1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tranh luận về Tên lửa đối không và các Hệ thống dẫn đường tấn công cho tên lửa đối không

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi VietKedoclap, 02/09/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Có ai ở Hải phòng cho biết trên bản đồ này thằng nào là sân bay Cát bi (có phải tên bên phải), thằng nào là sân bay Kiến An?
    [​IMG]
  2. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0

    Thêm một nguồn nữa về việc chắc chắn các đài điều khiển có cấu hình khác nhau. Sự thay đổi cấu hình của rada dẫn bắn Fansong qua các thời kỳ:
    http://www.reference.com/browse/wiki/SA-2_Guideline
    Tóm lược:
    ...
    Đài Rađar điều khiển bắn Fan Song đời E khác hẳn (significantly) đời A/B/C vì có thêm một ăng ten nữa và một máy dò dài hơn, cùng với hàng loạt khác biệt khác về thanh đỡ, vỏ bọc.
    ...
    Sau khi quan sát thấy biện pháp gây nhiễu trong ctranh Việt nam và trong cuộc chiến 6 ngày Ả rập - Ixrael đã khiến SA-2 vô dụng, các hệ thống rađar cũ đã nhanh chóng được nâng cấp lên hẳn một hệ thống mới. Hệ command cũng được cải tiến để điều tên lửa tấn công vào nguồn gây nhiễu (home-on-jaming), trang bị thêm một hệ điều khiển hoàn toàn bằng mắt (quang hình). Hệ thống được đưa sang Việt nam vào cuối năm 70.
    Nguồn cũng nhắc tới đầu đạn có thể được ra lệnh cho nổ (command detonnated). Theo Lehahai thì tuyệt đối thể.
    http://www.reference.com/browse/wiki/SA-2_Guideline
    SA-2D; Fan Song-E radar and V-750SM missiles. Differed significantly from the A/B/C in having the new antennas and a longer barometric nose probe and several other differences associated with the sustainer motor casing. The Fan Song-E was introduced to make it more difficult to jam.
    SA-2E: Fan Song-E radar and V-750AK missiles.The missile can be fitted with either a command detonated 15 kT nuclear or 295 kg (650 lb) conventional HE warhead.
    SA-2F: Fan Song-F radar and V-750SM missiles. After watching jamming in Vietnam and the Six-Day War render the SA-2 completely ineffective, the existing systems were quickly upgraded with a new radar system designed to help ignore wide-bank scintillation jamming. The command system also included a home-on-jam mode to attack aircraft carrying strobe jammers, as well as a completely optical system (of limited use) when these failed. F''''''''''''''''s were developed starting in 1968 and deployed in the USSR later that year, while shipments to Vietnam started in late 1970.
    Đọc kỹ lại thấy có khi là tại tôi và Lehaiha dùng từ khác nhau nên đâm ra không hiểu ý nhau? Tôi coi/dịch Guidance Radar Station/van là đài điều khiển TL (trong hình ảnh có ăng ten ngay trên nóc xe, có cửa mở lên xuống), coi/dịch Computer/Operator vans là xe tính toán và buồng điều khiển (xe Y), coi/dịch cả cụm (xe radar, xe tính toán, xe buồng điều khiển, xe máy nổ quây quần cạnh nhau - xem ảnh) là thuộc Đài 2 (gồm nhiều đơn nguyên, nằm cạnh nhau trong một quần thể thiết bị máy móc của Đài 2, cái nọ ngay sát cạnh và nối với cái kia).
    Lehahai coi riêng operator vans là đài điều khiển, guidance radar trailer là xe rađa?
    Được kqndvn sửa chữa / chuyển vào 18:14 ngày 18/02/2006
    Được kqndvn sửa chữa / chuyển vào 18:15 ngày 18/02/2006
  3. thantuonghung

    thantuonghung Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/02/2006
    Bài viết:
    177
    Đã được thích:
    0
    em đồng ý với ý kiền của bác Than_dâu-tuat và lý giải của bác rất hợp lý về mặt kĩ thuật đấy "không phải tên lửa vòng về dằng sau "mà góc tới của nó phải đảm bảo luôn nhìn thấy mục tiêu còn nếu mà tình huống nào nó cũng vòng về đằng sau thì quả là lý tưởng quá "vận tốc lớn nhw vậy qoay vòng thì bán kính là bao nhiêu????
