1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

TRẬN ĐẦU. Chiến dịch Starlite - trận Vạn Tường, bắt đầu món nợ máu của Mỹ tại Việt Nam

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ngthi96, 04/01/2016.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Giống như mọi người Việt, cả Diệm lẫn ***** đều mong muốn đất nước rồi sẽ thống nhất nhưng họ cũng quyết tâm điều này chỉ xảy ra dưới chế độ mình. Cả 2 bên bắt đầu tìm cách làm suy yếu chính quyền đối địch. Người Mỹ, từng chiến đấu chống phe Cộng sản ở Triều Tiên và lún sâu vào chiến tranh Lạnh, đã ko lãng phí thời gian để củng cố chính quyền phi Cộng sản dưới quyền tổng thống Ngô Đình Diệm ở nửa phía nam đất nước. Diệm vừa được dạy dỗ theo nền Công giáo tây phương vừa là thành viên tầng lớp thượng lưu đã cai trị 1 đất nước với đại đa số dân chúng có tín ngưỡng thờ ông bà hay Phật giáo và chủ yếu sống bằng nghề nông. Với Mỹ thời điểm đó thì việc ủng hộ Diệm có vẻ dễ dàng, ko tốn xương máu lại giúp ngăn chặn được chủ nghĩa Cộng sản tiến xuống vùng Đông Nam Á.

    Nhưng Diệm cùng gia đình mình lại chỉ chú trọng vào việc tham nhũng, duy trì quyền lực riêng nhiều hơn việc hướng đất nước đến nền dân chủ. Tháng 11 năm 1963, tình trạng bất ổn trong dân chúng đã khiến chính quyền Diệm chao đảo; nguy cơ quân du kích VC, những người muốn giải phóng miền nam khỏi tay Diệm, chiếm được đất nước đang đến gần. 1 cuộc đảo chính do lực lượng Thủy quân lục chiến VN tiến hành, dưới sự bật đèn xanh của Mỹ đã lật đổ Diệm. Vài tiếng đồng hồ sau, ông ta cùng người em trai đáng ghét đã bị những người âm mưu đảo chính sát hại. Sau đó đến 1 giai đoạn diễn ra liên tiếp các cuộc đảo chính và phản đảo chính. Những nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ, vẫn ảo tưởng vào việc chống lại Cộng sản ở châu Á với cái giá rẻ mạt, tự thuyết phục mình ủng hộ hết ông tướng này đến ông tướng khác leo lên bánh xe quyền lực, cho lên đến đỉnh rồi lại rơi tõm xuống đất và cứ thế, cuộc tranh giành quyền lực lại được tiếp tục. Từ tháng 11 năm 1963 cho đến tháng 2 năm 1965, ở nam VN đã thay đến 9 chính phủ khác nhau.

    Việc các chính phủ thay đổi như chong chóng đã khiến miền nam trở nên hỗn loạn mở đường cho quân giải phóng gia tăng hoạt động và cũng khiến chính quyền Sài Gòn ko thể làm việc hiệu quả. Với sự mong manh của đồng minh, cùng việc bất lực trong việc kiểm soát những sự kiện xảy ra tại nam VN, Hoa Kỳ bắt đầu thay họ tiến hành chống lại miền Bắc.

    Tháng 2 năm 1964, Hoa Kỳ và nam VN phát động kế hoạch 34A, 1 loạt các biện pháp bí mật chống Bắc VN, bao gồm các cuộc tập kích phá hoại nhằm vào các căn cứ quân sự dọc bờ biển. Dù trong thực tế phía VNCH tiến hành các cuộc tấn công này, nhưng việc lập kế hoạch cũng như hỗ trợ là của Mỹ. Hải quân Mỹ cũng đang thực hiệm chiến dịch DeSoto, tuần tra trên vùng biển vịnh Bắc bộ. Tư tưởng chủ đạo lúc này là nếu Mỹ cùng nam VN dằn mặt miền Bắc thì phe Cộng sản sẽ phải ngừng các hoạt động của mình ở miền Nam. Cái ý niệm ngây thơ này lại tồn tại rất nhiều năm dù chẳng có bằng chứng gì cho thấy Bắc Việt và VC sẽ chịu thua trước những sức ép đó. Mỹ đang tìm 1 cái cớ để có thể leo thang và cái gọi là 'sự kiện vịnh Bắc bộ' tháng 8 năm 1964 được họ tận dụng.

