1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

Chủ đề trong 'Câu lạc bộ Hoa Phượng (HP Club)' bởi dotuannam, 25/11/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. dotuannam

    dotuannam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/08/2003
    Bài viết:
    394
    Đã được thích:
    0
    Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

    Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

    I

    Sinh chẳng gặp thuở Đường Ngu

    Cái tin vua Lê Tương Dực bị tướng Trịnh Duy Sản giết chết đã được loan truyền đi nhanh chóng khắp các phường phố kinh kỳ. Bởi vì đó nào phải là việc bí mật gì trong cung cấm. Nó đã xảy ra một cách công khai, đang lúc ban ngày ban mặt, ngay giữa đường phố, có thể nói là hả hê của thiên hạ.

    Hơn thế nữa, đối với người thạo tin tức -mà ở cái đất kinh kỳ này thời nào chả có loại người như vậy - thì điều này hầu như người ta đã chờ đợi từ mấy hôm nay như là một câu chuyện thế tất sẽ xảy ra, chỉ ngày một ngày hai.

    Trịnh Duy Sản là ai? Có thể nói đấy là một tướng mạnh, một cánh tay đắc lực của nhà vua trong việc đàn áp các cuộc "nổi loạn" đang dấy lên liên tiếp khắp nơi từ Nghệ An, Thanh Hóa đến Kinh Bắc, Hải Dương, đặc biệt là vụ "phản nghịch" của Trần Tuân ở Sơn Tây hồi tháng 11 năm Tân Mùi, Hồng Thuận thứ 3 (1511). Hồi ấy thế "giặc" rất mạnh. Chúng đã tiến sát

    kinh thành. Nhiều cánh quân lớn do nhà vua phái đi ứng chiến liên tiếp bị đánh bại. Dân chúng hoảng loạn. Nhà vua đã phải chuẩn bị thuyền bè để chạy vào Thanh Hóa. ấy thế mà Trịnh Duy Sản, lúc ấy chỉ còn lại trong tay vỏn vẹn hơn ba chục thủ hạ, đã xé áo làm hiệu, thề đánh đến cùng, đang khi xuất kỳ bất ý, xông thẳng vào trại địch, đâm chết tươi tướng giặc Trần Tuân, làm cho quân địch như rắn mất đầu, bị quan quân triều đình quay lại dồn đuổi tan tác. Nhờ có chiến công xuất sắc này, ông ta được nhà vua phong đến tước Nguyên quận công, thế lực không phải là nhỏ.

    Nhưng mặt khác, cũng chính trong những cuộc đánh dẹp vất vả liên miên này, ông ta đã thấy rõ nguy cơ sụp đổ ngai vàng treo ngay trước mắt, nếu nhà vua không mau mau tỉnh ngộ, bỏ bớt thói xa xỉ ăn chơi, đặc biệt là trong việc xây dựng đại điện và đài cửu trùng hết sức tốn kém, giữa lúc muôn dân đang rên xiết trong cảnh đói nghèo cùng cực. Oán hận đã chất cao như núi. Mà một khi ngai vàng sụp đổ thì bao nhiêu công lao đánh dẹp sẽ trở thành công cốc, hơn thế nữa sẽ trở thành lưỡi dao kề cổ ngay chính ông ta.

    Vì vậy ông ta đã hết sức can ngăn nhà vua. Tiếc thay bao nhiêu lời nói thống thiết đều bị Lê Tương Dực bỏ ngoài tai, không những thế còn đem lòng oán giận, tìm cách làm nhục ông ta. Có lần nhà vua đã sai lính nọc ông ta ra mà đánh trượng như đối với một kẻ tội phạm tầm thường. Tránh sao Trịnh Duy Sản khỏi ngầm nuôi ý khác.

    Thế rồi gần đây người ta bỗng thấy ông tướng này lui tới dinh thái sư Lê Quảng Độ. Cả đất kinh đô này còn ai lạ gì tâm địa phản trắc như trở bàn tay của vị quan đầu triều này nữa. Trước đây, tuân theo di chiếu của vua Trúc Tông(1) ông ta đã tôn phò Lê Uy Mục và được ông vua này khá tin dùng. Nhưng đến khi kinh thành bị quân của Giản Tu Công Lê Oanh (sau này trở thành vua Lê Tương Dực) vây khốn thì ông ta đã không ngần ngại quay mũi giáo làm nội ứng cho quân bên ngoài để hại Lê Uy Mục. Tất nhiên là ông ta được chủ mới hết sức trọng đãi. Từ chức Trung quân đô đốc phủ tả đô đốc, tước Bình Sơn hầu, ông ta đã được gia phong tước Thiệu Quốc công, rồi chẳng bao lâu lại nhảy lên đến chức Bình chương quân quốc trọng sự thái tể thái sư, một chức vụ tối cao nắm giữ tất cả quyền chính trong nước mà từ thời Lê Thánh Tông đã bãi bỏ.

    Mặc dầu được hưởng nhiều ân sủng đặc biệt như vậy, ông thái sư Lê Quảng Độ vẫn còn đủ sáng suốt, tỉnh táo để nhận ra rằng vua Lê Tương Dực, từ khi tạm được yên vị, đã ngày càng lao sâu vào vết bánh xe đổ của Lê Uy Mục và vì thế sớm muộn rồi cũng sẽ chịu

    (1) Nối ngôi Lê Hiến Tông, làm vua từ tháng 6 năm Giáp Tý (1504) đến tháng 12 năm ấy thì mất, truyền ngôi cho anh là Lê Uy Mục.

    chung vận mệnh với ông vua xấu số này. Vả lại gần đây ông lại thường nghe bọn tướng số lưu truyền một nhận xét rất đáng chú ý. Họ nói: Nhà vua có khuôn mặt đẹp ra dáng một gã phong lưu công tử hơn là một vị đế vương. Lại phải cái dáng đi hơi lệch, khó mà ở ngôi được lâu! Vậy thì còn phải cân nhắc gì nữa. Nếu mà không sớm tìm kế thay thầy đổi chủ một lần nữa thì rồi đây số phận của mình sẽ ra sao? Dưới con mắt tinh đời của ông, Trịnh Duy Sản quả là một cánh tay vàng trong âm mưu phế lập đã định sẵn.