  4. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Đoạn trích về Trung tướng Trương Khánh Châu (Cánh chim đầu đàn ngành kỹ thuật không quân)
    " Từ cuối năm 1966 đến năm 1972, ông đã làm nhiệm vụ kiểm tra mức độ hư hỏng, phân cấp hướng dẫn và trực tiếp sửa chữa máy bay. Ông đã cùng tổ kỹ thuật sửa chữa được 221 lần chiếc máy bay, trong đó có nhiều chiếc hỏng nặng. Ông cũng biên soạn nhiều tài liệu có giá trị như: Quy trình sửa chữa vỏ bọc MiG.17; Đo thăng bằng MiG.15; MiG.17, MiG.19; Nguyên lý bay siêu âm, chế tạo máy bay... Đồng thời ông cũng mở nhiều lớp kỹ thuật để giảng dạy cho anh em. Ngày 31-3-1973, ông Trương Khánh Châu đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.
    "
    Qua đó thấy số máy bay ta bị hư hỏng, thiệt hại trong quá trình chiến đấu (bị trúng bom, trúng đạn, hạ cánh ngoài sân bay, tai nạn) là không nhỏ. Số này chưa kể tới số công bố chính thức 131 máy bay bị bắn rơi.
  5. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0

    Lehahai xem tướng Hoàng Văn Khánh có phải là bộ đội tên lửa không nhé? SA-2 có được thay đổi cải tiến qua thời gian chiến đấu không nhé.
    Nguồn:
    - Trang 227-228 Lịch sử PK-KQ
    - Trang 156-160 sách Bảo vệ bầu trời của Nguyễn Xuân Mậu và Thế Kỷ.

    Tóm đại ý:
    Địch đưa vào sử dụng máy gây nhiễu QRC-160-1.
    Ngày 14/12/1967 không quân Mỹ dùng một lực lượng lớn máy bay tấn công vào khu vực Hà nội. Gần như toàn bộ số tên lửa bắn lên đều rơi xuống đất. Chỉ có một đạn điều khiển được nhắm vào một chiếc A-4.
    Ngày 15/12, cả 11 tên lửa rơi xuống đất ngay sau khi phóng. Trung đoàn 236 quan sát, nghiên cứu và báo cáo khả năng địch gây nhiễu tần số liên lạc điều khiển tên lửa.
    Nửa đêm ngày 15/12, Tư lệnh Đặng Tnh triệu tập hội nghị khẩn cấp tại một ngôi chùa, có đại diện chỉ huy tất cả các đơn vị, các kíp trắc thủ, để bàn cách đối phó.
    Liên tiếp các ngày 16, 17, 18 tình trạng đạn rơi tái diễn, tất cả các tên lửa rơi ngay sau khi phóng. Bộ Tư lệnh phải cho Mig tăng cường hoạt động đỡ cho tên lửa (Mig diệt 3 chiếc)
    Cuối cùng, vào sáng sớm ngày 19/12/67, Tư lệnh Phòng không Đặng Tính và Phó tư lệnh Tên lửa Hoàng Văn Khánh cùng với một số các cán bộ quân chủng cao cấp khác toả xuống các đơn vị, trực tiếp ngồi vào xe điều khiển theo dõi chiến đấu để đánh giá, phán đoán tình hình.
    Phó TLệnh TL Hoàng Văn Khánh xuống trận địa tiểu đoàn 62, ngồi lên xe cùng tiểu đoàn trưởng đánh giá tình hình địch và theo dõi diễn biến trận đánh đầu tiên.
    Sau khi thấy trận đánh không thành công, ông dành quyền chỉ huy trận thứ hai vào buổi chiều. Mặc dù các trắc thủ và kỹ sư tên lửa cho rằng nhiễu quá dày đặc, không thể điều khiển tên lửa, Phó TL Hoàng Văn Khánh vẫn ra lệnh phóng đạn. Tên lửa rơi ngay sau khi phóng.
    ...
    Từ kinh nghiệm trực tiếp này, công với việc hỏi cung giặc lái, Bộ TL PK-KQ đi đến kết luận địch đã thay đổi thủ đoạn gây nhiễu... việc này vượt quá khả năng kỹ thuật của chúng ta...cần phải nhờ sự trợ giúp của bạn.
    ...
