1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trên biên giới Tây Nam và tiêu diệt bọn diệt chủng Pol Pot

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi ptlinh, 06/10/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Cứ thế, cuộc chiến đấu tiêu diệt tàn quân Pol Pot kéo dài hơn năm trời; các thủ đoạn nham hiểm của chúng bị các chiến sĩ ta tương kế tựu kế, làm cho thất bại. Tuy nhiên, trong địa hình rứng núi bao la này, chúng vẫn bí mật lén lút đưa được một số lực lượng mới xâm nhập vào nội địa, tăng cường hoạt động phá hoại.
    Để diệt những căn cứ phá hoại này, đồng thời phải tìm diệt những nơi ẩn náu của bọn đầu sỏ, nơi phát sinh của mọi ngọn nguồn tội ác, cuối tháng 4 năm 1980, sư đoàn được giao nhiệm vụ diệt địch trên điểm cao 348-một trong những hang ổ quan trọng của lực lượng ?oKhơ-me tự do? do Xon Xen cầm đầu.
    Khu vực điểm cao 348 là một vùng rừng già liên tiếp, trong đó có ba mỏm chính: Mỏm phía tây nằm trên đường biên giới Campuchia-Thái Lan, cao 420 mét. Mỏm phía nam cao 500 mét, cách mỏm tây hai kilômét và cách điểm cao 348 khoảng một kilômét về phía nam. Ba mỏm nói với nhau bởi các yên ngựa ở độ cao trung bình 200 mét. Nếu không có người dẫn đường thì khó có thể tự leo lên khu vực điểm cao này bởi hệ thống những bãi mìn đủ loại bảo vệ.
    Để bảo đảm chắc thắng, sư đoàn quyết định tổ chức nhiều mũi trinh sát nghiên cứu điểm cao này thật chính xác, cụ thể mới tiến hành đánh phá.
    Sau gần nửa tháng, trinh sát sư đoàn và trung đoàn 270 đã xác định: Điểm cao 348 là một căn cứ của lực lượng xri-ka (Khơ-me tự do của Xon Xen) có từ thời Pol Pot. Pol Pot đổ, bọn này bắt tay với tàn quân Pol Pot, tiếp tục xây dựng điểm cao 348 thành một sào huyệt chống phá cách mạng. Nơi đây được xây dựng bằng các loại công sự xây lắp bằng bê tông hoặc các loại gỗ quý ít bị mối mọt. Hệ thống nhà ở nằm sâu dưới đất và nối với nhau bằng một hệ thống hào giao thông sau 1,5 đến 1,8 mét. Xung quanh điểm cao 348 là hệ thống chông mìn dày đặc cộng với hàng rào được xếp bằng những thân cây to chồng lên nhau nhiều lớp, nhiều tầng để chống đạn B.40. Ở chân điểm cao, chúng bố trí những tổ canh gác tiền tiêu. Hệ thống thông tin liên lạc được bố trí khá chu đáo.
    Để trận đánh chắc thắng, sư đoàn tăng cường cho trinh sát 270 tiểu đoàn 3 anh hùng có hoả lực chi viện. Đại đội 2 tiểu đoàn 17 làm nhiệm vụ phá gỡ mìn. Trinh sát sư đoàn sẽ dần đường cho bộ binh. Phó tham mưu trưởng sư đoàn lah được cử trực tiếp chỉ huy trận chiến đấu.
    Sau non nửa tháng, lực lượng công binh làm xong nhiệm vụ gỡ mìn mở đường. Các lực lượng pháo binh, thông tin, bộ binh, quân y, vận tải bắt đầu tiến vào vị trí tập kết.
    Ngày 20 tháng 4 năm 1980, sở chỉ huy trung đoàn 270 ra lệnh nổ súng tiến công điểm cao.
    9 giờ sáng (20-4), ở hướng tiểu đoàn 5, đại đội 5 đã gỡ xong mìn, đang ém dần vào mục tiêu. Hai chiến sĩ đi sau phát hiện hơn chục tên địch đang đi trong chiến hào đối diện. Chiến sĩ Nguyễn Hồng Tân kịp thời đặt quả mìn định hướng và giật nổ, hắt mảnh theo dọc chiến hào.
    Ở các hướng, bộ đội được lệnh xuất kích. Nhưng vì đồi dốc, rừng rậm nên cối 60, súng 12,7 không phát huy được tác dụng. Mìn dày đặc đã cản trở tốc độ tiến công của hai tiểu đoàn 4 và 6. Địch tập trung hoả lực hòng đánh bật mũi tiến công của tiểu đoàn 5.
    Thấy vậy, phó tham mưu trưởng sư đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn 6 nâng tốc độ tiến công. Tiểu đoàn 6 leo đến lưng chừng dốc thì địch dùng 12,8 từ trên cao quạt tới tấp vào đội hình. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Hợi hy sinh. Phó tiểu đoàn trưởng Lê Tư lệnh cho 12,7 chế áp để bộ binh phát triển, đồng thời báo cáo tình hình lên sư đoàn đơn vị bị bắn rát từ hai bên chứ không phải từ trên cao xuống. Phó tham mưu trưởng sư đoàn nhận định đơn vị đánh lạc hướng mục tiêu. Anh cho pháo binh kiềm chế mạnh hai mỏm đồi, đồng thời cử Nguyễn Quang Nuôi, phó trung đoàn trưởng trung đoàn 273 và Dương Cao phó trung đoàn trưởng trung đoàn 270 xuống kiểm tra lại hướng tiến công của tiểu đoàn 4 và tiểu đoàn 6. Qua kiểm tra, các anh thấy đúng là hai tiểu đoàn đã đánh lạc mục tiêu, liền cho điều chỉnh lại hướng tiến công.
    Lợi dụng những thân cây to, chiến sĩ ta luồn lách leo dần lên, dưới sự chi viện đắc lực của pháo binh. Ở hướng tiểu đoàn 5 (có thêm đại đội 10 tăng cường) đã xốc lại đội hình, tiếp tục vượt lên điểm cao.
    Đên 16 giờ, một nửa điểm cao về phía tây đã bị tiểu đoàn 5 đánh chiếm. Trời tối dần, các đơn vị tạm dừng. Sáng hôm sau, sau khi dùng cối 82 kết hợp pháo binh đánh mạnh vào điểm cao 500, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 Hoàng Quốc Viên dẫn đại đội 11 ào lên. Qua một giờ tiến công, tiểu đoàn 3 chiếm được điểm cao 500, diệt gần 200 tên địch. Từ điểm cao 500, phó trung đoàn trưởng Nguyễn Quang Nuôi (đi với tiểu đoàn 3) lệnh cho ĐK.75, súng 12,7 bắn mở đường cho đại đội 9 đánh xuống đồi yên ngựa nối sang điểm cao 348. Tổ đại liên Đông-Trường-Trần đi trước đội hình đánh tràn từ điểm cao 500 xuống, gây cho địch những thiệt hại lớn. Lợi dụng thời cơ, bộ binh ta bám nagy thắt lưng địch đuổi đánh. Bọn địch co dần về điểm cao 348, bắn chặn nhằm cầm chân bộ binh ta để đến đêm tẩu thoát, song sức chống cự của chúng yếu dần.
    Phó tham mưu trưởng sư đoàn lệnh cho các đơn vị mở đợt tiến công cuối cùng. Điểm cao 348 rung chuyển dữ dội dưới các loại hoả lực của quân ta. Trận đánh kết thúc lúc 18 giờ ngày 20 tháng 4.
    Sau trận tiến công điểm cao 348, sư đoàn được lệnh phối hợp với lực lượng bộ đội biên phòng bạn xây dựng hệ thống phòng phòng thủ vững chắc trên tuyến biên giới Campuchia-Thái Lan. Từ những điểm tựa kiên cố này, các tổ trinh sát thay nhau lặn lội trong mữa, lũ, cơm nắm, muối rang, vượt rừng sâu, núi cao đi tìm địch. Những căn cứ của các loại Khơ-me ********* dọc biên giới liên tiếp bi săn lùng đã phải bốc chạy vào đất Thái Lan để nương náu.
    Biên giới Campuchia được bảo vệ vững chắc. Với sự nỗ lực cao của nhân dân và quân đội nhân dân cách mạng Campuchia, với sự giúp đỡ tận tình, trong sáng trên tinh thần quốc tế vô sản cao cả của bộ đội tình nguyện Việt Nam, thế đứng của các lực lượng cách mạng Campuchia ngày càng được củng cố và không ngừng phát triển, biên giới của đất nước Campuchia được bảo vệ.
    Sau những chiến dịch tiến công truy quét bọn Khơ-me ********* trên vùng biên giới của quân đội nhân dân cách mạng Campuchia và bộ đội tình nguyện Việt Nam, tình hình các mặt của Campuchia ngày càng ổn định. Lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng Campuchia phát triển nhanh chóng và trưởng thành vượt bậc, từng bước đảm nhiệm nhiệm vụ phòng thut đất nước, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong công cuộc giữ gìn an ninh và bảo vệ Tổ quốc, chống lại mọi âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, đất nước Campuchia đang tiến những bước vững chắc.
    Trước tình hình phát triển tốt đẹp đó, theo sự thoả thuận giữ Trung ương Đảng và Chính phủ Campuchia với Trung ương Đảng và Chính phủ ta, một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam được rút về nước, trong đó có sư đoàn 341.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ngày 10 tháng 11 năm 1980, trước lúc lên đường về nước nhận nhiệm vụ mới, bộ tư lệnh sư đoàn 341 cùng với tỉnh uỷ và uỷ ban nhân dân tỉnh Bát Đom Boong tổ chức cuộc gặp gỡ thân mật để chia tay tạm biệt nhau.
    Tại cuộc gặp mặt đậm đà tình cảm quốc tế này, đồng chí Nguyễn Hữu Tiến, chính uỷ sư đoàn, thay mặt Bộ tư lệnh sư đoàn 341 đã trao lại cho tỉnh uỷ, uỷ ban nhân dân tỉnh hai cháu thiếu niên, một trai, một gái, độ tuổi 13, được bộ đội Việt Nam cứu sống trong hố chôn người tập thể của tàn quân Pol Pot trước khi tháo chạy khỏi Lếch. Gần hai năm được các chiến sĩ Việt Nam nuôi nấng, chăm sóc, các cháu đã khôn lớn. Cháu trai Buôn Mi được các chiến sĩ tiểu đoàn 6 tìm thấy trong đống xác người bị đập đầu; lúc ấy cháu chỉ còn thoi thóp thở. Cháu rất thích cái tên Việt Nam của mình: Trần Văn Được. Còn cháu gái vẫn giữ nguyên tên gọi là Xom Lim. Cháu rất thích bài hát ?oEm mơ gặp Bác Hồ: mà các chú Việt Nam dạy cho.
    Cái chết bi thảm của hàng triệu nhân dân Campuchia do bọn đồ tể Pol Pot thực hiện theo sự chỉ đạo của Bắc Kinh thực chất là kết quả một cuộc thử nghiệm chủ nghĩa Mao, là tội ác trời không dung, đất không tha; cả loài người tiến bộ mãi mãi nguyên rủa và căm giận.
