1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trang Văn Học HDC...Bình luận tác giả, tác phẩm.

Chủ đề trong 'Hải Dương' bởi hanh114212, 18/10/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hanh114212

    hanh114212 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/07/2004
    Bài viết:
    1.850
    Đã được thích:
    0
    Trang Văn Học HDC...Bình luận tác giả, tác phẩm.

    Mình mở topic này với mong muốn cùng các bạn thưởng thức và đưa vào đây những áng thơ văn và những tác phẩm văn học nổi tiếng của Việt Nam cũng như của Thế giới vào đây để khi nào có thời gian, khi vào HDC chúng ta sẽ ngồi đọc và thưởng thức để đỡ mất công chạy qua các box khác!
    Mình xin bắt đầu bằng mnột bài thơ của Trung Quốc, có trong bộ phim Tình Châu Giang được VTV trình chiếu cách đây 10 năm!
    Tình Châu Giang​
    Trong tim anh khắc sâu bao kỷ niệm
    Tình yêu chân thành anh dành cả cho em
    Dẫu cuộc đời là bể dâu thay đổi
    Em mãi là ngọn lửa ấm trong đêm.

    Đã qua đi những tháng năm khờ dại
    Hãy để anh tự lau nước mắt cho mình
    Lặng lẽ sống những đêm dài bất tận
    Bao khổ đau chờ tia nắng bình minh.

    Khi trái tim anh như mùa đông giá lạnh
    Anh đâu thành cánh chim nhỏ trùng khơi
    Ngay cả lúc được tình yêu chắp cánh
    Nào đã qua cơn bão táp cuộc đời.

    Những mộng ảo của vinh hoa phú quý
    Cũng chỉ là vô nghĩa trước ngày mai.


    Những con đường sông núi ta qua
    Bỏ lại ngọt bùi cuốn bao cay đắng
    Trên mảnh đất quê hương hai sương một nắng
    Nơi ta đã yêu và chối bỏ một thời

    Hãy cho tôi tìm được một mảnh trời
    Để tôi viết lên bài thơ tình hay nhất
    Tôi muốn có cho riêng mình mảnh đất
    Đem trái tim làm hạt giống gieo lên.

    Giọng nói xa rồi câu nói cũng lặng im
    Còn đọng mãi trong tôi là bài ca hạnh phúc
    Một chút và rất nhiều
    Như tình yêu muôn đời vẫn thế.​
  2. hanh114212

    hanh114212 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/07/2004
    Bài viết:
    1.850
    Đã được thích:
    0
    Vì sao văn học trường cửu? -
    Cùng với sự phát triển ồ ạt của các phương tiện nghe nhìn, văn học - nghệ thuật đang mất dần đi một lượng lớn độc giả, hiện tượng này không chỉ diễn ra trong một khu vực mà đã trở thành một khuynh hướng chung trên toàn thế giới, đặc biệt là ở các nước phát triển. Dưới đây là bài viết của Dana Gioia - Chủ tịch Quỹ quốc gia Mỹ về Nghệ thuật.
    Năm 1780, nhà ái quốc John Adams từ bang Massachusetts viết một bức thư cho vợ là Abigail. Ông nhấn mạnh cách hình dung của mình về đường hướng nền văn hóa Mỹ cần phải tiến triển trong tương lai: "Anh hiểu mình cần phải nghiên cứu quân sự và chính trị, để các con chúng ta được tự do học toán, học triết". Rồi ông tiếp tục: "Chúng sẽ học thêm địa lý, hàng hải, thương mại, cả nông nghiệp nữa để con cái chúng đàng hoàng hưởng thụ cái quyền được vẽ tranh làm thơ và sáng tác nhạc".
    Nhưng có một hiện tượng kỳ cục đã xảy ra ngay tại "xứ sở của tự do và thịnh vượng" những năm cuối thế kỷ 20. Trong lúc thu nhập quốc doanh tăng trưởng đến mức khó tưởng tượng nổi, các trường đại học mở ra như nấm, và mọi cánh cửa đến một xã hội thông tin đã rộng thênh thang... thì niềm yêu thích mà giới trẻ Mỹ dành cho các ngành nghệ thuật, đặc biệt là văn học lại suy giảm đáng kể.
    Theo điều tra năm 2002 được thực hiện bởi Ngân sách Liên bang, thì người dân Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã bớt quan tâm đến 8 trên 9 loại hình nghệ thuật chủ yếu (chỉ còn mỗi nhạc Jazz là tăng chút đỉnh). Sự suy giảm này đặc biệt đáng buồn trong giới trẻ 18-24 tuổi. Nhưng kết quả gây choáng váng nhất lại là việc khác: Giới sắp bước vào tuổi trung niên đã không còn chịu đọc văn học như trước đây nữa.
    Việc các công dân Mỹ, trong thời đại cảm xúc và tri thức căn bản như ngày nay lại thờ ơ với niềm vui và quyền năng mà văn học mang lại, thật là một khuynh hướng tồi tệ. Mà nếu họ thực sự thay thế văn học bằng lịch sử, sách tiểu sử cá nhân, hay chính trị gì đó thì cũng là một nhẽ. Đằng này các cuốn sách tốt, thuộc bất cứ lĩnh vực nào, cũng đều rớt dài chỉ số phát hành.
    Một hoạt động văn hóa nền tảng và có ý nghĩa lâu dài dường ấy mà còn suy sụp nhanh chóng, thử hỏi cuộc sống đương đại Mỹ hiện chuyển hóa về đâu? Để kêu gọi sự chú ý của cộng đồng, Ngân sách nghệ thuật Mỹ đã hậu thuẫn cho việc xuất bản một tài liệu cảnh báo có tên Liều mạng mà đọc: Một cuộc điều tra về sự đọc văn chương ở Mỹ (Reading at a risk: A survey of Literary reading in America)
    Việc giảm sút khả năng đọc dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, không chỉ riêng trong lĩnh vực văn học. Ý nghĩa của sự đọc gần đây đã ngày càng nóng bỏng, ngay cả trong thế giới kinh doanh. Số tháng hai của tạp chí Điện tín, ví dụ, đã chỉ ra một khuôn mẫu mới cho cái gọi là "thói quen và kỹ năng đúng trong thế kỷ 21", trong đó quyết liệt đòi hỏi năng lực văn chương trong mỗi cá nhân. Theo tác giả bài báo, giáo sư Daniel Pink, điều con người cần nhất không phải là tài năng phân tích, logic, suy diễn mà chính là năng lực sáng tạo cảm xúc và thẩm mỹ, nhằm tìm ra những mẫu hình và các cơ hội, đặng kiến tạo những chân trời mới đủ sức thỏa mãn những nhu cầu của toàn thể loài người. Khi được hỏi loại tài năng nào ông/bà thích được nhìn thấy nhất trong các vị trí quản lý, hầu hết các thủ lĩnh kinh doanh đều trả lời: khả năng tưởng tượng, sức sáng tạo và trình độ tư duy thượng thặng.
    Nhưng thật mỉa mai, mặc cho giới những người chịu trách nhiệm về tương lai nước Mỹ dài cổ ngóng trông, giá trị của văn hóa đọc cùng những hứa hẹn đầy tinh thần tri thức do nó mang lại, lại mỗi ngày một thuyên giảm không cơ cứu vãn. Hiện nay trong xã hội Hoa Kỳ đang hằng ngày hằng giờ vang lên những lời kêu cứu thống thiết, hô hào chặn đứng hậu quả nặng nề do "văn hóa không đọc" gây ra tại tất cả các vị trí làm việc. Năm 2001, Hiệp hội sản xuất Quốc gia Mỹ đã tiến hành thăm dò các thành viên về sự thiếu hụt kỹ năng trong mọi công việc. Kết quả là, trong giới những người hưởng lương theo giờ, sự ít đọc được xếp vào hàng thứ hai, chỉ sau sự sa sút về năng lực hợp tác trên diện rộng. Đến 38% số công nhân được hỏi than phiền rằng nhà trường đã không dạy họ đến đầu đến đũa khả năng đọc hiểu các mảng đề tài.
    Nước Mỹ văn minh, nước Mỹ hiện đại còn khốn khổ do một người chị em của sự thiếu đọc gây ra: năng lực viết kém. Năm 2004 vừa qua, Hiệp hội các trường đại học báo cáo rằng, họ đã phải chi hàng năm khoảng 3,1 tỷ USD cho việc đào tạo khả năng viết lách của các công dân trí thức Mỹ, và điều đó thực quả là một sự thật đáng xấu hổ về trình độ đội ngũ sinh viên ra trường. Nếu kinh tế Mỹ thế kỷ 21cần một sự đổi mới và sáng tạo, thì chỉ nguyên năng lực đọc và năng lực trưởng tượng cũng đã đủ trở thành vấn đề trung tâm tốn rất nhiều công sức trong mọi chương trình có tham vọng.
    Khả năng đọc thuyên giảm của các con dân nước Mỹ cũng gây ảnh hưởng nặng nề đến ý thức công dân của đa phần thành viên. Cuộc điều tra của các nghị sĩ trong Tổ chức Roper (mảng giáo dục Đại học) tiến hành tại 55 trường đại học Mỹ cũng đã cho thấy: 81% sinh viên Mỹ không đạt mức C về hiểu biết lịch sử phổ thông. Một nghiên cứu khác năm 2003 của diễn đàn quốc gia về lập pháp trên độ tuổi 15-16 đã phát hiện ra: "Phần lớn giới trẻ Mỹ không hiểu những ý tưởng xoay quanh quyền công dân, do vậy sự thích ứng và ủng hộ nên dân chủ là rất có giới hạn".
    Có lẽ cũng chẳng đáng ngạc nhiên khi sự suy giảm năng lực đọc luôn trùng khít với mức nông cạn của thanh niên Mỹ trên các khía cạnh chính trị và lịch sử. Một trong những phát biểu gây choáng váng của báo cáo Liều lĩnh đọc là ở chỗ, các độc giả văn chương luôn có ý thức công dân và năng lực yêu thương nhiều gấp bốn lần giới xa rời sách vở, thể hiện rõ nhất khi phải làm từ thiện, được vào thăm các biện bảo tàng, hay tham dự những sự kiện thể thao văn hóa. Một lý do nữa giúp họ thành thục hơn trong các tương tác văn hóa xã hội là ở chỗ, những hành động, cử chỉ lời nói của họ đều thấp thoáng bóng dáng của những giá trị nhân văn cao thượng trong các tác phẩm mà họ đọc được.
    Không giống như khi thụ động xem TV, xem các đầu đĩa DVD, hay khi lướt trên các trang web giải trí... sự đọc nghiêm túc luôn thực sự là những cuộc dấn thân, trải nghiệm đầy tính chủ động. Trang sách mở luôn đòi hỏi con người phải tập trung cao độ, trong một thời gian đủ dài, để đắm chìm hết cỡ vào cõi hoài niệm và tưởng tượng bay bổng. Việc đọc các tác phẩm văn chương còn giúp ta tăng cường cũng như mở rộng thêm nhiều lòng trắc ẩn, đức khiêm cung, giúp chúng ta từ một cuộc đời đến với thật nhiều cuộc đời, dù chúng ta khác nhau và khác nhau biết mấy.
    Trong thực tế chúng ta đã đánh giá chưa đầy đủ vai trò và tầm quan trong của văn học cùng những giá trị văn chương trong tiến trình trưởng thành và thuần thục của một quốc gia, đặc biệt khi chữ nghĩa thực sự chuyển tải đến giới trẻ bản chất của các sự kiện quá khứ, những nguyên tắc sống còn của việc duy trì và phát triển một xã hội dân sự hiện đại. Chúng ta đã quên rằng, người Hy Lạp trong quá khứ đã học được từ các trường ca của Homer nhiều hơn hẳn từ các bài thuyết giảng khô khan của Platon. Mà chẳng nói đâu xa, con dân nước Mỹ ngày nay có biết chăng, nền tảng của các phong trào bãi nô thế kỷ 19 chính là tác phẩm Túp lều bác Tom.
    Cũng như vậy liệu dân Mỹ hiện nay có biết rằng, những vần thơ của Walt Whitman đã giúp cho nước Mỹ tự ý thức về mình nhiều hơn hẳn mọi chiến dịch vận động chính trị? Ngày nay, khi các công dân Mỹ tưởng nhớ về cái thời suy thoái khủng khiếp trong quá khứ, liệu điều gì ấn tượng hơn hình ảnh gia đình Joad trong tác phẩm Chùm nho nổi giận của văn sĩ John Steinbeck? Nếu không có những di sản văn chương như thế, lịch sử liệu đã tiến hóa theo hướng nào?
    Tuy nhiên để có thể chú tâm được đến các ý nghĩa xã hội, nhân văn của nền giáo dục trong nhà trường, chúng ta không thể bỏ qua các tác động cá nhân của văn học. Hàng ngày các tác giả vẫn hay nhận được những bức thư từ độc giả, đại loại nói: "cuốn sách của ngài đã làm thay đổi đời tôi". Lịch sử từng chỉ ra vô số trường hợp, trong đó các nhân vật nổi tiếng luôn bị ám ảnh bởi những tác phẩm gối đầu giường. Khi nhà tư tưởng John Stuart Mill thời Victoria phải chịu ách đè nén nặng nề thời niên thiếu, chính thơ ca của Wordsworth đã phục hồi cho ông niềm lạc quan và sự tự tin cần thiết trong đời, đến mức sau này ông đã phải thốt lên: "Đó thật sự là những thần dược cho trạng thái tinh thần của tôi".
    Một vài thập kỷ sau, W.E.Dubois đã nhận thấy một tác dụng diệu kỳ khác của văn chương, đó là sự giải thoát của Jim Crow khỏi thế giới nhạt nhòa đến với tự do và bình đẳng. "Tôi được ngồi cùng Shakespeare", Dubois mô tả "và ông giúp tôi làm bạn với Dumas và Balzac, cùng yêu thương những gã trai đang mỉm cười và những thiếu phụ đôn hậu diễu qua tranh sách". Văn học thật sự là một chất xúc tác vô song của văn hoá và giáo dục.
    Sự hiển nhiên về tầm quan trọng của văn chương đối với con người đời sống thật đã rõ và không thể coi thường. Sự suy giảm năng lực đọc trong xã hội Mỹ hiện nay đang phủ bóng mây u ám lên mọi vấn đề kinh tế lẫn xã hội dài lâu, thậm chí có cũng ảnh hưởng xấu đến cả những đề tài hằng ngày đang gây tranh cãi trên chính trường nước Mỹ. Các thư viện các cơ sở đào tạo, rồi các tổ chức xã hội đang nỗ lực thực hiện những công việc đáng kính, nhưng để định vị được một khả năng thức tỉnh lớn cho toàn cộng đồng thì đòi hỏi phải có sự ra tay của lãnh tụ các đảng phái, cùng giới chủ trong mọi cơ sở sử dụng lao động.
    Văn học đang phải thi đua với một loạt phương tiện truyền thông đại chúng. Nếu như không loại hình thông tin nào một mình phải chịu trách nhiệm về sự nông nổi của các công dân Mỹ, thì chính là sự quảng cáo khuếch trương quá lớn các giá trị thực dụng trên tất cả các phương tiện đó đang phải chịu trách nhiệm này.
    Đọc không bao giờ là một khả năng tự có, dễ dàng. Đó thực sự là một kỹ xảo trí thức cao cấp, phụ thuộc rất nhiều vào các tiền tố đạo đức, kinh tế, văn hóa, giáo dục... được xây dựng trước trong xã hội. Càng nhiều người Mỹ xa rời các giá sách, dân tộc này càng ít thông tin, ít ý thức và ít bản lĩnh suy nghĩ độc lập, và đó không phải là những phẩm chất mà một xã hội được tiếng là năng động, cởi mở và tự do có thể dễ dàng coi thường.
    Nguồn: Văn nghệ