    Thời cơ đã đến, thuận tiện đến mức không thể còn mong ước gì hơn được nữa. Cứ như có bàn tay Trời sắp đặt cho vậy! Hầu hết những đoàn quân tinh nhuệ lúc này đã được dồn cả sang bên kia sông Cái để chặn đường quân "giặc" Trần Cao đang từ Hải Dương tiến thẳng vào kinh thành, thế mạnh như nước vỡ bờ. Nguyễn Hoằng Dụ, vị tướng đáng gờm nhất của ông và của Trịnh Duy Sản cũng đã dời cả hành dinh sang bến Bồ Đề. Kinh thành hầu như bỏ ngỏ. Thế là hai người quyết định khởi sự.

    Thuyền bè, khí giới được gấp rút sửa soạn. Trên dưới 3000 quân còn lại của các vệ Kim Ngô và Hộ Vệ được điều về đóng chật cả vùng bến Thái Cực(1), nói phao lên là để sẵn sàng ứng viện cho đại quân đánh Trần Cao. Nhưng vào khoảng canh hai đêm mồng 6 tháng 4 bất thình lình cánh quân ấy đột nhập vào thành qua cửa Bắc Thần.

    Nhà vua vẫn chẳng hay biết gì cả, còn đương túy lúy với bữa tiệc rượu kéo dài suốt từ chiều đến giờ, giữa đám cung tần mỹ nữ. Bỗng gã thừa chỉ Nguyễn Vũ hớt hơ hớt hải từ đâu chạy xộc tới, mặt tái mét tưởng chừng như cắt không còn giọt máu:

    - Tâu bệ hạ, dễ chừng có biến. Một cánh quân lạ đã lọt vào thành.

    - Quân nào?

    - ...

    Lâu nay hầu như suốt ngày đêm gã thừa chỉ này vẫn ăn dầm nằm dề trong nội điện để uống rượu và đánh bạc. Y vốn là một tên văn dốt vũ dát vô tích sự không hơn không kém. Nhưng sẵn đầu óc phiêu lưu, thừa dịp Giản Tu Công Lê Oanh ở Thanh Hóa đang chiêu binh mãi mã để làm thanh thế áp đảo vua Lê Uy Mục thì y tìm đến ứng nghĩa ngay. Vì vậy mà khi vị hoàng thân này trở thành vua Lê Tương Dực thì y nghiễm nhiên được đứng vào hàng công thần số một. Con đường danh vọng bẩn thỉu đã mở rộng trước mắt y. Khoa thi Hội Giáp Tuất (1514), mặc dầu đã bị loại vì văn thể lủng củng, y vẫn được nhà vua ban đặc ân cho thi lại để lấy đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân. Rồi chỉ vài năm sau y nhảy lên chức Hình bộ thượng thư kiêm Bảo thiên điện Đông các đại học sĩ, Hàn lâm viện thừa chỉ nhập thị kinh diên, được phép ra vào tự do nơi nội điện. Mọi người đều khinh ghét y, y cũng biết rõ điều đó. Cho nên số phận của y trong lúc nguy cấp này không thể tách rời số phận của nhà vua. Và nhà vua cũng tự biết còn có một gã vô lại ấy là có thể tin cậy được.

    Thế là suốt đêm hai thầy trò dắt díu nhau lẩn trốn như chuột, cho mãi đến tờ mờ sáng hôm sau mới dám mò ra cửa Bảo Chánh. Nhưng vừa đi tắt qua cửa nhà Thái Học, đến hồ Chu Tước thì họ đụng ngay phải Trịnh Duy Sản. Vẫn chưa hay biết chuyện gì, nhà vua còn quát hỏi: "Giặc ở phương nào?". Duy Sản không trả lời, chỉ ngoảnh mặt đi mà phá lên cười và khi nhà vua định rẽ sang đường khác thì ông ta đã ra hiệu cho vũ sĩ cầm giáo đâm chết ngay trên mình ngựa. Liền đó, gã thừa chỉ Nguyễn Vũ cũng bị đập chết tươi, không kịp kêu lấy một tiếng.

    Mặt trời đã lên đến một con sào mà người ta vẫn thấy cái xác dơ bẩn của gã tay chân này còn nằm co quắp bên lề đường, bê bết những máu và bụi đất. Còn xác nhà vua thì được đặt ngang trên lưng ngựa, béo ị, nhợt nhạt, chở về cửa Nam, trước viện Đãi Lậu chỗ phủ Tể tướng, để thiêu.

    Ngôi viện đồ sộ này, chỉ mới hôm qua còn tấp nập ngựa xe, mà bây giờ đã trở thành vắng tanh vắng ngắt như chùa Bà Đanh. Lão thái sư cáo già Lê Quảng Độ đã lẩn đi đâu từ lúc nào, đố ai mà biết được! Lão dại gì mà xuất đầu lộ diện trong lúc mọi sự còn đang rối ren này. Lão cũng phải còn gờm đại quân của Nguyễn Hoằng Dụ chứ. Chưa biết lúc nào đạo quân ấy sẽ trở lại kinh thành để hỏi tội những kẻ đã giết vua. Viên tướng này không phải là không có nhiều tham vọng. Chỉ một cái danh nghĩa là vừa đánh quân "phiến loạn" Trần Cao bên ngoài vừa dẹp bọn phản nghịch bên trong cũng đủ đưa ông ta đến được địa vị thao túng cả quyền bính trong nước. Thế rồi bọn giặc Trần Cao chẳng dại gì mà không thừa dịp các cánh quân của triều đình lục đục với nhau để thực hiện cái mộng "được làm vua" của mình. Chặng đường kéo quân của chúng về kinh thành chẳng còn phải xa xôi mấy đỗi... Tốt hơn hết trong lúc này là hãy để một mình gã võ biền Trịnh Duy Sản gánh lấy cái tiếng nghịch đảng giết vua trước dư luận.