    Ngày 7 tháng 1 năm 1979, ngày cả dân tộc Campuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng đã đi vào lịch sử như một mốc son chói lọi, mở ra thời kỳ hồi sinh của đất nước Campuchia. Hai cháu Bun Mi và Xom Lim là hình ảnh tượng trưng cho gần 2.000 cháu Campuchia ở lứa tuổi từ 2 đến 15 tuổi được các chiến sĩ sư đoàn 341 cứu sống, là những mầm mống của sự hồi sinh ấy. Các cháu sẽ trở thành người chủ tương lai của đất nước.
    Đồng chí bí thư tỉnh uỷ Bát Đom Boong khi nhận hai cháu đã xúc động nói: ?oGhi nhó tình nghĩa quốc tế sâu nặng này, Đảng và nhân dân chúng tôi sẽ nuôi dạy các cháu trở thành những người chủ thực sự, những người có ích cho xã hội, cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước sau này?.
    Thế đấy! Mặc cho kẻ thù của dân tộc tìm trăm phương nghìn kế, đổi trắng thay đen việc làm của Quân đội nhân dân Việt Nam, song chính nghĩa và lẽ phải luôn luôn là thực tế khách quan không có cách gì có thể xuyên tạc được.
    Nhân dân Campuchia là người hiểu hơn ai hết giá trị tinh thần của bốn chữ ?ođất nước hồi sinh?. Chính vì thế mà họ quý trọng, nâng niu những tình cảm thuỷ chung và hiếm có cùng với sự giúp đỡ chí tình, sự hy sinh không bờ bến của nhân dân Việt Nam anh em đối với cách mạng Campuchia. Tình cảm đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh dày xông xây đắp từ lúc cách mạng mỗi nước còn mới phôi thai.
    Nhìn cuộc sống mới yên vui, rộn ràng của mỗi phum, sóc, cảnh đoàn tụ ấm êm của từng gia đình, cảnh chợ búa đông đúc, nhộn nhịp, tiếng hát bi bô của trẻ thơ cắp sách đến trường, tiếng khóc chào đời của trẻ sơ sinh trong các trạm y tế, những lễ cưới của lứa đôi được tổ chức đông vui? ai nấy đều thấy lòng mình rộn lên những niềm vui khó tả, về sự hồi sinh nhanh chóng của nhân dân bạn. Thành quả ấy là kết quả của tinh thần chiến đấu bất khuất của nhân dân Campuchia dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, đồng thời cũng là kết quả của sự phối hợp giúp đỡ to lớn, sự hợp tác toàn diện đầy tinh thần đoàn kết, hữu nghị và quốc tế anh em giữa Cộng hoà nhân dân Campuchia và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiệp ước hoà bình, hữu nghị, hợp tác đã ký giữa hai nước.
    Tình cảm quốc tế thuỷ chung, trọn vẹn vun đắp chăm bón ngay trong những hành động bình thường hàng ngày của bộ đội tình nguyện Việt Nam đối với nhân dân Campuchia và sự đùm bọc yêu thương của các tầng lớp nhân dân Campuchia đối với các chiến sĩ quốc tế Việt Nam. Trong lần đến thăm sư đoàn 341, đồng chí Chăn Xi, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà nhân dân Campuchia đã nói: ?oNhớ lại những ngày đầu khi cách mạng mới thành công, đất nước Campuchia vừa mới thoát ra khỏi cuộc diệt chủng của bọn Pol Pot-Ieng Sary, cuộc sống còn đầy khó khăn, phức tạp, công việc còn ngồn ngộn và việc nào cũng cấp bách. Kẻ thù lại nhen nhóm lực lượng chống phá cách mạng. Tình hình mọi mặt thật như ngàn cân treo sợi tóc. Trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng ấy, sự giúp đỡ vô tư, khẳng khái, chí tình chí nghĩa của nhân dân Việt Nam, của Quân đội Việt Nam đối với nhân dân Campuchia, với cách mạng Campuchia thật là quý giá và trân trọng biết bao? (Phát biểu của đồng chí Chăn Xi, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà nhân dân Campuchia khi đồng chí đến thăm sư đoàn tai Kra Cô tháng 4 năm 1979).
    Ở huyện Lếch hay huyện Muông Say, huyện Pai Lyn hay Kra Cô? những địa phương mà sư đoàn đã lăn lộn với nhân dân và chính quyền địa phương đánh giặc giữ làng, xây dựng quê hương, hôm nay đã đổi thịt thay day, đồng ruộng đã xanh màu lúa mới, cuộc sống hạnh phúc đã đi vào mọi gia đình?
    Biết bao câu chuyện cảm động giữa bộ đội tình nguyện Việt Nam, giữa các chiến sĩ sư đoàn 341 và nhân dân các địa phương mà cho đến sau này vẫn còn để lại nhiều ấn tượng sâu sắc, không phai mờ trong lòng Năm Căn Campuchia. Các chiến sĩ đã tiến công truy quét bọn đao phủ, đồng thời tìm bắt trâu bò, thu nhặt nông cụ mà địch cướp đi đem về giúp dân chống đói, các chiến sĩ còn mang gạo của mình đến những địa phương xa xôi đổi thóc giống về cho dân. Thiếu cày, bừa, anh em vào rừng chặt gỗ cùng các cụ phụ lão đục đẽo, làm cày. Thiếu lưỡi cuốc, lưỡi cày, liềm, hái thì vận động các em thu nhặt sắt vụn, dựng lò rèn hướng dẫn thanh niên cùng làm. Các đơn vị cùng với y tá, bác sĩ trong sư đoàn đã cứu chữa hàng ngàn người khỏi các bệnh tật, đặc biệt đã cứu sống hàng trăm người là nạn nhân trực tiép của bọn đồ tể Pol Pot, nhiều trường hợp hết sức hiểm nghèo.
    Như trường hợp chị Xa-rươn, giáo viên ở xã Bâu-rích, sau khi được cứu sống, đã viết thư lên Thông tấn xã SPK để nói lêm cảm xúc và lòng biết ơn của mình. Chị viết: ?oTôi không còn hy vọng sống khi bị bọn ăng-ca đóng cọc tre vào cửa mình. Nhưng khi được bộ đội Việt Nam giải phóng khỏi bàn tay lũ giết người, được các bác sĩ quân tình nguyện Việt Nam cứu chữa, tôi được tái sinh. Tôi lại được lên bục giảng cùng học sinh thân yêu của tôi? Qua làn sóng Đài tiếng nói nhân dân Campuchia, tôi xin ghi lòng tạc dạ ơn nặng tình sâu của bộ đội tình nguyện Việt Nam-ân nhân của thầy trò chúng tôi và của cả dân tộc Campuchia?.
    Hay như mẹ So-mây, 72 tuổi đang hấp hối bên bụi tre già trong rừng sâu; sau khi được chiến sĩ vệ binh sư đoàn Kiều Xuân Thuỷ bắt gặp cõng về chăm sóc thuốc thang, mẹ được cứu sống. Mẹ nói: ?oKhông bao giờ đất nước Campuchia hết cây thốt nốt. Cũng như không bao giờ nhân dân Campuchia quên công ơn bộ đội tình nguyện Việt Nam?.
    Một hình ảnh so sánh rất văn học và cũng rất thực, đậm đà nghĩa tình sâu nặng của lòng người dân Chùa Tháp đối với bộ đội tình nguyện Việt Nam nói chung, đối với sư đoàn 341 nói riêng. Đó là hình ảnh vừa sống động vừa đanh thép và vào những cái mồm vu cáo bỉ ổi, trơ trẽn của bọn bành trướng Bắc Kinh và các thế lực ********* quốc tế khác đối với quân đội nhân dân Việt Nam trên chiến trường Campuchia.
    Cuối mùa mưa năm 1980, bầu trời vùng núi phía tây Campuchia còn lác đác những đụn mây đen, nhưng ánh nắng của mùa khô năm 1981 đã bắt đầu những ngày nắng ấm. Khắp các địa phương, nhân dân Campuchia đang sôi nổi chuẩn bị thu hoạch một vụ mùa bội thu. Hàng triệu héc-ta lúa đang chín rộ. Cuộc sống mới đang hồi sinh nhanh chóng. Nạn đói đã bị đẩy lùi. Tình hình Campuchia ngày càng ổn định và phát triển vững chắc.
    Tạm biệt nhân dân tỉnh Bát Đom Boong, tỉnh địa đầu phía tây nước Cộng hoà Năm Căn Campuchia trẻ tuổi, tỉnh đứng nơi đầu sóng ngọn gió kiên cường, bất khuất, đang hàng ngày, hàng giờ cảnh giác sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu của kẻ thù từ bên kia biên giới Thái Lan, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
    Tạm biệt Năm Căn Campuchia anh hùng, cán bộ, chiến sĩ sư đoàn Sông Lam mang trong mình lòng biết ơn vô hạn về sự giúp đỡ chí tình của Đảng, của nhân dân, của quân đội nhân dân cách mạng Campuchia anh em trong suốt quá trình sư đoàn làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn. Những tình cảm tốt đẹp đồng thời là sự đánh giá, biểu dương thành tích mà Đảng, Nhà nước Cộng hoà nhân dân Campuchia và nhân dân Campuchia đã dành cho sư đoàn mãi mãi sẽ là nguồn cổ vũ, động viên sư đoàn luôn luôn phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Lá thu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Campuchia gửi tới sư đoàn trước lúc lên đường về nước, đã nói lên đầy đủ tình nghĩa thuỷ chung, sự gắn bó sắt son của Đảng và nhân dân đất nước Chùa Tháp đối với sư đoàn 341 trong những ngày cùng sát cánh chiến đấu trên chiến trường Campuchia: ?oTổ quốc Campuchia sẽ mãi mãi ghi vào sổ vàng lịch sử đấu tranh cách mạng của mình những chiến công và hình ảnh Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, của sư đoàn 341 nói riêng. Trong những năm tháng chiến đấu trên đất nước Campuchia, các đồng chí đã để lại những kỷ niệm vô cùng cao đẹp, những hình ảnh trong sáng của tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân và quân đội hai nước Campuchia và Việt Nam chúng ta. Tên tuổi sư đoàn đã ăn sâu vào trái tim và lòng người Chùa Tháp. Năm tháng sẽ qua đi nhưng lịch sử của dân tộc Campuchia và nhân dân Campuchia đời đời ghi nhớ mãi tên tuổi của sư đoàn? (Thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Campuchia gửi sư đoàn 341 ngày 10 tháng 11 năm 1980).
    Cảm xúc trào dâng, người chiến sĩ sư đoàn Sông Lam xin kính chào đất nước và nhân dân Chùa Tháp anh hùng, xin trân trọng kính dâng lên Đảng, lên ndn và quân đội hai nước lời chúc mừng vì ?osự hợp tác toàn diện đầy tinh thần đoàn kết, hữu nghị và quốc tế anh em giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Campuchia phát triển tốt đẹp?.
    Từ Bát Đom Boong, đoàn tàu quân sự kéo còi lao vun vút về thủ đô Phnôm Pênh, rồi về Nam Việt Nam, và từ đây theo đường sắt Thống nhất Bắc-Nam, sư đoàn trở về mảnh đất quê hương, nơi trước đây tám năm sư đoàn được thành lập và lên đường chiến đấu.