    Mỹ kiên trì hỗ trợ cho quân đội nam VN, đầu tiên là trang thiết bị, sau đó là cố vấn và thêm nhiều khí tài nữa. Tổn thất đầu tiên của Mỹ tại VN là cái chết của thiếu tá Dale Buis cùng thượng sĩ Chester Ovnand ngày 8 tháng 7 năm 1959. 2 nhân viên tình báo đặc biệt của Không lực Mỹ này đang ngồi xem phim thì 1 VC đã ném chất nổ vào trong căn phòng mà họ đang thư dãn. Trong 6 năm tiếp đó, 'hóa đơn hàng thịt' từ từ dài dần ra và rồi hầu như khó nhận thấy nó đã bắt đầu tăng tốc. Từ 1-2 trường hợp đầu tiên, dòng chảy các túi đựng xác xuất phát từ Đông Nam Á cứ thế tăng dần về số lượng.

    Năm 1962, tướng Paul D. Harkins bắt đầu đảm nhiệm vai trò tư lệnh bộ chỉ huy viện trợ quân sự Hoa Kỳ tại VN (COMUSMACV). Harkins có cung cách của 1 vị tướng chiến thắng, ông ta luôn tỏ ra lạc quan thái quá về tiến triển của cuộc chiến. Những người phải rời Sài Gòn đi hành quân dã ngoại thì chẳng hề cùng suy nghĩ với ông ấy. Trong số những người ra chiến trường ngày ấy có cả các thành viên của 1 thế hệ nhà báo Mỹ mới, những người đã hạ quyết tâm tường thuật mọi điều mình chứng kiến. Những phóng viên trong số họ như Homer Bigart, Neal Sheehan, và David Halberstam...đã trở nên nổi tiếng vì những điều họ cảm nhận thực sự về tiến trình cuộc chiến cũng như sự yếu kém của quân đội VNCH. Vào lúc này, đã có rất nhiều sĩ quan cấp thấp của Mỹ, những người ra trận để cố vấn cho quân VNCH, lên tiếng cảnh báo về thảm họa sắp xảy ra do sự thiếu năng lực của chính quyền, đặc biệt là của đội ngũ sĩ quan nam VN. Dần dà chính quyền Johnson cũng đã nhận thức được có những thiếu sót ở Việt Nam, và cũng chính vì thế, tướng Harkins được lặng lẽ cho về vườn để thay bằng tướng William C. Westmoreland của lục quân Hoa Kỳ.

    Trong cuốn tiểu sử tướng Harold K. Johnson, tham mưu trưởng Lục quân Hoa kỳ giai đoàn 1964-1968, Lewis Sorley có đề cập đến vài nhận xét khá thú vị đối với việc bổ nhiệm Westmoreland. Sorley cho biết các tướng Johnson, Creighton Abrams (người sau này kế nhiệm Westmoreland) cùng Bruce Palmer (người thay Johnson giữ chức phó tham mưu trưởng Lục quân, phụ trách về hành quân) đều hiểu rõ chìa khóa chống nổi dậy là phải thu phục được nhân tâm. Thế mà theo Sorley, Westmoreland lại chẳng hề biết điều này. Do hậu quả của việc đào tạo mà tư tưởng của ông ta, gắn liền với việc sử dụng chiến tranh qui ước với Hồng quân LX trên bình nguyên nước Đức. Tên của cả 4 vị tướng đều được trình lên cho tổng thống Lyndon Johnson để ông ta chọn ra 1 người đảm nhiệm vị trí thay cho Harkins đã bị mất uy tín. Westmoreland được tướng Maxwell Taylor, khi ấy là đại sứ Mỹ tại VN ủng hộ nhiệt tình và Sorely tin rằng chính ảnh hưởng của Taylor đã khiến Westmoreland được bổ nhiệm làm tư lệnh MACV.
    Khucthuydu2, vacbay03, thanhVNW5 người khác thích bài này.
  2. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    Bác Ngthi ơi !!!khi post lên -Những chữ nào mà nó hiện chấm thì bác sửa lại-Ngăn chữ đó bằng cái vạch là Ok đấy....
    vacbay03ngthi96 thích bài này.
  3. vacbay03