    Cuối cùng, đến tháng 2/68, tên lửa đã được sửa đổi ăng ten mới, tín hiệu điều khiển mới, và với hàng loạt sự thay đổi cơ bản khác.
    ...
    Nói thêm.
    - 14/2/68 ta đã bắn rơi một chiếc F-105 còn nguyên vẹn máy gây nhiễu. Nó được chuyển ngay lập tức sang viện nghiên cứu ở thành phố Lenin (Leningrad) để nghiên cứu, qua đó Liên xô đã có sửa đổi lại cơ bản tên lửa và hệ điều khiển tên lửa, trang bị lại cho Phòng Không LXô vào năm 69, chuyển sang cho Việt nam vào cuối 70 sang 71.
    - Còn một nguồn nữa tiêu đề đại loại "Đại sứ cũng là chiến sỹ" nói về việc Đại sứ Liên xô trực tiếp ra lệnh cho phép "mổ" tên lửa SA-2 để điều chỉnh các thông số kỹ thuật trong chiến tranh chống Mỹ. Khi bị trưởng đoàn chuyên gia Lxô phản đối vì lo lộ bí mật, ông đã lớn tiếng: "Mỹ đã biết hết được bí mật của ta, vậy còn bảo vệ làm gì nữa". Ông đã chịu trách nhiệm cá nhân mở đường cho việc điều chỉnh, cải tiến tên lửa ngay tại trận địa. Nguồn báo quân đội nhân dân và Nuocnga.net (chưa tìm lại được link - cỡ tháng 4/2005).
  6. than_dau_tuat

    than_dau_tuat Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/09/2005
    Bài viết:
    791
    Đã được thích:
    304
    Bác kqndvn nói về tên lửa đúng là theo net rùi. Nếu cữ như thế, bác sẽ loạn lên về thông tin, rồi các thông tin ấy nó mâu thuẫn với nhau. Rồi bác chết chìm trong cái đám mâu thuẫn ấy.
    Bên phải là Cát Bi
    Tuất thấy nói chuyện với bác dài dòng lắm, nên nói thưa thôi. Tuất đang bận mà.
    Nếu như bác, thì không bao giờ bác định nghiã đâu là SAM-2 hay SAM-3, thậm chí không thể định ngghĩa SAM nữa cơ. Ví dụ, hệ thống S-300 là một hệ thống phòng không. Nó không chỉ cụ thể loại tên lửa nào, phần quyết định của nó là hệ thống phát hiện-theo dõi-dẫn đường. Còn đạn, nó sử dụng nhiều loại đạn, trong đó, loại đạn thông dụng nhất của S-300 là một nhánh nhỏ của một loại tên lửa nhiên liệu rắn, được dùng cho nhiều mục đích, cả đối đất và đối không. Vấn đề phân loại mà cứ search như bác, còn một ví dụ nữa là KS-1. Xuất phát ban đầu là máy bay MIG-15P không người lái, được cải tiến thay động cơ rẻ hơn, mang ít nhiên liệu hơn, hiệu suất sử dụng nhiên liệu thấp hơn, thay buồng lái bằng hệ thống dẫn đường và đầu đạn, lắp thêm hệ thống lái và ổn định tự động, bộ phận định hướng radio từ máy bay mẹ ở chóp đuôi đứng và bộ phận cân bằng cơ học ở hai đầu mút cánh (cơ chế bí mật, rất đơn giản này còn được sử dụng ở AN-28, để máy bay tự cân bằng khi liệt động cơ). Sử dụng xuất phát từ máy bay TU-16 chống chiến hạm. Nhưng sau đó, nó sử dụng nhiều loại động cơ, có cả động cơ không dùng không khí, xuất phát từ chiếm hạm, bệ phóng cơ động trên đất, đối đất và chống chiến hạm. Điều đó đạt được bằng hệ thống dẫn đường và ổn định tự động mới. Lúc đó, tên KS-1(tên lửa không đối đất) không còn đúng nữa.
    SAM-2 và SAM-3 đến nay đã khác xưa rất nhiều. Cách gọi SAM-2 khác với S-300, đó là tên một loại đạn tên lửa, chứ không phải tên hệ thống phòng không. SAM-2 là tên Mỹ đặt cho một nhóm các loại tên lửa ( tên lửa 75). Đây là tên lửa có đầu đạn lớn (295kg), có thể sử dụng để đối đất, chống chiến hạm, chống máy bay, chống tên lửa đạn đạo. Có thể mang đầu đạn công phá mạnh và đầu đạn hạt nhân.