    -------------------------------------------------
    Phần chiến đấu của Sư đoàn Sông Lam đến đây là hết rùi! Các bác chịu khó chờ em một thời gian để em kiếm thêm tài liệu đã! Bác nào có những tài liệu khác thì gửi lên đây cho bà con đọc đê!
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ngày 10 tháng 11 năm 1980, trước lúc lên đường về nước nhận nhiệm vụ mới, bộ tư lệnh sư đoàn 341 cùng với tỉnh uỷ và uỷ ban nhân dân tỉnh Bát Đom Boong tổ chức cuộc gặp gỡ thân mật để chia tay tạm biệt nhau.
    Tại cuộc gặp mặt đậm đà tình cảm quốc tế này, đồng chí Nguyễn Hữu Tiến, chính uỷ sư đoàn, thay mặt Bộ tư lệnh sư đoàn 341 đã trao lại cho tỉnh uỷ, uỷ ban nhân dân tỉnh hai cháu thiếu niên, một trai, một gái, độ tuổi 13, được bộ đội Việt Nam cứu sống trong hố chôn người tập thể của tàn quân Pol Pot trước khi tháo chạy khỏi Lếch. Gần hai năm được các chiến sĩ Việt Nam nuôi nấng, chăm sóc, các cháu đã khôn lớn. Cháu trai Buôn Mi được các chiến sĩ tiểu đoàn 6 tìm thấy trong đống xác người bị đập đầu; lúc ấy cháu chỉ còn thoi thóp thở. Cháu rất thích cái tên Việt Nam của mình: Trần Văn Được. Còn cháu gái vẫn giữ nguyên tên gọi là Xom Lim. Cháu rất thích bài hát ?oEm mơ gặp Bác Hồ: mà các chú Việt Nam dạy cho.
    Cái chết bi thảm của hàng triệu nhân dân Campuchia do bọn đồ tể Pol Pot thực hiện theo sự chỉ đạo của Bắc Kinh thực chất là kết quả một cuộc thử nghiệm chủ nghĩa Mao, là tội ác trời không dung, đất không tha; cả loài người tiến bộ mãi mãi nguyên rủa và căm giận.
    Ngày 7 tháng 1 năm 1979, ngày cả dân tộc Campuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng đã đi vào lịch sử như một mốc son chói lọi, mở ra thời kỳ hồi sinh của đất nước Campuchia. Hai cháu Bun Mi và Xom Lim là hình ảnh tượng trưng cho gần 2.000 cháu Campuchia ở lứa tuổi từ 2 đến 15 tuổi được các chiến sĩ sư đoàn 341 cứu sống, là những mầm mống của sự hồi sinh ấy. Các cháu sẽ trở thành người chủ tương lai của đất nước.
    Đồng chí bí thư tỉnh uỷ Bát Đom Boong khi nhận hai cháu đã xúc động nói: ?oGhi nhó tình nghĩa quốc tế sâu nặng này, Đảng và nhân dân chúng tôi sẽ nuôi dạy các cháu trở thành những người chủ thực sự, những người có ích cho xã hội, cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước sau này?.
    Thế đấy! Mặc cho kẻ thù của dân tộc tìm trăm phương nghìn kế, đổi trắng thay đen việc làm của Quân đội nhân dân Việt Nam, song chính nghĩa và lẽ phải luôn luôn là thực tế khách quan không có cách gì có thể xuyên tạc được.
    Nhân dân Campuchia là người hiểu hơn ai hết giá trị tinh thần của bốn chữ ?ođất nước hồi sinh?. Chính vì thế mà họ quý trọng, nâng niu những tình cảm thuỷ chung và hiếm có cùng với sự giúp đỡ chí tình, sự hy sinh không bờ bến của nhân dân Việt Nam anh em đối với cách mạng Campuchia. Tình cảm đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh dày xông xây đắp từ lúc cách mạng mỗi nước còn mới phôi thai.
    Nhìn cuộc sống mới yên vui, rộn ràng của mỗi phum, sóc, cảnh đoàn tụ ấm êm của từng gia đình, cảnh chợ búa đông đúc, nhộn nhịp, tiếng hát bi bô của trẻ thơ cắp sách đến trường, tiếng khóc chào đời của trẻ sơ sinh trong các trạm y tế, những lễ cưới của lứa đôi được tổ chức đông vui? ai nấy đều thấy lòng mình rộn lên những niềm vui khó tả, về sự hồi sinh nhanh chóng của nhân dân bạn. Thành quả ấy là kết quả của tinh thần chiến đấu bất khuất của nhân dân Campuchia dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, đồng thời cũng là kết quả của sự phối hợp giúp đỡ to lớn, sự hợp tác toàn diện đầy tinh thần đoàn kết, hữu nghị và quốc tế anh em giữa Cộng hoà nhân dân Campuchia và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiệp ước hoà bình, hữu nghị, hợp tác đã ký giữa hai nước.
    Tình cảm quốc tế thuỷ chung, trọn vẹn vun đắp chăm bón ngay trong những hành động bình thường hàng ngày của bộ đội tình nguyện Việt Nam đối với nhân dân Campuchia và sự đùm bọc yêu thương của các tầng lớp nhân dân Campuchia đối với các chiến sĩ quốc tế Việt Nam. Trong lần đến thăm sư đoàn 341, đồng chí Chăn Xi, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà nhân dân Campuchia đã nói: ?oNhớ lại những ngày đầu khi cách mạng mới thành công, đất nước Campuchia vừa mới thoát ra khỏi cuộc diệt chủng của bọn Pol Pot-Ieng Sary, cuộc sống còn đầy khó khăn, phức tạp, công việc còn ngồn ngộn và việc nào cũng cấp bách. Kẻ thù lại nhen nhóm lực lượng chống phá cách mạng. Tình hình mọi mặt thật như ngàn cân treo sợi tóc. Trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng ấy, sự giúp đỡ vô tư, khẳng khái, chí tình chí nghĩa của nhân dân Việt Nam, của Quân đội Việt Nam đối với nhân dân Campuchia, với cách mạng Campuchia thật là quý giá và trân trọng biết bao? (Phát biểu của đồng chí Chăn Xi, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà nhân dân Campuchia khi đồng chí đến thăm sư đoàn tai Kra Cô tháng 4 năm 1979).
    Ở huyện Lếch hay huyện Muông Say, huyện Pai Lyn hay Kra Cô? những địa phương mà sư đoàn đã lăn lộn với nhân dân và chính quyền địa phương đánh giặc giữ làng, xây dựng quê hương, hôm nay đã đổi thịt thay day, đồng ruộng đã xanh màu lúa mới, cuộc sống hạnh phúc đã đi vào mọi gia đình?
    Biết bao câu chuyện cảm động giữa bộ đội tình nguyện Việt Nam, giữa các chiến sĩ sư đoàn 341 và nhân dân các địa phương mà cho đến sau này vẫn còn để lại nhiều ấn tượng sâu sắc, không phai mờ trong lòng Năm Căn Campuchia. Các chiến sĩ đã tiến công truy quét bọn đao phủ, đồng thời tìm bắt trâu bò, thu nhặt nông cụ mà địch cướp đi đem về giúp dân chống đói, các chiến sĩ còn mang gạo của mình đến những địa phương xa xôi đổi thóc giống về cho dân. Thiếu cày, bừa, anh em vào rừng chặt gỗ cùng các cụ phụ lão đục đẽo, làm cày. Thiếu lưỡi cuốc, lưỡi cày, liềm, hái thì vận động các em thu nhặt sắt vụn, dựng lò rèn hướng dẫn thanh niên cùng làm. Các đơn vị cùng với y tá, bác sĩ trong sư đoàn đã cứu chữa hàng ngàn người khỏi các bệnh tật, đặc biệt đã cứu sống hàng trăm người là nạn nhân trực tiép của bọn đồ tể Pol Pot, nhiều trường hợp hết sức hiểm nghèo.
    Như trường hợp chị Xa-rươn, giáo viên ở xã Bâu-rích, sau khi được cứu sống, đã viết thư lên Thông tấn xã SPK để nói lêm cảm xúc và lòng biết ơn của mình. Chị viết: ?oTôi không còn hy vọng sống khi bị bọn ăng-ca đóng cọc tre vào cửa mình. Nhưng khi được bộ đội Việt Nam giải phóng khỏi bàn tay lũ giết người, được các bác sĩ quân tình nguyện Việt Nam cứu chữa, tôi được tái sinh. Tôi lại được lên bục giảng cùng học sinh thân yêu của tôi? Qua làn sóng Đài tiếng nói nhân dân Campuchia, tôi xin ghi lòng tạc dạ ơn nặng tình sâu của bộ đội tình nguyện Việt Nam-ân nhân của thầy trò chúng tôi và của cả dân tộc Campuchia?.
    Hay như mẹ So-mây, 72 tuổi đang hấp hối bên bụi tre già trong rừng sâu; sau khi được chiến sĩ vệ binh sư đoàn Kiều Xuân Thuỷ bắt gặp cõng về chăm sóc thuốc thang, mẹ được cứu sống. Mẹ nói: ?oKhông bao giờ đất nước Campuchia hết cây thốt nốt. Cũng như không bao giờ nhân dân Campuchia quên công ơn bộ đội tình nguyện Việt Nam?.
    Một hình ảnh so sánh rất văn học và cũng rất thực, đậm đà nghĩa tình sâu nặng của lòng người dân Chùa Tháp đối với bộ đội tình nguyện Việt Nam nói chung, đối với sư đoàn 341 nói riêng. Đó là hình ảnh vừa sống động vừa đanh thép và vào những cái mồm vu cáo bỉ ổi, trơ trẽn của bọn bành trướng Bắc Kinh và các thế lực ********* quốc tế khác đối với quân đội nhân dân Việt Nam trên chiến trường Campuchia.
    Cuối mùa mưa năm 1980, bầu trời vùng núi phía tây Campuchia còn lác đác những đụn mây đen, nhưng ánh nắng của mùa khô năm 1981 đã bắt đầu những ngày nắng ấm. Khắp các địa phương, nhân dân Campuchia đang sôi nổi chuẩn bị thu hoạch một vụ mùa bội thu. Hàng triệu héc-ta lúa đang chín rộ. Cuộc sống mới đang hồi sinh nhanh chóng. Nạn đói đã bị đẩy lùi. Tình hình Campuchia ngày càng ổn định và phát triển vững chắc.