    vacbay03 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/08/2007
    Bài viết:
    329
    Đã được thích:
    859
    Bác Huytop lo số hoá cuốn của Bác đi nha, sốt ruột quá :)
  4. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    Chữ nó cũ quá - đang khắc phục - Đã thế phải chuyển từ giọng văn Tàu sang giọng văn Tây phương - Thế mới mất thời gian - Nhiều lúc phải đánh máy lại hai trang liền.....
    OnlySilverMoonvacbay03 thích bài này.
  5. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Sau khi đã chọn; Tham mưu trưởng, bộ trưởng bộ Quốc phòng cùng Tham mưu trưởng Liên quân đã giao cho Westmoreland toàn quyền tiến hành chiến tranh trong 4 năm sau đấy. Đó là giai đoạn mà cuộc chiến phát triển từ chỗ chống lại quân du kích mặc áo bà ba đến chỗ phải đánh nhau với 1 đối thủ chính qui, được trang bị tốt, được coi là 1 trong số những lực lượng bộ binh giỏi nhất thế giới, tức bộ đội chính qui Bắc Việt. Cũng cần lưu ý rằng bộ đội Bắc Việt là 1 đạo quân coi trọng lối đánh du kích: Nó ko chiến đấu kiểu qui ước mà hoạt động theo kiểu chiến tranh nhân dân.

    Nhiệm kỳ của Westmoreland cũng chính là thời kỳ cuộc chiến đánh mất đi cảm tình, hay ít ra cũng được công chúng chấp nhận, dẫn đến sự tiêu vong của 1 đời tổng thống Mỹ.

    Chẳng biết vị tư lệnh mới của Mỹ tại VN có đáp ứng được nhu cầu tác chiến trong 1 cuộc chiến tranh nhân dân hay ko nhưng đối thủ của ông ta, những người Cộng sản VN thì lại hiểu rất rõ. Người dân đất nước họ đã phải chiến đấu với quân xâm lược trong suốt nhiều thế kỷ.


    Đối thủ

    Douglas Pike, 1 học giả nổi tiếng về Đông Dương đã gọi người Việt là "dân Phổ của châu Á". "Vô số những cuộc chiến tranh đã xảy ra trong suốt lịch sử VN. Kinh nghiệm phong phú của người Việt suốt 2000 năm qua là 1 chuỗi luẩn quẩn giữa xâm lược, phong tỏa, chiếm đóng, nổi dậy - xen lẫn với những khoảnh khắc bị chia rẽ, đấu tranh bí mật.... Về mặt tinh thần, thì người Việt lúc nào cũng phải ở trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu."

    Người Việt đã phải vật lộn chống lại sự xâm lăng ngoại bang trong hầu hết chiều dài lịch sử của mình. 1 nền văn minh độc nhất vô nhị, thịnh vượng do Triệu Đà sáng lập đã từng tồn tại với tên nước Nam Việt suốt mấy trăm năm cho đến năm 111 trước công nguyên, thì bị vương triều nhà Hán cử quân về phía nam tới chinh phục. (ở đây tác giả nhầm. Triệu Đà là kẻ xâm lược mới đúng. ND) Người Việt đã phải đấu tranh suốt 1000 năm dể thoát khỏi ách thống trị của Trung Quốc. Trong 1000 năm đó, rất nhiều người yêu nước đã trở thành anh hùng dân tộc, danh nhân được thờ phụng trong đền miếu khắp nước Việt. Mọi học trò người Việt đều biết đến tên tuổi của họ. Thế kỷ thứ 1 có chị em Hai bà Trưng. Họ đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy chống lại triều đình nhà Hán. Tuy cuộc nổi dậy đã bị đè bẹp, nghiền nát vào năm 43 sau công nguyên nhưng nó cũng đã chống lại được thế lực quân sự ghê gớm nhất châu Á khi ấy những 3 năm trời. Đến thế kỷ thứ 6 thì Lý Bí đã giành được 1 phần đất đai từ tay Trung Quốc, tự xưng vương và cai trị đất nước được 6 năm. Trong các thế kỷ thứ 7, 8 và 9 những cuộc nổi dậy của người Việt đã khiến biên giới phía nam nhà Đường rung chuyển. Cuối cùng, vào thế kỷ thứ 10, sau 1000 năm bị ngoại bang đô hộ, Ngô Quyền đã nhận chìm hạm đội Trung Quốc trong trận Bạch Đằng giang và giải phóng người Việt. Ba trăm năm sau đó, người Việt 2 lần đánh bại quân Mông Cổ, đạo quân từng chinh phục khắp lục địa Á - Âu từ bờ biển Thái Bình Dương đến tận miền trung nước Nga. Trần Hưng Đạo, người đã giành chiến thắng trong cuộc chiến kéo dài 12 năm chống lại những kỵ binh can đảm nhất, được coi là thủy tổ loại hình tác chiến mà con cháu ông sẽ áp dụng khi tiến hành kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông vừa bảo toàn lực lượng vừa khoét sâu vào điểm yếu của đối phương. Ông luôn tìm sự hỗ trợ của người dân. Trần Hưng Đạo ko cố giữ đất mà sẵn sàng bỏ lại các làng mạc hay thậm chí cả kinh thành nếu cần. Nếu thấy địch quá mạnh ông sẽ tránh giao chiến mà chỉ sử dụng du kích quấy rối, rồi tập kích bất cứ lúc nào thấy có lợi. "Địch cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản chế trường là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tuỳ thời tạo thế, có được một đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy."