    Trong dư luận thì ở Nghị sự đường trong thành cấm giữa các quan đại thần và cùng người tôn thất đang xảy ra một cuộc tranh chấp gay go quanh việc lập ông vua mới. Một phe thì muốn lập con Mục ý Vương là Quang Trị, lúc ấy mới tám tuổi, lên nối ngôi. Cánh khác lại đòi lập con Cẩm Giáng Vương là Y, dù sao

    (1) Quãng phố Hàng Buồm, Hà Nội ngày nay.

    cũng đã mười bốn tuổi. Nghe đâu trong cuộc cãi lộn này đã xảy ra án mạng. Tường quận công Phùng Dĩnh trong lúc nóng gáy đã sai lực sĩ giết chết Vũ Tá hầu Phùng Mại... Rồi ông vua tám tuổi được lên ngôi, đâu có ba ngày, chưa kịp đổi niên hiệu thì đã bị Trịnh Duy Ngạc đem biệt về Tây Đô rồi thủ tiêu mất. Rút cục, ông vua mười bốn tuổi được các phe phái Trịnh Duy Sản cùng Lê Nghĩa Chiêu và nhiều người trong đám huân cựu tông thất đại thần tạm thời thỏa hiệp với nhau, phò tá lên ngôi, nhưng tình hình đã rối loạn đến mức chính những người này cũng phải lật đật rước vua về Tây Đô nốt để còn mưu việc dấy quân ra chiếm lại kinh thành đã để lọt vào tay Trần Cao.

    Thật chẳng còn ra thể thống gì nữa!



    Đời là mấy tí anh em ta ơi học mà làm gì, đời là mấy tí tội gì không chơi.
  2. dotuannam

    dotuannam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/08/2003
    Bài viết:
    394
    Đã được thích:
    0
    *
    Buổi sáng hôm ấy, có một chàng thanh niên trạc hai nhăm hai sáu tuổi, ghé đò vào bến Giang Khẩu(1).
    Rõ ràng là anh ta mới từ xa tới, chưa rõ tình hình ở kinh đô, nên vẫn cứ diêm dúa với tấm áo the thâm dài lượt thượt của đám nho sinh và vành khăn nhiễu to bè quấn lên đến đỉnh đầu.
    Thực ra thì phố phường kinh kỳ nào phải xa lạ gì đối với anh. Anh đã từng sống nơi đây suốt cả thời kỳ niên thiếu. Vả lại giới sĩ phu ở đây mấy ai đã quên được cái anh nho sinh nổi tiếng thần đồng của xứ Hải Dương, Nguyễn Bỉnh Khiêm(1) ấy. Nhưng mấy năm xa cách với những biến cố phi thường dồn dập cũng làm anh phải bỡ ngỡ ít nhiều.
    Vừa mới bước đi vài bước, anh đã bị thu hút bởi những cảnh tượng khác lạ. Mới sáng sớm mà bến đò đã đông nghẹt những người từ khắp các phường phố đổ tới. Toàn là đám đàn bà con trẻ, ông già bà cả dắt dìu, bồng bế, kêu khóc như ri. Cứ mỗi lần có con đò ghé vào bờ là người ta ùa cả xuống, xô đẩy, bám víu, chửi rủa. Có người sảy tay lộn cả xuống sông. Suốt tám năm trời ở ngôi của Lê Tương Dực, dân phố kinh kỳ đã phải chạy nạn biết bao nhiêu lần, nhưng chưa thấy lần nào hỗn loạn đến mức này.
    Thế mà quanh chợ Cầu Đông, quang cảnh lại vắng vẻ lạ lùng. Các căn lều trống huếch trống hoác. Các cửa hiệu đóng cửa im ỉm. Chỉ có những quán rượu là cứ tấp nập như thường. Bọn du thủ du thực, bọn lính tráng trốn ngũ, bọn phu phen khuân vác... thôi thì tha hồ mà lè nhè, mà tục tĩu:
    - Mẹ kiếp, chỉ nay mai bọn quân "ba chỏm"(2) ấy nó kéo vào đây, thì đến cái mạng ông vua cũng chẳng hơn gì cái mạng con lợn! Tội gì mà chẳng say... Và bọn ăn mày chẳng biết từ đâu kéo đến mà đông vô kể. Họ cứ bu lấy những quầy hàng
    rượu, ăn xin có, cướp giật cũng có. Đối với lớp người này thì chẳng có tình thế nào trên đời là đáng phải sợ cả. ấy cứ loạn to lên lại có khi sướng cơ đấy! "Thứ nhất quận công, thứ nhì không khố", cứ bảo thế chứ những lúc như thế này dễ thường anh "không khố" lại đứng hàng đầu.
    Nhưng bỗng nhiên cái khối người bát nháo ấy cùng sững cả lại như bị một sức mạnh thần bí nào thôi miên vậy. Rồi cứ thế, chẳng ai bảo ai, tất cả đều rùng rùng nhổm dậy, tranh nhau mà chạy cả về một hướng.
    - Anh em ơi, bọn lính canh biến mất tất cả rồi!
    - Quân ông Dụ đã đổ lên chật cả bến Đông Bộ Đầu. Quân ông Sản thì tếch từ hôm qua. Nhà vua cũng chuồn nốt...
    - Cấm thành bỏ trống toang. Không vào mà hôi của còn đợi lúc nào. Máu mỡ của chúng mình cả chứ của ai. Mau lên. Mau lên nào! Nguyễn Bỉnh Khiêm còn chưa hết ngạc nhiên sửng sốt thì đã thấy từ phía cửa Đông túa ra từng tốp từng tốp người, mặt mày hớn hở, khiêng khiêng vác vác đủ thứ của cải táp nham. Lụa là, châu báu, vàng bạc, trầm hương, cho đến cả hạt muối, hạt gạo... cứ thế vương vãi khắp các ngả đường, có chỗ ùn lên đến mắt cá chân. Thật không ai có thể ngờ được ngần ấy của cải lại chỉ để phục vụ cho một con người!
    Nhưng kìa, sao lại từng đàn từng lũ người, lớn bé, già trẻ kêu khóc như ri, đang từ các phường mạn bắc kinh thành kéo xuống thế kia? Họ đi về đâu mà trông người nào người nấy hớt hơ hớt hải như bị ma đuổi? Có những cụ già dường như kiệt sức đành ngồi bệt xuống vệ đường, mặc cho bụi bám đầy người, bên mình chỉ tòn ten một cái tay nải lép kẹp hay chiếc bị cói bẹp dúm.
    - Giặc thì chửa thấy đâu, chỉ thấy quân triều đình quay giáo tàn hại dân lành. Trông kìa, suốt từ Đông Hoa, Ngũ Xã xuống đến Hòe Nhai... phen này thì ra tro hết. Lửa cứ ngập trời thế kia thì còn gì nữa!
    - Thật chẳng có cái thời nào lại cơ cực như cái thời này...!
    Đời là mấy tí anh em ta ơi học mà làm gì, đời là mấy tí tội gì không chơi.
  3. dotuannam

