1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trên biên giới Tây Nam và tiêu diệt bọn diệt chủng Pol Pot

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi ptlinh, 06/10/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. your_friend_xy

    your_friend_xy Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/09/2004
    Bài viết:
    620
    Đã được thích:
    2
    các bác ơi đang hay như thế mà lại ko ai nói gì thế là thế nào đây , các anh tài đâu hết rùi mà để cái topic này mọc rêu thế
  2. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Năm 85 tớ học ở trường SQHC trên ST, cạnh trường có bọn E75 trinh sát dù và trinh sát đặc nhiệm. Có lần nó còn mượn mấy cái nhà 5 tầng của trường tớ để học đổ bộ bằng dù và tụt theo dây từ trực thăng xuống.
  3. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Năm 85 tớ học ở trường SQHC trên ST, cạnh trường có bọn E75 trinh sát dù và trinh sát đặc nhiệm. Có lần nó còn mượn mấy cái nhà 5 tầng của trường tớ để học đổ bộ bằng dù và tụt theo dây từ trực thăng xuống.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Xin chào các bác, em đã trở lại đây! Đây phần về Quân đoàn II đã chiến đấu ở biên giới Tây Nam và chiến trường K, không được chi tiết lắm đâu.
    ... Để đập tan cuộc tiến công của Khơ-me đỏ vào cuối năm 1978, Quân đoàn 2 (thiếu sư đoàn 306 đang xây dựng) được điều động cấp tốc vào chiến trường biên giới Tây Nam. Quân đoàn chỉ có nửa tháng để chuẩn bị mọi thứ cho cuộc hành quân đường dài này. Đến ngày 30-12-1978, toàn Quân đoàn phải có mặt đầy đủ ở vị trí tập kết và phải hoàn thành mọi công tác chuẩn bị chiến dịch.
    Ngày 16-12-1978, sau khi gấp rút xác định kế hoạch tiến quân của Quân đoàn, Tư lệnh Nguyễn Hữu An, Chính uỷ Lê Linh, Phó tham mưu trưởng Thái Cán cùng một số cán bộ cơ quan và cán bộ chủ trì của các sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn đi máy bay từ Phú Bài vào mặt trận nhận nhiệm vụ. Việc xây dựng quyết tâm chiến đấu, phương án tác chiến và kế hoạch bảo đảm được khẩn trương thực hiện. Ngày 22-12-1978, tại Sở chỉ huy tiền phương của Bộ, Tổng tham mưu trưởng kiêm Tư lệnh chiến dịch Lê Trọng Tấn đã trực tiếp xem xét và phê chuẩn quyết tâm chiến đấu sơ bộ của Quân đoàn 2.
    Cùng thời gian đó, cuộc hành quân thần tốc của Quân đoàn từ Trị Thiên-Huế, Đà Nẵng cũng được gấp rút tiền hành. Chỉ huy các đơn vị hành quân là đại tá Đoàn Chương-Phó chính uỷ quân đoàn, đại tá mai Xuân Tần-Tham mưu trưởng quân đoàn và đại tá Lê Văn Dương-Quyền chủ nhiệm chính trị quân đoàn.
    Sư đoàn 304 và các bộ phận nặng của Quân đoàn hành quân bằng đường bộ, do 800 chiếc xe chuyên chở.
    Sư đoán 325 và bộ phận nhẹ của Quân đoàn đi bằng đường không.
    Pháo mặt đất, cao xạ cỡ lớn, xe tăng, xe bọc thép và vật chất dự trữ của Quân đoàn được chuyển bằng đường sắt Bắc-Nam. Đến Đà Nẵng Lữ đoàn 203 tăng thiết giáp và Lữ đoàn 164 pháo binh? sẽ được các tàu LST, LSM của hải quân chở tiếp vào chiến trường.
    Trong hơn một tuần, toàn Quân đoàn đã có mặt tại vị trí tập kết bí mật, an toàn, đúng thời gian quy định.
    Để nghi binh, Quân đoàn cho một tổ điện đài, theo đường số 1 tiến ra phía Bắc và điện liên lạc đều đặn với Bộ trên suốt dọc đường cơ động. Các tàu biển chờ tăng, pháo? của Quân đoàn khi rời cảng Đà Nẵng đều hướng ra phía Bắc trước, rồi sau đó mới quay trở lại, đi về phía Nam. Khi bộ đội đã hành quân, Phó chính uỷ Quân đoàn dự mít tinh kỷ niệm ngày thành lập quân đội (22-12-1978) ở thành phố Huế, rồi mới đuổi theo đơn vị đang hành quân phía trước.
    Theo mệnh lệnh của Bộ chỉ huy mặt trận Tây Nam, Quân đoàn 2 được tăng cường Sư đoàn 8 (Quân khu 9) có nhiệm vụ phối hợp Quân khu 9 và hiệp đồng với không quân, hải quân chiến đấu trên dải biên giới từ Châu Đốc ra tới biển và tổ chức chiến dịch tiến công trên hướng tây nam nhằm tiêu diệt các lực lượng chủ lực tinh nhuệ của địch.
    Đối tượng tác chiến trước mắt của Quân đoàn là quân khu đông nam của địch. Lực lượng của chúng có bốn sư đoàn bộ binh (210, 230, 250, 270) và sư đoàn lính thuỷ đánh bộ 164. Tổng số quân khoảng 35.000 tên. Về hoả lực địch có năm, sáu tiểu đoàn pháo, một tiểu đoàn xe tăng, 142 tàu thuyền chiến đấu và một số tàu phóng lôi? Hầu hết các lực lượng trên đây của địch đã được bố trí sẵn ở các bàn đạp tiến công, chờ dịp sẽ tràn qua biên giới, đánh sâu vào nội địa nước ta.
    Quân khu đông nam là một ?oquân khu mạnh? của địch do Ta Mok, một tên khét tiếng gian ác chỉ huy. Bọn này chưa từng đối đầu với các binh đoàn chủ lực cơ động mạnh của ta nên lực lượng còn khá sung sức và tỏ ra hung hăng.
    Sáng ngày 26-12-1978, tại xã Tri Tôn thuộc huyện Bảy Núi tỉnh Kiên Giang, Đảng uỷ Quân đoàn 2 họp, chính thức thông qua phương án tác chiến chiến dịch và bàn biện pháp lãnh đạo bộ đội thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến đấu được Tiền phương Bộ giao cho. Ngay chiều và tối hôm đó, Bộ Tư lệnh quân đoàn tổ chức thông quan quyết tâm chiến đấu của ba sư đoàn bộ binh (304, 325, 8) và ra các chỉ thị lệnh hiệp đồng cho các đơn vị binh chủng. Yêu cầu đặt ra đối với các lực lượng quân đoàn là phải đột phá thật mạnh, thọc thật sâu thật nhanh vào cùng lực lượng bạn giải phóng bằng được các địa bàn chiến lược được phân công, vây quét triệt để, tiêu diệt bằng được các đơn vị chủ lực trên địa bàn tiến công; phai thắng địch cả về chính trị và quân sự, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ vùng biên giới Tây Nam của Tổ quốc và nghĩa vụ quốc tế cao cả, góp phần tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của quân đội ta và truyền thống chiến đấu tốt đẹp của Quân đoàn trong thời kỳ mới. Đó là quyết tâm của Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh, đồng thời cũng là quyết tâm, là nguyện vọng của cán bộ, chiến sĩ toàn Quân đoàn.