  3. hanh114212

    hanh114212 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/07/2004
    Bài viết:
    1.850
    Đã được thích:
    0
    Mình thấy một số bài báo nói về văn chương nên post vào đây để các bạn cùng đọc và suy ngẫm!
    Định hình thế hệ nhà thơ trẻ hiện nay
    -
    Ở mỗi giai đoạn lịch sử, thơ ca nói chung nếu chưa có một bộ dạng khác với các giai đoạn khác, thì ít nhất nó cũng có một "khí hậu" riêng. Vậy liệu đã hình thành một thế hệ nhà thơ khác, hiện đại hơn thế hệ trước? Sự kế thừa và cái mới ở các nhà thơ trẻ hiện nay là gì? Nhà thơ Lê Minh Quốc, Đoàn Vị Thượng, Phạm Sỹ Sáu, Nguyễn Thái Dương đã có cuộc trao đổi xung quanh những vấn đề này.
    Lê Minh Quốc

    Tôi thường không thích sự phân chia các thế hệ làm thơ. Một bài thơ hay dù viết cách đây ngàn năm cũng có giá trị như bài thơ hay viết trong năm 2005. Với tôi, Nguyễn Du vẫn trẻ, trẻ đến độ ta tưởng chừng thiên tài này vẫn tồn tại cùng thế hệ chúng ta. Trong khi đó có những nhà thơ sống trong thế kỷ 20, nhưng lại cảm tưởng như họ đã chìm khuất trong vệt bụi mờ của thời gian, dù hàng ngày vẫn có thơ.

    Thế nào là hiện đại? Câu ca dao đi vào trí nhớ của nhân loại Thương em anh khóc đã mòn con ngươi là hiện đại đấy chứ! Nó hiện đại đến mức tưởng chừng như khó có thể tìm cách nói nào khác ấn tượng hơn thế nữa. Đó chỉ là một trong rất nhiều ví dụ. Tính hiện đại của thơ không nằm trong hình thức biểu hiện. Nó nằm ở tư tưởng. Tôi rất sợ những câu biểu đạt tiếng Việt một cách ngô nghê, ngọng nghịu. Nói như ông Trần Mạnh Hảo, đó là phong cách của những người "tự dịch thơ mình ra tiếng Việt" vậy.

    Gần đây có những anh em trẻ thể nghiệm tìm tòi cách diễn đạt mới trong thơ. Tôi ủng hộ thái độ này, ủng hộ thái độ dũng cảm dám sống tận cùng với thơ. Nhưng thơ có cho họ sống chung hay không lại là chuyện khác.

    Ở bất cứ thời điểm nào cũng có những người trẻ tuổi gan dạ trên chiếc đu bay cả. Nhưng chỉ có thái độ thôi vẫn không đủ, vấn đề cốt lõi vẫn là tài năng. Thật ra không phải khi trẻ người ta mới thể nghiệm, mà đến lúc bạc đầu, các nhà thơ đích thực vẫn đau đáu muốn khám phá đến tận cùng bí ẩn của thơ. Ở nhà thơ lớn Chế Lan Viên là một ví dụ điển hình, qua tập Di cảo thơ, ta kinh ngạc và cảm nhận ông tươi trẻ đến lạ lùng, hiện đại đến lạ lùng.

    Trong cuộc chơi này, nếu một khi nhịp điệu của tâm hồn anh còn giông tố, còn bất an, còn tan nát bởi, chẳng hạn, ngọn gió của thời cuộc, ngọn roi của tình ái... thì may ra còn có thơ, nếu bình lặng quá, yên bình quá, "công chức" quá thì thơ cũng bỏ ta đi thôi. Đi tìm cái mới trong thơ ư. Nhà thơ, anh hãy hỏi tâm hồn của chính anh.

    Đoàn Vị Thượng

    Nếu chữ khác, hiện đại hơn hiểu trên bình diện rộng thì tôi khẳng định "có". Nó cũng giống thế hệ nhà thơ thời chống Mỹ khác, hiện đại hơn thế hệ chống Pháp, và thế hệ sau 1975 cũng khác, hiện đại hơn thế hệ thời chống Mỹ. Đó gần như là quy luật bình thường. Thế thôi.

    Còn nếu nói khác, hiện đại hơn trên bình diện hẹp, cụ thể thì... khó nói, vì đúng là thế hệ nhà thơ - mà tôi tạm gọi là hậu đổi mới - tuy biểu hiện rõ sự tự do hơn, trong cả nội dung đề tài lẫn thể loại, phong cách, nhưng hầu như mỗi người một vẻ, rời rạc, lẻ loi, lẻ tẻ chứ chưa tập trung thành một lực lượng đại diện cho một phong cách, một trường phái hay ít nhất, một nhóm có quan điểm thống nhất trong sáng tác, sáng tạo. Và cũng chưa thấy một hai tác giả, hoặc một số bài thơ, tập thơ nào "đóng đinh" được một cách thuyết phục các giá trị khác, hiện đại đó vào mình.
    Nhưng tôi xin nói thêm: Có vẻ như hầu hết các cây bút "hậu đổi mới" rất ít có tham vọng trở thành nhà thơ chuyên nghiệp, hoặc ít ra như một tác giả có một tài sản thơ nhất định. Họ chỉ làm thơ tùy hứng như một cách giải phóng năng lượng cá nhân, (cũng có thể gọi là một thú tiêu khiển) để tìm kiếm, mong muốn biểu hiện sự bình đẳng của cá nhân mình, thế hệ mình với đồng loại cùng trang lứa trên khắp thế giới.

    Phạm Sỹ Sáu

    Theo tôi thật sự đã có một thế hệ nhà thơ mới xuất hiện trên văn đàn từ trong khoảng 10 năm trở lại đây. Sự xuất hiện này có tính đồng loạt và khá tập trung nhưng lại không nhất quán bởi điều kiện khách quan sau: Các phương tiện thông tin đại chúng đã làm cho lực lượng thơ trẻ có cảm giác như bị phát tán. Nó hoàn toàn khác với thế hệ sau 1975, vì khi ấy thế hệ này chỉ góp mặt tập trung ở một số tờ báo.