    dotuannam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/08/2003
    Bài viết:
    394
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn lòng nào mà dừng lại nhìn cảnh tượng ấy nữa, đành cứ sải chân theo dòng người ban nãy, lúc này đã thưa dần, để lọt vào thành.
    Từ mấy năm nay, tuy ở xa, anh vẫn được nghe kể nhà vua đang cho đắp một bức tường thành mới dài hàng mấy nghìn trượng, chắn ngang sông Tô Lịch, bao quanh cả điện Tường Quang, quán Trấn Vũ và chùa Thiên Hoa phường Kim Cổ, chạy suốt từ góc đông đến góc tây bắc thành cổ, chiếm cả một khoảnh đất mênh mông để xây dựng ngôi điện trăm nóc với đài Cửu Trùng cực kỳ lộng lẫy, lại cả một khu vườn cấm với một dãy hồ quanh co,
    khuất khúc thông ra hồ Tây, cùng đội "thuyền chiến" trang hoàng bằng đủ thứ gấm vóc, châu báu để những đêm trăng nhà vua ra du ngoạn cùng bầy cung nữ trần truồng chèo lái... Tất cả những thứ đó, nếu không có dịp này thì người dân như anh làm sao được chứng kiến tận mắt.
    Mặc dầu đã được nghe đồn đại nhiều, anh vẫn sững sờ kinh ngạc trước quy mô của những công trình mà trong tưởng tượng anh cũng không thể hình dung ra nổi. Những cột lim tròn nhẵn bóng cao đến vút tầm mắt kia, nghe nói
    đã được đưa từ những cánh rừng già bạt ngàn tận bên đất Ai Lao về. Bao mạng người đã bị vùi sâu dưới vực thẳm hay làm mồi cho thú dữ vì những cây cột đó? Rồi những phiến đá to bằng cả ngôi nhà kia cũng phải chở từ đất Chiêm Thành tới, còn hằn trên mình những nét hoa văn tuyệt xảo, những hình người, hình thú cực kỳ sinh động mà chỉ có bàn tay tài năng đặc biệt của những nghệ sĩ Chàm mới tạo ra được. Biết bao nhiêu thuyền mảng kiên cố cùng những tay thợ tài ba đã bị sóng gió nhận chìm để chở những khối đá đồ sộ ấy về đây? Tất cả, tất cả những vật xa lạ đó như đã được chế ngự, được sắp đặt bởi một bàn tay thần để biến thành những ngọn tháp chọc trời, những dãy hành lang thăm thẳm, những bệ đá uy nghiêm, những vòm cổng bề thế tưởng chừng như cả một đoàn voi có thể đi qua một cách dễ dàng...
    Nhưng ở đây cảnh tượng hỗn độn đã lên đến mức không thể tưởng được. Dân trại, dân phố, thợ thuyền, phu phen, binh lính, tù nhân... thật chẳng còn phân biệt được ai với ai nữa. Nào vồ, nào búa, nào cuốc, nào câu liêm, họ lăn xả cả vào những dãy điện dài như những con thú dữ khổng lồ đã từng gây cho họ biết bao tai họa. Họ hè ó, họ xô đẩy, họ phá phách. Từng tảng ngọn tháp, vòm cổng từ tận trời cao rùng rùng đổ xuống. Từng dãy cột lực lưỡng như từ lòng đất mọc lên cũng ngã lộn tùng phèo. Cứ như trời long đất lở. Bụi đất lầm lên che tối cả bầu trời...
    Sự căm phẫn của lớp chúng đông đảo kia, bị nén lại từ bao lâu, khi nó đã bùng lên thì thật là khủng khiếp! Đã bao năm rồi họ phải quằn quại trong cảnh lao động khổ sai, trong roi vọt, cùm kẹp, trong đói khát, bệnh tật. Biết bao nhiêu đồng đội của họ đã bỏ mạng nơi đây, vì kiệt sức, vì đau ốm mà chẳng được thuốc thang, vì gỗ đá đè bẹp, vì xẩy chân trượt ngã từ những tầng cao. ấy là chưa kể cha mẹ, vợ con của họ ở quê nhà chết dần chết mòn vì sưu cao, thuế nặng, vì thiên tai, dịch lệ để cung đốn cho cái trò ăn chơi xa xỉ.