    Thời gian nổ súng của chiến dịch đã tới gần. Các đơn vị đều khẩn trương hoàn thiện nốt các công việc chuẩn bị cuối cùng để kịp thời bước vào chiến đấu theo đúng yêu cầu hiệp đồng của mặt trận. Ngày 28-12-1978, trong khi các lực lượng của Quân đoàn đang tiến vào triển khai đội hình chiến đấu thì một lực lượng lớn thuộc quân khu đông nam của địch đã liều lĩnh tràn qua biên giới, đánh chiếm khu vực kênh Vĩnh Tế, sau trong nội địa của ta. Các lực lượng vũ trang Quân khu 9 đang làm nhiệm vụ bảo vệ khu vực kênh Vĩnh Tế, kiên cường đánh trả, gây cho địch những thiệt hại đáng kể. Tuy vậy, do gặp khó khăn nên các đơn vị bạn không giữ được khu vực kênh Vĩnh Tế và các khu vực tây nam, tây bắc núi Tượng. Đấy cũng chính là khu vực được chọn làm bàn đạp đột phá tiến công chính của Quân đoàn 2.
    Trước tình hình đó, được sự chấp thuận của Tiền phương Bộ, Tư lệnh Quân đoàn chỉ thị cho Sư đoàn 304 dưới sự chỉ huy của Sư đoàn trưởng Trần Trọng Trai và Chính uỷ sư đoàn Đoàn Thanh nổ súng sớm hơn so với kế hoạch dự kiến ba ngày, phối hợp với Sư đoàn 4 chiếm lại khu vực kênh Vĩnh Tế tạo bàn đạp cho toàn Quân đoàn bước vào chiến đấu.
    6 giờ ngày 31-12-1978, trên mặt trận Kiên Giang, Quân đoàn 2 và Quân khu 9 dồn dập nổ súng mở màn cuộc phản công. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt từ đầu và kéo dài suốt cả ngày 31. Địch dựa vào hệ thống công sự và bờ kênh Vĩnh Tế ngoan cố chống cự. Bộ đội ta chiến đấu dũng cảm, nhưng do nắm địch không chắc, công tác tổ chức chỉ huy chưa thật tốt, sử dụng lực lượng và cách đánh chưa hợp lý, nên chưa đẩy được địch qua bờ bắc kênh Vĩnh Tế. Tiểu đoàn 3 trung đoàn 9 bộ binh bị ùn tắc ở bãi ?ođầu lâu?, nơi mà địch đã sát hại hàng nghìn đồng bào ta trước đây, không tiến lên được. Tối ngày 31, trận đánh phải tạm thời dừng lại. Ta kịp thời tổ chức rút kinh nghiệm tại chỗ.
    ----------------------------------------------------
    Thank you bác Trường Sơn! Dô cái nào bác ơi ! Mạng củ chuối quá!
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Xin chào các bác, em đã trở lại đây! Đây phần về Quân đoàn II đã chiến đấu ở biên giới Tây Nam và chiến trường K, không được chi tiết lắm đâu.
    ... Để đập tan cuộc tiến công của Khơ-me đỏ vào cuối năm 1978, Quân đoàn 2 (thiếu sư đoàn 306 đang xây dựng) được điều động cấp tốc vào chiến trường biên giới Tây Nam. Quân đoàn chỉ có nửa tháng để chuẩn bị mọi thứ cho cuộc hành quân đường dài này. Đến ngày 30-12-1978, toàn Quân đoàn phải có mặt đầy đủ ở vị trí tập kết và phải hoàn thành mọi công tác chuẩn bị chiến dịch.
    Ngày 16-12-1978, sau khi gấp rút xác định kế hoạch tiến quân của Quân đoàn, Tư lệnh Nguyễn Hữu An, Chính uỷ Lê Linh, Phó tham mưu trưởng Thái Cán cùng một số cán bộ cơ quan và cán bộ chủ trì của các sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn đi máy bay từ Phú Bài vào mặt trận nhận nhiệm vụ. Việc xây dựng quyết tâm chiến đấu, phương án tác chiến và kế hoạch bảo đảm được khẩn trương thực hiện. Ngày 22-12-1978, tại Sở chỉ huy tiền phương của Bộ, Tổng tham mưu trưởng kiêm Tư lệnh chiến dịch Lê Trọng Tấn đã trực tiếp xem xét và phê chuẩn quyết tâm chiến đấu sơ bộ của Quân đoàn 2.
    Cùng thời gian đó, cuộc hành quân thần tốc của Quân đoàn từ Trị Thiên-Huế, Đà Nẵng cũng được gấp rút tiền hành. Chỉ huy các đơn vị hành quân là đại tá Đoàn Chương-Phó chính uỷ quân đoàn, đại tá mai Xuân Tần-Tham mưu trưởng quân đoàn và đại tá Lê Văn Dương-Quyền chủ nhiệm chính trị quân đoàn.
    Sư đoàn 304 và các bộ phận nặng của Quân đoàn hành quân bằng đường bộ, do 800 chiếc xe chuyên chở.
    Sư đoán 325 và bộ phận nhẹ của Quân đoàn đi bằng đường không.
    Pháo mặt đất, cao xạ cỡ lớn, xe tăng, xe bọc thép và vật chất dự trữ của Quân đoàn được chuyển bằng đường sắt Bắc-Nam. Đến Đà Nẵng Lữ đoàn 203 tăng thiết giáp và Lữ đoàn 164 pháo binh? sẽ được các tàu LST, LSM của hải quân chở tiếp vào chiến trường.
    Trong hơn một tuần, toàn Quân đoàn đã có mặt tại vị trí tập kết bí mật, an toàn, đúng thời gian quy định.
    Để nghi binh, Quân đoàn cho một tổ điện đài, theo đường số 1 tiến ra phía Bắc và điện liên lạc đều đặn với Bộ trên suốt dọc đường cơ động. Các tàu biển chờ tăng, pháo? của Quân đoàn khi rời cảng Đà Nẵng đều hướng ra phía Bắc trước, rồi sau đó mới quay trở lại, đi về phía Nam. Khi bộ đội đã hành quân, Phó chính uỷ Quân đoàn dự mít tinh kỷ niệm ngày thành lập quân đội (22-12-1978) ở thành phố Huế, rồi mới đuổi theo đơn vị đang hành quân phía trước.
    Theo mệnh lệnh của Bộ chỉ huy mặt trận Tây Nam, Quân đoàn 2 được tăng cường Sư đoàn 8 (Quân khu 9) có nhiệm vụ phối hợp Quân khu 9 và hiệp đồng với không quân, hải quân chiến đấu trên dải biên giới từ Châu Đốc ra tới biển và tổ chức chiến dịch tiến công trên hướng tây nam nhằm tiêu diệt các lực lượng chủ lực tinh nhuệ của địch.
    Đối tượng tác chiến trước mắt của Quân đoàn là quân khu đông nam của địch. Lực lượng của chúng có bốn sư đoàn bộ binh (210, 230, 250, 270) và sư đoàn lính thuỷ đánh bộ 164. Tổng số quân khoảng 35.000 tên. Về hoả lực địch có năm, sáu tiểu đoàn pháo, một tiểu đoàn xe tăng, 142 tàu thuyền chiến đấu và một số tàu phóng lôi? Hầu hết các lực lượng trên đây của địch đã được bố trí sẵn ở các bàn đạp tiến công, chờ dịp sẽ tràn qua biên giới, đánh sâu vào nội địa nước ta.