    Bởi thế sự đa phong cách cũng xuất hiện. Có người như một thử nghiệm. Có người đã chủ định được con đường của mình. Với tôi, tôi chấp nhận tất cả. Anh muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, nhưng thơ vẫn phải là một tiếng lòng. Tôi nghĩ độc giả cũng thế, họ vẫn muốn tìm trong sáng tạo những bài thơ thật, không phải làm dáng mà để giãi bày tâm sự.

    Tôi cho rằng các bạn trẻ không hề chối từ cái quá khứ mà vẫn kế thừa trên cái nền văn học cũ. Cái khác nếu có chỉ là họ đã phả vào ngôn ngữ thơ cái hơi thở hiện đại, chữ nghĩa hiện đại của đời sống đương đại cung cấp. Tôi không nghĩ có gì mới kể cả với nhóm Mở miệng. Vấn đề chỉ là họ đang mang cái tâm thế của thế hệ mình.

    Tôi tiếc một điều là nhạc điệu trong thơ trẻ hôm nay đang bị mất dần. Đó là một nguy cơ, một nỗi lo. Theo tôi dù thế nào, thơ vẫn phải có nhạc điệu. Điều này, tôi không nghĩ là họ đã có một hệ thẩm mỹ khác, nó chỉ "rổn rảng" hơn, "hip hop" hơn mà thôi.

    Nguyễn Thái Dương

    Việc định hình thế hệ thơ sau 1975, nói một cách công bằng, ngoài tài năng thi sĩ của mỗi cá nhân, còn có sự trợ giúp khách quan của thời điểm. Cái mốc lịch sử "sau 1975" góp phần đáng kể về hình thức, làm tôn vinh thêm nội lực vốn có của thế hệ Nguyễn Nhật Ánh, Đỗ Trung Quân. Lê Thị Kim, Phạm Sỹ Sáu, Đoàn Vị Thượng, Trần Hữu Dũng, Hồ Thi Ca, Thanh Nguyên, Bùi Chí Vinh, Lê Minh Quốc, Trương Nam Hương...

    Thế hệ sau đó có vẻ như chưa rõ nét lắm vì sự định hình bằng chính bản thân tác phẩm đòi hỏi khó hơn so với trước. Trẻ hơn, sung sức hơn, tài năng hơn là khác, thế hệ sau - cái thế hệ chưa thật định danh trong lòng người đọc cho lắm - đã biểu lộ được nét tài hoa trong sự khám phá, lùng sục, đào khoét, ngay cả "soi mói" một cách đáng yêu vào mọi ngõ ngách hình thức và nội dung của đời sống thơ. Họ đã có được sự "ngăn sông cách núi" trên "đường đi khó" của thi ca là tìm kiếm, mày mò trong khi thế hệ trước có vẻ như bằng phẳng hơn trên lộ trình thơ nhờ vốn liếng thực tế của đời sống sau 1975 đã kích thích thúc giục niềm thi ca ở họ. Tự nguyện đến với thơ, thế hệ trước đã có mặt ở tất cả các vị trí: Bộ đội, thanh niên xung phong, vùng sâu vùng xa... để khơi nguồn cảm xúc. Thế hệ sau không có được cái "điều kiện" ấy nhưng họ đã phần nào "qua mặt" được đàn anh nhờ sự tài hoa, thông minh, nhạy cảm trong quá trình tự thể hiện. Tôi tự hào với Nguyễn Danh Lam, Trần Lê Sơn Ý, Tú Trinh, Phan Trung Thành, Thanh Xuân, Trần Kiến Quốc, Quốc Sinh, Trần Đình Thọ, Ly Hoàng Ly... là những người bạn thơ trẻ.

    Nhìn ở góc độ kế thừa hay từ chối, theo tôi, thế hệ sau có cả hai. Sự yêu thơ của một cá nhân nào đó tất nhiên phải bắt đầu từ cái có trước, cái truyền thống. Hiểu theo nghĩa đó thì nhà thơ nào cũng có sự kế thừa. Còn từ chối, theo tôi cũng chỉ có nghĩa là vượt qua sự kế thừa và vượt qua chính mình. Điều này cũng đã được họ thể hiện qua tác phẩm. Cái mới, ngoài cái tứ còn là hình thức, mà chủ yếu là hình thức. Khi có hình thức mới thì nội dung cũng mới theo. Sự biểu hiện cảm xúc thông qua cái mới phải là tài năng, nhưng đi được vào lòng người hay không lại là chuyện khác.
    Nhưng điều tôi vẫn thật sự băn khoăn là làm thế nào để thế hệ sau cũng có được điều như các thế hệ khác: Thơ phải đi vào lòng người yêu thơ dù được thể hiện ở hình thức mới mẻ nào.

    ***
    Nguồn: Thể thao & Văn hóa

  4. hanh114212

    hanh114212 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/07/2004
    Bài viết:
    1.850
    Đã được thích:
    0
    Còn đây là một truyện ngắn của một nhà văn trẻ! Mời các bạn thưởng thức!
    Hạnh phúc ở phía những giấc mơ
    Ngọc Châu

    Chị chưa bao giờ nghĩ căn bệnh này có thể tàn phá được anh, có thể lấy đi của anh sức trẻ trung. 5 năm qua anh sống chung với nó như không hề có nó tồn tại, không hề có một dấu hiệu nào của bệnh tật hay đau yếu. Và chị đã tin, thực sự tin bệnh tật chỉ có thể hành hạ người khác, còn với anh thì không. Ông trời thương anh, đã cho anh một sức đề kháng mãnh liệt chống lại nó. Nhưng giờ đây chị biết mình đã nhầm. Căn bệnh bắt đầu gậm nhấm anh từ những vết nứt và bong da ở chân, từ việc giảm đi nhu cầu gần gũi vợ chồng. Theo các bác sĩ, những người mắc bệnh như anh sẽ giảm đi 25-75% khả năng làm chồng, làm cha. Anh là một người đàn ông đã có tuổi. Ngoài 60, đâu còn trẻ nữa. Chị thoáng nghĩ đến một ngày nào đó chị sẽ phải xa anh mãi mãi. Xa anh mà chưa kịp sinh cho anh một đứa con như hai người thầm nói với nhau trong mỗi lần ân ái. Đứa con của anh. Chị cần có nó. Nó là minh chứng, là hiện hữu cho tình yêu của chị. Nó sẽ thông minh như anh, xinh đẹp và hiền dịu như chị. Một đứa trẻ được sinh ra từ tình yêu và niềm khao khát. Đứa trẻ mà chị đã có thể có, nếu như?
    ***
    Chị không phải là vợ anh. Chị là một người đàn bà đến với anh bằng tất cả sự ngưỡng mộ và tình yêu. Một thứ tình nếu nhìn từ ngoài vào có vẻ phi lý và không có thực. Có lần chị kể cho mẹ chị nghe câu chuyện về một cô học trò lấy thầy giáo hơn mình 30 tuổi. Nghe chuyện mẹ chị nói: ?ochắc là vì tiền?. Bà sẽ nghĩ sao nếu cô học trò đó là con gái bà? Bà có nghĩ con gái bà vì tiền? Chắc bà không thể tin được điều đó. Bà có bao giờ để cho nó thiếu thốn bất cứ cái gì đâu? Cần quần áo đẹp, có quần áo đẹp, cần tiền tiêu, có tiền tiêu. Chẳng lẽ là tình yêu? Con gái bà vốn rất mơ mộng và lãng mạn. Nhiều lúc bà thấy nó không thực. Nó như một nhân vật vừa bước ra từ những cuốn tiểu thuyết từ thế kỷ 19. Thế giới của nó là những trang sách. Nhiều lần bà đã phải nói con cần thực tế hơn, cần quan tâm tới bản thân con, cuộc sống thực của con chứ không phải cuộc sống trong mộng. Hiểu con gái mình, nhưng bà có tin rằng chị yêu? Bà sẽ đón nhận câu chuyện chị kể thế nào nếu con gái bà là nhân vật chính?
    ***
