định sẽ tiếp tục quyết tâm, đoàn kết và ủng hộ họ."

    Và dân chúng đã làm đúng như thế được 1 thời gian. Phong trào phản chiến khi ấy còn chưa bắt đầu và đến tận cuộc tiến công Tết mậu thân năm 1968 mới lên đến đỉnh điểm. Sau những lạc quan của chiến dịch Starlite, bộ tham mưu Westmoreland, của chính quyền và Quốc hội đều mường tượng chỉ trong thời gian ngắn quân Mỹ sẽ phát hiện rồi tiêu diệt hoặc làm tan rã 1 số lượng lớn kẻ thù.

    TQLC đã vượt qua bài kiểm tra lớn đầu tiên của mình tại VN. Thêm vào đó họ đã kiểm nghiệm được lý thuyết kết hợp giữa trực thăng vận với đổ bộ đường biển trên chiến trường mà họ từng nghiên cứu suốt hơn 1 thập niên. Thành công của chiến dịch Starlite khiến họ thêm tin về khả năng hoạt động hiệu quả của mình chống lại kẻ địch trong "bất kỳ không gian và thời gian nào".

    ***

    Chỉ mấy tuần sau chiến dịch Starlite, TQLC lại tổ chức chiến dịch Piranha chống lại cái gọi là 'tàn quân' của trung đoàn 1 quân giải phóng diễn ra trên mũi Ba Làng An, cách chiến trường Vạn Tường khoảng 8 dặm về phía nam.

    1 lần nữa đại tá Peat Peatross cùng với đại tá hải quân William McKinney, lại là những người chỉ huy quân đổ bộ cũng như lực lượng tàu đổ bộ. Các tiểu đoàn 3/7 của trung tá Charles Bodley’s cùng với tiểu đoàn 3/3 của trung tá Joseph E. Muir là những đơn vị tham gia hành quân. Lần này có thêm sự tham gia của đồng minh VNCH nữa. Tiểu đoàn 2, trung đoàn 4 bộ binh và tiểu đoàn 3 TQLC VNCH đã đổ bộ bằng trực thăng ở khu vực phía nam chiến trường. So với chiến dịch Starlite thì kế hoạch lần này được lập xong ngay, cộng với việc thi hành cũng khá nhanh chóng tạo điều kiện cho cuộc hành quân được chuẩn bị kỹ hơn. Lần này khoảng thời gian giữa lúc lệnh cảnh báo được ban ra cho tới khi đổ bộ vào ngày 7 tháng 9 là 13 ngày.

    Thế nhưng so với lần trước thì chiến dịch Piranha lại có thành tích khá khiêm tốn. Lực lượng đồng minh tuyên bố giết chết 178 VC, thu được 20 súng. Phía đồng minh có 2 TQLC Mỹ và 5 lính VNCH tử trận.
  9. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Mức độ giao tranh thấp trong chiến dịch có thể do nhiều yếu tố. Trong thực tế, điểm khác biệt lớn nhất chỉ là TQLC có nhiều thời gian để lập kế hoạch cho chiến dịch Piranha hơn. Tuy thời gian lập kế hoạch dài ra sẽ làm chiến dịch sẽ vận hành trơn tru hơn nhưng cũng khiến tăng khả năng rò rỉ thông tin tình báo.

    Trong chiến dịch Starlite, chỉ có 2 vị tướng cấp cao của VNCH là được báo cho biết trước khi nó diễn ra. Nhưng do chiến dịch Pirhana mở rộng với sự tham gia của quân VNCH nên quá trình lập kế hoạch được khá nhiều người biết đến và chính điều này làm tăng khả năng thông tin bị rơi vào tay đối phương.