    Ứng dụng trong phòng không của tên lửa 75 có nhiều loại, có thể chia ra ba thứ:
    -bắn đuổi máy bay, đầu đạn nhỏ, tầm xa hơn.
    -bắn chặn máy bay, đầu đạn lớn 295kg.
    -bắn chặn tên lửa đạn đạo, có thể mang đầu đạn hạt nhân. Đây là đạn của hệ thống chống tên lửa đạn đạo đầu tiên của thế giới.
    Tên lửa sử dụng nhiều hệ thống phát hiện-theo dõi-dẫn đường khác nhau. Tên lửa được sử dụng ở Việt Nam sử dụng hệ thống dẫn đường cũ, ban đầu được thiết kế có thể đánh chặn. Nhưng ở thời điểm chiến tranh Việt Nam, tốc độ máy bay đã cao, việc đánh chặn hiệu quả thấp, nên chiến thuật phổ biến là bắn đuổi. Tuy nhiên, để chống B-52, ta sử dụng chiến thuật kết hợp, bắn ba quả từ ba hướng. Tên lửa SAM-3 đến cuối thế kỷ 20 vẫn dùng, có cả những cải tiến dùng hồng ngoại.
    Như vậy, SAM-2 là tên một loại đạn, được dùng cho nhiều hệ thống dẫn bắn, mỗi hệ thống dùng các radar phát hiện, radar theo dõi, radar đo cao, radar dẫn bắn khác nhau. Trong 12 ngày đêm, ta bắn vào B-52 khi máy bay vừa trút xong bom, chuyển hướng. Đây là một động tác vừa đưa máy bay thoát nhanh ra khỏi vùng nguy hiểm, vừa giúp ổn định máy bay khi khối lượng thay đổi đột ngột. Lúc đó, máy bay rất nghiêng, các máy móc gây nhiẽu tích cực không hướng thẳng xuống mặt đất, tạo điều kiện nhìn rõ máy bay trong thời gian ngắn.
    Tất cả các vũ khí diện tử đều phải tham gia chiến tranh "tác chiến điện tử". Hai bên liên tục tìm các phương án khắc chế nhau. Đồng thời quyết tâm bảo vệ bí mật các tham số kỹ thuật của mình, chỉ cho đối phương biết được sau khi đã gặp tai hoạ, càng chậm càng tốt, khi đối phương có giải pháp thì ta phải tìm giải pháp mới.
    Có thể thấy ví dụ như tên lửa đơn giản SAM-7 vác vai. Đầu dò hồng ngoại ban đầu ở chiến trường Miền Nam rất khó bắt mục tiêu. Các chuyên gia đã hiệu chỉnh lại tham số đầu dò ngay ở Việt Nam theo kinh nghiệm từ chiến trường, cùng với chiến thuật được thử nghiệm, đến nay đây vẫn là tên lửa vác vai thành công nhất trong chiến tranh. Góp phần làm phá sản con đẻ của Mac: trực thăng vận, kỵ binh bay. Việc cải tiến sau đó được hoàn thiện ở Liên Xô, cùng kinh nghiệm chiến trường là kỹ thuật làm lạnh (ban đầu bằng khí nén, sau đó bằng tiếp giáp). Đây là đầu dò hoàn toàn mới của SAM-7. Đầu dò này không kịp tham gia chiến tranh Việt Nam, nhưng đầu dò cũ được hiệu chỉnh trong một số trường hợp đã hạ máy bay rất "nguội", như máy bay cánh quạt.
    Vấn đề thi nhau cải tiến khắc chế nhau của SAM-2 quyết liệt và dài dòng hơn nhiều.
    Đạn SAM-2 khi mới xuất hiện đã dễ dàng hạ máy bay Mỹ. Một thời gian ngắn sau đó, nhiều đạn không bắn trúng. Người Mỹ phổ biến giải pháp của họ, làm SAM-2 thất nghiệp một thời gian. Các chuyên gia dã nghiên cứu kỹ chiến trường, phát hiện ra việc sử dụng máy gây nhiễu ngòi nổ radio. Vấn đề ở chỗ, SAM-2 được thiết kế ban đầu để đánh chặn. Các khí tài dẫn đường ngày đó không chính xác, nên tên lửa mang đầu đạn rất lớn, nổ gần mục tiêu chứ không trúng hẳn. Ngòi nổ radio phát hiện máy bay ở gần và kích nổ, máy gây nhiễu làm tên lửa không kích nổ được. Giải pháp tạm thời được thực hiện ngay ở Miền Bắc. Giải pháp triệt để nhất được thực hiện ở Liên Xô, bằng kinh nghiệm mang về từ chiến trường và một bộ ngòi nổ-máy gây ngiếu Mỹ xịn được tình báo chuyển về từ Mỹ.