    Thế mới biết "Phúc chu thủy tín dân do thủy", thật không sai chút nào với lời dạy của cụ ức Trai xưa(1).
    Nhưng mà cái xác nào kia vẫn còn nằm phơi ra đấy giữa một đám cỏ đầy bụi bậm? Cái xác đã xám ngoách, méo xệch, hai mắt bị khoét sâu hoắm ruồi nhặng bu đầy. ấy thế mà kẻ qua người lại vẫn chưa tha nhổ vào mặt, quẳng đá vào đầu, hoặc ít nhất cũng chửi tục mấy câu cho bõ ghét.
    Thì ra đó là xác Vũ Như Tô, người chủ trương tất cả những công trình này. Vũ Như Tô, chỉ một cái tên đó cũng đủ làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm phải bàng hoàng như đứng trước một số phận éo le đến kỳ lạ. Một công trình thế kia, không phải tài năng thì làm sao sáng tạo nổi. Từ một anh thợ bình thường ở làng quân Cẩm Giàng Hải Dương, anh ta đã trở thành ông đô đốc kiêm quản các sở thuộc bộ Công. Nhưng số phận đã gắn bó tài năng ấy với một ông vua vô đạo. Rút cục anh ta cũng trở thành một kẻ vô đạo. Có lẽ nào anh ta lại không trông thấy, không nghe thấy, không cảm thấy chút nào nỗi oán hận chồng chất của muôn dân vì cái công trình oan nghiệt này? Để rồi giờ đây anh ta đã tự chuốc lấy một số phận bi thảm!
    Tài năng với số phận! Mà xét cho cùng lại là tài năng với thời thế! Thời thế! Nhưng rốt cuộc cái thời thế này nó là thế nào? Dù sao thì Vũ Như Tô cũng không hiểu gì về thời thế, điều đó đã đành. Nhưng người quân tử thì lẽ nào không hiểu thời thế. Tất cả phương châm hành động của anh ta, kinh quyền, hành tàng, xuất xử đều phải bắt đầu từ hiểu thời thế. Nhưng điều đó, chính lúc này mới khó làm sao!
    Khi vua Uy Mục lên ngôi thi hành bạo chính, đảo lộn cương thường, người trong nước thảy đều oán giận. Nhưng nào có ai đã dám nghĩ rằng cơ đồ nhà Lê đến đây là đến thời đổ nát. Công nghiệp vĩ đại dẹp yên giặc nước, gây dựng kỷ cương của các triều Thái Tổ, Thái Tông như hãy còn sờ sờ trong ký ức mọi người. Làm sao một triều đại thuận ý trời, hợp lòng dân như vậy mà vận số chưa quá được một trăm năm? Vậy thì Uy Mục ra đời chẳng qua là một sự biến bất thường.
    Có lẽ cũng vì vậy mà ông "vua quỷ" này đã không tác oai tác quái được quá năm năm. Và khi một hoàng thân là Giản Tu Công Lê Oanh đứng lên phất cờ trừ bạo, thì chỉ trong khoảnh khắc là ông ta đã tập hợp được cả một lực lượng hùng hậu để đè bẹp một cách dễ dàng và chóng vánh mọi sự cố gắng phản kháng của Lê Uy Mục. Trong số những người ứng nghĩa nào phải chỉ có những cựu thần tông thất đang bị săn đuổi vào Thanh Hóa, mà còn rất nhiều vị khoa bảng nổi tiếng đương thời...
    (1) Niên hiệu dưới triều Lê Hiến Tông (1498-1504), người kế vị Thánh Tông.
    Lúc ấy có ai dám ngờ rằng tình thế lại đến như ngày nay. Có ai ngờ rằng chính ông hoàng thân mang dòng máu họ Lê mà mọi người suy tôn lên ấy chẳng bao lâu đã phản bội họ để đi theo con đường mòn của người trước. Và sau ông ta, cho đến lúc này, vẫn chỉ là một viễn cảnh tối tăm mù mịt, không có đường ra.
    *
    Đời là mấy tí anh em ta ơi học mà làm gì, đời là mấy tí tội gì không chơi.
  4. dotuannam