    Quân khu đông nam là một ?oquân khu mạnh? của địch do Ta Mok, một tên khét tiếng gian ác chỉ huy. Bọn này chưa từng đối đầu với các binh đoàn chủ lực cơ động mạnh của ta nên lực lượng còn khá sung sức và tỏ ra hung hăng.
    Sáng ngày 26-12-1978, tại xã Tri Tôn thuộc huyện Bảy Núi tỉnh Kiên Giang, Đảng uỷ Quân đoàn 2 họp, chính thức thông qua phương án tác chiến chiến dịch và bàn biện pháp lãnh đạo bộ đội thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến đấu được Tiền phương Bộ giao cho. Ngay chiều và tối hôm đó, Bộ Tư lệnh quân đoàn tổ chức thông quan quyết tâm chiến đấu của ba sư đoàn bộ binh (304, 325, 8) và ra các chỉ thị lệnh hiệp đồng cho các đơn vị binh chủng. Yêu cầu đặt ra đối với các lực lượng quân đoàn là phải đột phá thật mạnh, thọc thật sâu thật nhanh vào cùng lực lượng bạn giải phóng bằng được các địa bàn chiến lược được phân công, vây quét triệt để, tiêu diệt bằng được các đơn vị chủ lực trên địa bàn tiến công; phai thắng địch cả về chính trị và quân sự, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ vùng biên giới Tây Nam của Tổ quốc và nghĩa vụ quốc tế cao cả, góp phần tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của quân đội ta và truyền thống chiến đấu tốt đẹp của Quân đoàn trong thời kỳ mới. Đó là quyết tâm của Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh, đồng thời cũng là quyết tâm, là nguyện vọng của cán bộ, chiến sĩ toàn Quân đoàn.
    Thời gian nổ súng của chiến dịch đã tới gần. Các đơn vị đều khẩn trương hoàn thiện nốt các công việc chuẩn bị cuối cùng để kịp thời bước vào chiến đấu theo đúng yêu cầu hiệp đồng của mặt trận. Ngày 28-12-1978, trong khi các lực lượng của Quân đoàn đang tiến vào triển khai đội hình chiến đấu thì một lực lượng lớn thuộc quân khu đông nam của địch đã liều lĩnh tràn qua biên giới, đánh chiếm khu vực kênh Vĩnh Tế, sau trong nội địa của ta. Các lực lượng vũ trang Quân khu 9 đang làm nhiệm vụ bảo vệ khu vực kênh Vĩnh Tế, kiên cường đánh trả, gây cho địch những thiệt hại đáng kể. Tuy vậy, do gặp khó khăn nên các đơn vị bạn không giữ được khu vực kênh Vĩnh Tế và các khu vực tây nam, tây bắc núi Tượng. Đấy cũng chính là khu vực được chọn làm bàn đạp đột phá tiến công chính của Quân đoàn 2.
    Trước tình hình đó, được sự chấp thuận của Tiền phương Bộ, Tư lệnh Quân đoàn chỉ thị cho Sư đoàn 304 dưới sự chỉ huy của Sư đoàn trưởng Trần Trọng Trai và Chính uỷ sư đoàn Đoàn Thanh nổ súng sớm hơn so với kế hoạch dự kiến ba ngày, phối hợp với Sư đoàn 4 chiếm lại khu vực kênh Vĩnh Tế tạo bàn đạp cho toàn Quân đoàn bước vào chiến đấu.
    6 giờ ngày 31-12-1978, trên mặt trận Kiên Giang, Quân đoàn 2 và Quân khu 9 dồn dập nổ súng mở màn cuộc phản công. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt từ đầu và kéo dài suốt cả ngày 31. Địch dựa vào hệ thống công sự và bờ kênh Vĩnh Tế ngoan cố chống cự. Bộ đội ta chiến đấu dũng cảm, nhưng do nắm địch không chắc, công tác tổ chức chỉ huy chưa thật tốt, sử dụng lực lượng và cách đánh chưa hợp lý, nên chưa đẩy được địch qua bờ bắc kênh Vĩnh Tế. Tiểu đoàn 3 trung đoàn 9 bộ binh bị ùn tắc ở bãi ?ođầu lâu?, nơi mà địch đã sát hại hàng nghìn đồng bào ta trước đây, không tiến lên được. Tối ngày 31, trận đánh phải tạm thời dừng lại. Ta kịp thời tổ chức rút kinh nghiệm tại chỗ.
    ----------------------------------------------------
    Thank you bác Trường Sơn! Dô cái nào bác ơi ! Mạng củ chuối quá!
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Sáng ngày 1-1-1979, Sư đoàn 304 đưa toàn bộ trung đoàn 9 bộ binh vào chiến đấu. Được pháo binh chi viện đắc lực, các mũ tiến công của bộ đội ta phát triển thuận lợi với khí thế áp đảo. Sau hơn một ngày đêm chiến đấu quyết liệt, hai trung đoàn chủ lực địch lấn chiếm khu vực kênh Vĩnh Tế đã bị quân ta đánh bại. Tàn quân địch tháo chạy hết qua bờ bắc kênh Vĩnh Tế.
    Chiều ngày 1-1-1979, giữa lúc khỏi lửa đang trùm lên hai bên bờ kênh Vĩnh Tế, các chiến sĩ Lữ đoàn 219 công binh dũng cảm đưa xe công trình lên bắc cầu qua kênh Vĩnh Tế. Hiệp đồng với lực lượng bộ binh đang chiến đấu, không quân ta xuất kích 12 lần chiếc A.37 ném bom vào sở chỉ huy tiền phương quân khu đông nam, hai sở chỉ huy sư đoàn 250, 210 và các cụm quân địch tập trung ở Ta pông, phum Sê.
    Sáng ngày 2-1, Lữ đoàn 219 công binh bắc xong cầu và hoàn thành việc rà quét mìn trên trục đột phá, Lữ đoàn 164 pháo binh thực hiện xong việc đưa pháo binh tầm xa vào triển khai trận địa bắn ở bắc xóm Mới. Bộ binh Sư đoàn 304 và xe tăng, xe bọc thép Lữ đoàn 203 đã sẵn sàng trên bàn đạp xuất phát tiến công núi Tượng-nam kênh Vĩnh Tế. Lực lượng pháo binh đi cùng bộ binh, xe tăng đã dồn đội hình lên phía trước. Sở chỉ huy Quân đoàn cũng đã di chuyển lên xã Lương Phi để kịp thời chỉ huy bộ đội.
    Được sự yểm hộ đắc lực của hoả lực pháo binh, được công binh bảo đảm cầu đường, bộ binh và xe tăng ta ào ạt tiến sang bờ bắc kênh Vĩnh Tế liên tục đột phá, bao vây chia cắt tiêu diệt từng cụm lực lượng lớn quân địch ở phum Tun, Tôliốp, đông nam Xổmtây, các điểm cao 384, 451, 328? phát triển xuống phum Se diệt hai trung đoàn 15, 16 thọc sâu vào Kirivông diệt sở chỉ huy sư đoàn 250 và trung đoàn 17 của địch.
    Các mũi phản công của Quân đoàn và Quân khu 9 phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp. Tiếng nổ của đạn pháo, tiếng gầm rú của xe tăng, xe bọc thép làm rung chuyển cả vùng biên giới An Giang, Kiên Giang.