    SAM-2 lại tiếp tục lập công, nhưng càng ngày các tham số của nó và hệ thống dẫn đường càng lộ. Tên lửa, radar thậm chí còn bị Do Thái thu được, trong đó radar theo dõi-phát hiện được Israel tổ chức một chiến dịch quy mô, đánh chiếm nguyên bộ từ Ai Cập. Đến năm 1972, việc sử dụng giấy bạc làm nhiễu tiêu cực đã phổ biến. Nhưng ta lại bố trí các radar theo dõi-phát hiện công phu, phát hiện chính xác và phát đoán đường đi đoàn B-52 khi chúng chưa chui vào vùng nhiễu.
    Địch phát triển các phương pháp gây nhiễu tích cực, vô hiệu hoá các radar dẫn bắn. Các radar dẫn bắn của giàn cao xạ Trung Quốc với tham số khác tuy năng lực yếu hơn, nhưng trong trường hợp này được dùng dẫn bắn tên lửa do không bị nhiễu, sau đó, chuyên gia và kỹ sư ra thay mạch dẫn bắn, đổi tần số khác cho radar dẫn bắn SAM-2.
    Địch dùng tên lửa chống radar. Tên lửa này sau đó phát triển với hệ thống dẫn đường quán tính và đầu đạn lớn. Ta cũng phát triển các phương pháp khắc chế. Ban đầu, các trắc thủ chờ tên lửa chống radar đến gần thì tắt tín hiệu trong thời gian ngắn, có thể sử dụng đài thay thế, làm tên lửa mất phương hướng. Khi địch dùng loại tên lửa chống radar mới kết hợp dẫn đường quán tính nhớ vị trí của đài đã tắt tín hiệu, các trắc thủ dũng cảm bố trí trận địa khéo léo, khi tên lửa tới gần, họ dướng radar vào vùng đất cao gần đó, làm mục tiêu giả cho tên lửa lao vào.
    Cuối cùng, trong những ngày quyết liệt cuối cùng của chiến tranh trên bầu trời Miền Bắc, địch sử dụng các máy gây nhiễu tịch cực đặt ngay trên B-52. Các máy gây nhiễu này phát tần số giống radar dẫn bắn nhưng ồn đặc các xung hài, phản xạ từ mặt đất lên và tầng ion bao trùm một vùng quanh máy bay. Điều này làm radar chỉ nhìn tấy một đám mây mờ rộng quanh mục tiêu. Ta dùng nhiều đài cùng hệ thống khẩu lệnh kết hợp thông tin để tăng độ chính xác, bắn ba đạn trùm lên vùng nhiễu. Ngay trong những ngày đó, ta phát hiện hiện tượng B-52 lộ rõ như trên, cho phét đánh rât hiệu quả. Ta liền bố trí lại trận địa. Lúc đó, khi địch đánh thì các tên lửa đang trên đường chuyển quân, địch tưởng ta đã bị diệt hết rồi, thậm chí có tin đồn tướng Giáp đã tử trận. Định liền đánh lớn, kết quả như đã thấy.
    Địch kịp dừng lại ở đó, SAM-3 đang được chuyển từ bờ biển lên bằng mọi giá, hệ thống này chưa lộ các tham số, thật may cho các phi công B-52.
    Hiện tượng đối đầu liên tục cũng được thể hiện ở tên lửa không đối không. Ngày 28-10-1958, trong một trận đánh lớn, tên lửa cắm vào máy bay Trung Quốc không nổ. Quả tên lửa này được Trung Quốc thu, tháo đầu dò và chuyẻn sang Liên Xô. Ý Trung Quốc tham vọng có một tên lửa tốt nhất, phần đầu dò hơn Liên Xô và phần còn lại hơn Mỹ. Nhưng kết quả là MIG-21 được trang bị đầu dò tốt hơn các AIM-9. Ngay trong chiến tranh Việt Nam, AIM từ xác máy bay Mỹ cúng được gửi về Liên Xô, góp phần khắc chế máy bay Mỹ.