    dotuannam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/08/2003
    Bài viết:
    394
    Đã được thích:
    0
    *
    Đi miên man giữa những cảnh tượng khác thường dồn dập, mãi đến quá trưa Nguyễn Bỉnh Khiêm mới ra khỏi cửa tây hoàng thành, lòng trĩu nặng ưu tư. Anh bước lần theo một con đường đất khá rộng dẫn về khu thập tam trại của tổng Nội. Đây rồi dãy hồ ao xanh rờn nối nhau liên tiếp, đứng trên cao trông xuống như một chuỗi hạt cườm. Và những chỏm gò xinh xắn, lè tè như những chiếc nón úp, nổi lên đó đây giữa những xóm làng và đồng ruộng. Kia núi Bò rợp bóng những cây muỗm rườm rà, thân cây trám lực lưỡng chạy men theo một dã đầm rồi bỗng lội hẳn xuống nước, tiến thẳng đến cửa đền Linh Lang, tạo thành một cảnh lâm tuyền bên lề thành thị. Và kia nữa, rẽ về phía Bắc một chút là núi Voi, hay núi Thái Hòa, tên phường gốc tích của vị anh hùng kiệt xuất dưới triều Lý, Lý Thường Kiệt.
    Tất cả cái khung cảnh quen thuộc ấy bỗng nhiên đã làm sống dậy biết bao kỷ niệm êm đềm và tươi sáng của cả một thời niên thiếu anh đã từng sống nơi đây. Những ký ức đó đã làm cho tâm hồn anh lắng dịu trở lại, gần như thanh thản trong chốc lát.
    Phải rồi, đó là vào cái thời Cảnh Thống(1) mà nhân dân còn được sống trong cảnh thái bình thịnh vượng; cái thời mà mọi kỷ cương phép tắc từ triều đình đến nơi thôn xã đều còn vững vàng, chặt chẽ tưởng như không bao giờ có thể phá vỡ được; thời kỳ mà đạo học vẫn còn thịnh đạt, cứ như một làn gió ấm chan hòa rộng khắp, thấm đượm đến tâm can lớp người non trẻ như anh, xốc lên cả một hoài bão công danh vĩ đại: học thành tài để phò vua giúp nước, xây dựng một triều đại Đường, Ngu ngay trên cơ đồ Đại Việt này.
    Hồi ấy, xóm làng nơi đây, mặc dầu vẫn mang danh là "trại", đã có một nề nếp làm ăn sinh sống thật là tươi vui, đầm ấm. Cứ sáng sáng, từng gánh, từng gánh cỏ non to bằng cả đống rạ, từ mãi tận Cống Yên, Cống Vị, Liễu Giai kìn kìn trẩy ra cửa Nam để bán cho các quan trông voi trông ngựa chiến của nhà vua. Rồi những con thuyền đầy ắp rau dưa, ngược xuôi trên những dòng kênh, kẻ về Vĩnh Phúc, Thủ Lệ, kẻ xuôi ra Xuân Biều, Ngọc Hà... Tiếng hát, tiếng cười, tiếng ghẹo nhau lao xao, lánh lót. Lại những ngày hội hàng năm ở đình Tổng, trại Vĩnh Phúc, nhất là đám rước kiệu mang bài vị thần Linh Lang từ Voi Phục về thì thật là hấp dẫn. Qua núi Bò, phu kiệu phải cúi, phải
    bò mà kiệu trên vai vẫn không hề nghiêng lệch...
    Chả vậy mà từ mấy đời nay, nhiều vị quan trí sĩ và cả tại triều nữa, đã tìm về khu này để lập tư dinh xung quanh núi Thái Hòa, núi Trúc, núi Vạn Bảo, khi thành xóm, có khi xen lẫn với nhà dân. Hồi ấy các quan còn có thời gian được thư thái tâm hồn để nghĩ đến việc di dưỡng tính tình và thực hiện một trong những niềm vui lớn của người quân tử là dạy người không biết mỏi (giáo nhân bất quyện).
    Thấm thoắt thế mà hơn mười năm đã trôi qua. Anh thanh niên hai sáu hôm nay khi ấy mới chỉ bước vào ngưỡng cửa của thời niên thiếu với cái tuổi mười ba, mười bốn tràn đầy sức sống và khát vọng lý tưởng, cái tuổi mà mọi ký ức vui buồn đều khắc sâu trong tâm khảm cho đến trọn đời không bao giờ phai nhạt. Cho đến hôm nay, lại đặt chân trên những nẻo đường cũ, anh vẫn còn thuộc như chính lòng bàn tay mình từng ngõ xóm, từng bụi cây, từng căn nhà và nhất là từng con người, không phải chỉ những người thầy, người bạn của anh, mà là cả những bác nông dân cần cù, gan góc đã đem hai bàn tay trắng tới đây khai phá một vùng đất hoang vu để lập nên cả mười ba trại trù phú này.
    Anh quên làm sao được ngôi trường xưa thân yêu, một nếp nhà năm gian, hai chái, mái ngói, cột lim vững chãi mà giản dị, nằm dựa vào chân núi Thái Hòa. Đó chính là tư dinh của quan Lại bộ thị lang Lương Đắc Bằng. Chính người đã sửa sang nó, vừa làm nhà ở, làm từ đường thờ tổ, lại vừa làm nơi giảng học.
    Hồi ấy lớp học mới đông vui làm sao! Những con nhà thế gia vọng tộc ở chốn kinh kỳ, những thiếu niên tuấn tú từ bốn phương trời đã tìm về đây, tìm đến một người thầy nổi tiếng uyên thâm và đức độ. Những buổi giảng sách cứ như cuốn hút mọi người, nhiều khi kéo dài, say sưa đến nỗi tối trời từ lúc nào mà không ai để ý.
    Tuy về tuổi tác chỉ vào hạng em út trong trường, nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm lại được thừa nhận như người học sinh ưu tú nhất. Ngoài những buổi học chung, thầy thường cho vời riêng anh cùng vài bạn nữa để cùng đàm đạo thêm về thời thế, về lẽ kinh quyền, xuất xử của các bậc thánh nhân. Thầy còn đặc biệt hướng dẫn anh đi sâu về dịch lý, nắm cho vững mọi lẽ biến thiên tuần hoàn của tạo vật, coi đó như là cái chìa khóa vàng để tìm hiểu và dự đoán mọi diễn biến phức tạp trong lịch sử, trong cuộc đời, để có thể tùy thời mà xử thế sao cho xứng với tư cách của người chính nhân quân tử.
    Tiếc thay tình thế đã biến đổi quá mau lẹ. Người thầy tôn kính đó đã buộc lòng phải từ
    (1) Nay là huyện Nghi Lộc, Nghệ An.
    giã đám môn sinh đầy hứa hẹn để lao vào những công việc cấp bách hơn, trọng đại hơn của một quốc gia mà một vị đại thần đầy tâm huyết như người không thể từ nan.
    Thế là từ đó đến nay...!
    *
    Đời là mấy tí anh em ta ơi học mà làm gì, đời là mấy tí tội gì không chơi.
  5. dotuannam