    Đến thế kỷ 15, Lê Lợi lại 1 lần nữa đánh lui quân Trung Quốc sau 20 năm bị chúng xâm lăng, cai trị bóc lột. Hầu như giờ đây mọi thành phố ở VN đều có đường phố mang tên Lê Lợi hoặc tượng đài của ông.

    Sang thế kỷ 19, người Việt lại phải chống lại 1 kẻ xâm lăng mà họ phải mất gần 100 năm mới đánh đuổi được. Lần này chính là người Pháp. Tên xâm lược này đã chiếm Đà Nẵng năm 1858 rồi vây hãm Sài Gòn vào năm sau. Sau khi bị đẩy lui nhanh chóng, 2 năm sau Pháp trở lại Sài Gòn và đóng ở đó luôn. Đến năm 1883 thì Pháp đã kiểm soát toàn bộ VN. Năm 1887, họ sát nhập Đông Dương vào liên hiệp Pháp. Tới năm 1893 thì khu vực này đã gồm 5 vùng của Đông Nam Á. Ngoài 3 phần của VN là Bắc Kỳ, Trung Kỳ với Nam Kỳ ra, khối liên hiệp này còn bao cả các nước lân cận là Campuchia và Lào.

    Chính quyền Pháp cai trị đất nước này cực kỳ hà khắc. Archimedes Patti, sĩ quan OSS Mỹ từng phục vụ ở VN hồi chiến tranh TG 2 đã tổng kết rằng: " Tôi khẳng định trong báo cáo của mình rằng, chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương là ví dụ tồi tệ nhất của việc lạm dụng, vi phạm nhân quyền, tham tàn diễn ra trong suốt 3/4 thế kỷ. Người VN đã bị bóc lột, ngược đãi 1 cách tàn nhẫn; bị chủ Pháp sử dụng như đồ vật trong nhà...Chính điều kiện kinh tế, xã hội tệ hại do chế độ thuộc địa của Pháp tạo ra là mầm mống cho sự bất mãn, nổi loạn..."

    Do cách hành xử của người Pháp mà bất mãn, nổi loạn ngày càng nhiều thêm và ngày càng chở nên mạnh hơn. "Xứ Đông Dương thuộc Pháp" được ấn định là tên chính thức của đất nước, cái tên VN vẫn thường sử dụng bị qui cho là cách mạng và bị cấm tiệt.
    hasinhat, Khucthuydu2, vacbay035 người khác thích bài này.
  6. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Sưu thuế quá cao khiến nông dân bị bần cùng hóa dẫn đến việc đất đai ngày càng tập trung vào tay 1 số ít người. Chẳng bao lâu sau, 50% ruộng đất đã thuộc quyền sở hữu của 2% dân số và tá điền phải trả tô đến 70% hoa lợi cho địa chủ. Người Pháp duy trì sự độc quyền trong sản xuất rượu, thuốc phiện và muối. Họ nhập khẩu cây cao su, phát triển thành 1 ngành công nghiệp mới giành cho 1 số ít người ngoại quốc nắm giữ.