    Tạm biệt nhân dân tỉnh Bát Đom Boong, tỉnh địa đầu phía tây nước Cộng hoà Năm Căn Campuchia trẻ tuổi, tỉnh đứng nơi đầu sóng ngọn gió kiên cường, bất khuất, đang hàng ngày, hàng giờ cảnh giác sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu của kẻ thù từ bên kia biên giới Thái Lan, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
    Tạm biệt Năm Căn Campuchia anh hùng, cán bộ, chiến sĩ sư đoàn Sông Lam mang trong mình lòng biết ơn vô hạn về sự giúp đỡ chí tình của Đảng, của nhân dân, của quân đội nhân dân cách mạng Campuchia anh em trong suốt quá trình sư đoàn làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn. Những tình cảm tốt đẹp đồng thời là sự đánh giá, biểu dương thành tích mà Đảng, Nhà nước Cộng hoà nhân dân Campuchia và nhân dân Campuchia đã dành cho sư đoàn mãi mãi sẽ là nguồn cổ vũ, động viên sư đoàn luôn luôn phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Lá thu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Campuchia gửi tới sư đoàn trước lúc lên đường về nước, đã nói lên đầy đủ tình nghĩa thuỷ chung, sự gắn bó sắt son của Đảng và nhân dân đất nước Chùa Tháp đối với sư đoàn 341 trong những ngày cùng sát cánh chiến đấu trên chiến trường Campuchia: ?oTổ quốc Campuchia sẽ mãi mãi ghi vào sổ vàng lịch sử đấu tranh cách mạng của mình những chiến công và hình ảnh Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, của sư đoàn 341 nói riêng. Trong những năm tháng chiến đấu trên đất nước Campuchia, các đồng chí đã để lại những kỷ niệm vô cùng cao đẹp, những hình ảnh trong sáng của tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân và quân đội hai nước Campuchia và Việt Nam chúng ta. Tên tuổi sư đoàn đã ăn sâu vào trái tim và lòng người Chùa Tháp. Năm tháng sẽ qua đi nhưng lịch sử của dân tộc Campuchia và nhân dân Campuchia đời đời ghi nhớ mãi tên tuổi của sư đoàn? (Thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Campuchia gửi sư đoàn 341 ngày 10 tháng 11 năm 1980).
    Cảm xúc trào dâng, người chiến sĩ sư đoàn Sông Lam xin kính chào đất nước và nhân dân Chùa Tháp anh hùng, xin trân trọng kính dâng lên Đảng, lên ndn và quân đội hai nước lời chúc mừng vì ?osự hợp tác toàn diện đầy tinh thần đoàn kết, hữu nghị và quốc tế anh em giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Campuchia phát triển tốt đẹp?.
    Từ Bát Đom Boong, đoàn tàu quân sự kéo còi lao vun vút về thủ đô Phnôm Pênh, rồi về Nam Việt Nam, và từ đây theo đường sắt Thống nhất Bắc-Nam, sư đoàn trở về mảnh đất quê hương, nơi trước đây tám năm sư đoàn được thành lập và lên đường chiến đấu.
    -------------------------------------------------
    Phần chiến đấu của Sư đoàn Sông Lam đến đây là hết rùi! Các bác chịu khó chờ em một thời gian để em kiếm thêm tài liệu đã! Bác nào có những tài liệu khác thì gửi lên đây cho bà con đọc đê!
  4. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Bác ptlinh vất vả quá, mời bác một ly.
    Nếu rảnh rỗi em sẽ cố post tư liệu đánh Khmer Đỏ của sư đoàn 10, 303. Còn bây giờ mời các bác đọc tạm cái này.
    Lữ đoàn 126 nguyên là đoàn 126 đặc công thuỷ đã tham gia chiến đấu ở Cửa Việt và giải phóng quần đảo Trường Sa. Sau giải phóng, đoàn 126 được xây dựng thành đơn vị hải quân đánh bộ đầu tiên của VN.
    Chiến dịch Tây Nam, trích Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam.
    [black]Ngày 23-12-1978, một bộ phận quân đoàn 4 phản công thắng lợi, tiêu diệt hầu hết số lực lượng địch tiến công sang đất ta ở khu vực tỉnh Tây Ninh. Chiến dịch lịch sử giải phóng toàn bộ Cam-pu-chia được bắt đầu sớm hơn dự kiến. Trong lúc các trận phản công ở biên giới tiếp tục thu thắng lợi thì ngày 28-12-1978, liên quân VN-CPC ở hướng bắc cũng đã giải phóng Cra-chiê, Xtung-treng, Cơ-lông, Đầm Be, Suông, Chúp. Các tỉnh phía đông bắc CPC được giải phóng.
    Phối hợp chặt chẽ với các mũi tiến công của lục quân, ở hướng biển, các đơn vị của hải quân được lệnh bước vào chiến đấu. Sở chỉ huy tiền phương của quân chủng chuyển ra đảo Phú Quốc. Sáng 3-1-1979, các tàu chiến của ta tiến vào vùng biển Tây Nam. Tối 4-1-1979, 2 biên đội tàu chiến đã tập kết đầy đủ ở khu vực đảo Nam Du và An Thời. Cũng vào thời gian này, toàn bộ người và vũ khí của lữ đoàn hải quân đánh bộ được các đơn vị vận tải chuyển ra đảo Phú Quốc an toàn. Các lực lượng quân chủng ở phía nam cũng đã sẵn sàng.
    Chiều 5-1-1979, tại sở chỉ huy tiền phương, Bộ tư lệnh quân chủng chính thức giao nhiệm vụ chiến đấu cho các đơn vị : "Bí mật đánh chiếm bãi đổ bộ ở chân núi Tà Lơn, phong toả đường 3 và 4, tiến đánh cảng Công Pông Xom. Tiêu diệt lực lượng hải quân địch, ngăn chặn không cho tàu chúng từ quân cảng Rê-am, Công Pông Xom chạy ra biển, bảo vệ sườn trái của đội hình đổ bộ của lữ đoàn hải quân đánh bộ.
    Đối tượng tác chiến của hải quân ta là sư đoàn hải quân 164, trung đoàn biên phòng 17 thuộc đặc khu Công Pông Xom và tỉnh Cô Công của Pol Pot. Chúng được Trung Quốc trang bị nhiều tàu pháo, tàu phóng lôi, săn ngầm, nhiều loại pháo mặt đất và pháo cao xạ.
    Chiến trường là toàn bộ cùng biển CPC có chiều dài gần 450km, trên biển có 44 đảo, có đường biên giới chung với Thái Lan ở phía tây; ven biển có đường số 3 Cam Pốt đến ngã ba Vê-an-rênh, đường số 4 Vê-an-rênh - Công Pông Xom. Bên cạnh đó còn có đường sắt từ Công Pông Xom đi Cam Pốt. Hầu hết khu vực này là rừng rậm. Ở Cô Công có nhiều núi cao, dân cư thưa thớt. Mùa này biển CPC có gió nhẹ, sóng êm, thủy triều lên xuống 2 lần 1 ngày. Ở khu vực Công Pông Xom, Rê-am, Cô Công, địch kiến trúc nhiều công sự, hầm hào, có một số kiên cố. Hầu hết lực lượng vũ trang bảo vệ vùng biển của địch đều bố trí ở đây.
    Lúc 20 giờ 15 ngày 5-1-1979, nhận được lệnh của trên, giờ G của chiến dịch đổ bộ được quy định vào hồi 20-23 giờ ngày 6-1-1979.
    10 giờ 30 ngày 6-1-1979, toàn bộ lực lượng tham gia đợt 1 chiến dịch được lệnh xuất phát.
    19 giờ, các chiến sĩ đổ bộ đã đến sát chân núi Tà Lơn. Pháo 105mm địch từ trận địa ở đông bắc núi bắt đầu bắn ra, nhiều cột nước tung lên phía trước các tàu đổ bộ của ta. Khi thấy pháo địch nổ súng, các chiến sĩ đặc công của ta bố trí sẵn quanh trận địa pháo lập tức nổ súng tiến công buộc bọn pháo thủ địch phải bỏ cả pháo đạn mà chạy. Đây là lực lượng 87 chiến sĩ đặc công được bí mật đổ bộ vào các đêm 4 và 5-1-1979. Sau khi chiếm trận địa pháo, các chiến sĩ ta lần lượt đánh chiếm các trận địa hoả lực khác để bảo vệ an toàn cho quân đổ bộ.
    Hoà cùng tiếng súng tiến công ở chân núi Tà Lơn, 2 tiểu đoàn pháo tầm xa từ Phú Quốc và Hòn Đốc nhất loạt nổ súng, chế áp các trận địa hoả lực địch trên các đảo Hòn Nước, Phú Dự, An Tây, Tre Mắm, Kiến Vàng, Keo Ngựa. Đạn pháo của ta còn bắn pháo ngã ba Mô-ke không cho địch điều động lực lượng đến chi viện cho Tà Lơn.
    Ở Tà Lơn, đúng giờ G, các tàu đổ bộ của thê đội 1 tiến vào bờ. các chiến sĩ tiểu đoàn 863 nhanh chóng toả ra chiếm các mục tiêu quy định, cùng các chiến sĩ phái đi trước giữ đầu cầu. Các tàu vận tải lần lượt tiến vào khu vực đổ quân. Cùng lúc này, ở trên biển, các tàu 203 và 215 biên đội 2 cảnh giới ở sườn trái bãi đổ bộ phát hiện 2 tàu địch ở giữa các đảo Hòn Nước và Phú Dự đang tiến về phía đoàn tàu đổ bộ. Hai tàu ta lập tức sử dụng pháo bắn sang tàu địch. Chúng vận động né tránh rồi bẻ lái sông vào tàu ta nổ súng điên cuồng. Song chúng đã bị hoả lực các tàu ta chế áp.
    Lúc 23 giờ 05, trận đánh đầu tiên ngoài biển kết thúc thắng lợi. Biên đội 2 bắn chìm tại chỗ 2 tàu địch, bắn 1 chiếc khác bị thương, trong đó có 1 chiếc 100 tấn. Sau trận đánh đầu, các tàu ta tiếp tục chốt chặn và tuần tiễu vòng ngoài. Lúc 1 giờ 30 sáng 7-1-1979, biên đội đã phát hiện 5 tàu địch từ cảng Rê-am tiến ra biển hòng đánh lén vào đội hình tàu đổ bộ. Chờ cho chúng đến gần, các tàu HQ05, 07 lập tức nổ súng mãnh liệt vào 2 mục tiêu bên trái. Tàu địch tản ra và bắn trả. Chỉ 2 phút sau, chiếc tàu đi đầu trúng đạn pháo của ta bốc cháy dữ dội và từ từ chìm xuống biển. Có sự phối hợp của tàu 613, ít phút sau ta bắn cháy thêm 1 tàu nữa làm 3 chiếc còn lại phải rút chạy, bảo đảm an toàn cho các tàu và lực lượng đổ bộ.
    Cũng thời gian này, biên đội 1 gồm các tàu HQ01, 03, 197, 205 sau khi hoàn thành nhiệm vụ nghi binh ở hướng Công Pông Xom, vận động về cách quân cảng Rê-am 16km, dùng pháo tầm xa pháo kích 30 phút vào sào huyệt địch làm cho địch hoang mang, lo sợ không rõ hướng tiến công chính của ta ở đâu.
    Ở cánh phải, các tàu của ta cũng đánh trả mãnh liệt 4 tàu địch từ khu biển Kép tiến ra, bắn chìm tại chỗ 1 chiếc, 3 chiếc khác phải rút chạy vào bờ. Cuộc hải chiến kéo dài cho đến sáng. Các tàu chiến của ta lần lượt đẩy lùi tất cả các đợt phản kích của địch, bảo vệ an toàn cho quân đổ bộ. Quá trình chiến đấu, tàu 215 của ta bị địch bắn trúng làm một số cán bộ, chiến sĩ thương vong.