    Nhiều lúc chị tự hỏi, tại sao mình lại chạy đến với anh, lại lao vào anh như một con nghiện đang lên cơn chạy theo mồi thuốc? Số phận chăng? Số phận đã cho chị gặp và yêu anh dù chị kém con út của anh tới hai tuổi.
    Lần đầu tiên gặp nhau, anh kể cho chị nghe câu chuyện về một nhà thơ, bà đã đương đầu với tất cả dư luận để yêu và sinh cho mình một đứa con. Khi đứa bé ra đời, chính những người phản đối bà đã yêu thương và che chở, đã cùng bà chăm lo cho đứa trẻ. Và anh kể câu chuyện về cuộc đời anh. Cuộc đời của một người đàn ông mà chị chỉ biết những ánh hào quang xung quanh. Những ánh hào quang được tạo nên bởi dư luận của số đông ngưỡng mộ, yêu mến anh. Trong đó có chị. Trong cuốn sổ tay chị, chị chép đặc những bản nhạc anh sáng tác. Những bản nhạc viết về tình yêu ?obao giờ cũng buồn? như rất nhiều người yêu nhạc anh nhận xét. Người đàn ông của công chúng đã bày tỏ với chị nỗi đau trong lòng mình. Bày tỏ sự cô đơn, trống trải. Nỗi đau của người đàn ông được cả xã hội cúi nhìn nhưng trong cuộc đời riêng, trong sâu thẳm chứa chất nỗi buồn của kẻ có ba đứa con mà chẳng đứa nào là của mình.
    Bỗng chốc chị thấy mình như một cô tiên, đến bên anh, ban phước lành cho anh. Ông trời đã cố tình sắp đặt, đã chọn chị là người mang lại cho anh một chút niềm vui, một chút hạnh phúc giản dị nhất mà bất cứ người đàn ông nào cũng có thể có được và chị coi việc sinh cho anh một đứa con là sứ mệnh thiêng liêng nhất trong cuộc đời chị.
    ***
    Chị có thai. Thoáng chút lo lắng khi nghĩ tới gia đình, khi nghĩ tới nghĩa vụ của một người con. Không chồng mà chửa. Ba mẹ chị sẽ gánh chịu dư luận này thế nào đây? Nhưng ba mẹ chị sẽ không thể biết gì về đứa bé. Chị đã chuẩn bị rất kỹ cho nó trào đời. Một chuyến đi công tác dài ngày, bắt đầu từ khi chị không thể nào giấu mọi người là mình có thai. Một chuyến đi công tác miền Nam, đến tỉnh cuối cùng của tổ quốc. Và tết - khi đứa bé đã ra đời được hơn hai tháng. Nếu đúng như chị tính toán thì sẽ là 2 tháng 17 ngày chị sẽ về. Xa nhà tám tháng, đó cũng là việc bình thường thôi. Các bạn chị vẫn thường đi công tác một năm mới về một lần. Tất nhiên chúng nó không có đủ tiền để đi máy bay. Đi ôtô cũng mất 2 tháng lương và 7 ngày. Còn chị? Bố mẹ chị sẵn sàng bay vào thăm con hay gửi vé cho chị về. Cả điều ấy chị cũng đã nghĩ đến. Chị sẽ nói là công việc quá bận không thể về được. Chị sẽ thay số điện thoại và chủ động gọi về nhà mỗi tuần hai lần để ba mẹ có cảm giác lúc nào cũng có chị bên cạnh. Nếu ông bà muốn vào thăm chị, chị sẽ từ chối bằng những chuyến đi công tác. Họ sẽ tin. Từ xưa đến nay, chị luôn là đứa con gái được ba mẹ tin tưởng. Không ai nghĩ chị có thể nói dối. Nhất là với một việc ?otày đình? như thế.
    Một người bạn của anh sẽ thay anh chăm lo cho chị khi chị bụng mang dạ chửa.
    Theo chẩn đoán ban đầu của bác sĩ, đứa bé có cùng ngày sinh với chị. Chị tin đó là một cậu bé. Niềm tin càng được khẳng định vững vàng hơn khi chị xem trong quyển sách ?oBí quyết sinh con theo ý muốn? thì đứa bé sẽ là con trai. Con trai.
    Khuôn mặt anh rạng rỡ và trẻ ra đến 5 tuổi khi nghe tin ấy. Trong thoáng chốc, chị không còn nhìn thấy nếp nhăn trên đó. Đứng trước chị là một người đàn ông 30 tuổi lần đầu được làm cha. ?oHai mẹ con? Anh âu yếm gọi chị và hài nhi nhỏ nhắn trong bụng chị bằng ba từ âu yếm ấy. ?oHai mẹ con. Anh trông từng ngày, từng giờ mong được nhìn thấy đứa trẻ.
    ***
    Chị đi lại trong căn phòng nhỏ đến hơn 100 lần. Có chuyện gì nhỉ? Tại sao mẹ chị lại gọi chị về ngay. ?oMẹ cần con giải thích cho những lời đồn về con?. Những lời đồn ấy có phải vì đứa bé không? Nếu người ta đồn đại về con, mẹ sẽ phải làm gì bây giờ? Bố con nói với mẹ: ?oEm phải hy sinh, em hãy nghĩ đến gia đình. Chuyện của chúng ta cứ để vài ba năm nữa, khi em đã có tuổi, khi mọi người chỉ muốn em có một đứa con cho ?oxong chuyện? thì chúng ta sinh con cũng chưa muộn. Bố em bị bệnh tim, liệu ông có thể vượt qua cú sốc khi biết con mình có thai hay không? Em hãy nghĩ cho thật kỹ. Em biết hơn ai hết là anh mong có con đến thế nào. Nhưng thôi, nếu chuyện vỡ lở mình đành lòng vậy?.
    ***
    Chị phủ định mọi lời đồn đại về đứa bé, về anh khi nghe mẹ hỏi. Chuyến đi công tác dài ngày được huỷ bỏ, thay vào đó là một tháng nghỉ phép về sống cùng gia đình. Sự hiện diện của chị ở nhà như lời cải chính cho tin đồn đại kia là hoàn toàn giả dối.
    ***
    Chị đi dọc theo triền đê và thơ thẩn nghĩ về số phận. Có số phận không nhỉ? Chị bây giờ đã ngoài 30, đã ở cái tuổi ?ochẳng ai thèm để ý nữa?, đã đến lúc ?ochúng ta có thể có con mà không sợ dư luận? như anh nói thì anh lại không thể cho chị những đứa con. Số phận buộc chị và anh phải là những người cô đơn với khao khát không bao giờ đạt tới? Cuộc đời chỉ như một trò đùa với những người hết lòng vì tình yêu. Chị và anh như ngọn đèn đã cháy hết dầu chỉ còn lại cái bấc khô. Biết trách ai bây giờ? Trách kẻ đã tung ra tin đồn hay trách mình hèn nhát sợ những lời đồn? Dư luận chẳng là ai, chẳng là gì cụ thể mà có thể huỷ hoại cuộc sống của con người. Dư luận là một đám nâng người ta lên đến đỉnh cao của danh vọng khi người ta đạt được một chút thành tích nào đó trong xã hội. Và cũng chính dư luận kéo người ta từ cõi bồng lai tiên cảnh về địa ngục, giết chết đi những mong mỏi hạnh phúc thật sự của con người.
    Năm trăm năm trước đây, nơi chị đứng là một bến cảng đã tạo nên một khu phố sầm uất nức tiếng ?othứ nhì phố Hiến? mà giờ đây nó chỉ còn là một dòng sông nhỏ. Thỉnh thoảng vào mùa mưa bão, người ta mới có thể đặt vó bè hoặc thả những con thuyền nhỏ đánh cá. Năm trăm năm sau dòng sông này sẽ đổ về đâu? Sông Hồng có một lần nữa đổi ngọn? Nhưng dù lớn hay nhỏ, dù mênh mông tấp nập hay lặng vắng thì mọi con sông đều hòa mình vào biển cả. Ở phía biển cả mênh mông, chị nghe tiếng con chị đang gọi. Cậu bé đang rất nhớ mẹ. Đang thèm được mẹ bế ẵm. Phía đó - phía những giấc mơ chị thấy mình hạnh phúc