    Người Pháp bãi bỏ hệ thống quan lại cũ rồi thay bằng chính quyền riêng của mình. Người Việt chỉ leo được vào các vị trí công chức cấp thấp một khi họ là tín đồ Công giáo La Mã nói tiếng Pháp. Những người bản xứ bước chân vào được chính quyền dân sự thì cũng chỉ nhận được đồng lương ít ỏi, khả năng thăng tiến rất hạn chế. Ngay cả những người Pháp cấp thấp nhất cũng được trả lương cao hơn người Việt gấp 6 lần. Thêm vào đó, VN đã trở thành 1 'bãi rác' cho những người Pháp khao khát hành nghề dân sự nhưng lại ko kiếm nổi việc ở quê nhà. Số lượng người Pháp dùng để cai quản 30 triệu dân Việt còn nhiều hơn số lượng người Anh sử dụng để thống trị 325 triệu người Ấn. Tiền chi trả cho cái cấu trúc thượng tầng đồ sộ này hầu hết đều đến từ sưu cao, thuế nặng giáng xuống đầu người Việt.

    Những người dân tộc chủ nghĩa đã nổi dậy chống Pháp; nhiều người trong số họ đã bị trừng phạt rất tàn khốc như xử tử hoặc lưu đày khổ sai. Pháp lê máy chém đi khắp nơi để đối phó với những người chống đối. Nhà tù Hỏa Lò, sau trở nên nổi tiếng trong chiến tranh với cái tên "Hanoi Hilton" cũng do Pháp xây dựng để bỏ tù những người Việt ương bướng.

    Năm 1890, 1 nhà cách mạng tương lai đã được sinh thành trong gia đình họ Nguyễn ở tỉnh Nghệ An. Người đó được đặt tên là Nguyễn Sinh Cung, người được cả thế giới biết đến bởi bí danh Hồ Chí Minh sau này. Ông thân sinh của cụ-Hồ tuy xuất thân trong 1 gia đình nông dân nhưng lại được ăn học đến nơi đến chốn. Với học thức của mình, ông đã đạt được 1 chức quan nhỏ trong cái triều đình bù nhìn do Pháp điều khiển và từ vị trí này ông được tiếp xúc với những bằng chứng trực tiếp của sự thống trị ngoại bang. Chính những trải nghiệm này đã nuôi dưỡng xu hướng chống Pháp trong ông và được ông truyền lại cho các con của mình. Người con gái, bị bắt và phạt tù chung thân vì tội tuồn vũ khí cho quân phiến loạn. Người con trai cả trở thành 1 nhà văn yêu nước đã viết đơn kiến nghị cho nhà cầm quyền Pháp, phản đối điều kiện sống của đồng bào mình và đòi độc lập.

    Lịch sử Đảng Cộng sản VN cho ta biết người con trai út, sau này trở thành Hồ-Chí-Minh, đã bắt đầu sự nghiệp cách mạng khi mới 5 tuổi, với nhiệm vụ làm liên lạc giữa các nhóm nổi dậy chống Pháp. Cậu bé thông minh sáng dạ lắng nghe chăm chú những mẩu chuyện về các vị anh hùng đã giành độc lập cho nước Việt. Sau đó anh trở thành nhà giáo và tham gia dạy học 1 thời gian. Năm 22 tuổi anh lên tàu khách của Pháp rồi cập bến New York và sau đó là Paris, nơi có 1 cộng đồng người Việt sống tha hương đông đúc, cái nôi của cách mạng. Tuy nhìn có vẻ mảnh khảnh nhưng chàng trai Hồ Chí Minh lại là người rất thông tuệ và có sức lôi cuốn quần chúng. Anh đắm mình vào những ưu điểm của Chủ nghĩa xã hội và sau đó là những lời dạy của Lê Nin. Tiểu sử đầy cảm động của bác cho biết người có đủ cả 6 đức của Nho giáo là Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, liêm chính chí công vô tư. Người có khả năng lôi cuốn sự trung thành trong nháy mắt và tiếp tục ở nước ngoài thêm 30 năm nữa. Trong lúc người vắng mặt, những cuộc nổi dậy ở quê nhà vẫn tiếp tục xảy ra.