    Có lẽ lý do chính yếu nhất khiến kết quả bị như vậy là quân giải phóng đã phán đoán đúng khả năng TQLC Mỹ sẽ lại triển khai đổ bộ đường biển theo đúng chiến dịch Starlite. Trong suốt cuộc chiến tranh quân giải phóng ko bao giờ cho phép các đơn vị của mình nấn ná ở vùng duyên hải thêm lần nào nữa. Nếu buộc phải thực thi 1 nhiệm vụ ở gần bờ biển thì họ sẽ tới tiến hành rồi lại rút sâu ngay vào trong đất liền. Dù quân giải phóng đã phát triển kỹ năng phòng không khá tốt tuy nhiên các loại vũ khí họ dùng trong chiến tranh lại chẳng có loại nào chuyên dùng để khắc chế đổ bộ đường biển cả.

    Phải mất khá lâu quân Mỹ mới thấy kính phục khả năng phục hồi nhanh chóng của quân giải phóng. Sau khi chiến dịch Starlite kết thúc, quân đồng minh đã ko còn coi trung đoàn 1 quân giải phóng là 1 lực lượng chiến đấu nữa. Vậy mà chỉ 4 tháng sau, nhiều tiểu đoàn TQLC Mỹ trong đó có cả tiểu đoàn 3/3 lại tái ngộ với trung đoàn này, với đầy đủ sức mạnh, trong chiến dịch Harvest Moon diễn ra gần Chu Lai. Phía Mỹ rất hoang mang trước khả năng tự hồi phục của trung đoàn 1. TQLC Mỹ đã ko biết rằng trong chiến dịch Starlite họ chỉ mới giao chiến với 1 nửa trung đoàn này. Cũng chẳng ai hiểu được rằng trung đoàn 1 có thể bổ sung thiệt hại bằng những tân binh lấy từ các đơn vị bộ đội và du kích địa phương. Tuy bị tổn thất nặng nhiều lần, trung đoàn Ba Gia vẫn tồn tại suốt cuộc chiến. Trong những năm ấy đơn vị đã có hàng nghìn chiến sĩ hy sinh nhưng họ vẫn luôn hồi phục 1 cách nhanh chóng. Vào đầu năm 1966, nó trở thành 1 bộ phận của sư đoàn 2 QĐND VN, hoạt động quanh quẩn trong địa bàn quen thuộc của mình là tỉnh Quảng Ngãi và thung lũng Quế Sơn ở phía bắc. Vào tháng 9 năm 1967, sau khi kết thúc chiến dịch Swift, tình báo đồng minh lại đánh giá trung đoàn 1 quân giải phóng ko còn 'khả năng tác chiến' nữa. Thế nhưng trung đoàn 1 vẫn tiếp tục tiến hành hàng loạt trận đánh mạnh mẽ với các đơn vị TQLC và Lục quân Mỹ và tiếp theo đó là các đơn vị VNCH sau khi quân Mỹ rút đi.

    ***

    Tuy vậy, trong hàng ngũ đồng minh ko phải ai cũng tỏ ra vui mừng sau chiến dịch Starlite. Các sĩ quan trong Bộ tổng tham mưu quân lực VNCH trách cứ Westmoreland về việc đã ko cho các đơn vị VN tham gia chiến dịch. Walt sau đó phải phân trần rằng tướng Lãm và tướng Thi đều có biết về chiến dịch và đã đồng ý với chủ trương giữ bí mật của ông ta.

    ***

    Quân giải phóng cũng tuyên bố chiến thắng Vạn Tường. Theo đó trung đoàn 1 đã chứng minh được cách đánh thắng giặc Mỹ và đơn vị được tặng thưởng huân chương Giải phóng hạng nhất cùng lá cờ thi đua với hàng chữ "Anh dũng, kiên cường, đánh giỏi, diệt gọn". Sau chiến tranh, chính phủ VN đã nhà lưu niệm chỗ những xe tăng, xe bọc thép bị phá hủy trong trận Vạn Tường. Tấm bảng ghi bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt cho khách tham quan biết rằng đây chỉ là 2 trong số nhiều xe cơ giới bị các chiến sĩ giải phóng tiêu diệt.