    Được các tàu chiến và pháo binh chi viện có hiệu quả, tiếp theo tiểu đoàn 863, các tiểu đoàn 864, 867 cùng toàn bộ xe tăng, xe bọc thép cũng đã lên bờ. Riêng các tiểu đoàn 862, 865, 866 cùng một số xe vận tải đi cùng do thủy triều xuống thấp, tàu không áp sát được bờ, các chiến sĩ hải quân đánh bộ đã phải vượt bãi lầy gần 1.000m, các xe vận tải phải để lại.
    Sau các lần đổ quân đợt đầu hoàn thành, theo kế hoạch, sẽ tổ chức một mũi đi trước gồm số chiến sĩ tiểu đoàn đặc công 861, tiểu đoàn 864, 867 do đoàn phó hải quân đánh bộ chỉ huy, có nhiệm vụ đánh chiếm các cầu số 6, 8 trên quốc lộ số 3. Khi đến ngã ba Vê-an-rênh thì dừng lại chờ đơn vị bạn và các tiểu đoàn hải quân đánh bộ phía sau lên mới hợp quân tiến đánh cảng Công Pông Xom. Đồng thời đoàn bộ binh 101 đổ bộ sau cũng đánh chiếm quân cảng Rê-am. Phối hợp với lực lượng tiến công trên bộ, các tàu chiến của ta sẽ chiếm 2 cảng trên bằng đường biển. Kế hoạch đó nếu thực hiện đúng sẽ tạo thế tiến công sắc bén, buộc địch phải đối phó cả trước mặt lẫn sau lưng, bị chia cắt lực lượng tất yếu dẫn đến bị tiêu diệt.
    Thực hiện kế hoạch trên, vào lúc 3 giờ 40 ngày 7-1-1979, lực lượng đột kích gồm 12 xe tăng và xe bọc thép chở theo một bộ phận hải quân đánh bộ của tiểu đoàn 864 đã đến ngã ba Cô Ki. Thấy địch chống cự yếu ớt, ta tiếp tục phát triển lên phía trước, lực lượng chia làm 2 cánh tiến về hướng Rê-am và Công Pông Xom.
    Trước sức tiến công táo bạo của xe tăng, xe bọc thép của ta, địch chạy dạt vào những cánh rừng 2 bên đường. Lực lượng tiến về hướng Công Pông Xom, chờ đến 10 giờ trưa vẫn không thấy lực lượng phía sau lên, đành phải quay lại. Nhưng khi ta đang điều chỉnh đội hình thì quân địch đã đến tập kích rất mãnh liệt. Cuộc tập kích kéo dài từ 14 giờ 10 ngày 7-1 qua đêm và sang hết ngày 8-1-1979. Lực lượng đi đầu đã chiến đấu rất dũng cảm nhưng do bị bất ngờ và thiếu sự chỉ huy nên bị tổn thất.
    Thấy lực lượng đi đầu gặp khó khăn, sở chỉ huy quân chủng một mặt lệnh cho các tiểu đoàn hải quân đánh bộ phía sau để trang bị nặng lại, hành quân gấp lên phía trước, mặt khác lệnh cho đoàn 101 đổ quân lên chiếm đầu cầu thay cho đoàn hải quân đánh bộ. Thực hiện lệnh trên, từ trưa đến tối 7-1-1979, toàn bộ tiểu đoàn 6 và 8 (đoàn 101) đã đổ bộ lên Tà Lơn. Hôm sau toàn bộ số xe vận tải cũng lên được đất liền. Nhờ có ô tô vận chuyển và sự chi viện hoả lực hiệu quả của tiểu đoàn 868, các tiểu đoàn tổ chức tiến công theo đường số 3.
    Lúc này một cánh quân của quân đoàn 2 được lệnh nhanh chóng tiến lên phối hợp cùng hải quân đánh chiếm bằng được Công Pông Xom và Rê-am. 8 giờ sáng ngày 10-1-1979, các lực lượng hải quân ta đã phối hợp với lực lượng bộ binh bạn đột phá thắng lợi, lần lượt tiêu diệt các ổ đề kháng của địch. 8 giờ 15 ngày 10-1-1979, cảng Công Pông Xom được hoàn toàn giải phóng.
    Ở quân cảng Rê-am, sáng 10-1-1979, lợi dụng địch đang hoang mang do mất Công Pông Xom, 2 tàu PCF102, 107 của ta được lệnh tiến vào cảng để trinh sát. Nhiều hoả điểm được phát hiện. chúng bắn ra khá mạnh. Thấy tình hình đó, sở chỉ huy quân chủng đã điẹn cho chỉ huy các biên đội tiến vào Rê-am. Thực hiện lệnh trên, 3 tàu HQ01 và 2 tàu đi cùng đã vào cách quân cảng địch 8.000m dùng pháo lớn bắn 10 phút để chế áp địch. Dưới làn hoả lực của tàu HQ01, 3 tàu PGM605, 606, 607 lập tức tiến vào tiếp tục bắn diệt các hoả điểm địch. Ta còn điều các tàu 602, 603, 615 và 2 tàu HQ05, 07 từ hướng Công Pông Xom cùng đến tăng cường.
    Lúc này một mũi bộ binh của quân đoàn 2 cũng được lệnh đánh chiếm quân cảng Rê-am : tiểu đoàn 8 hải quân cũng được lệnh tiến mạnh theo đường bộ cùng đơn vị bạn đánh chiếm Rê-am từ phía sau.
    Được sự chi viện hiệu quả của các tàu pháo, các tàu PCF102, 107 đã vượt lên trước tiến nhanh vào nơi đổ bộ. Khi đến cự ly bắn hiệu quả, 2 tàu vừa tiến vừa bắn. Quân địch dùng hoả lực bộ binh đánh trả 2 tàu ta. Sau 20 phút, tàu PCF102, 107 đã đưa các đơn vị đổ bộ thành công lên bến. Trong khi tiến vào cảng địch, tàu 107 trúng 2 quả M79 làm 1 chiến sĩ hy sinh và 6 bị thương. Các chiến sĩ ta nhanh chóng đổ bộ lên cảng phối hợp cùng mũi bộ binh của quân đoàn 2 và tiểu đoàn 8 đánh chiếm toàn bộ quân cảng địch. Ở ngoài biển, biên đội tàu 1 đã sớm phát hiện 2 tàu địch ở phía bắc vịnh Công Pông Xom. các tàu 197, 199, 203, 205 cùng 2 tàu HQ01, 03 lập tức cơ động bao vây rồi dùng hoả lực bắn chìm tại chỗ. Chiều ngày 10-1-1979, trong niềm vui chiến thắng, các chiến sĩ hải quân và đơn vị bộ binh bạn đã hoàn toàn làm chủ cảng Rê-am.
  5. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Bác ptlinh vất vả quá, mời bác một ly.
    Nếu rảnh rỗi em sẽ cố post tư liệu đánh Khmer Đỏ của sư đoàn 10, 303. Còn bây giờ mời các bác đọc tạm cái này.
    Lữ đoàn 126 nguyên là đoàn 126 đặc công thuỷ đã tham gia chiến đấu ở Cửa Việt và giải phóng quần đảo Trường Sa. Sau giải phóng, đoàn 126 được xây dựng thành đơn vị hải quân đánh bộ đầu tiên của VN.
    Chiến dịch Tây Nam, trích Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam.
    [black]Ngày 23-12-1978, một bộ phận quân đoàn 4 phản công thắng lợi, tiêu diệt hầu hết số lực lượng địch tiến công sang đất ta ở khu vực tỉnh Tây Ninh. Chiến dịch lịch sử giải phóng toàn bộ Cam-pu-chia được bắt đầu sớm hơn dự kiến. Trong lúc các trận phản công ở biên giới tiếp tục thu thắng lợi thì ngày 28-12-1978, liên quân VN-CPC ở hướng bắc cũng đã giải phóng Cra-chiê, Xtung-treng, Cơ-lông, Đầm Be, Suông, Chúp. Các tỉnh phía đông bắc CPC được giải phóng.
    Phối hợp chặt chẽ với các mũi tiến công của lục quân, ở hướng biển, các đơn vị của hải quân được lệnh bước vào chiến đấu. Sở chỉ huy tiền phương của quân chủng chuyển ra đảo Phú Quốc. Sáng 3-1-1979, các tàu chiến của ta tiến vào vùng biển Tây Nam. Tối 4-1-1979, 2 biên đội tàu chiến đã tập kết đầy đủ ở khu vực đảo Nam Du và An Thời. Cũng vào thời gian này, toàn bộ người và vũ khí của lữ đoàn hải quân đánh bộ được các đơn vị vận tải chuyển ra đảo Phú Quốc an toàn. Các lực lượng quân chủng ở phía nam cũng đã sẵn sàng.
    Chiều 5-1-1979, tại sở chỉ huy tiền phương, Bộ tư lệnh quân chủng chính thức giao nhiệm vụ chiến đấu cho các đơn vị : "Bí mật đánh chiếm bãi đổ bộ ở chân núi Tà Lơn, phong toả đường 3 và 4, tiến đánh cảng Công Pông Xom. Tiêu diệt lực lượng hải quân địch, ngăn chặn không cho tàu chúng từ quân cảng Rê-am, Công Pông Xom chạy ra biển, bảo vệ sườn trái của đội hình đổ bộ của lữ đoàn hải quân đánh bộ.
    Đối tượng tác chiến của hải quân ta là sư đoàn hải quân 164, trung đoàn biên phòng 17 thuộc đặc khu Công Pông Xom và tỉnh Cô Công của Pol Pot. Chúng được Trung Quốc trang bị nhiều tàu pháo, tàu phóng lôi, săn ngầm, nhiều loại pháo mặt đất và pháo cao xạ.
    Chiến trường là toàn bộ cùng biển CPC có chiều dài gần 450km, trên biển có 44 đảo, có đường biên giới chung với Thái Lan ở phía tây; ven biển có đường số 3 Cam Pốt đến ngã ba Vê-an-rênh, đường số 4 Vê-an-rênh - Công Pông Xom. Bên cạnh đó còn có đường sắt từ Công Pông Xom đi Cam Pốt. Hầu hết khu vực này là rừng rậm. Ở Cô Công có nhiều núi cao, dân cư thưa thớt. Mùa này biển CPC có gió nhẹ, sóng êm, thủy triều lên xuống 2 lần 1 ngày. Ở khu vực Công Pông Xom, Rê-am, Cô Công, địch kiến trúc nhiều công sự, hầm hào, có một số kiên cố. Hầu hết lực lượng vũ trang bảo vệ vùng biển của địch đều bố trí ở đây.
    Lúc 20 giờ 15 ngày 5-1-1979, nhận được lệnh của trên, giờ G của chiến dịch đổ bộ được quy định vào hồi 20-23 giờ ngày 6-1-1979.
    10 giờ 30 ngày 6-1-1979, toàn bộ lực lượng tham gia đợt 1 chiến dịch được lệnh xuất phát.