    Năm 1930, xảy ra 1 sự kiện lớn tác động đến nhân dân VN. Vào đêm mùng 8 tháng 2, 1 nhóm phiến quân đã tập kích vào 1 đồn Pháp. Phía Pháp trả đũa bằng nhiều cuộc tấn công trên bộ, trên không với qui mô rộng lớn và có thể đã sát hại nhiều người dân vô tội, gồm 1 số lớn phụ nữ, trẻ em - hơn là quân cách mạng. Hậu quả làm cho nhân dân rất phẫn nộ, thúc đẩy phong trào chiến đấu lan ra cả nước trong năm đó, cướp đi nhiều sinh mạng, tài sản. Để giảm bạo lực, Pháp tiến hành 1 cuộc đàn áp khốc liệt những người cách mạng chống đối. Hồ Chí Minh bị tuyên án tử hình vắng mặt. Nhiều người khác bị bắt, xử tử hoặc bị lưu đày. Võ Nguyên Giáp, người trở thành nhà chỉ huy quân sự vĩ đại nhất của VN trong 2 cuộc kháng chiến, kịp thời trốn thoát sang Trung Quốc sống lưu vong. Vợ cùng đứa con gái nhỏ của ông đều bị bắt và mất trong tù. Vợ ông chết sau khi bị tra tấn dã man.

    Năm 1941, cụ-Hồ rời châu Âu đến Trung Quốc, ở vùng giáp biên với VN. Cụ đã gặp Giáp lần đầu tiên ở chính nơi này. 2 người gắn bó với nhau cho đến tận khi cụ-Hồ mất năm 1969. Thời điểm họ gặp mặt cũng là lúc VN có 1 kẻ chiếm đóng mới, đó là người Nhật. Cụ-Hồ và Giáp đã cộng tác với OSS chống Nhật với mơ ước Việt Nam được độc lập sau chiến tranh. Chỉ 2 tuần sau khi Nhật thất trận năm 1945, cụ-Hồ đã bước lên lễ đài ở Hà Nội đọc bài diễn văn phóng tác theo ý bản tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ. Cụ khẳng định VN là 1 nước tự do và độc lập, kể từ nay sẽ tự trị ko cần sự can thiệp của nước ngoài. Pháp lúc đó chẳng có lực lượng nào để điều đến đàn áp phong trào của Hồ Chí Minh hết.

    Cụ-Hồ cùng với Võ nguyên Giáp bắt đầu xây dựng các đơn vị quân đội từ lực lượng bán quân sự được hình thành bởi những người dân tộc thiểu số hồi đầu thập niên 40. Trung đội đầu tiên của 1 quân đội hùng mạnh sau này đã được tổ chức vào năm 1944. Nó được lấy tên là đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Việc chú trọng vào công tác tuyên truyền ko có gì sai mà nó phản ánh đúng kinh nghiệm chống ngoại xâm của người Việt. Cụ-Hồ có ý nhắc nhở những chiến sĩ của mình rằng mọi sức mạnh đều từ nhân dân mà ra. Tướng Giáp cũng như những người tiền nhiệm, đều hiểu rõ sức mạnh của nhân dân. Dù mục đích vẫn được Hoa Kỳ rao giảng tại VN là giành lấy khối óc, con tim người dân thì cả người Pháp lẫn hầu hết người Mỹ sau này đều tin chỉ cần hỏa lực và công nghệ áp đảo là đủ để họ có thể hoàn thành mục tiêu đó. 1 cụm từ được nhắc đi nhắc lại trong suốt cuộc chiến tranh của Mỹ ở VN là : "Cứ bóp chặt dái chúng, là con tim và khối óc chúng phải theo ngay".
  7. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Giáp tung lực lượng ra đánh Pháp ngay sau cụ-Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập. . Thoạt tiên, quân nổi dậy bị tổn thất nặng vì họ sử dụng chiến thuật thông thường chống lại công nghệ vượt trội. Tướng Giáp cùng các cán bộ của mình nhanh chóng nhận ra rằng muốn khắc chế những ưu thế về quân số, hỏa lực, phi cơ, tính cơ động của Pháp thì Việt-Minh sẽ phải quay về sử dụng chiến thuật của cha, ông mình. Với chiến thuật này, Giáp có thể ko có nhiều trận thắng quân Pháp. Nhưng ông cũng chẳng cần phải làm như thế mà chỉ muốn làm sao để chúng cút đi. Ông lật 1 trang trong cuốn sách do Trần Hưng Đạo, người đã lãnh đạo dân Việt chống quân Nguyên Mông, trong đó viết thế này "Giặc đã phải chiến đấu xa quê suốt nhiều năm nay...ta phải làm giặc thêm suy yếu bằng cách lôi chúng vào những chiến dịch dài ngày. Một khi nhuệ khí của chúng đã bị bẻ gãy thì chúng có thể bị tiêu diệt dễ dàng". Nhiều năm sau đó, hỏa lực, công nghệ tối tân của Mỹ cũng phải sa lầy khi chống lại triết lý này. Bất cứ ai từng tham gia chiến đấu hoặc nghiên cứu cuộc chiến tranh của Mỹ tại VN đều sẽ nhận thấy những chiến thuật mà tướng Giáp dùng hồi chống Pháp.