  5. hanh114212

    hanh114212 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/07/2004
    Bài viết:
    1.850
    Đã được thích:
    0
    Hai anh em
    Nguyễn Nguyên Phước
    Looke heere upon this Picture, and on this,
    The counterfet presentment of two Brothers 1
    (W. Shakespeare)
    Dương kém Hoàng hai tuổi. Nhìn bề ngoài, họ khá giống nhau. Hoàng là một chàng trai tính tình cởi mở, dễ mến; hơn thế, chàng thể hiện sự cởi mở ấy tự nhiên đến mức người ta không cảm thấy một sự cố gắng nào cả, cứ như thể đó là một năng khiếu bẩm sinh. Đám con gái luôn bị mê hoặc bởi nụ cười quyến rũ ẩn dưới cái nhìn hơi giễu cợt của chàng. Những người đố kỵ thường không thấy ở Hoàng một sự say mê đặc biệt nào cả và đi đến kết luận chàng là kẻ hời hợt. Hoàng đương nhiên chẳng lấy đó làm bận tâm; nói chung, chàng chẳng bao giờ bận tâm đến điều gì cả. Hoàng luôn suy nghĩ đơn giản và cho rằng đó là khởi nguồn của hạnh phúc. Dương không nổi bật như ông anh trai. Chàng ít nói, khuôn mặt hơi cau có khiến nhiều người ngại tiếp xúc. Từ bé, Dương đã quen sống lủi thủi một mình.
    Tốt nghiệp đại học, Hoàng vào thế chỗ ông bố vừa về hưu trên Bộ. Bốn năm sau, Hoàng lấy vợ. Ngọc có vẻ đẹp cổ kính như trong những bức ảnh đen trắng chụp cách đây nửa thế kỷ. Hoàng lấy vợ được một năm thì Dương chuyển hẳn vào Sài Gòn làm việc. Bàn làm việc của Dương có một giò hoa giả được làm rất khéo đến mức nếu không chạm tay vào thì không thể nhận ra đó là hoa giả. Vào buổi chiều, giò hoa giả sáng rực lên dưới ánh nắng hắt qua cửa kính văn pho?ng. Những lúc như thế Dương lại nhớ đến chị dâu. Chàng vẫn nhớ lần gặp đầu tiên, Hoàng giới thiệu Ngọc với gia đình. Nàng bước vào phòng, khuôn mặt ửng hồng vì giá lạnh ngoài đường. Mẹ chàng pha trà mời khách. Nàng đỡ lấy tách trà, áp chặt hai bàn tay hơi run run vào thành chén một lúc lâu. Những ngón tay trắng muốt, xanh xao, gầy gầy như dần lấy lại sinh khí. Căn phòng trở nên ấm áp hơn. Dương rất ít nói chuyện với Ngọc ngay cả khi nàng đã là chị dâu chàng. Trong những lần nói chuyện hiếm hoi đó, luôn có mặt ít nhất một người khác. Có lẽ điê?u đó khiến chàng tự tin hơn. Dương không thể hình dung chàng sẽ xoay sở thế nào nếu phải nói chuyện với Ngọc nếu trong phòng chỉ có hai người. Khi đó hẳn chàng chỉ còn biết im lặng. Chàng hay nghĩ rằng quyết định chuyển vào miền Nam là để trốn tránh việc phải tiếp xúc với chị dâu. Nhưng cũng có lúc chàng lại có cảm giác rằng việc đó ít nhiều liên quan đến ông anh trai mà chàng vốn coi thường.
    Thỉnh thoảng, Dương vẫn gọi điện về nhà. Thường thì mẹ chàng là người nhấc máy. Giọng bà hơi lạ, khác với giọng nói có phần cay nghiệt mà Dương thường nghe hồi ở nhà. Cha chàng ít quan tâm đến gia đình. Thỉnh thoảng, ông tỏ ra tự hào về Hoàng, người mà theo lời ông chính là bản sao của ông thời trai trẻ nhưng chẳng bao giờ nhắc đến Dương. Sài Gòn ồn ào và náo nhiệt, khác hẳn Hà Nội. Vào những ngày tháng chạp, Dương hay nhớ đến cái rét Hà Nội và căn nhà thời thơ ấu. Mỗi lần gió mùa đông bắc về, chàng thường phải lấy giấy bịt chặt những chỗ hở để tránh gió lùa. Cha mẹ và Hoàng hay càu nhàu về việc đó; họ nói rằng làm như vậy ngôi nhà sẽ xấu đi. Những buổi sáng mùa đông Hà Nội, Dương thường phải dậy sớm từ lúc trời tờ mờ sáng. Lúc đó mọi cái đều thuộc về một thế giới hoàn toàn khác, một thế giới câm lặng. Dương nhìn sang bên kia đường nơi ánh đèn cao áp sáng mờ mờ, cảm thấy lòng mình trĩu nặng vì chỉ lát nữa thôi, thế giới câm lặng kia sẽ hoàn toàn biến mất.
    Hồi mới vào Sài Gòn, mỗi khi tỉnh dậy Dương cứ ngỡ mình đang ngủ ở nhà. Đôi khi, chỉ cần nhắm mắt lại là chàng có thể hình dung ra căn nhà của mình: giàn hoa giấy trước cửa, con mèo nhỏ lười nhác nằm bên bệ cửa sổ. Chàng nhớ đến cái ngõ hẹp ở Hà Nội chỉ đủ cho một chiếc xe máy lách qua. Những ngôi nhà chen chúc nhau hẹp đến mức mỗi khi ngước nhìn, bầu trời chỉ còn là một vệt sáng mờ. Ngõ hẹp nối với nhau tạo thành một ma trận khổng lồ với những con đường sâu hun hút thường dẫn đến một bãi đất trống hay cái hồ lớn khiến người ta cảm giác nơi đây là tận cùng của thế giới. Chàng nhớ đến hàng phở trên vỉa hè nơi có những con người lụp xụp ngồi ăn vào mỗi buổi sáng mùa đông. Nghĩ đến Hà Nội, Dương thấy tim mình nhói đau, chàng không hiểu tại sao mình lại rời bỏ nó. Sau ba năm sống ở Sài Gòn, Dương lấy vợ. Vợ chàng là một người hoàn toàn không có gì đặc biệt. Nàng nhu mì ít nói, đến cả nụ cười cũng có phần gượng gạo. Hai người sống trong một căn hộ chung cư nhỏ. Nó tương đối biệt lập với thế giới bên ngoài. Từ cửa sổ nhìn xuống bên kia đường, Dương hay có cảm giác như mình đang biến thành một con mắt của người khổng lồ. Thành phố những lúc như thế bỗng thu nhỏ lại vừa vặn trong tầm mắt đến nỗi chàng tưởng mình đang ở Hà Nội.
    Dương không phải là người thành đạt. Mỗi khi thành công đến trong tầm tay thì không hiểu vì một lý do nào đấy, mọi cái đột nhiên biến mất và chàng phải bắt đầu lại từ đầu. Đồng nghiệp nói chung không ưa chàng; dưới mắt họ, Dương là một gã lập dị điên khùng. Người thì thương hại, kẻ thì nói xấu sau lưng nhưng cuối cùng họ đều cảm thấy mệt mỏi. Con người cứng đầu kia hoàn toàn không để tâm gì đến họ. Hắn ta cứ thế lầm lũi bước trên con đường của mình. Khi thất bại, Dương hay nghĩ đến Ngọc. Chàng tin rằng nàng không hạnh phúc. Hoàng nổi tiếng lăng nhăng từ thời sinh viên và chắc chắn anh ta chẳng bao giờ thay đổi.
    Mẹ chàng có duy nhất một lần viết thư hồi chàng mới vào Sài Gòn được mấy tháng. Thư viết bằng mực tím, chữ to như chữ học sinh tiểu học, nét hơi run run. ?oMẹ biết - bà viết - bố mẹ đã không công bằng với con. Mẹ cũng chẳng hiểu tại sao mọi chuyện lại như thế.? Dương không viết thư trả lời, mấy hôm sau gọi điện thoại chàng cũng chẳng đề cập đến chuyện đó. Nhưfng câu chuyện cha?ng nói với mẹ thươ?ng te? nhạt va? nhát gư?ng. Môfi lâ?n dập máy, cha?ng gâ?n như ngay lập tức nhận ra mi?nh đaf quên không nói điê?u quan trọng nhất, mục đích chính cu?a cuộc điện thoại. Một thời gian sau, Dương hầu như không thể hình dung nổi khuôn mặt của cha mẹ chàng nếu không xem ảnh.
    Thỉnh thoảng, Dương tưởng tượng ra cảnh mình sinh ra trong một gia đình khác. Cha chàng không còn là cha chàng, mẹ chàng cũng là người khác, còn chàng là con một. Gia đình này nghèo hơn gia đình chàng, chẳng hiểu sao chàng luôn tưởng tượng như thế. Liệu khi đó chàng có hạnh phúc không? Dương không bao giờ trả lời được. Mỗi lần hình dung ra cảnh mình sống trong gia đình tưởng tượng đó, Dương lại suy nghĩ miên man và dường như có một sức mạnh vô hình lôi chàng đến với câu hỏi kia; nó giống như một con đường định sẵn dẫn đến ngõ cụt, toàn bộ câu chuyện bỗng sụp đổ trong nháy mắt.
    Chiều ngày thứ ba, Dương nhận được tin anh trai mất. Một người bà con gọi điện cho vợ chàng. Hoàng bị tai nạn giao thông. Dương hầu như chẳng có cảm giác gì. Lúc đó, trời đã sẩm tổi. Ánh đèn tuýp hắt xuống bình hoa hướng dương đặt góc phòng in trên tường như những con rắn đang ngóc đầu dậy. Vợ Dương đứng cạnh Ngọc, trông nàng rất không thoải mái. Đây là lần thứ hai nàng đến nhà chồng. Chẳng biết sự xa cách bấy lâu hay không khí u buồn của đám tang khiến nàng khó chịu. Mẹ Dương hầu như không dậy được. Bà nằm bẹp trên giường, thỉnh thoảng lại rên khe khẽ, khó nhọc. Khi Dương ra đến Hà Nội thì thi hài của Hoàng đã được khâm liệm. Mọi người nói rằng khuôn mặt Hoàng biến dạng đến mức không thể nhận ra nhưng Dương không thể hình dung được. Chàng chỉ còn được thấy tấm ảnh Hoàng cười rất tươi bên cạnh bát cơm đầy với quả trứng đã ngả sang màu trắng xanh trên chiếc quan tài sơn đỏ. Ngọc hầu như không khóc. Khuôn mặt nàng trắng bệch, toàn thân bất động như một bức tượng bằng đá cẩm thạch. Mắt nàng như đang nhìn về một nơi xa xăm nào đó. Nàng cúi đầu đáp lễ khách viếng tang như một cái máy. Thỉnh thoảng, Dương liếc về phía Ngọc, cảm thấy sợ hãi đến nỗi chàng không đủ can đảm nhìn lâu. Tang lễ xong, Ngọc đưa cho Dương một tờ giấy được gập sẵn làm tư rồi lặng lẽ đi xuống nhà dưới. Dương nhét vội tờ giấy vào ca-táp rồi đi về phòng ngủ, đám tang khiến chàng kiệt sức.
    Ngồi cạnh vợ trên máy bay, Dương im lặng suốt. Cô tiếp viên hàng không hỏi câu gì đó không rõ, chàng chỉ nghe loáng thoáng thấy vợ chàng bảo cơm gà cho cả hai. Ngoài ô cửa sổ máy bay, bầu trời chỉ còn một màu xám xịt. Một lúc sau, Dương giở bức thư Hoàng viết cho chàng cách đây một tháng, đọc lại lần nữa. Bức thư viết dở, chỉ có duy nhất một câu: ?oChúng ta sẽ chẳng bao giờ hạnh phúc?.
    Nagoya 4/2005