    Lần đầu tiên được chứng kiến sức mạnh của các binh đoàn chủ lực cơ động đã từng giáng cho Mỹ-nguỵ những đòn khủng khiếp và làm nên chiến công oanh liệt giải phóng Sài Gòn-Gia Định trong mùa xuân 1975 lịch sử, đồng bào Rạch Giá, Châu Đốc, Hà Tiên vô cùng phấn khởi và tin tưởng. Còn binh lính áo đen của quân khu đông nam địch thì vô cùng hoang mang lo sợ. Khi tràn qua biên giới đốt nhà, cướp của, tàn sát dã man đồng bào ta tay không vũ khí, chúng hung hăng, hợm hĩnh bao nhiêu thì giờ đây đối mặt với bộ đội chủ lực ta chúng tỏ ra hèn nhát, thảm hại bấy nhiêu.
    Các cuộc chiến đấu của Quân đoàn 2 và Quân khu 9 diễn ra đúng kế hoạch. Tới 13 giờ ngày 3-1-1979, quân ta về cơ bản đã làm chủ mặt trận biên giới An Giang, Kiên Giang. Sư đoàn 250 của địch bị loại khỏi vòng chiến đấu. Các sư đoàn 210, 230 bị đánh thiệt hại, một số khiếp sợ bỏ trận địa, tháo chạy vào rừng. Sở chỉ huy mặt trận đông nam của địch rút chạy về thị xã Ta Keo. Mưu đồ lấn chiếm các tỉnh miền Tây Nam Bộ của địch đã bị thất bại một bước quan trọng.
    Cùng thời gian đó, ba sư đoàn chủ lực địch lấn chiếm Năm Căn-Hoà Hội-Bến Sỏi cũng bị quân dân ta đánh cho tan tác, ba trung đoàn sừng sỏ nhất của chúng bị diệt gọn.
    Các đòn sấm sét này đã kéo theo sự sụp đổ không gì cưỡng nổi của quân đội Pol Pot-Ieng Sary, trên toàn tuyến biên giới Việt Nam-Campuchia. Ở hướng đường số 7, năm sư đoàn quân Pol Pot (280, 174, 310, 450 và 215) bỏ chạy tán loạn vào rừng phía đông bắc. Bọn chỉ huy quân khu đông chạy về thị xã Công Pông Chàm. Ở hướng đường số 1, sự đổ vỡ của địch diễn ra từ ngày 28-12-1978 đến ngày 2-1-1979, khi tàn quân của các sư đoàn 703, 340, 221 bỏ mặt trận Xvây Riêng tháo chạy thục mạng về núi Sa Cách và phà Niếc Lương tổ chức co cụm.
    Địch đã bị động về chiến lược và lực lượng của chúng đang bị phân hóa nghiêm trọng. Thế chiến lược của cách mạng đã hoàn toàn áp đảo quân địch.
    Ngay từ khi tiếng súng phản công của quân và dân tra bắt đầu nổ, ngày 23-12-1978, Uỷ ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đã cấp tốc nhận định: ?oSinh lực của địch nhất định sẽ bị quân và dân Việt Nam tiêu diệt hoặc kìm chân tại chỗ. Đây là thời cơ tốt nhất để lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia cùng với nhân dân và binh sĩ khởi nghĩa trên toàn quốc và đánh vào đầu não của bè lũ Pol Pot-Ieng Sary đập tan chế độ độc tài phát xít, khát máu của chúng? (Tuyên bố của ông Tổng thư ký Uỷ ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cưu nước Campuchia).
    Từ sự nhận định đúng đắn đó, Uỷ ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia kịp thời chỉ thị cho các địa phương chuẩn bị tổng khởi nghĩa và khi thời cơ đến đã long trọng phát đi lời hiệu triệu: ?oĐã đến lúc rồi, lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia trong toàn quốc hãy nỗ lực vượt mọi khó khăn đánh đổ Pol Pot-Ieng Sary, kiên quyết giải phóng đất nước thoát khỏi bàn tay đẫm máu của chúng và bọn bành trướng nước ngoài. Quân đội cách mạng anh dũng ta hãy nêu cao tinh thần chiến đấu kiên cường để tiêu diệt địch, bắt tù binh, thu vũ khí, đạn dược địch? (Hiệu triệu của Uỷ ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia ngày 7-1-1979).
    Cùng với lời kêu gọi quân dân Campuchia đứng lên đánh đổ bè lũ Pol Pot-Ieng Sary, Uỷ ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia cũng đã ?oTha thiết kêu gọi nhân dân và chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức dân chủ trên thế giới đang đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bọ xã hội hãy tích cực ủng hộ và giúp đỡ mọi mặt cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân chúng tôi? (Tuyên bố của Uỷ ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia ngày 2-12-1978).
    Ghi sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và với nghĩa tình thuỷ chung, truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời của hai dân tộc, trong suốt hơn 30 năm qua, nhân dân ta đã luôn luôn kề vai sát cánh cùng nhân dân Campuchia đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Giờ đây, đáp ứng lời kêu gọi tha thiết của Uỷ ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia diệt trừ hoạ diệt chủng đối với nhân dân Campuchia và cũng là nhằm tiêu diệt tận gốc mầm tai họa xâm lăng ở phía biên giới Tây Nam của Tổ quốc, một số đơn vị đang trực tiếp chiến đấu bảo vệ vùng biên giới được Đảng và Nhà nước ta chỉ thị tiếp tục kề vai sát cánh với các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia chiến đấu cho tới ngày thắng lội hoàn toàn.
    Chấp hành nghiêm chỉnh nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta giao cho, các đơn vị được cử sang làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, trong đó có Quân đoàn 2 sôi nổi tổ chức học tập chỉ thị của Tổng cục Chính trị, quán triệt mục đích, ý nghĩa của nhiệm vụ giúp bạn và nghiên cứu nắm vững những quy định về việc chấp hành chính sách trong quá trình làm nhiệm vụ quốc tế.
    Theo mệnh lệnh của trên, Quân đoàn 2 có nhiệm vụ:
    -Sư đoàn 304 được tăng cường, làm lực lượng dự bị cho Bộ chỉ huy Liên quân tiến công giải phóng Phnôm Pênh.
    -Các lực lượng còn lại của Quân đoàn tiến công giải phóng Công Pông Trạch, Căm Pốt và hiệp đồng với Hải quân giải phóng cảng Công Pông Xom.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Sáng ngày 1-1-1979, Sư đoàn 304 đưa toàn bộ trung đoàn 9 bộ binh vào chiến đấu. Được pháo binh chi viện đắc lực, các mũ tiến công của bộ đội ta phát triển thuận lợi với khí thế áp đảo. Sau hơn một ngày đêm chiến đấu quyết liệt, hai trung đoàn chủ lực địch lấn chiếm khu vực kênh Vĩnh Tế đã bị quân ta đánh bại. Tàn quân địch tháo chạy hết qua bờ bắc kênh Vĩnh Tế.
    Chiều ngày 1-1-1979, giữa lúc khỏi lửa đang trùm lên hai bên bờ kênh Vĩnh Tế, các chiến sĩ Lữ đoàn 219 công binh dũng cảm đưa xe công trình lên bắc cầu qua kênh Vĩnh Tế. Hiệp đồng với lực lượng bộ binh đang chiến đấu, không quân ta xuất kích 12 lần chiếc A.37 ném bom vào sở chỉ huy tiền phương quân khu đông nam, hai sở chỉ huy sư đoàn 250, 210 và các cụm quân địch tập trung ở Ta pông, phum Sê.