    Giáp học được rằng đừng bao giờ giao chiến nếu mình ko chắc thắng. Người Mỹ, cực kỳ tự tin vì sự ưu việt của hỏa lực mình có, rất bực bội vì điều này. Họ dè bỉu chiến thuật của tướng Giáp là hạ cấp, tiểu nhân, ko fair play.

    Thêm vào đó, hỏa lực phương tây cũng là 1 con dao 2 lưỡi. Rất khó kiểm soát hỏa lực thế nên chúng thường xuyên đánh nhầm người vô tội. Rất nhiều người VN, vốn ko theo Cộng sản, đã lên đường đi kháng chiến vì hỏa lực điên cuồng kia đã khiến gia đình, nhà cửa, ruộng vườn tan nát, mất kế sinh nhai...Những tuyên truyền viên của tướng Giáp cũng nhanh chóng khai thác lấy điều này.

    Tướng Giáp khắc phục yếu điểm của quân mình bằng các chiến thuật kiểu như bắn 1 vài phát đạn vào những đồn địch nhỏ, vừa đủ để quân đồn trú xuống tinh thần buộc địch phải tăng quân, cùng trang thiết bị để bảo vệ.

    Chỉ cần 1 du kích hay 1 tổ nhỏ là đã có thể, nhẩn nha cài mìn trên đường xá, cầu cống trong bóng đêm thanh mát. Rồi sau đó, toàn bộ những đội công binh Pháp hay Mỹ, cùng những toán quân đi kèm để bảo vệ họ, buộc phải làm việc hết sức căng thẳng, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, cẩn thận từng ly từng tí, để dò, quét mìn trên đường cứ mỗi khi cần sử dụng.

    Tướng Giáp cố gắng làm cho quân Pháp, quân Mỹ nhìn thấy gì cũng sợ. Chẳng đơn vị nào ko xảy ra những chuyện kiểu như bị trẻ con lẳng lựu đạn vào đội hình, bà già làm trinh sát cho súng cối địch bắn, hay tay sĩ quan, hạ sĩ quan VNCH kia bỗng đâu lại trở thành thành viên của VC. Dường như danh sách những mẩu chuyện kiểu này dài đến vô tận. Rồi thì chỗ nào cũng có mìn bẫy. Tại 1 số khu vực chúng gây đến 80% thương vong cho quân Pháp, quân Mỹ. Người Pháp nói quá trình tiêu hao này cứ thế bằng mọi cách gặm nhấm từ từ tinh thần của họ.

    Tướng Giáp yêu cầu mọi đơn vị trên chiến trường phải tự chịu trách nhiệm về mình. Nếu gặp khó khăn thì phải tự mình tháo gỡ; thậm chí khi đối diện với nguy cơ bị tiêu diệt đi chăng nữa cũng đừng trông chờ vào sự cứu giúp từ bên ngoài. Chính mặt trái này bên phía đối phương cũng tạo ra lợi thế cho những người Cộng sản. Khi tập kích, mai phục 1 đơn vị địch xong họ lại sẵn sàng chờ phục kích lực lượng cứu viện mà người Pháp hay người Mỹ luôn điều đến. Đôi khi họ thu hút được hàng loạt đơn vị địch vào bẫy, gây cho địch những thiệt hại nặng nề rồi rút lui khi cảm thấy bị đe dọa. Người Pháp và nhất là người Mỹ từng liều mạng đổ rất nhiều nhân lực, vật lực vào chỉ để cứu lấy 1 đơn vị nhỏ hay thậm chí là 1 người duy nhất.