  6. hanh114212

    hanh114212 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/07/2004
    Bài viết:
    1.850
    Đã được thích:
    0
    Người ấy Hồ Thị Hòa
    Đến gần ngã tư, hắn cho xe đi chậm lại, tránh va vào những người đi ngược chiều. Hắn ghé xe vào trong vạch phân chia ranh giới. Đám người đi cạnh hắn chìm trong tiếng ì ầm của tắc nghẽn, những ánh mắt đều trở nên vô cảm, những cử động máy móc tuân theo hai màu xanh đỏ trên cột đèn.
    Hắn không thể lý giải tại sao, vào cái giây phút ấy, hình ảnh người ấy bất chợt hiện ra trong óc hắn.
    Trong ký ức hắn, cho đến bây giờ, suốt hai mươi tám năm, người ấy chỉ mặc độc một bộ đồ duy nhất: chiếc áo cánh bằng vải thô màu trắng, cái váy dài chấm mắt cá chân bằng vải sợi đen. Hắn có thể không nhớ kỹ đôi dép, nhưng hẳn là một đôi dép cao su theo kiểu cũ bằng dép lốp, cái thứ dép mà bây giờ người ta chỉ còn tìm thấy trong các bảo tàng ở thành phố hay trong các phiên chợ quê. Nhưng đó cũng không phải là một đôi dép ấn tượng gì cho cam. Cũng có thể đó là một đôi dép nhựa nam, màu vàng đậm hay một đôi dép nhựa nam nữa, có thể thế, tuy không chắc chắn lắm, màu nâu. Cũng có khi, đó là đôi dép cũng là màu vàng kia đã bị đứt quai, được dùi lỗ và xâu rút lại bằng lá chuối. Giải pháp này có vẻ đúng hơn cả, vì đã rất nhiều lần hắn nhìn thấy những người già như thế đi những đôi dép như thế, và những bàn chân cũng tương tự như thế, những bàn chân không phân biệt được giới tính bởi các vết nứt ở gót cứ toác cả ra mà máu vẫn không chảy, các vết nứt và chai dày có màu vàng, cứng đơ như một chất kỳ quặc chưa bao giờ hắn có thể gọi tên.
    Song ngoài chiếc áo màu trắng đó, người ấy có mặc chiếc nào khác nữa không? Có thể là một chiếc áo màu nâu có chấm trắng li ti cũ kỹ chăng? Thế còn mùa đông thì người ấy mặc gì? Hắn cố hồi tưởng lại một hai mùa đông mà hắn nhìn thấy người ấy. Người ấy đã ngồi trong cái bếp thấp lè tè, nơi cái máng hứng nước mưa chạy ngang dưới mái, ngay bên ngoài của sổ, đọng những bồ hóng đen kịt. Ở tại cái bếp ấy, vào mùa đông, người ấy mặc gì. Hắn không nhớ nổi. Hình như chưa bao giờ một bộ quần áo mùa đông của người ấy còn lưu giữ lại trong ký ức hắn. Hắn còn nhớ rõ cái bếp ấy cấu trúc như thế nào; chẳng hạn có hai cái cửa, một cửa mở vào nhà trên và một cửa thông ra vườn, cả hai cửa đều cao một mét, hắn đi ra đi vào thoải mái nhưng người lớn thì phải khom lưng lại. Cái bếp, cứ khoảng năm người đứng là không nhúc nhích được, nền bằng đất sét màu đen, lồi lõm, có những rãnh nứt nhỏ chạy li ti ngang dọc. Một đống phi lao khô cùng với lá tre vàng khô, lá ngô và những thứ lá khác kêu giòn rạo. Mỗi lần hắn vào bếp, người ấy thường ngồi quay lưng lại phía hắn, người ấy cầm một ống tre đã cháy sém một đầu, ghé sát mặt vào cái bếp tro cao bằng hai viên gạch xếp và thổi phù phù. Có khi lửa bỗng cháy bùng lên nhưng cũng không hiếm khi, tro bay mịt mù trong bếp. Người ấy khẽ nhắc hắn đóng cửa bếp lại tránh bụi tro bay lên nhà. Vào những thời khắc ấy, hẳn là hắn đã nhìn thấy một nồi cơm trên bếp, một nồi canh đã nhắc ra kiềng (hình như là canh rau đay nấu tép), và hắn thường để ý đến một cái nồi nhỏ nhất. Trong cái nồi bé đó thường có thịt hoặc cá.
    Như vậy là hắn không quên cách bài trí của cái bếp, thậm chí hắn có thể tả lại căn buồng cạnh bếp và những căn buồng lớn hơn mà hắn còn nhớ vào những trưa hay xế chiều. Nắng chiếu xiên xiên qua bức liếp tre những luồng ánh sáng nhạt, soi rõ những hạt bụi bay li ti trong không gian. Nhưng hắn muốn nhớ lại nhiều hơn thế, chẳng hạn, hắn đã trò chuyện gì với người ấy, vào năm hắn bao nhiêu tuổi, và người ấy nói gì với hắn. Nhưng có lẽ, chưa bao giờ hắn biết nói chuyện với người ấy. Hắn nhớ hình như câu đầu tiên người ấy nói với hắn là "Đừng có hét oang oang như thế, các cháu!". Khi ấy, khi hắn và mấy đứa em họ rủ nhau tất thảy cùng ngồi lên một cái võng và xang đi xang lại rồi hét váng nhà. Và người ấy đã mắng bọn hắn như thế đó, nhưng khi đó người ấy đang làm gì, trong góc nào của ngôi nhà? Dưới bếp chăng, nếu là dưới bếp thì người ấy đang làm gì? Có phải vào cái khoảnh khắc đó người ấy đã ngồi bên chân giường và đang cho con dấm ăn chuối tiêu, hay đang bắt rận cho mèo. Không phải, nếu người ấy bắt rận cho chó, mèo thể nào bọn hắn cũng đã xúm vào bắt hôi và chia nhau thành lượt để ném vào cái bát mẻ đựng than nóng cho nó nổ đôm đốp, những con rận béo mẫm, nhiều khi gọi là con ve chó vì mình nó màu xanh và trông hết sức ngu đần vì không có khả năng tự vệ. Hoặc những con rận dẹt, nhiều chân bám vào các khóe chân con vật, hoặc gian nhất là rận mèo. Hắn vẫn nhớ, sau tiếng mắng mỏ của người đó, bọn hắn lại cười oang lên và người đó rì rầm một hai câu mắng mỏ nữa, nhưng rốt cuộc là tiếng mắng mỏ ấy từ đâu phát ra?
    Có thể hắn đã nói với người ấy nhiều lần cái câu: "Cháu chào bà". Tuy nhiên, hình như không hơn nữa, hoặc nếu không cũng chỉ đại loại là những câu vô thưởng vô phạt như vậy. Hắn đã bao giờ hỏi thăm người ấy hơn chưa? Thế giới của người ấy, hắn biết gì khác hơn ngoài mấy người anh em trai của người ấy thi thoảng đến thăm vào những dịp giỗ tết?
    Rồi hắn nghĩ đến chuyện ngày hôm nay, ở tòa soạn, hắn đã cãi nhau với cái phe cánh ấy, cái phe cánh hết sức lạc hậu và bảo thủ. Họ có năm con người trong cái nhóm đó. Hắn còn biết tường tận gia cảnh của họ như thế nào, con cái họ hư hỏng, chích hút, giỏi giang hay đang du học tận đâu ra làm sao. Bên hắn cũng có cánh của hắn, gồm hai cặp vợ chồng và một cậu đang độc thân. Gia cảnh của mấy người này hắn cũng biết hết, hắn còn biết đến cả họ hàng của họ nữa. Thậm chí hắn còn biết tường tận chị vợ của bạn hắn có những bệnh gì, chữa bao lâu chưa khỏi.
    Đúng là có một lần, khi hắn đi ngang qua ngưỡng cửa, khi ấy hắn chừng mười sáu tuổi, hắn nhìn xuống nhà bếp và thấy bên cạnh người ấy là một bà già nhỏ bé, miệng đã móm gần hết, khuôn mặt tròn thon, tóc bạc trắng nhìn hắn cười. Hai người ngồi trên bậu cửa gỗ dùng tay tước tước những chiếc lá chuối khô. Hắn nói:"Cháu chào bà". Rồi hình như người ấy đã nói: "Đây là bà Ngoan bạn của bà". Bạn của bà, hắn đã kinh ngạc làm sao trong phút giây ấy? Hắn thấy ngạc nhiên làm sao. Hắn còn thấy hơi tức cười nữa. Hắn tự nhủ: "Bạn của bà, bạn của bà, nghe kỳ lạ làm sao".
    Bây giờ thì người ấy đã già lắm. Lần gần đây nhất hắn về, hắn lại nói "Cháu chào bà" rồi ngồi xuống bên cạnh người ấy. Hình như người ấy đã mọc thêm một lớp da khác, hoặc là có nhiều da hơn trước, vì như vậy thì ở cánh tay mới tạo được những đường gấp của da hệt như những nếp mịn màng mà hắn nhìn thấy trong những phiên bản chụp trang phục thời Phục hưng. Hắn cũng không nhớ là đã nói với người ấy điều gì, nhưng có một đôi lần người ấy đã khóc mếu máo, có khi tiếng khóc làm hắn đau nhói. Hắn muốn nói với người ấy một điều gì đó, nhưng rốt cuộc hắn im lặng.
    Hắn còn nhớ mỗi lần đi xa về, hắn lại gửi cho người ấy năm mươi nghìn đồng. Thi thoảng hắn mua về cho người ấy đôi ba cái áo mới, song người ấy hầu như không bao giờ mặc. Tất cả đều mới quá, người ấy để dành. Nhưng có một lần duy nhất trong đời, người ấy tỏ ra thích cái áo khoác màu tím mà hắn đang mặc trên người. Đó là một chiếc áo hàng thùng giá bảy mươi nghìn. Người ấy nói cái áo đẹp và ấm, ấm hơn tất cả những cái áo của người ấy. Hắn nói: "Nhưng cái áo này chỉ dành cho người trẻ, bà ạ". Kỳ thực hắn không biết cái áo đó dành cho người bao nhiêu tuổi, điều quan trọng là tết năm đó hắn có thể mặc nó với chiếc quần bò hắn có từ hồi mùa hè để ra mắt một đám bạn mới.
    Có một dạo hắn bỗng quan tâm đến việc khi hắn trở thành một bà già, hắn sẽ phục sức như thế nào để vừa đủ đẹp, lại sang trọng và giản dị, trí thức. Hắn là một phụ nữ châu Á, như vậy thì quãng bốn năm mươi tuổi, hắn không thể mặc đồ màu đỏ và mặc váy ngắn như những khách du lịch được nữa. Vậy thì hắn có thể mặc một chiếc áo lụa chăng, đi một đôi dép nhẹ nhàng như dép lưới? Một vài lần trên phố, hắn thấy một số người già ăn vận theo lối như thế và hắn tự nhủ, mình có thể lựa chọn cách này. Nhưng rất có thể khi hắn già mọi sự sẽ khác và khi ấy cơ thể hắn đã béo ra khiến cho hắn không thể mặc áo xẻ tà kiểu Nam Bộ nữa. Hắn cũng tưởng tượng ra cảnh hắn ngồi trên một chiếc ghế mây, loại ghế có thể ngả nghiêng ra sau - nhưng hẳn sẽ không ngả nghiêng lắm - có thể là trước hiên nhà, ánh nắng chiếu vào góc tường. Và hắn đọc sách, chỉ có điều, hắn chưa hình dung nổi hắn sẽ đọc loại sách nào khi đó.
    Người ấy có thể là một bà nông dân. Song ngoài những khung cảnh được tái hiện trong đầu hắn, hôm nay, khi quành xe qua ngã tư, hắn có thể biết gì hơn về người ấy. Có thể, hắn biết người ấy đã khóc khi bố hắn bỏ học để nhập ngũ vào năm mười bảy tuổi (hắn tình cờ đọc được điều này trong cuốn nhật ký ố vàng của bố), và còn khóc nhiều mỗi lần gia đình nhắc đến bố hắn. Nhưng trọn vẹn ký ức không đủ tái hiện một chân dung. Hắn chỉ nhớ được những mảnh ghép, song hầu hết, trong sự kiện nào người ấy cũng chỉ đóng một vai phụ, nơi hắn và những xúc cảm của hắn đóng vai trò cốt yếu.
    Lâu lắm, phải ở trong những cuộc trò chuyện thân quen mới có một người nào đó hỏi: "Ông bà cháu còn không?". Có thể đó là câu hỏi của bố mẹ chồng hồi hắn vừa mới về làm dâu, hắn đã trả lời: Con còn bà nội.
    Nhưng khi hỏi đến tuổi thì hắn ngắc ngứ, hình như hắn đã nói sai cho người ấy cả chục tuổi.
    hết!

  7. hanh114212

    hanh114212 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/07/2004
    Bài viết:
    1.850
    Đã được thích:
    0
    Còn đây là một vở kịch của một tác giả người Ý!
    Lời giới thiệu của dịch giả: Sinh năm 1919 tại Turin, Italy, trong một gia đình Do Thái. Trong thế chiến thứ hai, ông tham gia kháng chiến và bị bắt tới Auschwitz năm 1944. Sau chiến tranh ông trở lại nghề hóa học và viết sách. Tác phẩm của ông thường mang tính giả tưởng và là kết quả của lòng yêu thích khoa học và những nhận xét tinh tế của ông về con người. Tác phẩm: The Periodic Table, Other People''s Trades, The Monkey''s Wrench... Ông tự sát năm 1987.
    Đám Cưới Kiến (The Ant''s Wedding) trích trong tập Người thợ gương (The Mirror Maker ?" Stories & Essays), do Raymond Rosenthal dịch sang Anh ngữ; Schocken Books xuất bản năm 1989 tại New York.