    19 giờ, các chiến sĩ đổ bộ đã đến sát chân núi Tà Lơn. Pháo 105mm địch từ trận địa ở đông bắc núi bắt đầu bắn ra, nhiều cột nước tung lên phía trước các tàu đổ bộ của ta. Khi thấy pháo địch nổ súng, các chiến sĩ đặc công của ta bố trí sẵn quanh trận địa pháo lập tức nổ súng tiến công buộc bọn pháo thủ địch phải bỏ cả pháo đạn mà chạy. Đây là lực lượng 87 chiến sĩ đặc công được bí mật đổ bộ vào các đêm 4 và 5-1-1979. Sau khi chiếm trận địa pháo, các chiến sĩ ta lần lượt đánh chiếm các trận địa hoả lực khác để bảo vệ an toàn cho quân đổ bộ.
    Hoà cùng tiếng súng tiến công ở chân núi Tà Lơn, 2 tiểu đoàn pháo tầm xa từ Phú Quốc và Hòn Đốc nhất loạt nổ súng, chế áp các trận địa hoả lực địch trên các đảo Hòn Nước, Phú Dự, An Tây, Tre Mắm, Kiến Vàng, Keo Ngựa. Đạn pháo của ta còn bắn pháo ngã ba Mô-ke không cho địch điều động lực lượng đến chi viện cho Tà Lơn.
    Ở Tà Lơn, đúng giờ G, các tàu đổ bộ của thê đội 1 tiến vào bờ. các chiến sĩ tiểu đoàn 863 nhanh chóng toả ra chiếm các mục tiêu quy định, cùng các chiến sĩ phái đi trước giữ đầu cầu. Các tàu vận tải lần lượt tiến vào khu vực đổ quân. Cùng lúc này, ở trên biển, các tàu 203 và 215 biên đội 2 cảnh giới ở sườn trái bãi đổ bộ phát hiện 2 tàu địch ở giữa các đảo Hòn Nước và Phú Dự đang tiến về phía đoàn tàu đổ bộ. Hai tàu ta lập tức sử dụng pháo bắn sang tàu địch. Chúng vận động né tránh rồi bẻ lái sông vào tàu ta nổ súng điên cuồng. Song chúng đã bị hoả lực các tàu ta chế áp.
    Lúc 23 giờ 05, trận đánh đầu tiên ngoài biển kết thúc thắng lợi. Biên đội 2 bắn chìm tại chỗ 2 tàu địch, bắn 1 chiếc khác bị thương, trong đó có 1 chiếc 100 tấn. Sau trận đánh đầu, các tàu ta tiếp tục chốt chặn và tuần tiễu vòng ngoài. Lúc 1 giờ 30 sáng 7-1-1979, biên đội đã phát hiện 5 tàu địch từ cảng Rê-am tiến ra biển hòng đánh lén vào đội hình tàu đổ bộ. Chờ cho chúng đến gần, các tàu HQ05, 07 lập tức nổ súng mãnh liệt vào 2 mục tiêu bên trái. Tàu địch tản ra và bắn trả. Chỉ 2 phút sau, chiếc tàu đi đầu trúng đạn pháo của ta bốc cháy dữ dội và từ từ chìm xuống biển. Có sự phối hợp của tàu 613, ít phút sau ta bắn cháy thêm 1 tàu nữa làm 3 chiếc còn lại phải rút chạy, bảo đảm an toàn cho các tàu và lực lượng đổ bộ.
    Cũng thời gian này, biên đội 1 gồm các tàu HQ01, 03, 197, 205 sau khi hoàn thành nhiệm vụ nghi binh ở hướng Công Pông Xom, vận động về cách quân cảng Rê-am 16km, dùng pháo tầm xa pháo kích 30 phút vào sào huyệt địch làm cho địch hoang mang, lo sợ không rõ hướng tiến công chính của ta ở đâu.
    Ở cánh phải, các tàu của ta cũng đánh trả mãnh liệt 4 tàu địch từ khu biển Kép tiến ra, bắn chìm tại chỗ 1 chiếc, 3 chiếc khác phải rút chạy vào bờ. Cuộc hải chiến kéo dài cho đến sáng. Các tàu chiến của ta lần lượt đẩy lùi tất cả các đợt phản kích của địch, bảo vệ an toàn cho quân đổ bộ. Quá trình chiến đấu, tàu 215 của ta bị địch bắn trúng làm một số cán bộ, chiến sĩ thương vong.
    Được các tàu chiến và pháo binh chi viện có hiệu quả, tiếp theo tiểu đoàn 863, các tiểu đoàn 864, 867 cùng toàn bộ xe tăng, xe bọc thép cũng đã lên bờ. Riêng các tiểu đoàn 862, 865, 866 cùng một số xe vận tải đi cùng do thủy triều xuống thấp, tàu không áp sát được bờ, các chiến sĩ hải quân đánh bộ đã phải vượt bãi lầy gần 1.000m, các xe vận tải phải để lại.
    Sau các lần đổ quân đợt đầu hoàn thành, theo kế hoạch, sẽ tổ chức một mũi đi trước gồm số chiến sĩ tiểu đoàn đặc công 861, tiểu đoàn 864, 867 do đoàn phó hải quân đánh bộ chỉ huy, có nhiệm vụ đánh chiếm các cầu số 6, 8 trên quốc lộ số 3. Khi đến ngã ba Vê-an-rênh thì dừng lại chờ đơn vị bạn và các tiểu đoàn hải quân đánh bộ phía sau lên mới hợp quân tiến đánh cảng Công Pông Xom. Đồng thời đoàn bộ binh 101 đổ bộ sau cũng đánh chiếm quân cảng Rê-am. Phối hợp với lực lượng tiến công trên bộ, các tàu chiến của ta sẽ chiếm 2 cảng trên bằng đường biển. Kế hoạch đó nếu thực hiện đúng sẽ tạo thế tiến công sắc bén, buộc địch phải đối phó cả trước mặt lẫn sau lưng, bị chia cắt lực lượng tất yếu dẫn đến bị tiêu diệt.
    Thực hiện kế hoạch trên, vào lúc 3 giờ 40 ngày 7-1-1979, lực lượng đột kích gồm 12 xe tăng và xe bọc thép chở theo một bộ phận hải quân đánh bộ của tiểu đoàn 864 đã đến ngã ba Cô Ki. Thấy địch chống cự yếu ớt, ta tiếp tục phát triển lên phía trước, lực lượng chia làm 2 cánh tiến về hướng Rê-am và Công Pông Xom.
    Trước sức tiến công táo bạo của xe tăng, xe bọc thép của ta, địch chạy dạt vào những cánh rừng 2 bên đường. Lực lượng tiến về hướng Công Pông Xom, chờ đến 10 giờ trưa vẫn không thấy lực lượng phía sau lên, đành phải quay lại. Nhưng khi ta đang điều chỉnh đội hình thì quân địch đã đến tập kích rất mãnh liệt. Cuộc tập kích kéo dài từ 14 giờ 10 ngày 7-1 qua đêm và sang hết ngày 8-1-1979. Lực lượng đi đầu đã chiến đấu rất dũng cảm nhưng do bị bất ngờ và thiếu sự chỉ huy nên bị tổn thất.
    Thấy lực lượng đi đầu gặp khó khăn, sở chỉ huy quân chủng một mặt lệnh cho các tiểu đoàn hải quân đánh bộ phía sau để trang bị nặng lại, hành quân gấp lên phía trước, mặt khác lệnh cho đoàn 101 đổ quân lên chiếm đầu cầu thay cho đoàn hải quân đánh bộ. Thực hiện lệnh trên, từ trưa đến tối 7-1-1979, toàn bộ tiểu đoàn 6 và 8 (đoàn 101) đã đổ bộ lên Tà Lơn. Hôm sau toàn bộ số xe vận tải cũng lên được đất liền. Nhờ có ô tô vận chuyển và sự chi viện hoả lực hiệu quả của tiểu đoàn 868, các tiểu đoàn tổ chức tiến công theo đường số 3.
    Lúc này một cánh quân của quân đoàn 2 được lệnh nhanh chóng tiến lên phối hợp cùng hải quân đánh chiếm bằng được Công Pông Xom và Rê-am. 8 giờ sáng ngày 10-1-1979, các lực lượng hải quân ta đã phối hợp với lực lượng bộ binh bạn đột phá thắng lợi, lần lượt tiêu diệt các ổ đề kháng của địch. 8 giờ 15 ngày 10-1-1979, cảng Công Pông Xom được hoàn toàn giải phóng.
    Ở quân cảng Rê-am, sáng 10-1-1979, lợi dụng địch đang hoang mang do mất Công Pông Xom, 2 tàu PCF102, 107 của ta được lệnh tiến vào cảng để trinh sát. Nhiều hoả điểm được phát hiện. chúng bắn ra khá mạnh. Thấy tình hình đó, sở chỉ huy quân chủng đã điẹn cho chỉ huy các biên đội tiến vào Rê-am. Thực hiện lệnh trên, 3 tàu HQ01 và 2 tàu đi cùng đã vào cách quân cảng địch 8.000m dùng pháo lớn bắn 10 phút để chế áp địch. Dưới làn hoả lực của tàu HQ01, 3 tàu PGM605, 606, 607 lập tức tiến vào tiếp tục bắn diệt các hoả điểm địch. Ta còn điều các tàu 602, 603, 615 và 2 tàu HQ05, 07 từ hướng Công Pông Xom cùng đến tăng cường.
    Lúc này một mũi bộ binh của quân đoàn 2 cũng được lệnh đánh chiếm quân cảng Rê-am : tiểu đoàn 8 hải quân cũng được lệnh tiến mạnh theo đường bộ cùng đơn vị bạn đánh chiếm Rê-am từ phía sau.
    Được sự chi viện hiệu quả của các tàu pháo, các tàu PCF102, 107 đã vượt lên trước tiến nhanh vào nơi đổ bộ. Khi đến cự ly bắn hiệu quả, 2 tàu vừa tiến vừa bắn. Quân địch dùng hoả lực bộ binh đánh trả 2 tàu ta. Sau 20 phút, tàu PCF102, 107 đã đưa các đơn vị đổ bộ thành công lên bến. Trong khi tiến vào cảng địch, tàu 107 trúng 2 quả M79 làm 1 chiến sĩ hy sinh và 6 bị thương. Các chiến sĩ ta nhanh chóng đổ bộ lên cảng phối hợp cùng mũi bộ binh của quân đoàn 2 và tiểu đoàn 8 đánh chiếm toàn bộ quân cảng địch. Ở ngoài biển, biên đội tàu 1 đã sớm phát hiện 2 tàu địch ở phía bắc vịnh Công Pông Xom. các tàu 197, 199, 203, 205 cùng 2 tàu HQ01, 03 lập tức cơ động bao vây rồi dùng hoả lực bắn chìm tại chỗ. Chiều ngày 10-1-1979, trong niềm vui chiến thắng, các chiến sĩ hải quân và đơn vị bộ binh bạn đã hoàn toàn làm chủ cảng Rê-am.
  6. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Lần đầu tiên hải quân nhân dân Việt Nam tổ chức chiến dịch đổ bộ hiệp đồng nhiều lực lượng, đã giải phóng một phần vùng biển CPC và cùng lực lượng bộ binh của quân đoàn 2 tiến đánh và giải phóng các cảng Công Pông Xom và Rê-am, tiêu diệt và làm tan rã cơ bản lực lượng hải quân địch, buộc số còn lại phải tháo chạy về Cô Công, tạo điều kiện thuận lợi cho chiến dịch toàn thắng và thu được nhiều kinh nghiệm quý báu.