    Việc sử dụng chiến thuật cố định trong chiến tranh điện tử là một điều ngu ngốc. Chúng ta đã trả giá một lần năm 1987. Lúc đó, MIG-21 nhiều lần bay theo một đường bay cố định, Trung Quốc bố trí bắn 9 đạn SAM-2 từ nhiều hướng. Đây là chiến thắng duy nhất của Trung Quốc, được quảng cáo ầm ỹ, vì suốt 30 năm, không quân họ luôn tỏ ra kém cỏi trước không quân ta.

    Nói chung, địch dừng lại cuối năm 1972 là đúng, quá đúng.
    Ngay trong những ngày liền trước và sau khi ký hiệp định, tên lửa AT-3 lần đầu tiên được sử dụng, gây cho quân Nguỵ kinh hoàng lớn. Lúc đó, tên lửa này được gọi là "tên lửa hữu tuyến", tham chiến lần đầu ở Quảng Trị, khi ta phản công chiến lại cảng Cửa Việt. Quân Nguỵ đồn rằng VC có đạn "ngửi", mô tả việc tên lửa vòng vèo đuổi theo xe tăng ở tầm bắn lớn. SAM-7 và AT-3 ở chiến trường hoàn toàn làm phá sản thế mạnh thiết giáp vận và trực thăng vận. Thật ra, từ trước ta đã phát triển các chiến thuật hiệu quả như việc bố trí các khẩu đội 12,7 và dùng B-41 hay ĐKZ, đến nay, với việc sử dụng vũ khí có điều khiển, ta đã hoàn toàn át chế trên chiến trường, địch không bao giờ dùng trực thăng vận nữa. AT-3 sau đó gây tiếng vang rất lớn ở Trung Đông, khi Ai Cập nhanh chóng đánh chiếm Xi Nai, phục kích tiêu diệt toàn bộ xe tăng phản công, bắn sống tướng Do Thái. Sau trận này, AT-3 đã được cả thế giới sử dụng, bất kể giầu hay nghèo, súng Nga hay Mỹ. Cùng với SAM-3 ở miền Bắc, địch không còn cơ hội nào nữa.
    Đó là bài học mà chúng ta học được: bản chất của chiến tranh điển tử là phát triển liên tục. CHiến tranh cổ xưa cũng vậy, nhưng tốc độ cải tiến trong chiến tranh điện tử thì nhanh chóng mặt. Ai nhanh nấy thắng. Cùng với các chuyên gia Nga, chúng ta đã thắng.
    Được than_dau_tuat sửa chữa / chuyển vào 04:13 ngày 21/02/2006
    LarvaNH thích bài này.
  7. than_dau_tuat

    than_dau_tuat Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/09/2005
    Bài viết:
    791
    Đã được thích:
    304
    Bác kqndvn vẫn luôn có kiểu dẫn chứng trích lục thêm bớt, để nhồi ý bác. Tuất vẫn nhớ, bác trích cuốn truyện của nhà văn Lê Thành Chơn như là một sỹ quan dẫn đường. Bác ghép lung tung, bịa thêm vào để làm ngược chuyện. Ví dụ như Tuất đã nói. Trận đánh lần đầu tiên hạ B-52 bằng không chiến, Tuất đã phải trích lại nguyên văn đoạn đó trong chuyện để phản đối bác, bác lại nhờ mod nào đó xoá béng. Các sỹ quan dẫn đường cho Đinh Tôn về để lừa B-52 vào sâu, giúp Rạng lập công. Bác bịa luôn đoạn 2 cùng hình ảnh, MIG của Đinh Tôn bị mất tốc độ nên phải quay về. Thực chất MIG-21 có một lợi thế là ổn định khi bay lên xuống góc lớn, ít mất tốc độ khi đổi hướng, lợi thế đó được triệt để sử dụng để đánh các F, các F không thể đuổi được. Thậm chí, MÌG cổ như MIG-17, MIG-19 vẫn quần đảo với các F-4 tốc độ bay thẳng gấp đôi, hạ các F và không cho bỏ trận. Các F khi vòng lượn, đặc biệt là lên xuống góc lớn đặc biệt thất tốc.