    Đám cưới kiến
    Levi, Primo
    Primo Levi (1919-1987)
    KÝ GIẢ: Thưa bà, tôi biết bà rất bận. Hy vọng không làm phiền bà, vì đây là cơ hội hiếm có cho tôi.
    HOÀNG HẬU: Cô gọi đó là tin sốt dẻo chứ gì? Này, trước tiên hãy tránh ra. Tôi muốn nói là lấy chân của cô ra. Cô làm hư cái vòm; ít nhất phải mất ba ngàn giờ lao động kiến để sửa lại chỗ cô đã làm hư hại. Mấy cái vòm của chúng tôi hoặc là hoàn hảo hoặc là vô dụng. Chúng tôi, nhất là tôi, là như thế. Đấy, bé ngoan. Nào, nói tiếp đi. Ừ, cô có thể dùng máy ghi âm. Này, tại sao lại không "Tâu Hoàng hậu"? Cô xưng với nữ hoàng của cô như thế nào nhỉ?
    KÝ GIẢ: Xin bà thứ lỗi, ấy, tôi muốn nói Hoàng hậu thứ lỗi. Tôi nghĩ...
    HOÀNG HẬU: Chả có gì để cô nghĩ ngợi. Có lẽ vì tôi là góa phụ đẻ trứng chăng? Ôi dào! Đúng là chỉ vậy thôi. Cô có thấy một bà hoàng nào trong loài người thành công nhiều đến thế này chưa? Hoàng hậu! Tất nhiên tôi là hoàng hậu. Cô biết đến nay tôi đã đẻ bao nhiêu trứng không? Một triệu rưỡi, thế mà tôi chỉ mới mười bốn tuổi, và chỉ ân ái có một lần.
    KÝ GIẢ: Xin Hoàng hậu kể cho chúng tôi về đám cưới của ngài.
    HOÀNG HẬU: Buổi chiều hôm đó rực rỡ, đầy hương sắc và thi vị, một trong những lúc dường như cả thế gian ca hát. Vừa dứt mưa, mặt trời ló dạng, tôi cảm thấy có một ao ước, một thôi thúc khôn cưỡng, bắp thịt ở cánh cương lên như sắp nổ tung. Ồ, khi mình trẻ... Chồng tôi, xin Chúa ban phúc cho linh hồn anh ấy, rất khỏe và đẹp. Lập tức tôi thích mùi của anh ấy và anh ấy thích mùi của tôi. Anh ấy bền lòng theo đuổi tôi hơn nửa tiếng, và - chao ôi, cô biết phụ nữ chúng mình ấy mà, tôi giả vờ mệt để anh ấy bắt, dù tôi cũng thuộc loại bay khá. Phải, không thể nào quên, cô viết như thế lên báo cũng được; ở cao tít trên đó cô chả thấy được cái tổ kiến của chúng tôi, của anh ấy và của tôi. Tội nghiệp, anh ấy đưa tôi cái gói nhỏ và nhào xuống chết ngay tức khắc, thậm chí chả có thời giờ nói lời tạm biệt.
    KÝ GIẢ: ... cái gói nhỏ?
    HOÀNG HẬU: Loại gói cô ít khi thấy, với hơn bốn triệu sinh vật li ti, sống hết cả. Từ đó tới nay tôi vẫn cất trong bụng. Tôi làm việc với bơm và vòi, vì tôi tổ hợp chúng lại: mỗi trứng có ba hay bốn tinh trùng, và khi muốn con trai, tôi chỉ phải đóng máng lại. Tin tôi đi, chúng tôi chả bao giờ hiểu được bộ máy của cô. Tôi muốn nói là tuần trăng mật thì được, nhưng về sau cần gì mấy chuyện lặp đi lặp lại đó? Chỉ phí thì giờ làm việc. Cô sẽ thấy là rồi ra cô cũng sẽ đến chỗ ấy, cũng tựa như cô đã đạt đến phân công lao động: chuyện sinh sản của loài người chỉ là lãng phí và lừa mị. Cô nên ủy thác chuyện sinh sản, dẫu sao cô cũng có vua và hoàng hậu mà, hoặc ngay cả chỉ có tổng thống; giao phó chuyện đó cho họ, công nhân phải làm việc.
    Và tại sao lắm đàn ông thế? Tôi nói cho cô hay, cái 50-50 này của cô lạc hậu; chẳng phải bỗng dưng mà chế độ chúng tôi tồn tại 150 triệu năm, còn chế độ cô chỉ mới một triệu năm. Chế độ chúng tôi được thử thách và kiểm nghiệm, ổn định từ thời Cổ trung đại Mesozoic, trong khi cô cứ hai mươi năm lại đổi một lần, ấy là nếu cô may mắn. À, tôi chả muốn can thiệp vào chuyện riêng của cô, tôi biết cơ thể và sinh lý khó thay đổi một sớm một chiều, nhưng ngay cả vấn đề của cô lúc này, một nam năm mươi nữ là quá đủ. Ngoài mấy lợi ích linh tinh ra, cô sẽ giải quyết được vấn đề nạn đói thế giới.
    KÝ GIẢ: Thế bốn mươi chín nam kia thì sao?
    HOÀNG HẬU: Tốt nhất là đừng sinh ra. Nếu không ta phải xem sao: giết, hay thiến tụi nó, hay bắt làm việc, hay để tụi nó giết lẫn nhau nếu tụi nó có khuynh hướng đó. Nói với nhà xuất bản của cô, viết một bài xã luận, nên trình một dự luật ra quốc hội.
    KÝ GIẢ: Chắn chắn tôi sẽ nói. Nhưng tâu Hoàng hậu, ngài không bao giờ nhớ thương buổi chiều đó, chuyến bay đó, giây phút yêu đương đó sao?
    HOÀNG HẬU: Khó mà nói. Cô xem, đối với chúng tôi cái đẹp đi trước mọi thứ khác. Vả lại, nói gì thì nói, ở đây tôi làm việc rất tốt trong bóng tối, ấm áp và bình yên, chung quanh hàng trăm ngàn đứa con gái liếm tôi cả ngày. Mấy thế kỷ trước trong loài của cô có người đã nói là mỗi thứ có một thời: theo tôi hình như ông ấy cũng khuyến khích cô bắt chước chúng tôi. Đối với chúng tôi đấy là quy luật chặt chẽ, lúc cho trứng, lúc khác cho ấu trùng, lúc khác nữa cho nhộng; có ngày và đêm, hè và đông, chiến tranh và hoà bình, làm việc và sinh sản; nhưng trên hết có Tổ quốc và không gì ngoài Tổ quốc.
    Ôi dào, còn chuyện nhớ thương, tất nhiên. Tôi đã kể với cô tôi thuộc loại bay khá: có lẽ vì vậy anh chồng đáng thương của tôi đã chọn đúng tôi trong số bầy công chúa bay thành đàn dưới ánh hoàng hôn. Chúng tôi nhiều đến nỗi che khuất mặt trời: trông đằng xa như cột khói bốc lên từ tổ kiến, nhưng tôi bay cao hơn hết. Tôi có cơ bắp của một nhà thể thao. Và anh ấy theo đuổi tôi, giao phó cho tôi món quà chứa đựng tất cả tương lai của chúng tôi, và rồi rơi xuống lập tức: thậm chí bây giờ tôi vẫn thấy anh ấy, anh ấy rơi xoáy trôn ốc như một cái lá.
    KÝ GIẢ: Và ngài thế nào, thưa Hoàng hậu?
    HOÀNG HẬU: Cái gói nhỏ đó là trách nhiệm nặng nề - cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Tôi bay xuống, thật ra tôi để mình rơi xuống: phần vì mệt, phần vì buồn. Tôi hết còn là một nữ phi công trinh tiết mà là bà mẹ góa có thai hàng triệu đứa con. Việc đầu tiên khi thành mẹ là bỏ đôi cánh: chúng là thứ phù phiếm, hão huyền, từ nay vô dụng. Tôi lập tức vứt bỏ chúng, và đào cho mình một cái hốc như vẫn làm tự thưở nào. Tôi cũng thèm giữ đôi cánh lại trong tổ như một kỷ niệm, nhưng rồi nghĩ chuyện đó cũng phù vân, và để chúng cho gió cuốn đi. Tôi cảm thấy trứng lớn lên trong mình, dầy dặn như lời chào gọi. Khi đó bắp thịt cánh là đồ dự trữ theo một nghĩa khác. Tôi tiêu hóa, tiêu thụ, điều tiết chúng để thành chất nuôi dưỡng cho trứng, cho bầy đàn tương lai của mình. Vì bầy, tôi hy sinh sức khỏe và tuổi trẻ của mình, và hãnh diện vì thế. Tôi, chỉ mình tôi. Có những giống loài giữ trong tổ đến hai mươi bà hoàng: một điều ô danh chả bao giờ thấy trong loài chúng tôi. Cứ thử một đứa trong đám công nhân của tôi muốn sinh đẻ coi, con đó sẽ thấy!
    KÝ GIẢ: Tôi hiểu. Sinh sản là một đòi hỏi tuyệt đối. Tôi hiểu ngài phải độc quyền. Đối với chúng tôi, nhiệm vụ làm mẹ cũng thiêng liêng, ngài có biết không? Trang tin tội ác trên báo của chúng tôi đầy chuyện kinh khủng, nhưng kẻ nào làm hại một đứa bé sẽ bị mọi người ghét cay ghét đắng.
    HOÀNG HẬU: Phải, phải, không nên ăn trứng, không tốt. Nhưng có những hoàn cảnh phải vì Tổ, vì dù sao đó cũng là lương tri. Khi thực phẩm khan hiếm và trứng quá nhiều thì không còn chỗ cho đạo đức. Chúng tôi ăn trứng, tôi ăn trước tiên - ngay cả ấu trùng và nhộng. Chúng bổ dưỡng; nếu công nhân đói không thể làm việc, trứng sẽ không được chăm sóc, sẽ hư hỏng, chỉ tốt cho sâu bọ, và chúng tôi cũng chết. Vậy thì sao? Không có luận lý sẽ không có chính quyền

  8. hanh114212

    hanh114212 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/07/2004
    Bài viết:
    1.850
    Đã được thích:
    0
    Vấn đề mà có lẽ từ lâu nay trong phong tục tập quán Việt Nam luôn đề cập về thân phận người con gái. Đó là vấn đề lối sống và sự trong trắng của người con gái trong cuộc sống thường nhật. Vấn đề mà cho đến nay nó đã trở thành nóng bỏng và cần tranh luận xung quanh nó với nhiều suy nghĩ khác nhau, từ thế hệ trước cho đến thế hệ 8x ngày nay. Ở Việt Nam chúng ta đã biết và đã thảo luận nhiều về vấn đề này. Còn ở các nước Á Đông khác thì sao nhỉ?
    Mời các bạn đọc qua chuyện này và cảm nhận về những suy nghĩ của người Nhật về sự trong trắng của người con gái!
    Lời người dịch: Câu chuyện Trinh tiết được diễn tả như một vở kịch mà sân khấu là căn bếp nhỏ, diễn tiến theo tiếng mưa và ánh sáng của buổi chiều. Lời than cuối cùng của gã khất thực Shinko trong truyện sau khi để Otomi bế con mèo Mikê ra khỏi nhà là lời than trung thực nhất của con người bị giằng co giữa bản năng và luân lý.
    Dịch giả dùng nguyên tác đăng trong tập Gesakusanmai (Hứng sáng tác) - Ikkai no tsuchi (Một mảnh đất), một phần của bộ sách khổ nhỏ về tác phẩm Akutagawa do nhà xuất bản Shincho in năm Chiêu Hòa 61 (1986).
    Bạn đọc Việt Nam từng được làm quen với truyện này của Akutagawa qua các bản dịch khác với tựa đề Otomi trinh trắng, Tấm lòng trinh bạch của Otomi...