    ***

    Trận Vạn Tường là 1 bước ngoặt cho cả 2 phía. Mỹ tiếp tục đổ nhân lực, vật lực vào VN với niềm tin chiến dịch Starlite sẽ xoay chuyển thế cục của VN. Trớ trêu thay, chiến thắng Starlite của TQLC lại củng cố quan niệm của tướng Westmoreland khi cho rằng chìa khóa thành công tại VN là tìm đánh các đơn vị chủ lực địch. Niềm tin này đã gạt phương châm bình định của TQLC của TQLC xuống hàng thứ yếu.

    Về phần mình, quân giải phóng đã nhận ra "chiến tranh đặc biệt" cùng những triển vọng giành thắng lợi nhanh chóng nay đã không còn. Họ sẽ phải chuẩn bị trường kỳ kháng chiến. Và quân giải phóng đã phải mất đến 10 năm mới hoàn tất được mục tiêu của mình. Các cựu chiến binh VN đã kể với tác giả rằng trước trận Vạn Tường họ rất ngán khả năng cơ động và hỏa lực của quân Mỹ, chẳng biết làm thế nào để đối phó với chúng cả. Tuy nhiên, qua trận đánh họ đã học được cách thích nghi trong chiến đấu với quân Mỹ như đã từng làm được thời đánh Pháp.
  10. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Chương 14

    Món nợ máu


    Chiến dịch Starlite được loan báo trong khắp các đơn vị quân Mỹ và đồng minh như 1 thắng lợi lớn. Cái chết của 54 lính Mỹ dường như là cái giá hợp lý để đổi lấy 600 mạng quân thù. (1 nguồn khác của Mỹ cho hay TQLC tử trận 45, tử thương 5, chết vì lý do phi chiến đấu 2, bị thương 222. Tài liệu của ta công bố quân giải phóng sau 1 ngày chiến đấu đã loại khỏi vòng chiến đấu 919 tên địch. ND) Chiến dịch đã cho thấy những quân giải phóng khôn ngoan, mưu trí có thể bị hỏa lực và sức cơ động Mỹ đánh bại. Đã có những dự đoán đầy lạc quan cho rằng lính Mỹ sẽ sớm được về nhà. Rất ít người quan tâm đến việc có những sĩ quan TQLC mặc lễ phục xanh dương đi cùng các cha tuyên úy Hải quân sẽ phải bắt đầu cuộc hành trình đầy khó khăn qua các thành phố, thị trấn toàn trên 26 bang của nước Mỹ tới gặp 54 gia đình để báo cho họ biết việc cha, chồng, con, em mình đã hy sinh anh dũng vì tổ quốc. Cùng với nỗi đau thương mất mát đem lại cho gia đình, 54 cái tên kia sẽ được ghi thêm vào cuốn 'sổ nợ'. Món 'nợ máu' của nước Mỹ đối với đồng bào mình kể từ thời điểm này sẽ bắt đầu tăng vọt. Chiến dịch Starlite chỉ là điểm khởi đầu của 1 dòng chảy ồ ạt - dòng tử thi lính Mỹ trở về từ VN, tuy rất ít người ở cả 2 đất nước này nhận thấy.

    Chưa đầy 3 tháng sau đó, Lục quân Mỹ đã tiến vào 1 khu vực khủng khiếp có tên là thung lũng Ia Drăng và đánh cho lực lượng bộ đội Bắc Việt đóng tại đây tổn thất nặng. Tuy nhiên 'món nợ máu' thì cũng tăng vọt với gần 300 cái tên, đem lại sự khổ đau cho hơn 300 gia đình. Toàn bộ 'món nợ' được bắt đầu từ thiếu tá Buis và thượng sĩ Ovnand giờ đã là 2057 mạng người.

    Đến cuối năm 1956 thì con số trên là 2385.

    Việc rút quân khỏi VN, vốn có thể thực hiện vài tháng trước mà ko gây ra nhiều tranh cãi, nay đã trở thành 1 lựa chọn ko thể nào chấp nhận được đối với chính quyền Johnson. Tổng thống biết nói sao với dân chúng đây khi đã phung phí hơn 2000 sinh mạng người Mỹ mà chẳng đem lại cái gì cả?

    Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara, người luôn lạc quan trước các số liệu, giờ cũng tỏ ra hoài nghi trước cái viễn cảnh Hoa Kỳ sẽ chiến thắng cuộc chiến trong "sớm nhất là cuối năm 1965 và muộn nhất là đầu năm 1966". Thế nhưng ông ta lại hầu như để mặc cho tướng Westmoreland thực hiện cái chiến lược 'tìm - diệt' đẫm máu mà coi nhẹ công tác bình định cùng việc gây áp lực để chính quyền VNCH thật tâm cải cách.

    Quân Mỹ sẽ có thêm nhiều 'chiến thắng' kiểu chiến dịch Starlite nữa nhưng đó là theo cách định lượng 'đếm xác' đầy tai tiếng chứ chẳng phải là cách thức chiến thắng theo đúng chuẩn dân chủ phương tây.

    Tướng Westmoreland hứa hẹn cuộc chiến sớm muộn cũng sẽ bước đến "điểm giao nhau", là lúc những tổn thất mà Mỹ gây ra cho phía Cộng sản 1 ngày nào đó sẽ vượt quá khả năng tái bổ sung của họ. Theo ông tướng này biện bạch thì tới điểm ấy lực lượng đối phương sẽ nhanh chóng suy giảm khi phải tiếp tục đối mặt với những thắng lợi của phía Mỹ và VNCH. Các chứng minh đã cho thấy điểm giao nhau chỉ là điều không tưởng; chẳng cách gì đạt được điều đó vì những chiến lược gia Hoa Kỳ đã ko hiểu được quyết tâm đánh đuổi ngoại xâm khỏi đất nước của người Việt. Khá lâu sau khi cuộc chiến kết thúc, có người Mỹ còn há mồm kêu với tướng Giáp rằng "thưa Đại tướng, ông đã phải trả giá cho cuộc chiến này hơn 1 triệu quân". Thế mà vị đại tướng chỉ đáp lại rất giản dị "Đúng".

    Trong 10 năm tới, Mỹ sẽ phải trả giá thêm 56.000 sinh mạng nữa cho 1 chính sách thất bại. Giống như những con bạc khát nước, sau khi đã mất hết tiền bạc, lại tiếp tục vay mượn, cầm cố xe cộ, nhà xưởng rồi đi chôm chỉa nhằm hy vọng vận may sẽ về lại với mình, các chính quyền Johnson và Nixon cũng lún sâu vào món nợ máu với hy vọng đảo ngược lại vận mệnh.

    2 tháng trước khi diễn ra chiến dịch Starlite và việc tăng 1 số lượng lớn quân sang VN tham chiến, Lyndon Johnson còn bày tỏ với 1 tâm phúc sự hoài nghi về khả năng giành chiến thắng của Mỹ. Ông nói với thượng nghị sĩ Birch Bayh như sau về kẻ thù: "Địch mong ta sẽ mệt mỏi và tôi cũng tin là chúng sẽ bền sức hơn ta". Người Mỹ có khả năng chịu đựng đau thương, mất mát nhưng chỉ trong những thời điểm nhất định. Khi số gia đình phải nỗi đau thương lên tới 10.000, rồi sau là 15.000 thì những cuộc biểu tình phản chiến công khai bắt đầu diễn ra dữ dội và ngày càng tăng thêm. Đến khi số nợ máu đạt mức 30.000 sinh mạng thì sự chống đối trong dân chúng đã lan ra rộng khắp, những người ủng hộ chiến tranh giảm mạnh. Nước Mỹ đã đến 'điểm giao nhau' trước. Đây là 1 thắng lợi tuyệt vời của những người Cộng sản. Rõ ràng trong trường hợp chúng ta, đây ko phải là việc bị mất nhiều quân vượt quá khả năng bổ sung mà là tổn thất đã diễn ra nhanh hơn sự sẵn sàng bù đắp của nước Mỹ. Người dân Mỹ cũng đã chịu hết nổi như công chúng Pháp khi trước.
    vacbay03, gaume1, bloodheartvn6 người khác thích bài này.

Chia sẻ trang này