    Chuyện tên lửa đối không từ tầu cũng vậy. Trong trận đánh tầu khu trục bằng MIG-17, xạ thủ Mỹ đã hành động vội vã, bắn MIG khi MIG ở rất gần, khoảng cách tên lửa chưa đạt đủ tốc độ để điều khiển được. Các phi công nhìn thấy đạn băy thẳng lên trời. Trong một lần bay qua Thanh Hoá, do chưa biết rõ tính năng của tên lửa này, nên MIG-21 để radar trên tàu phát hiện, bắn tên lửa đối không. Dẫn dường cho MIG-21 chúi xuống, tên lửa mất điều khiển phát nổ vô ích. Lúc này, độ chính xác tên lửa này thua xa SAM-2, mặc dù đời sau và tầm xa hơn, chỉ cần một động tác nhỏ, tên lửa không thể cơ động đuổi theo, phát nổ trên đường đi cũ của máy bay. Sau đó, khi bay dọc bờ biển miền Trung, MIG chọn được độ cao tốt hơn tránh radar dẫn bắn từ tầu chiến. Trận đánh dự định tiêu diệt Thiệu ở Quảng Trị không thành. Theo tin tình báo, Thiệu ra Quảng Trị uý lạo lính, hai MIG-21 được lệnh vào, nhằm đám mít tính thả bom và bắn rocket, nhưng chả thấy đám nào. Lúc quay về, hai MIG bay chỉ cánh mặt biển 5 mét, một trên biển và một trên bãi, quay về an toàn. Radar, phòng không, không quân nguỵ tuy ở ngay tiền tuyến, mật độ dày đặc không thể quan sát được hai MIG này, không một máy bay nào đuổi theo MIG.
    Thời kỳ này và sau đó, tên lửa Mỹ thua xa vũ khí Liên Xô. Không nói các tên lửa nhỏ như AT hay SAM vác vai, các tên lửa chủ lực cũng vậy. Như trong trận xung đột Iran-Mỹ sau đó, một tầu chiến nhỏ Iran tấn công một tuần dương hạm lớn của Mỹ với một đống hộ vệ. Liên tiếp nhiều quả tên lửa chống hạm được phóng đi, nhưng đều trượt. May sao, một sỹ quan phòng không thông minh đột xuất, bắn một quả SAM vào chiếc xuồng Iran, diệt luôn. Tí nữa thì có trò cười, chiếc xuồng bé tí hạ tuần dương hạm.
    Chiến trang tác chiến điện tử thể hiện rõ ở Trung Đông. Quân Ai Cập được trang bị rất mạnh, nhưng cứng nhắc, hoàn toàn không có những giải pháp khắc chế đối phương. Trận đầu, tên lửa chống hạm Ai Cập một phát hạ luôn tầu khu trục Israel (có lẽ là trận sử dụng tên lửa chống hạm có điều khiển đầu tiên). Nhưng khi Do Thái phát triển các phương pháp gây nhiễu thì Ai Cập chịu chết. Chiến thắng rực rỡ của tên lửa Soviet tại Sinai cũng không giữa được lâu, quân Ai Cập phạm điều tối kỵ trong chiến tranh, là mạnh ai lấy tiến ham lập công. Đội hình xe tăng, bộ binh, phòng không, không quân bị kéo dài ra, không còn bảo vệ được nhau. Kết quả, Do Thái dùng máy bay bay thấp diệt phòng không và không quân. Rồi làm chủ bầu trời, họ vây và diệt tăng Ai Cập không được bộ binh và phòng không tầm thấp bảo vệ.
    Mỹ thua ta ở Miền Bắc phần nhiều là để lộ nhiều tính năng vũ khí trước trận đánh quyết định. Như hạm đội 7, đáng nhẽ tuyệt đối an toàn vì ta không đủ phương tiện trên biển, nhưng máy bay bay thấp của ta hoạt động như tên lửa chống hạm, cũng đánh được, hệ thống phòng không trong trận đó bối rối như trên.
    Ngay cả B-52, ta để Mỹ hoạt động tự do trong thời gian dài, kiên trì tìm cách đánh. B-52 để lộ nhiều nhược điểm, thậm chí, ở Trường Sơn, thiếu phương triện, các nữ thanh niên xung phong phát hiện sớm máy bay này bằng một cái đài, họ để đài ở tần số bắt được tín hiệu từ radar dò đường, biết trước B-52 sớm 15 phút, làm thiệt hại về người không đáng kể khi không có radar. Đây chỉ là tín hiệu ồn từ radar, chứ radio của chị em không thể thu được bước sóng đó nếu nó sạch.