    Bóng ma trận Alamo hay cuộc tử thủ của Custer ko cho phép tư duy quân sự Mỹ hành động như thế. (trận Alamo diễn ra giữa quân Mexicco và quân Mỹ năm 1836, sau 13 ngày vây hãm quân Mexico chiếm được khu đồn, giết sạch lính cố thủ; Custer là Trung tá kỵ binh Mỹ bị lọt ổ phục kích của người da đỏ trong trận Little Bighorn năm 1876, toàn quân bị tiêu diệt. ND)






    Chương 2


    Mỹ vướng phải mớ bòng bong


    Trước khi xảy ra sự kiện vịnh Bắc Bộ tháng 8 năm 1964, Hoa Kỳ đã có thể rút khỏi VN 1 cách êm thắm. Các chính trị gia hiếm khi chịu nhận lỗi nếu như họ còn cách để nói dối quanh co, nhưng có 2 lý do như thế mà họ lại ko chịu tận dụng. Phương châm tránh sa vào 1 cuộc chiến tranh trên bộ ở châu Á của tổng thống Dwight Eisenhower là 1 trong số đó. Sự bất ổn, thay đổi xoành xoạch của chính phủ nam VN là lý do thứ 2.

    Khó có thể tin câu hỏi "Ai để mất VN?" sẽ khiến đám đông la hét phản ứng kịch liệt hơn câu "Ai để mất Trung Quốc?" 10 năm trước, nhưng trong thực tế, năm 1964 lại là năm để bầu cử tổng thống. Dù tổng thống đương nhiệm là Lyndon Johnson có tô vẽ thượng nghị sĩ Barry Goldwater, ứng viên của đảng Cộng Hòa như 1 kẻ hiếu chiến đi nữa thì ông ta cũng ko muốn mình bị coi là yếu đuối. Ông ta vốn là dân Texas, và mẹ kiếp, có đủ mọi tính cách của đầu bò đầu bướu của họ. Johnson tự cho mình là 1 đấng trượng phu. Vài tháng sau cuộc bầu cử, trong 1 buổi họp ở Nhà Trắng, Arthur Goldberg, khi chủ tịch Pháp viện hỏi tổng thống Johnson lý do tại sao Mỹ ở lại VN? Johnson kéo khóa quần, móc 'thằng nhỏ' ra bảo: "Lý do đây nè". Việc Bắc Việt Nam có dùng tàu tuần tiễu khiêu khích các tàu chiến của Hải quân Mỹ tháng 8 năm 1964 hay ko hiện vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Nhưng điều đó cũng chẳng có gì quan trọng khi mà chính Mỹ đã hỗ trợ các cuộc tập kích, đột nhập chống lại Bắc Việt cả chục năm nay hay việc những cuộc tuần tra của hải quân trong chiến dịch DeSoto có lẽ đã thật sự xâm phạm lãnh hải của họ.
    Khucthuydu2, vacbay03, thanhVNW6 người khác thích bài này.
  8. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Hehe...e thấy chính Mỹ mới chơi hèn, ko fair play. khi ỷ đông, giàu mạnh, vũ khí tân kỳ kéo bè kéo lũ...quây đánh VN nhỏ bé nghèo nàn, lạc hậu...
    OnlySilverMoonthanhVNW thích bài này.
  9. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Tác giả còn chơi hèn bôi bác Pháp, bóp méo lịch sử
    thanhVNW thích bài này.
  10. alsou1

    alsou1 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2010
    Bài viết:
    1.938
    Đã được thích:
    5.653
    THE FIRST FIGHT
    U.S. MARINES IN OPERATION STARLITE
    AUGUST 1965
    COLONEL ROD ANDREW JR., U.S. MARINE CORPS RESERVE
    http://permanent.access.gpo.gov/gpo62355/Starlite_TheFirstFight2.pdf

    Bản pdf sách do quân sử TQLC Mỹ viết về chiến dịch Starlite cho bạn nào quan tâm

    [​IMG]


    Răm-bô đầu tiên của Vietnam War - huân chương danh dự
    caonam_vOzdangkymaikhongduoc thích bài này.

Chia sẻ trang này