    Sáng ngày 2-1, Lữ đoàn 219 công binh bắc xong cầu và hoàn thành việc rà quét mìn trên trục đột phá, Lữ đoàn 164 pháo binh thực hiện xong việc đưa pháo binh tầm xa vào triển khai trận địa bắn ở bắc xóm Mới. Bộ binh Sư đoàn 304 và xe tăng, xe bọc thép Lữ đoàn 203 đã sẵn sàng trên bàn đạp xuất phát tiến công núi Tượng-nam kênh Vĩnh Tế. Lực lượng pháo binh đi cùng bộ binh, xe tăng đã dồn đội hình lên phía trước. Sở chỉ huy Quân đoàn cũng đã di chuyển lên xã Lương Phi để kịp thời chỉ huy bộ đội.
    Được sự yểm hộ đắc lực của hoả lực pháo binh, được công binh bảo đảm cầu đường, bộ binh và xe tăng ta ào ạt tiến sang bờ bắc kênh Vĩnh Tế liên tục đột phá, bao vây chia cắt tiêu diệt từng cụm lực lượng lớn quân địch ở phum Tun, Tôliốp, đông nam Xổmtây, các điểm cao 384, 451, 328? phát triển xuống phum Se diệt hai trung đoàn 15, 16 thọc sâu vào Kirivông diệt sở chỉ huy sư đoàn 250 và trung đoàn 17 của địch.
    Các mũi phản công của Quân đoàn và Quân khu 9 phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp. Tiếng nổ của đạn pháo, tiếng gầm rú của xe tăng, xe bọc thép làm rung chuyển cả vùng biên giới An Giang, Kiên Giang.
    Lần đầu tiên được chứng kiến sức mạnh của các binh đoàn chủ lực cơ động đã từng giáng cho Mỹ-nguỵ những đòn khủng khiếp và làm nên chiến công oanh liệt giải phóng Sài Gòn-Gia Định trong mùa xuân 1975 lịch sử, đồng bào Rạch Giá, Châu Đốc, Hà Tiên vô cùng phấn khởi và tin tưởng. Còn binh lính áo đen của quân khu đông nam địch thì vô cùng hoang mang lo sợ. Khi tràn qua biên giới đốt nhà, cướp của, tàn sát dã man đồng bào ta tay không vũ khí, chúng hung hăng, hợm hĩnh bao nhiêu thì giờ đây đối mặt với bộ đội chủ lực ta chúng tỏ ra hèn nhát, thảm hại bấy nhiêu.
    Các cuộc chiến đấu của Quân đoàn 2 và Quân khu 9 diễn ra đúng kế hoạch. Tới 13 giờ ngày 3-1-1979, quân ta về cơ bản đã làm chủ mặt trận biên giới An Giang, Kiên Giang. Sư đoàn 250 của địch bị loại khỏi vòng chiến đấu. Các sư đoàn 210, 230 bị đánh thiệt hại, một số khiếp sợ bỏ trận địa, tháo chạy vào rừng. Sở chỉ huy mặt trận đông nam của địch rút chạy về thị xã Ta Keo. Mưu đồ lấn chiếm các tỉnh miền Tây Nam Bộ của địch đã bị thất bại một bước quan trọng.
    Cùng thời gian đó, ba sư đoàn chủ lực địch lấn chiếm Năm Căn-Hoà Hội-Bến Sỏi cũng bị quân dân ta đánh cho tan tác, ba trung đoàn sừng sỏ nhất của chúng bị diệt gọn.
    Các đòn sấm sét này đã kéo theo sự sụp đổ không gì cưỡng nổi của quân đội Pol Pot-Ieng Sary, trên toàn tuyến biên giới Việt Nam-Campuchia. Ở hướng đường số 7, năm sư đoàn quân Pol Pot (280, 174, 310, 450 và 215) bỏ chạy tán loạn vào rừng phía đông bắc. Bọn chỉ huy quân khu đông chạy về thị xã Công Pông Chàm. Ở hướng đường số 1, sự đổ vỡ của địch diễn ra từ ngày 28-12-1978 đến ngày 2-1-1979, khi tàn quân của các sư đoàn 703, 340, 221 bỏ mặt trận Xvây Riêng tháo chạy thục mạng về núi Sa Cách và phà Niếc Lương tổ chức co cụm.
    Địch đã bị động về chiến lược và lực lượng của chúng đang bị phân hóa nghiêm trọng. Thế chiến lược của cách mạng đã hoàn toàn áp đảo quân địch.
    Ngay từ khi tiếng súng phản công của quân và dân tra bắt đầu nổ, ngày 23-12-1978, Uỷ ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đã cấp tốc nhận định: ?oSinh lực của địch nhất định sẽ bị quân và dân Việt Nam tiêu diệt hoặc kìm chân tại chỗ. Đây là thời cơ tốt nhất để lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia cùng với nhân dân và binh sĩ khởi nghĩa trên toàn quốc và đánh vào đầu não của bè lũ Pol Pot-Ieng Sary đập tan chế độ độc tài phát xít, khát máu của chúng? (Tuyên bố của ông Tổng thư ký Uỷ ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cưu nước Campuchia).
    Từ sự nhận định đúng đắn đó, Uỷ ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia kịp thời chỉ thị cho các địa phương chuẩn bị tổng khởi nghĩa và khi thời cơ đến đã long trọng phát đi lời hiệu triệu: ?oĐã đến lúc rồi, lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia trong toàn quốc hãy nỗ lực vượt mọi khó khăn đánh đổ Pol Pot-Ieng Sary, kiên quyết giải phóng đất nước thoát khỏi bàn tay đẫm máu của chúng và bọn bành trướng nước ngoài. Quân đội cách mạng anh dũng ta hãy nêu cao tinh thần chiến đấu kiên cường để tiêu diệt địch, bắt tù binh, thu vũ khí, đạn dược địch? (Hiệu triệu của Uỷ ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia ngày 7-1-1979).
    Cùng với lời kêu gọi quân dân Campuchia đứng lên đánh đổ bè lũ Pol Pot-Ieng Sary, Uỷ ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia cũng đã ?oTha thiết kêu gọi nhân dân và chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức dân chủ trên thế giới đang đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bọ xã hội hãy tích cực ủng hộ và giúp đỡ mọi mặt cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân chúng tôi? (Tuyên bố của Uỷ ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia ngày 2-12-1978).
    Ghi sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và với nghĩa tình thuỷ chung, truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời của hai dân tộc, trong suốt hơn 30 năm qua, nhân dân ta đã luôn luôn kề vai sát cánh cùng nhân dân Campuchia đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Giờ đây, đáp ứng lời kêu gọi tha thiết của Uỷ ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia diệt trừ hoạ diệt chủng đối với nhân dân Campuchia và cũng là nhằm tiêu diệt tận gốc mầm tai họa xâm lăng ở phía biên giới Tây Nam của Tổ quốc, một số đơn vị đang trực tiếp chiến đấu bảo vệ vùng biên giới được Đảng và Nhà nước ta chỉ thị tiếp tục kề vai sát cánh với các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia chiến đấu cho tới ngày thắng lội hoàn toàn.
    Chấp hành nghiêm chỉnh nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta giao cho, các đơn vị được cử sang làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, trong đó có Quân đoàn 2 sôi nổi tổ chức học tập chỉ thị của Tổng cục Chính trị, quán triệt mục đích, ý nghĩa của nhiệm vụ giúp bạn và nghiên cứu nắm vững những quy định về việc chấp hành chính sách trong quá trình làm nhiệm vụ quốc tế.