    Kiên cường bất khuất là đặc điểm dân ta, chứ Tầu Khựa, gây sự với Khựa bé một thời gian dài, chỉ một ngày Khựa bé dùng AIM là tịt ngóp luôn, không dám cất cánh ho he. Trong khi ta thì nhiều lần tìm cách đánh địch như trên. Nếu như là khựa thì ngay năm 1967 đã vứt béng SAM-2 đi rồi, đem SAM-3 ra lại nhanh chóng lộ bí mật.
    Nhanh chóng tìm các giải pháp khác chế nhau quyết định thắng lợi, mặc dù tiềm lực vũ khí ta thua xa Mỹ. Một ví dụ về sự thua của Mỹ là súng chống tăng vác vai. Mỹ sử dụng loại hiện đại, tương đương những đời sau B-41 nhiều. Nhưng trận đầu ra quân của M-72 ở Làng Vây, xấu hổ, không hạ được tăng lội nước hạng nhẹ của ta. Nguyên nhân là do ngòi nổ. Tuy về lý thuyết, khả năng xuyên và tầm bắn của M-72 tốt hơn B-41. Nhưng B-41 trang bị ngòi nổ điện tử, xác định thời điểm nổ chính xác, điều quan trọng với đạn lõm. Trong khi đó, M-72 chỉ "đúng lý thuyết" trong trường hợp hiếm, góc chạm tốt. Mà tăng bơi của ta tuy giáp mỏng nhưng rất nghiêng, rất khó chạm vào đạn ở góc vuông. Đáng ra, nếu như ta, Mỹ sẽ có loại ngòi nổ mới ngay, nhưng mà Mỹ nó kém ta về độ kiên cường.
    Được than_dau_tuat sửa chữa / chuyển vào 07:52 ngày 21/02/2006
    LarvaNH thích bài này.
  8. Mig19Farmer

    Mig19Farmer Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/03/2004
    Bài viết:
    1.465
    Đã được thích:
    1
    Mig-17 ta không tấn công hạm đội 7 Tuất ạ. Chỉ là một pháo hạm áp sát bờ biển để pháo kích thôi, tầm nó cách bờ gần tới mức dùng ống nhòm có thể quan sát cột nước do bom nổ. Đúng là cái tàu đó thuộc hạm đội 7 nhưng tấn công nó và tấn công hạm đội mà nó thuộc về là 2 khái niệm khác hẳn nhau, không thể lập lờ như thế được.
  9. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Đoạn video, do máy bay Nato ghi lại, hình ảnh sống từ đầu dẫn của một tên lửa do nato bắn vào một trạm tên lửa của Nam tư.
    Nhìn rõ cả người bỏ chạy khỏi trạm.
    http://video.google.com/videoplay?docid=8543550240370370185&q=%22missile%22
  10. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Nói bậy quá. Tốc độ máy bay địch càng cao thì càng phải bắn chặn vì bắn đuổi sẽ không kịp.
    Theo sách Lịch sử QC PK-KQ, các sỹ quan TL nhận thấy địch sử dụng đường bay "vẹt", hình vòng thúng, vành khăn, chỉ tạt qua phía ngoài hoặc cắt chéo vòng hoả lực các trận địa trong một thời gian rất ngắn, do đó dù đã bắt được địch từ rất xa nhưng TL hầu như không có cơ hội bắn.
    TL Đờvina lúc đó chỉ bắn được khi địch bay thẳng lao vào vòng hoả lực. Chính vì thế nên khi đưa TL đi phục kích địch tại TQuang (EB-66), ta phải bố trí nghiên cứu rất kỹ đường bay để bố trí sao cho địch bay ngay trên đầu khó nhìn thấy quầng lửa B-52 đang bắn tới ở dưới bụng, và có thấy thì chỉ có cách bổ nhào thẳng vào dưới bụng TL (chiến thuật cơ động chống tên lửa chính của KQ Mỹ và Israell), tức là vào khu vực xung quanh trận địa vốn rất nhiều cao xạ . Lúc đó thì TL có trượt thì các trận địa cao xạ bảo vệ TL cũng có cơ hội tiến công.

Chia sẻ trang này