    Cùng với hướng tiến công chính mở ra trên vùng biển tây nam CPC, hải quân ta còn phối thuộc hải đội 811 cho đoàn 962 có nhiệm vụ tiến quân theo sông Mekong, bảo vệ sườn cho quân đoàn 4 tiến quân theo đường bộ.
    Sáng 6-1-1979, toàn bộ đoàn 962 tập kết ở Tân Châu. 14 giờ 30 cùng ngày được lệnh xuất phát. Trên đường đi đến thủ đô Phnom Penh, 41 chiếc tàu của đoàn đã nhiều lần nổ súng đánh tan các ổ đề kháng, các tàu địch ngăn chặn, bắn chìm 4 tàu tuần tiễu và tàu dầu của địch. Đặc biệt đoàn đã dùng tàu đổ bộ chở toàn bộ xe pháo cho quân đoàn 4 và binh đoàn 1 quân đội nhân dân cách mạng CPC vượt bến Niếc Lương, tiến về giải phóng Phnom Penh đúng thời gian theo lệnh của bộ chỉ huy liên quân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
    Sau khi kết thúc thắng lợi đợt 1 của chiến dịch, các lực lượng hải quân vừa nhanh chóng giải quyết công việc sau chiến đấu, vừa khẩn trương chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo.
    Lúc 9 giờ ngày 12-1-1979, Bộ chỉ huy liên quân trực tiếp giao nhiệm vụ cho quân chủng hải quân : "Chuẩn bị lực lượng tiếp tục giải phóng thị xã Cô Công, đảo Cô Công, Bô-lô-mai, Cô tang...". Kế hoạch tác chiến được cơ quan tham mưu khẩn trương chuẩn bị và trưa 14-1-1979, quyết tâm của Bộ tư lệnh tiền phương quân chủng Hải quân đã được trên phê duyệt.
    Trước các đòn phản công, tiến công mãnh liệt của quân đội nhân dân cách mạng CPC và quân tình nguyện Việt Nam, đại bộ phận quân địch đã bị tiêu diệt và tan rã, tháo chạy về phía biên giới Thái Lan. Thủ đô Phnom Penh và nhiều thành phố, thị xã được giải phóng. Quyết tâm của Bộ tư lệnh tiền phương hải quân là sử dụng lực lượng tại chỗ, tổ chức hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ trong phạm vi quân chủng và giữa quân chủng với bộ đội không quân và đơn vị của quân đoàn 2 nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ đổ bộ lên Cô Công tiêu diệt trung đoàn biên phòng 17 và số còn lại của sư đoàn hải quân 164, không cho chúng co cụm để chống phá ta sau này.
    Thực hiện quyết tâm trên, chiều 14-1-1979, sở chỉ huy tiền phương quân chủng do thiếu tướng tư lệnh Giáp văn Cương chỉ huy chuyển xuống tàu đến cảng Công Pông Xom. Việc phổ biến kế hoạch và giao nhiệm vụ được tiến hành ngay trong đêm. Ở đợt 2 của chiến dịch, việc đổ bộ lên đảo Cô Công được giao cho đoàn bộ binh 101. Riêng nhiệm vụ bảo vệ đội hình hành quân, chi viện hoả lực trong quá trình đổ bộ và tiến công đánh chiếm các mục tiêu do các tàu chiến của quân chủng đảm nhiệm. Hải quân đánh bộ đảm nhiệm tiến công giải phóng thị xã Cô Công.
    Ngày 15-1-1979, các biên đội không quân ta nhiều lần xuất kích để trinh sát và ném bom bắn phá các mục tiêu quân sự xung quanh thị xã Cô Công và vùng ven biển nơi sẽ diễn ra cuộc đổ bộ. Các máy bay ta đã phát hiện 8 tàu địch ẩn nấp trong sông Cô-lông Băng Cra-sáp.
    19 giờ 30 cùng ngày, toàn bộ lực lượng tham gia chiến dịch rời Công Pông Xom nhằm hướng Cô Công xuất phát.
    Mờ sáng 16-1-1979, toàn bộ đội hình tiến công đã đến vùng biển Cô Công an toàn. Các tàu của ta hình thành thế bao vây từ bắc xuống nam bán đảo. Trời sáng rõ, các tàu tiến vào bãi đổ bộ. Pháo binh địch bắt đầu bắn ra. Mặt biển Cô Công ầm ầm tiếng nổ. Đồng chí sĩ quan không quân trên tàu 501 đã bắt liên lạc được với sân bay. Cuộc oanh tạc dọn bãi đổ bộ bắt đầu.
    Từng biên đội F5E giội bom xuống các khu vực phòng ngự của địch. Nhiều trận địa pháo địch bị trúng bom. Tiếp đó là cuộc pháo kích của các tàu chiến kéo dài hơn 3 giờ. Sức chống cự của địch hầu như bị đè bẹp hoàn toàn.
    12 giờ 45, lệnh đổ bộ được phát ra. Các tàu đổ bộ vừa tiến vừa bắn lên phía trước. 13 giờ, mũi chiếc tàu đầu tiên chạm bờ. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 6 xông lên tiến công vào các chốt có quân địch bắn ra. Phum Cô Công nơi đặt trận địa pháo 105mm của địch bị các chiến sĩ ta chiếm ngay từ những phút đầu. Hầu hết pháo địch đã bị không quân ta ném bom hư hỏng. Sau đó, cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 5, 7, 8 cũng lên hết bờ. Theo phương án đã được tập luyện, các chiến sĩ ta tổ chức xung phong lần lượt đánh chiếm các mục tiêu và tiếp tục phát triển vào sâu đất liền. Quân địch số bị diệt, số chạy dạt vào rừng núi. Đoàn 101 đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đổ bộ chiếm đầu cầu. Ngoài ra đoàn 101 còn điều 2 đại đội chuyển sang đổ bộ đánh chiếm khu vực Lăm Dăm đến nam cửa sông Cra-sốp tạo bàn đạp cho lữ đoàn hải quân đánh bộ đánh chiếm thị xã được thuận lợi.
    Nhân lúc địch đang hoang mang dao động, Bộ chỉ huy tiền phương quyết định sử dụng đoàn hải quân đánh bộ mở cuộc tiến công mới nhanh chóng tiêu diệt lực lượng biên phòng địch, chiếm thị xã Cô Công. Cuộc tiến công được mở đầu vào 12 giờ ngày 17-1-1979. Ở hướng chính, các chiến sĩ tiểu đoàn 865, 866 đổ bộ thẳng vào cửa sông Cô-lông Khô-po đến nam điểm cao 119. Quân địch ở đây chống cự khá mạnh. Song trước hoả lực rất hiệu quả của không quân và tàu chiến của ta, chúng bị tiêu diệt nhanh chóng.
    14 giờ, các chiến sĩ hải quân đánh bộ đã xung phong chiếm điểm cao 118, thu 1 pháo 76,2mm, 2 súng ĐKZ, 1 súng 12,7mm, sau đó tiến mạnh vào thị xã. Ở hướng vu hồi theo sông Cra-sốp, các tiểu đoàn 862, 863 có hoả lực của các tàu HQ01, 03, 05, 07 chi viện, đã nhanh chóng xung phong chiếm điểm cao 49 và các căn cứ, công sở địch, cùng các tiểu đoàn bạn giải phóng hoàn toàn thị xã Cô Công.
    Lợi dụng lúc địch đang phải chống đỡ với sự tiến công mãnh liệt của hải quân ta, ngày 17-1-1979, tiểu đoàn bộ binh Hòn Đốc đã tiến công giải phóng đảo Đlô-ao, đại đội 2 Nam Du đánh chiếm đảo Cô tang. Sau đó, các đơn vị khác của hải quân còn giải phóng đảo Hòn Nước, Phú Dự... Toàn bộ các đảo trong vùng biển CPC sạch bóng quân *********.
    Chiến dịch Tây Nam toàn thắng. Sau đó các lực lượng hải quân chuyển sang làm nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, thu hồi kho tàng vật chất kỹ thuật chiến tranh cho bạn, giúp nhân dân ổn định cuộc sống, phục hồi sản xuất, xây dựng chính quyền cách mạng.
    ...
    Kết thúc chiến dịch, các lực lượng hải quân được Quốc hội và chính phủ tặng thưởng 14 huân chương Quân công, 999 huân chương Chiến công cho tập thể và cá nhân. Các tiểu đoàn 863, 865; hải đội 811; tàu 199, 203, 232; đại đội 2, 3 (đoàn 101); liệt sĩ Tống Duy Tụng lập chiến công đặc biệt xuất sắc được tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng và Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
    Bác panzer có thể kể qua về kế hoạch dùng quân dù chiếm Phnom Penh không. Theo em nhớ thì hình như năm 66 hay 67 binh chủng dù đã được giải thể, lữ đoàn 305 đã chuyển thành đặc công (hồi kí tướng Nam Khánh).


  7. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Lần đầu tiên hải quân nhân dân Việt Nam tổ chức chiến dịch đổ bộ hiệp đồng nhiều lực lượng, đã giải phóng một phần vùng biển CPC và cùng lực lượng bộ binh của quân đoàn 2 tiến đánh và giải phóng các cảng Công Pông Xom và Rê-am, tiêu diệt và làm tan rã cơ bản lực lượng hải quân địch, buộc số còn lại phải tháo chạy về Cô Công, tạo điều kiện thuận lợi cho chiến dịch toàn thắng và thu được nhiều kinh nghiệm quý báu.
    Cùng với hướng tiến công chính mở ra trên vùng biển tây nam CPC, hải quân ta còn phối thuộc hải đội 811 cho đoàn 962 có nhiệm vụ tiến quân theo sông Mekong, bảo vệ sườn cho quân đoàn 4 tiến quân theo đường bộ.
    Sáng 6-1-1979, toàn bộ đoàn 962 tập kết ở Tân Châu. 14 giờ 30 cùng ngày được lệnh xuất phát. Trên đường đi đến thủ đô Phnom Penh, 41 chiếc tàu của đoàn đã nhiều lần nổ súng đánh tan các ổ đề kháng, các tàu địch ngăn chặn, bắn chìm 4 tàu tuần tiễu và tàu dầu của địch. Đặc biệt đoàn đã dùng tàu đổ bộ chở toàn bộ xe pháo cho quân đoàn 4 và binh đoàn 1 quân đội nhân dân cách mạng CPC vượt bến Niếc Lương, tiến về giải phóng Phnom Penh đúng thời gian theo lệnh của bộ chỉ huy liên quân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
    Sau khi kết thúc thắng lợi đợt 1 của chiến dịch, các lực lượng hải quân vừa nhanh chóng giải quyết công việc sau chiến đấu, vừa khẩn trương chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo.
    Lúc 9 giờ ngày 12-1-1979, Bộ chỉ huy liên quân trực tiếp giao nhiệm vụ cho quân chủng hải quân : "Chuẩn bị lực lượng tiếp tục giải phóng thị xã Cô Công, đảo Cô Công, Bô-lô-mai, Cô tang...". Kế hoạch tác chiến được cơ quan tham mưu khẩn trương chuẩn bị và trưa 14-1-1979, quyết tâm của Bộ tư lệnh tiền phương quân chủng Hải quân đã được trên phê duyệt.