    Theo mệnh lệnh của trên, Quân đoàn 2 có nhiệm vụ:
    -Sư đoàn 304 được tăng cường, làm lực lượng dự bị cho Bộ chỉ huy Liên quân tiến công giải phóng Phnôm Pênh.
    -Các lực lượng còn lại của Quân đoàn tiến công giải phóng Công Pông Trạch, Căm Pốt và hiệp đồng với Hải quân giải phóng cảng Công Pông Xom.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đồng thời, bản mệnh lệnh còn nêu rõ: Sư đoàn 325 phải phát triển theo trục đường Dốc Mía-Chúc-Căm Pốt bảo vệ phía cạnh sườn của bộ đội cách mạng Campuchia và lực lượng Quân khu 9 phát triển theo trục đường số 2 giải phóng Ta Keo và tiến về Phnôm Pênh từ hướng nam.
    Như vậy là, theo nhiệm vụ trên, để phối hợp với lực lượng vũ trang, nhân dân bạn giải phóng Căm Pốt và Công Pông Xom, Quân đoàn 2 chỉ còn được sử dụng Sư đoàn 8 và Sư đoàn 235 bộ binh. Mặt khác, để thực hiện nhiệm vụ giải phóng Căm Pốt và cảng Công Pông Xom, lẽ ra Quân đoàn có thể tổ chức cho Sư đoàn 235 tiến công theo trục Dốc Mía-Công Pông Trạch-thị xã Căm Pốt-cảng Công Pông Xom thì bộ binh và đặc biệt là cơ giới sẽ cơ động thuận lợi hơn nhiều, vì thế Quân đoàn đã có thể thực hiện sớm hơn nhiệm vụ đánh chiếm cảng Công Pông Xom. Nhưng vì còn phải làm nhiệm vụ bảo vệ cạnh sườn cho lực lượng Quân khu 9 và bộ đội bạn tiến công trên hướng chủ yếu, nên mũi tiến công giải phóng Công Pông Xom của Quân đoàn đã được trên chỉ thị phát triển theo dục Dốc Mía-Chúc-Căm Pốt-cảng Công Pông Xom. Đặc biệt đoạn từ Dốc Mía tới Chúc là đường liên huyện, cấp phối, đã bị sụt lở nhiều, không bảo đảm cho các phương tiện nặng cơ động. Mặc dù sớm thấy rõ trở ngại trên, Quân đoàn vẫn kiên quyết lãnh đạo bộ đội nghiêm chỉnh chấp hành nhiệm vụ cấp trên đã giao cho.
    Về tổ chức lực lượng, so với Sư đoàn 304, ở đợt hoạt động này sức chiến đấu của Sư đoàn 325 có hạn chế hơn. Vì hai trong số ba trung đoàn bộ binh củ sư đoàn (trung đoàn 18b và trung đoàn 111) mới được xây dựng chưa đầy hai tháng. Thực chất đây chỉ là những trung đoàn tân binh, vì chiến sĩ lần đầu mới nhập ngũ, cán bộ mới từ nhiều nơi tập hợp lại. Để Sư đoàn 325 có thời gian rèn luyện thêm cho bộ đội, từ đầu chiến dịch tới đây, Quân đoàn mới chỉ sử dụng Sư đoàn 304 vào các nhiệm vụ chiến đấu trực tiếp. Trong đợt tiến công mới, Quân đoàn sẽ phải sử dụng cả Sư đoàn 325.
    Căn cứ vào tình hình thực tế của đơn vị, Thường vụ Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh quân đoàn quyết định điều chỉnh lại lực lượng, đưa trung đoàn 24 Sư đoàn 304 sang tăng cường cho Sư đoàn 325 và đưa trung đoàn 11 Sư đoàn 325 sang tăng cường cho Sư đoàn 304 để hai mũi tiến công của Quân đoàn có chất lượng chiến đấu tương đối đều nhau.
    Ngày 5-1-1919, thực hiện mệnh lệnh tiến công của Bộ chỉ huy Liên quân, bên cánh quân thứ nhất của Quân đoàn các đồng chí Đỗ Phạm, Phạm Công Nhân chỉ huy Sư đoàn 325 cho đơn vị phát triển vào đánh Túc Mía và Dốc Mía.
    Tối ngày 6-1, các trung đoàn 95 và 24 hoàn thành nhiệm vụ phá vỡ cụm phòng thủ mạnh của địch ở Túc Mía, Dốc Mía. Chấp hành nhiệm vụ Bộ Tư lệnh quân đoàn giao cho các, các chiến sĩ Sư đoàn 8 vượt qua Túc Mía theo đường 16 tiến công giải phóng Công Pông Trạch.
    Cùng thời gian đó, Tư lệnh quân đoàn trực tiếp chi rhuy trung đoàn 24 dẫn đầu đội hình thọc sâu đánh vào Chúc và Căm pốt.
    Vốn quen với lối đánh thọc sâu bằng cơ giới và các cuộc đột kích táo bạo vào thành phố, thị xã, các khu vực phòng ngự mạnh của địch bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng từ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 lịch sử, các lực lượng của Quân đoàn không sợ ?olạnh lưng, hở sườn?, mạnh dạn tung hoành trong sào huyệt của địch. Nhưng Quân đoàn thọc sâu bằng cơ giới với nhiều xe tăng, xe kéo pháo nặng nề, cồng kềnh mà lại phát triển theo một trục đường đất độc đạo, mặt đường rộng chưa đầy ba mét, nhiều đoạn bị sạt lở không còn sử dụng được nên gặp nhiều khó khăn trên đường tiến. Cán bộ chiến sĩ Quân đoàn phải mất nhiều công sức san lấp mặt đường, chống lầy, cứu kéo các xe đổ xuống ruộng nước, nên đội hình tiến quân bị cắt ra thành nhiều đoạn. Hai khẩu pháo tầm xa 130mm cùng xe kéo bị tụt xuống ruộng nước nằm lại giữa cánh đồng, không có bộ binh bảo vệ đã bị tập kích đốt cháy. Xe đặc chủng chở máy thông tin 35 oát của Sư đoàn 235 bị địch đánh hỏng. Phó chủ nhiệm thông tin sư đoàn và một số chiến sĩ bị địch sát hại. Phải mất rất nhiều công sức, kể cả xương máu, bộ đội ta mới vượt qua được đoạn đường đất này. Mãi tới chiều ngày 7-1, lực lượng đi đầu của cánh quân mới cơ động vào tới khu vực ngã ba Chúc. Đây là một kinh nghiệm được đúc kết bằng trí tuệ, xương máu hết sức đáng lưu ý khi tiến hành thọc sâu chiến dịch bằng cơ giới.
    Bằng một đòn tiến công mãnh liệt trong hành tiến, tối ngày 7, trung đoàn 24 chiếm gọn khu vực Chúc, đập tan các lực lượng thuộc sư đoàn 230 của địch co cụm ở đây. Ngày 8-1, trung đoàn 24 và các lực lượng trong cánh quân thứ nhất của Quân đoàn tiếp tục phát triển theo đường số 3 đánh vào các mục tiêu quy định. Từ Chúc vào thị xã Căm Pốt đường tốt, đội hình của ta cơ động thuận lợi, nhưng địch đã dựa vào rừng núi, làng mạc hai bên đường để đánh chặn ta rất quyết liệt. Ở các phía trước và phía sau đội hình tiến quân, bộ đội ta nhiều lần buộc phải dừng lại tổ chức chiến đấu, quét địch trên từng chặng. Chiều ngày 8-1, bằng một đòn tiến công dũng mãnh, trung đoàn 24 và lực lượng đi đầu phá vỡ cụm phòng thủ của địch ở khu vực đèo 224. Sau thắng lợi này, trung đoàn 24 được Bộ Tư lệnh quân đoàn giao tiếp nhiệm vụ đánh chiếm mục tiêu chính là thị xã Căm Pốt. Vào lúc 13 giờ ngày 9-1-1979, thị xã Căm Pốt hoàn toàn được giải phóng.