    Trinh tiết
    Akutagawa, Ryunosuke
    Xế trưa ngày 14 tháng 5 năm Minh Trị thứ nhất, chính phủ ra thông cáo: ?oSớm mai, quan quân sẽ tấn công bọn phiến loạn Shôghi đang ẩn náu tại ngọn đồi Tôei. Lệnh cho toàn thể dân cư vùng Ueno phải tùy nghi lánh đi nơi khác?. Ở xóm số 2 khu ****aya, trong tiệm tạp hoá mà ông chủ tiệm Kogaya Seibei cũng vừa mới bỏ đi, một con mèo tam thể lớn cong lưng nằm thu mình trong góc bếp, trước một vỏ bào ngư.
    Vì cửa đóng kín mít, bóng tối bao trùm căn nhà mặc dù trời mới xế trưa. Ngôi nhà vắng tanh, không tiếng người, có chăng là tiếng mưa dầm không ngừng từ mấy bữa rày. Chỉ nghe đôi lúc tiếng mưa ào ạt trên mái nhà, rồi nhẹ dần như bay vút lên không mất hút. Mỗi lần mưa gieo nặng hạt, đôi mắt hổ phách của con mèo lại mở tròn xoe. Trong bóng tối của căn bếp, lờ mờ không thấy đâu là lò, đôi mắt ánh lân tinh hiện ra ghê rợn. Con mèo sau khi biết chắc chẳng có gì lạ xảy ra ngoài tiếng mưa càng ngày càng nặng hạt, khép dần đôi ngươi, se lại như sợi chỉ. Sau nhiều lần nhắm mắt, mở mắt, con mèo bất động chìm dần trong giấc ngủ. Mưa vẫn tiếp tục rơi, khi nhặt, khi khoan. Hai giờ, rồi ba giờ chiều. Ngày tàn dần theo nhịp mưa.
    Bốn giờ vừa điểm thì con mèo như linh cảm điều gì, mở to mắt, đồng thời vểnh đôi tai nghe ngóng. Mưa rơi dịu hẳn. Ngoài tiếng chân phu kiệu chạy ngoài đường, không nghe gì khác. Nhưng sau một vài giây yên ắng, căn bếp trước đây tối om, bắt đầu tỏ ra không biết tự lúc nào. Mọi vật hiện rõ dần, từ cái lò choán một phần lớn trên sàn gỗ mộc của căn bếp nhỏ, cái chum không nắp lóng lánh nước, bàn thờ ông địa có nhánh tùng, sợi dây thòng dùng để mở cánh cửa sổ thông hơi? Con mèo càng lúc càng tỏ vẻ lo lắng, mắt nhìn về phía chỗ cửa căn bếp vừa mở, vươn vai nặng nề đứng dậy.
    Kẻ bước vào là một gã khất thực, người ướt như chuột lột. Gã hết mở cái cánh cửa kéo bên ngoài lại mở cả cánh cửa dán giấy bên trong. Ðầu quấn một cái khăn cũ, gã nhô người về phía trước, mắt láo liên tai nghe ngóng căn phòng yên lặng một lát. Yên chí không có ai khác, gã để nguyên tấm rơm bện làm áo mưa còn lấp lánh mấy giọt nước, vật duy nhất xem ra còn mới trên người, nhẹ nhàng bước lên sàn bếp? Con mèo cụp đôi tai, lùi lại hai ba bước. Gã khất thực không mảy may kinh ngạc, quay lại khép cánh cửa, từ từ cởi cái khăn quấn trên đầu. Trên khuôn mặt đầy râu có dán hai ba miếng thuốc cao. Người gã tuy cáu bẩn nhưng mặt mũi không có vẻ hạ cấp.

  9. hanh114212

    hanh114212 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/07/2004
    Bài viết:
    1.850
    Đã được thích:
    0
    Vừa rũ nước trên tóc, vừa chùi mặt, gã khất thực gọi khẽ con mèo:
    - Mikê, mikê.
    Không biết con mèo có nhận ra giọng của gã khất thực hay không, nó vểnh hai tai, không rời chỗ, thỉnh thoảng đưa mắt nghi ngờ, xoi mói nhìn kẻ lạ mới vào. Gã khất thực cởi áo tơi ra, đôi cẳng lấm đầy bùn xếp bằng lên sàn, trước mặt con mèo.
    - A chú mãn? có chuyện gì vậy, không còn ai ở đây à, chú bị bỏ rơi hả?
    Gã cười một mình, tay vuốt đầu con mèo. Con vật rụt người chực chạy trốn, nhưng rồi thay vì nhảy về phía sau, ngồi lại rồi khép dần đôi mắt. Gã khất thực ngừng tay vuốt mèo, rút từ phía trong vạt áo yukata cũ rích một khẩu súng lục bóng loáng dầu mỡ. Trong khoảng tối lờ mờ, gã bắt đầu thử lại cò súng. Một gã khất thực thử súng trong căn bếp ngôi nhà hoang ngập mùi chiến tranh, thật là một cảnh tượng lạ lùng khó hiểu. Con mèo đôi mắt lim dim, co tròn bất động, thản nhiên như đã thấu hết ngọn nguồn.
    - Này Mikê, chú hãy chờ đến mai mà xem, súng đạn sẽ rơi xuống đây như mưa, chú nghe chưa? Nếu chú bị trúng một viên đạn thì thể nào cũng ngoẻo. Ngày mai, tớ khuyên chú mày nên nấp dưới sàn hiên nhà suốt ngày.
    Vừa coi lại khẩu súng, đôi lúc gã gợi chuyện với con mèo:
    - Này nói thật ra giữa tớ với chú, bọn mình đã biết nhau từ lâu. Hôm nay là ngày chót của bọn mình, chú hiểu không? Có thể ngày mai là ngày bất hạnh của chú, và đối với tớ, có thể là cái chết. Nhưng ngay nếu không ngoẻo thì tớ cũng chả còn có dịp bới thùng rác với chú nữa đâu. Chú ắt sẽ hài lòng!
    Sau đó một chốc, mưa bỗng đổ ào ào. Những đám mây sà thấp hầu như phủ mờ cả hai đầu cong mái nhà. Bóng tối lại đổ ụp xuống căn bếp. Gã khất thực sau khi chăm chú xem xét khẩu súng, cẩn thận lên đạn.
    - Này, chắc chú phải có điều gì nuối tiếc chứ? À không? Thiên hạ thật có lý khi phán rằng mèo là giống bạc nghĩa, hưởng ơn ba năm chúng cũng còn quên. Chẳng ai có thể trông cậy vào chú được cả, tớ e vậy...nhưng thôi...chẳng sao đâu. Thảng hoặc, nếu tớ có ngoẻo thì...
    Gã thình lình ngưng nói, ai đó ở ngoài hình như đang đến gần căn bếp. Gã giấu ngay khẩu súng rồi quay ngoắt ra. Cùng một lúc, cánh cửa kéo gian bếp bỗng mở toang. Gã khất thực nhìn chầm chập người mới vào, sẵn sàng đối phó với mọi việc có thể xảy đến.
    Người mới vào thoạt mở cánh cửa, khi nhìn thấy gã khất thực, thốt ra một tiếng kinh ngạc: A!! Ðó là một người đàn bà còn trẻ, đi chân đất, tay cầm cái dù giấy cán tre. Khi thấy gã khất thực, cô ta dợm chạy ra ngoài trời mưa trở lại. Nhưng khi thoáng kinh ngạc đã qua, cô ta lấy can đảm, nhướng mắt nhận diện kẻ lạ mặt trong bóng tối. Gã khất thực hầu như cũng ngạc nhiên, kiễng chân dưới vạt áo yukata cũ, nhìn mặt cô gái, và sau đó, gã mất ngay vẻ e sợ. Trong khoảnh khắc, bốn con mắt nhìn nhau im lặng. Sau khi lấy lại chút bình tĩnh, cô gái nói với gã khất thực:
    - À, hoá ra là mày, Shinko?
    Gã này cười bẽn lẽn, cúi đầu chào hai ba lần:
    - Xin cô thứ lỗi, trời mưa quá lớn nên chi mạn phép lẻn vào nhà trong lúc cô vắng mặt, ngoài ra tôi không có ý đồ xấu xa gì cả. Không, tôi không định trộm cắp đâu.
    - Này, mày cũng làm tao hoảng hồn. Tuy mày thề thốt là không có ý đồ trộm cắp, nhưng tự tiện cũng vừa vừa thôi chứ. Ði ra ngay để tao còn vào.
    còn tiếp!!!!
  10. hanh114212

    hanh114212 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/07/2004
    Bài viết:
    1.850
    Đã được thích:
    0
    Cô gái vừa càu nhàu vừa rũ nước ở cái dù.
    - Dạ vâng tôi xin đi ngay, nhưng làm gì cô phải quát tháo đuổi ra như vậy. Thế chứ cô không di tản à?
    - Có chứ, tao đã di tản, dĩ nhiên là tao di tản, nhưng có gì liên quan gì đến mày đâu?
    - Thế thì chắc cô quên cái gì rồi. Này cô hãy vào đi đã, đứng đó mắc mưa ướt hết.
    Cô gái không trả lời, vẫn vẻ bất bình, ngồi xuống ngưỡng cửa nhà bếp, trước chỗ thoát nước, đoạn duỗi dài hai chân, dội nước ào ào lên trên đôi cẳng dính đầy bùn. Gã khất thực không hề bối rối, ngồi xếp bằng, tay mân mê cái cằm xù râu, mắt hau háu nhìn thân hình cô gái. Cô ta nhỏ con, dáng dấp quê mùa, nước da hơi ngăm với những nốt tàn nhang trên sống mũi, quần áo thuộc loại tớ gái, gồm một chiếc váy vải dệt tay, một cái thắt lưng bằng vải Kokura. Tuy vậy, khuôn mặt cô ta tươi tắn và thân hình tròn lẳn, chắc nịch, trông xinh như quả đào hay quả lê mới hái.
    - Này nếu cô phải trở lại đây trong cảnh hỗn quan hỗn quân này, chắc chắn để lấy một vật gì quan trọng lắm. Cái gì vậy hở Otomi? Cô quên cái gì vậy hở cô, nói tôi nghe!
    - Ê này, chẳng có liên quan gì đến mày. Tao đã nói mày xéo khỏi chỗ này ngay lập tức, và đừng có xía vào chuyện của tao.
    Sau câu trả lời thật bốp chát, bất chợt với dáng lo âu, cô ngước nhìn Shinko, thành khẩn hỏi:
    - Này Shinko, mày có biết Mikê, con mèo nhà này không?
    - A, Mikê, mới thấy nó lúc nãy mà. Ấy, nó đi đâu mất rồi nhỉ?
    Gã hành khất đưa mắt nhìn quanh. Con mèo, không ai để ý đã thu mình trên kệ, giữa cái cối và cái chảo. Otomi cũng nhìn ra con mèo cùng một lúc với Shinko. Gác ngay cái gáo nước, và hầu như quên cả sự hiện diện của gã khất thực, cô gái đứng dậy trên sàn gỗ, cười vui vẻ gọi con mèo.
    Shinkô trố mắt ngạc nhiên, hết nhìn con mèo lại nhìn cô gái:
    - À thì ra là con mèo. Này cô, cô quên con mèo hả?
    - Đi kiếm mèo thì đã sao??Mikê! Mikê! nào, xuống đi.
    Gã khất thực bật cười. Tiếng cười của gã xen trong tiếng mưa rền, lanh lảnh khó ưa. Otomi má đỏ lên vì giận, to tiếng với Shinkô, không nể nang:
    - Mày cười cái gì? Bà chủ nhà này như điên như dại vì bỏ quên con mèo. Bà ta cứ khóc suốt, bảo lỡ con mèo có mệnh hệ nào thì không biết bà sẽ sống ra sao. Tao mủi lòng nên đội mưa trở về đây để kiếm nó cho được đấy?
    - Thôi thôi, tôi không cười nữa.
    còn tiếp!!!

Chia sẻ trang này