    dotuannam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/08/2003
    Bài viết:
    394
    Đã được thích:
    0
    *
    Vừa rẽ vào con đường xóm trường cũ, anh đã cảm thấy một nỗi xúc động, hồi hộp khó tả. Cứ như người đi xa lâu ngày vừa được trở về quê hương vậy. Nhưng cảnh tượng trước mắt còn đâu như trong ký ức của anh nữa. Mọi thứ đã thay đổi quá nhiều! Đồng lúa vẫn xanh, xanh lúa, xanh cả bờ cỏ. Nhưng xóm làng hình như đã già cỗi hẳn đi. Vắng lặng chỉ lay lắt đó đây vài sợi khói lam chiều. Xen giữa những túp lều đó, nhiều chỗ chỉ còn là những nền cũ rêu phong, cỏ dại mọc đầy. Thì ra trong những ngày loạn lạc này, nhiều vị quan lớn đã không còn dám tin vào lòng dân nữa. Họ đã phải dỡ cả dinh cơ để dọn về quê quán, hoặc vào ẩn núp trong thành, mặc dầu cái bức thành cao ngất ấy bây giờ cũng chẳng lấy gì làm vững chãi cho lắm.
    Anh bỗng như sững lại trước một bức tường vây đã sụp lở từng mảng, còn trơ lại một nếp cổng trống hoác, phủ kín rêu xanh và tầm gửi. Nhìn qua cái sân gạch rậm cỏ, ngôi nhà chính chỉ còn như một cái miếu cổ với mái ngói rêu đen đã lún xuống từng mảng và những tấm giại gỗ nứt nẻ, bạc phếch thời gian.
    Phải rồi, đây chính là ngôi nhà của cố thượng thư Lễ bộ Đàm Văn Lễ, một nạn nhân của bạo chúa Lê Uy Mục. Hồi ấy vua Hiến Tông bị bệnh nặng sắp băng, có để lại di mệnh cho người con thứ ba là thái tử Thuần lên nối ngôi, tức là vua Túc Tông. Nhưng một số thân vương trong đó có người anh thứ hai của thái tử là hoàng tử Tuấn, tức Uy Mục sau này, đã mưu sự thoát đoạt. Mẹ nuôi của Tuấn là Kính phi - vì mẹ đẻ đã mất - sợ các đại thần không theo về con mình bèn cho người đem vàng bạc đút lót quan thượng thư Đàm Văn Lễ là người đang có uy vọng bậc nhất trong đám triều thần bấy giờ. Nhưng ông không những khước từ mọi âm mưu đen tối mà còn cẩn thận đề phòng mọi biến loạn có thể xảy ra, lẻn vào tẩm điện lấy ấn truyền quốc cất giấu về nhà, rồi cùng các đại thần, tông thất lập tức phò vua Túc Tông lên ngôi, theo đúng ý chỉ của tiên đế.
    Thật chẳng may, Túc Tông mới trị vì được sáu tháng đã băng. Người lên nối nghiệp lại chính là Uy Mục. Thế thì ông tránh sao khỏi bị nạn! Uy Mục đã theo kế gian của bọn nịnh thần Khương Xung, Nguyễn Nhữ Vi biếm ông cùng Đô ngự sử Nguyễn Quang Bật đi làm Thừa tuyên sứ Quảng Nam, để rồi giữa đường, khi các ông vừa đến khúc sông Lam thuộc địa phận huyện Chân Phúc(1) thì cho người đuổi kịp bắt phải tự tử. Nghe nói khi sắp gieo mình xuống nước, hai ông còn ngâm một bài thơ tuyệt mệnh bằng quốc ngữ. Nhưng bài thơ ấy
    nay còn đâu!... Dĩ nhiên là sau vụ án đen tối ấy, tất cả con cháu của ông làm sao còn có thể ở yên trong ngôi nhà này được.
    ại, những con người kiên trinh, trong sạch thì cứ mỗi ngày một vắng bóng mãi đi, còn những bọn gian ngoan, xu nịnh thì càng ngày càng nhao nhao nhảy nhót như ếch nhái gặp trời mưa. Còn gì là tiền đồ của đất nước nữa!
    *
    Cuối cùng thì Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã đến được cái đích của cuộc hành trình đầy biến cố hôm nay, ngôi trường cũ thân yêu của anh, nhà quan thị lang Lương Đắc Bằng. Trong những ngày tình thế rối ren khó hiểu này, anh thấy không thể thiếu được một lời chỉ giáo vàng ngọc, thậm chí chỉ một lời khuyên răn hay động viên của người thầy từng trải và sáng suốt ấy.
    Thực ra thì suốt mấy năm trời xa cách, anh vẫn cố gắng theo dõi được phần nào công việc của người, nhằm tìm ra trong đó những bài học thực tiễn bổ ích cho nhận thức và phương châm xử thế của anh. Nhưng với tầm hiểu biết còn chưa vượt ra ngoài khuôn khổ sách vở của một chàng thư sinh trẻ tuổi, anh làm sao có thể dễ dàng nhận ra mọi ý nghĩa của những việc làm đó. Thời thế? Cái thời thế đầy biến cố bất ngờ mà anh đang sống đây, nó là cái gì? Rút cục đó vẫn là bài toán nan giải hằng ngấm ngầm day dứt tâm can anh từ bao năm nay. Có những lúc anh tự cảm thấy như hổ thẹn với bản thân mình. Thì ra sau bao nhiêu năm đèn sách, anh vẫn chỉ là một gã "dài lưng tốn vải". Trong khi đó thì người thầy của anh vẫn một mình bôn tẩu, dốc lòng chèo chống giang sơn.
    Anh còn nhớ như in cái cảm giác sửng sốt đến bàng hoàng khi lần đầu tiên nghe tin thầy anh đã thảo bài hịch dụ các quan đại thần và các quan, kể tội tên bạo chúa Lê Uy Mục. Mà cảm giác đó đâu phải là chỉ của riêng anh. Lạ quá! Phi thường quá! Làm sao có thể đến nông nỗi ấy được nhỉ? Việc làm này rồi sẽ đi đến đâu?
    Thế rồi với bài hịch đó hoàng thân Lê Oanh, lúc ấy đang thân cô thế cô vì mới vượt ngục ra, đã nhanh chóng tập hợp được cả một đội ngũ hùng mạnh nào quan văn, quan võ, nào binh lính, chúng dân, khiến cho chỉ trong vòng hai mươi hôm bạo chúa Uy Mục đã không còn có chốn nương thân.
    Vậy thì sức mạnh là ở đâu, nếu không phải là ở lòng người? Phải rồi, bài hịch đã đi vào lòng người. Và đã đi đúng lòng người thì sao còn là kỳ lạ, còn trái lẽ nữa. Chẳng phải là chính anh đã thuộc lòng từng lời, từng chữ trong bài hịch vang dội đó sao.
    "Bạo chúa Lê Tuấn, phận con thứ kém hèn, làm nhơ bẩn nghiệp lớn. Lần lữa đã năm năm. Giết hại người xương thịt, dìm hãm các thần liệu. Bọn họ ngoại được tin dùng mà phường đuôi chó tung hoành làm bậy. Kẻ cương trực
    bị ruồng bỏ mà người đầu cá ẩn nấp nẻo xa. Tước đã hết rồi mà thưởng bậy không ngớt, dân đã cùng rồi mà vơ vét không thôi..."
    Thật là sảng khoái!
    Đời là mấy tí anh em ta ơi học mà làm gì, đời là mấy tí tội gì không chơi.
  6. dotuannam