    Cùng thời gian này, bên cánh quân thứ hai của Quân đoàn, Sư đoàn 304 và các lực lượng tăng cường dưới sự chỉ huy trực tiếp của Phó chính uỷ quân đoàn Đoàn Chương và Tham mưu trưởng quân đoàn Mai Xuân Tần đã dâng đội hình lên khu vực đường chéo Tani-núi Đất-Công Pông Chơ Rây (nối giữa đường số 2 và đường số 3), sẵn sàng chờ lệnh tiến công của cấp trên.
    Tối ngày 6-1-1979, Sở chỉ huy tiền phương Bộ gửi điện chỉ thị nhiệm vụ cho Quân đoàn: nếu ngày 7-1, bộ đội cách mạng Campuchia và lực lượng của Quân khu 9 chưa giải phóng được Phnôm Pênh thì ngày 8-1, cho Sư đoàn 304 đánh vào Phnôm Pênh qua đường sân bay Pô Chen Tông tiếp sức cho bạn.
    Nhưng sáng ngày 7, trong khi trên hướng đường số 2 lực lượng thọc sâu của Quân khu 9 đang còn tập trung đột phá qua thị xã Ta Keo thì trên đường số 1, Quân đoàn 4 của ta phối hợp cùng Binh đoàn 1 của bạn dưới sự chỉ huy trực tiếp của Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân cách mạng Campuchia, kiêm Tư lệnh Binh đoàn 1, đã tổ chức vượt sông Mê Công bằng sức mạnh và đánh thẳng vào thủ đô Phnôm Pênh. Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 7-1-1979, thủ đô Phnôm Pênh hoàn toàn được giải phóng.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đồng thời, bản mệnh lệnh còn nêu rõ: Sư đoàn 325 phải phát triển theo trục đường Dốc Mía-Chúc-Căm Pốt bảo vệ phía cạnh sườn của bộ đội cách mạng Campuchia và lực lượng Quân khu 9 phát triển theo trục đường số 2 giải phóng Ta Keo và tiến về Phnôm Pênh từ hướng nam.
    Như vậy là, theo nhiệm vụ trên, để phối hợp với lực lượng vũ trang, nhân dân bạn giải phóng Căm Pốt và Công Pông Xom, Quân đoàn 2 chỉ còn được sử dụng Sư đoàn 8 và Sư đoàn 235 bộ binh. Mặt khác, để thực hiện nhiệm vụ giải phóng Căm Pốt và cảng Công Pông Xom, lẽ ra Quân đoàn có thể tổ chức cho Sư đoàn 235 tiến công theo trục Dốc Mía-Công Pông Trạch-thị xã Căm Pốt-cảng Công Pông Xom thì bộ binh và đặc biệt là cơ giới sẽ cơ động thuận lợi hơn nhiều, vì thế Quân đoàn đã có thể thực hiện sớm hơn nhiệm vụ đánh chiếm cảng Công Pông Xom. Nhưng vì còn phải làm nhiệm vụ bảo vệ cạnh sườn cho lực lượng Quân khu 9 và bộ đội bạn tiến công trên hướng chủ yếu, nên mũi tiến công giải phóng Công Pông Xom của Quân đoàn đã được trên chỉ thị phát triển theo dục Dốc Mía-Chúc-Căm Pốt-cảng Công Pông Xom. Đặc biệt đoạn từ Dốc Mía tới Chúc là đường liên huyện, cấp phối, đã bị sụt lở nhiều, không bảo đảm cho các phương tiện nặng cơ động. Mặc dù sớm thấy rõ trở ngại trên, Quân đoàn vẫn kiên quyết lãnh đạo bộ đội nghiêm chỉnh chấp hành nhiệm vụ cấp trên đã giao cho.
    Về tổ chức lực lượng, so với Sư đoàn 304, ở đợt hoạt động này sức chiến đấu của Sư đoàn 325 có hạn chế hơn. Vì hai trong số ba trung đoàn bộ binh củ sư đoàn (trung đoàn 18b và trung đoàn 111) mới được xây dựng chưa đầy hai tháng. Thực chất đây chỉ là những trung đoàn tân binh, vì chiến sĩ lần đầu mới nhập ngũ, cán bộ mới từ nhiều nơi tập hợp lại. Để Sư đoàn 325 có thời gian rèn luyện thêm cho bộ đội, từ đầu chiến dịch tới đây, Quân đoàn mới chỉ sử dụng Sư đoàn 304 vào các nhiệm vụ chiến đấu trực tiếp. Trong đợt tiến công mới, Quân đoàn sẽ phải sử dụng cả Sư đoàn 325.
    Căn cứ vào tình hình thực tế của đơn vị, Thường vụ Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh quân đoàn quyết định điều chỉnh lại lực lượng, đưa trung đoàn 24 Sư đoàn 304 sang tăng cường cho Sư đoàn 325 và đưa trung đoàn 11 Sư đoàn 325 sang tăng cường cho Sư đoàn 304 để hai mũi tiến công của Quân đoàn có chất lượng chiến đấu tương đối đều nhau.
    Ngày 5-1-1919, thực hiện mệnh lệnh tiến công của Bộ chỉ huy Liên quân, bên cánh quân thứ nhất của Quân đoàn các đồng chí Đỗ Phạm, Phạm Công Nhân chỉ huy Sư đoàn 325 cho đơn vị phát triển vào đánh Túc Mía và Dốc Mía.
    Tối ngày 6-1, các trung đoàn 95 và 24 hoàn thành nhiệm vụ phá vỡ cụm phòng thủ mạnh của địch ở Túc Mía, Dốc Mía. Chấp hành nhiệm vụ Bộ Tư lệnh quân đoàn giao cho các, các chiến sĩ Sư đoàn 8 vượt qua Túc Mía theo đường 16 tiến công giải phóng Công Pông Trạch.
    Cùng thời gian đó, Tư lệnh quân đoàn trực tiếp chi rhuy trung đoàn 24 dẫn đầu đội hình thọc sâu đánh vào Chúc và Căm pốt.
    Vốn quen với lối đánh thọc sâu bằng cơ giới và các cuộc đột kích táo bạo vào thành phố, thị xã, các khu vực phòng ngự mạnh của địch bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng từ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 lịch sử, các lực lượng của Quân đoàn không sợ ?olạnh lưng, hở sườn?, mạnh dạn tung hoành trong sào huyệt của địch. Nhưng Quân đoàn thọc sâu bằng cơ giới với nhiều xe tăng, xe kéo pháo nặng nề, cồng kềnh mà lại phát triển theo một trục đường đất độc đạo, mặt đường rộng chưa đầy ba mét, nhiều đoạn bị sạt lở không còn sử dụng được nên gặp nhiều khó khăn trên đường tiến. Cán bộ chiến sĩ Quân đoàn phải mất nhiều công sức san lấp mặt đường, chống lầy, cứu kéo các xe đổ xuống ruộng nước, nên đội hình tiến quân bị cắt ra thành nhiều đoạn. Hai khẩu pháo tầm xa 130mm cùng xe kéo bị tụt xuống ruộng nước nằm lại giữa cánh đồng, không có bộ binh bảo vệ đã bị tập kích đốt cháy. Xe đặc chủng chở máy thông tin 35 oát của Sư đoàn 235 bị địch đánh hỏng. Phó chủ nhiệm thông tin sư đoàn và một số chiến sĩ bị địch sát hại. Phải mất rất nhiều công sức, kể cả xương máu, bộ đội ta mới vượt qua được đoạn đường đất này. Mãi tới chiều ngày 7-1, lực lượng đi đầu của cánh quân mới cơ động vào tới khu vực ngã ba Chúc. Đây là một kinh nghiệm được đúc kết bằng trí tuệ, xương máu hết sức đáng lưu ý khi tiến hành thọc sâu chiến dịch bằng cơ giới.