    Trước các đòn phản công, tiến công mãnh liệt của quân đội nhân dân cách mạng CPC và quân tình nguyện Việt Nam, đại bộ phận quân địch đã bị tiêu diệt và tan rã, tháo chạy về phía biên giới Thái Lan. Thủ đô Phnom Penh và nhiều thành phố, thị xã được giải phóng. Quyết tâm của Bộ tư lệnh tiền phương hải quân là sử dụng lực lượng tại chỗ, tổ chức hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ trong phạm vi quân chủng và giữa quân chủng với bộ đội không quân và đơn vị của quân đoàn 2 nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ đổ bộ lên Cô Công tiêu diệt trung đoàn biên phòng 17 và số còn lại của sư đoàn hải quân 164, không cho chúng co cụm để chống phá ta sau này.
    Thực hiện quyết tâm trên, chiều 14-1-1979, sở chỉ huy tiền phương quân chủng do thiếu tướng tư lệnh Giáp văn Cương chỉ huy chuyển xuống tàu đến cảng Công Pông Xom. Việc phổ biến kế hoạch và giao nhiệm vụ được tiến hành ngay trong đêm. Ở đợt 2 của chiến dịch, việc đổ bộ lên đảo Cô Công được giao cho đoàn bộ binh 101. Riêng nhiệm vụ bảo vệ đội hình hành quân, chi viện hoả lực trong quá trình đổ bộ và tiến công đánh chiếm các mục tiêu do các tàu chiến của quân chủng đảm nhiệm. Hải quân đánh bộ đảm nhiệm tiến công giải phóng thị xã Cô Công.
    Ngày 15-1-1979, các biên đội không quân ta nhiều lần xuất kích để trinh sát và ném bom bắn phá các mục tiêu quân sự xung quanh thị xã Cô Công và vùng ven biển nơi sẽ diễn ra cuộc đổ bộ. Các máy bay ta đã phát hiện 8 tàu địch ẩn nấp trong sông Cô-lông Băng Cra-sáp.
    19 giờ 30 cùng ngày, toàn bộ lực lượng tham gia chiến dịch rời Công Pông Xom nhằm hướng Cô Công xuất phát.
    Mờ sáng 16-1-1979, toàn bộ đội hình tiến công đã đến vùng biển Cô Công an toàn. Các tàu của ta hình thành thế bao vây từ bắc xuống nam bán đảo. Trời sáng rõ, các tàu tiến vào bãi đổ bộ. Pháo binh địch bắt đầu bắn ra. Mặt biển Cô Công ầm ầm tiếng nổ. Đồng chí sĩ quan không quân trên tàu 501 đã bắt liên lạc được với sân bay. Cuộc oanh tạc dọn bãi đổ bộ bắt đầu.
    Từng biên đội F5E giội bom xuống các khu vực phòng ngự của địch. Nhiều trận địa pháo địch bị trúng bom. Tiếp đó là cuộc pháo kích của các tàu chiến kéo dài hơn 3 giờ. Sức chống cự của địch hầu như bị đè bẹp hoàn toàn.
    12 giờ 45, lệnh đổ bộ được phát ra. Các tàu đổ bộ vừa tiến vừa bắn lên phía trước. 13 giờ, mũi chiếc tàu đầu tiên chạm bờ. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 6 xông lên tiến công vào các chốt có quân địch bắn ra. Phum Cô Công nơi đặt trận địa pháo 105mm của địch bị các chiến sĩ ta chiếm ngay từ những phút đầu. Hầu hết pháo địch đã bị không quân ta ném bom hư hỏng. Sau đó, cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 5, 7, 8 cũng lên hết bờ. Theo phương án đã được tập luyện, các chiến sĩ ta tổ chức xung phong lần lượt đánh chiếm các mục tiêu và tiếp tục phát triển vào sâu đất liền. Quân địch số bị diệt, số chạy dạt vào rừng núi. Đoàn 101 đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đổ bộ chiếm đầu cầu. Ngoài ra đoàn 101 còn điều 2 đại đội chuyển sang đổ bộ đánh chiếm khu vực Lăm Dăm đến nam cửa sông Cra-sốp tạo bàn đạp cho lữ đoàn hải quân đánh bộ đánh chiếm thị xã được thuận lợi.
    Nhân lúc địch đang hoang mang dao động, Bộ chỉ huy tiền phương quyết định sử dụng đoàn hải quân đánh bộ mở cuộc tiến công mới nhanh chóng tiêu diệt lực lượng biên phòng địch, chiếm thị xã Cô Công. Cuộc tiến công được mở đầu vào 12 giờ ngày 17-1-1979. Ở hướng chính, các chiến sĩ tiểu đoàn 865, 866 đổ bộ thẳng vào cửa sông Cô-lông Khô-po đến nam điểm cao 119. Quân địch ở đây chống cự khá mạnh. Song trước hoả lực rất hiệu quả của không quân và tàu chiến của ta, chúng bị tiêu diệt nhanh chóng.
    14 giờ, các chiến sĩ hải quân đánh bộ đã xung phong chiếm điểm cao 118, thu 1 pháo 76,2mm, 2 súng ĐKZ, 1 súng 12,7mm, sau đó tiến mạnh vào thị xã. Ở hướng vu hồi theo sông Cra-sốp, các tiểu đoàn 862, 863 có hoả lực của các tàu HQ01, 03, 05, 07 chi viện, đã nhanh chóng xung phong chiếm điểm cao 49 và các căn cứ, công sở địch, cùng các tiểu đoàn bạn giải phóng hoàn toàn thị xã Cô Công.
    Lợi dụng lúc địch đang phải chống đỡ với sự tiến công mãnh liệt của hải quân ta, ngày 17-1-1979, tiểu đoàn bộ binh Hòn Đốc đã tiến công giải phóng đảo Đlô-ao, đại đội 2 Nam Du đánh chiếm đảo Cô tang. Sau đó, các đơn vị khác của hải quân còn giải phóng đảo Hòn Nước, Phú Dự... Toàn bộ các đảo trong vùng biển CPC sạch bóng quân *********.
    Chiến dịch Tây Nam toàn thắng. Sau đó các lực lượng hải quân chuyển sang làm nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, thu hồi kho tàng vật chất kỹ thuật chiến tranh cho bạn, giúp nhân dân ổn định cuộc sống, phục hồi sản xuất, xây dựng chính quyền cách mạng.
    ...
    Kết thúc chiến dịch, các lực lượng hải quân được Quốc hội và chính phủ tặng thưởng 14 huân chương Quân công, 999 huân chương Chiến công cho tập thể và cá nhân. Các tiểu đoàn 863, 865; hải đội 811; tàu 199, 203, 232; đại đội 2, 3 (đoàn 101); liệt sĩ Tống Duy Tụng lập chiến công đặc biệt xuất sắc được tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng và Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
    Bác panzer có thể kể qua về kế hoạch dùng quân dù chiếm Phnom Penh không. Theo em nhớ thì hình như năm 66 hay 67 binh chủng dù đã được giải thể, lữ đoàn 305 đã chuyển thành đặc công (hồi kí tướng Nam Khánh).


  8. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Em xin cám ơn bác Chiangshan đã chia sẻ với anh em bài về trận Công Pông Xom. Em cũng xin nói thêm là đơn vị của quân đoàn 2 tham gia trận này là sư đoàn 304 với mũi chủ công là trung đoàn 66. Quân đoàn 2 phát triển từ huyện Bẩy Núi đã phải đối phó với quân khu đông nam của bọn Khơ me đỏ. Vài hôm nưã có thì giờ em cũng sẽ xin post lên những trận đánh của quân đoàn ở 2 bờ kênh Vĩnh Tế, ở bãi Đầu Lâu, ngã ba Chúc, Cam pốt ...
    Về kế hoạch dùng lính dù chiếm Phông Pênh, do nó chưa bao giờ được thực hiện, cho nên cũng không có tài liệu nào về kế hoạch này ( biết đâu trong tương lai, nó có thể sẽ được dùng lại ). Nhưng theo em biết từ những cựu chiến binh hồi này, thì lúc đó ta cũng đã chuẩn bị gần xong rồi : có mấy chuyên gia của bộ được điều xuống quân đoàn 4 để chuẩn bị phối hợp tác chiến, không quân ta cũng đã bắt đầu do thám vùng xung quanh Phnông Pênh truy lùng ổ phòng không ... Lúc đó chỉ cần tiêu diệt xong Công Pông Xom, là ta có thể tập trung không quân, pháo binh để làm ngay nếu bọn K vẫn chống cự...
    Hiện giờ em cũng đang tìm kiếm lịch sử của binh chủng dù QĐNDVN. Quả thật lữ đoàn 305 đã được chuyển sang binh chủng đặc công hồi đầu chiến tranh chông mẽo. Nhưng sau ngày giải phóng, ta có lập lại những đơn vị dù, chỉ tội em không tìm ra được số hiệu đơn vị mà thôi( có lẽ phải xin bác TLV giúp em mới được )
  9. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Em xin cám ơn bác Chiangshan đã chia sẻ với anh em bài về trận Công Pông Xom. Em cũng xin nói thêm là đơn vị của quân đoàn 2 tham gia trận này là sư đoàn 304 với mũi chủ công là trung đoàn 66. Quân đoàn 2 phát triển từ huyện Bẩy Núi đã phải đối phó với quân khu đông nam của bọn Khơ me đỏ. Vài hôm nưã có thì giờ em cũng sẽ xin post lên những trận đánh của quân đoàn ở 2 bờ kênh Vĩnh Tế, ở bãi Đầu Lâu, ngã ba Chúc, Cam pốt ...
    Về kế hoạch dùng lính dù chiếm Phông Pênh, do nó chưa bao giờ được thực hiện, cho nên cũng không có tài liệu nào về kế hoạch này ( biết đâu trong tương lai, nó có thể sẽ được dùng lại ). Nhưng theo em biết từ những cựu chiến binh hồi này, thì lúc đó ta cũng đã chuẩn bị gần xong rồi : có mấy chuyên gia của bộ được điều xuống quân đoàn 4 để chuẩn bị phối hợp tác chiến, không quân ta cũng đã bắt đầu do thám vùng xung quanh Phnông Pênh truy lùng ổ phòng không ... Lúc đó chỉ cần tiêu diệt xong Công Pông Xom, là ta có thể tập trung không quân, pháo binh để làm ngay nếu bọn K vẫn chống cự...
    Hiện giờ em cũng đang tìm kiếm lịch sử của binh chủng dù QĐNDVN. Quả thật lữ đoàn 305 đã được chuyển sang binh chủng đặc công hồi đầu chiến tranh chông mẽo. Nhưng sau ngày giải phóng, ta có lập lại những đơn vị dù, chỉ tội em không tìm ra được số hiệu đơn vị mà thôi( có lẽ phải xin bác TLV giúp em mới được )
  10. your_friend_xy

    your_friend_xy Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/09/2004
    Bài viết:
    620
    Đã được thích:
    2
    các bác ơi đang hay như thế mà lại ko ai nói gì thế là thế nào đây , các anh tài đâu hết rùi mà để cái topic này mọc rêu thế

Chia sẻ trang này