    dotuannam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/08/2003
    Bài viết:
    394
    Đã được thích:
    0
    Hoàng thân lên ngôi, trở thành vua Lê Tương Dực, liền gia phong chức tước cho hàng loạt người có công phò tá, tất nhiên trong số đó không thể thiếu người thảo hịch Lương Đắc Bằng. Nhưng chỉ sau đó ít lâu, nhân có tang, người đã xin cáo quan về. Và khi nhà vua vời ra để khôi phục chức Lại bộ tả thị lang, cho kiêm thêm Đông các đại học sĩ nhập thị kinh diên, thì người vẫn một mực chối từ, chỉ nhân dịp này mà dâng lên bảng kế sách trị bình mười bốn điểm, có ý mượn lời người xưa để răn đe ông vua trẻ tuổi chớ vội kiêu sa vì thắng lợi dễ dàng, mà phải biết tỉnh táo nhìn rõ tình thế nguy ngập trước mắt để chăm lo chỉnh đốn mọi việc.
    Hồi ấy, anh làm sao giải thích nổi hành động này của người thầy cao kiến. Nhà vua mới lên ngôi còn tỏ ra biết chăm lo giáo hóa, cẩn thận hình phạt. Lại cho ban hành Trị bình bảo phạm để răn bảo bề tôi giữ gìn lòng trung thành lương thiện, chăm chỉ chức phận, không được cậy thế ngược đãi dân đen. Mọi người còn đang mong ngóng một sự đổi mới đem lại thịnh trị thái bình. Có ai ngờ đâu chỉ vài năm sau sự thật đã diễn ra đúng như người dự đoán. Thì ra cái câu châm ngôn "phòng vi dỗ tiệm" của thánh hiền mà anh vẫn thuộc lòng ấy, anh đã nắm được gì đâu. Một con người sáng suốt lẽ nào lại không biết đề phòng tai họa ngay khi nó mới manh nha, không biết chèn lấp lỗ hổng khi nó mới đang rạn nứt ngấm ngầm.
    Cứ như thế, người thầy tuy ở xa mà vẫn như luôn luôn có mặt bên anh, dìu dắt anh, thôi thúc anh đào sâu thêm mãi mọi lý lẽ của sự vật và nhất là, ngoài ý thức của anh, lôi cuốn anh từng bước dân mình vào cuộc đời để kiểm tra sở học của mình.
    Có những đêm thanh tĩnh, ngồi suy ngẫm về lý lẽ kinh sách thầy giảng năm xưa với những hành động thầy làm hôm nay, anh lại cảm thấy trong lòng như rạo rực lên một niềm khát khao, một sức mạnh vươn tới mơ hồ nào đó. Phải rồi, "thời thế tạo anh hùng". Thời thế có khó khăn mới cần đến anh hùng chứ. Cái khó ở chỗ là nắm bắt được thời thế. Được thời và có thế thì sẽ biến mất thành còn, chuyển nguy thành an...
    Chính vì vậy mà hôm nay, mặc dầu quê nhà gặp loạn, có thể nguy hiểm đến tính mạng dọc đường, anh vẫn quyết tâm lặn lội về đây để được tận mắt chứng kiến những gì đang xảy ra chốn đế đô và thỉnh giáo người thầy đã lâu năm xa cách.
    Nhưng một điều bất ngờ quá đau đớn đã xảy đến với anh. Người thầy kính yêu đó sắp vĩnh viễn từ biệt anh, thế mà nào anh có biết.
    Trước mắt anh lúc này, người chỉ còn như bộ xương bọc da đang hổn hển kéo những hơi thở tàn nặng nhọc. Bất giác anh quên cả việc thi lễ đối với các bạn đồng môn đang ngồi quây chật cả mấy gian nhà, đến sụp lạy dưới chân giường, khóc nức nở.
    Nghe cái tên yêu quý "Nguyễn Bỉnh Khiêm", người hấp hối bỗng như bừng tỉnh giấc. ạng ngơ ngác ra hiệu cho mọi người vực dậy. Lúc này trời đã tối. Nhưng những ngọn lửa từ phía kinh thành vẫn ngùn ngụt bốc cháy, chiếu sáng vào tận trong rèm. ạng cố hé mở cặp mắt mờ đục như muốn bao quát lại một lần cuối cùng tất cả những gương mặt tươi trẻ, tuấn tú của đám môn sinh, rồi bằng một giọng thều thào đứt quãng, ông nói:
    - Ta vốn chỉ là một gã thư sinh hèn mọn, nhờ ăn mày cửa Thánh mà lập được chút công danh. Ta vẫn thẹn mình không theo gót được người xưa làm cây cột vững chống giữa dòng. Nay ta xem chừng vận số của nhà Lê khó lòng mà vãn hồi được nữa. Tình thế từ nay về sau sẽ như thế nào, ta chỉ khuyên các con hiểu cho đúng cái nghĩa "tùy thời" của người quân tử mà xử thế. Nhưng dù sao đi nữa cũng phải nhớ đến bài học cuối đời Trần, không bao giờ được rước voi về giày mả tổ, để đến nỗi trăm họ phải lầm than. Đó là cái tội không gì lớn bằng...
    Dường như không còn đủ sức nói tiếp nữa, ông đành ra hiệu cho mọi người xích lại gần hơn, rồi từ từ đặt tay người con trai yêu quý Lương Hữu Khánh vào lòng bàn tay người học trò ưu tú nhất, Nguyễn Bỉnh Khiêm, với một cái nhìn ân cần gửi gắm. Người thiếu niên đã hiểu ý, vội vàng thụp xuống lạy cha, đoạn hướng về Nguyễn Bỉnh Khiêm mà thi lễ theo đúng nghi thức thầy trò, trước con mắt đồng tình của tất cả mọi người.
    Vừa lúc ấy thì người lão bộc do Lương Đắc Bằng phái đi từ chiều để theo dõi tình hình ngoài kinh thành đã hớt hải trở về. Trông nét mặt bác, ai cũng có thể đoán ra sự chẳng lành, nhưng không ai dám ngăn bác lại vì sợ trái ý thầy. Vừa phủ phục xuống dưới chân giường, bác vừa nói như mếu máo:
    - Bẩm quan lớn cùng chư vị, "giặc" Trần Cao đã kéo vào kinh thành. Nhà vua cùng chư tướng đã dời vào Tây Đô. Thái sư Lê Quảng
    Độ đã ra hàng "giặc". Trần Cao đã tự xưng hoàng đế, tiếm đặt niên hiệu Thiệu ứng, thiết triều và dùng Lê Quảng Độ coi việc nước...
    Lương Đắc Bằng chỉ còn kịp ú ớ vài tiếng, rồi thở hắt ra.
    Đời là mấy tí anh em ta ơi học mà làm gì, đời là mấy tí tội gì không chơi.

Chia sẻ trang này