    Bằng một đòn tiến công mãnh liệt trong hành tiến, tối ngày 7, trung đoàn 24 chiếm gọn khu vực Chúc, đập tan các lực lượng thuộc sư đoàn 230 của địch co cụm ở đây. Ngày 8-1, trung đoàn 24 và các lực lượng trong cánh quân thứ nhất của Quân đoàn tiếp tục phát triển theo đường số 3 đánh vào các mục tiêu quy định. Từ Chúc vào thị xã Căm Pốt đường tốt, đội hình của ta cơ động thuận lợi, nhưng địch đã dựa vào rừng núi, làng mạc hai bên đường để đánh chặn ta rất quyết liệt. Ở các phía trước và phía sau đội hình tiến quân, bộ đội ta nhiều lần buộc phải dừng lại tổ chức chiến đấu, quét địch trên từng chặng. Chiều ngày 8-1, bằng một đòn tiến công dũng mãnh, trung đoàn 24 và lực lượng đi đầu phá vỡ cụm phòng thủ của địch ở khu vực đèo 224. Sau thắng lợi này, trung đoàn 24 được Bộ Tư lệnh quân đoàn giao tiếp nhiệm vụ đánh chiếm mục tiêu chính là thị xã Căm Pốt. Vào lúc 13 giờ ngày 9-1-1979, thị xã Căm Pốt hoàn toàn được giải phóng.
    Cùng thời gian này, bên cánh quân thứ hai của Quân đoàn, Sư đoàn 304 và các lực lượng tăng cường dưới sự chỉ huy trực tiếp của Phó chính uỷ quân đoàn Đoàn Chương và Tham mưu trưởng quân đoàn Mai Xuân Tần đã dâng đội hình lên khu vực đường chéo Tani-núi Đất-Công Pông Chơ Rây (nối giữa đường số 2 và đường số 3), sẵn sàng chờ lệnh tiến công của cấp trên.
    Tối ngày 6-1-1979, Sở chỉ huy tiền phương Bộ gửi điện chỉ thị nhiệm vụ cho Quân đoàn: nếu ngày 7-1, bộ đội cách mạng Campuchia và lực lượng của Quân khu 9 chưa giải phóng được Phnôm Pênh thì ngày 8-1, cho Sư đoàn 304 đánh vào Phnôm Pênh qua đường sân bay Pô Chen Tông tiếp sức cho bạn.
    Nhưng sáng ngày 7, trong khi trên hướng đường số 2 lực lượng thọc sâu của Quân khu 9 đang còn tập trung đột phá qua thị xã Ta Keo thì trên đường số 1, Quân đoàn 4 của ta phối hợp cùng Binh đoàn 1 của bạn dưới sự chỉ huy trực tiếp của Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân cách mạng Campuchia, kiêm Tư lệnh Binh đoàn 1, đã tổ chức vượt sông Mê Công bằng sức mạnh và đánh thẳng vào thủ đô Phnôm Pênh. Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 7-1-1979, thủ đô Phnôm Pênh hoàn toàn được giải phóng.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ngày 8-1, các đồng chí Phó chính uỷ và Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 được triệu tập về Sở chỉ huy tiền phương của Bộ ở Chi Lăng nhận nhiệm vụ và bàn kế hoạch phối hợp cùng Quân khu 9 giải quyết nối lực lượng địch đang co cụm ở Lò Gò. Nhưng sau khi đáp máy bay đi thị sát mặt trận về, đồng chí Lê Đức Anh đã đồng ý với đề nghị của Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, chỉ để trung đoàn 111 Sư đoàn 325 ở lại cùng lực lượng Quân khu 9 phối hợp với bạn đánh Lò Gò và tham gia truy quét địch ở các khu vực Ta Ni, Công Pông Chơ Rây, Dốc Mía. Các lực lượng còn lại của Sư đoàn 304 trở về đội hình của Quân đoàn 2 để tập trung giải quyết khu vực cảng.
    Sáng ngày 9-1, trung đoàn 9 được điều đi trước, đã cơ động theo đường số 3 cùng cánh quân thứ nhất của Quân đoàn tiến về Căm Pốt. Trưa ngày 9-1, trung đoàn 66 và Sư đoàn bộ Sư đoàn 304 hành quân theo đường số 16 qua Công Pông Chơ Rây về Căm Pốt. Đến đây, trung đoàn 66 và tiếp đó là trung đoàn 9 tiến thẳng xuống cảng Công Pông Xom. Khi tổ chức đội hình thọc sâu, dựa vào kinh nghiệm trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Sư đoàn 304 bộ binh và Lữ đoàn 203 xe tăng muốn đưa xe tăng đi trước. Nhưng trên đường từ thị xã Căm Pốt xuống cảng Công Pông Xom có tám cầu chưa được khảo sát nên khó đảm bảo chắc chắn cho xe tăng vượt qua thuận lơi. Qua kinh nghiệm tổ chức vượt cầu Hói Rui trong buổi đầu chuyển quân vào mặt trận, Quân đoàn quyết định sử dụng xe bọc thép M.113 đi trước. Nhờ vậy mà trung đoàn 66 hành quân được thuận lợi. Trong lúc đó, trung đoàn 9 hành quân tiếp sau trung đoàn 66, vẫn tổ chức cho xe tăng đi trước. Khi vượt cầu Bô Ko, xe tăng chỉ qua được chiếc thứ nhất, đến chiếc thứ hai thì cầu bị sập. Sư đoàn phải tập trung lực lượng khắc phục mới vượt qua được.
    Ở phía trước, trung đoàn 66 tiếp tục hành quân trong đêm tối, đến ngã ba Vây Rinh gặp đường số 4 rất tốt nên tốc độ tiến quân ngày càng nhanh hơn. Đúng 7 giờ 30 phút ngày 10-1-1979, Phó chính uỷ và Tham mưu trưởng quân đoàn cùng chỉ huy Sư đoàn 304 đến điểm hẹn cầu số 8, đợi đồng chí Lê Đức Anh đến kiểm tra và chỉ thị tiếp nhiệm vụ cho lực lượng thọc sâu của Quân đoàn 2. 7 giờ 45 phút, khi trực thăng của đồng chí Lê Đức Anh hạ cánh xuống điểm hẹn thì cũng là lúc trung đoàn 66 dưới sự chỉ huy của trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Mến bắt đầu triển khai lực lượng đánh chiếm cảng Công Pông Xom. Rút kinh nghiệm từ cuộc chiến đấu của Lữ đoàn 126 hải quân đánh bộ (Lữ đoàn 126 trước đó đã tiến công chính diện vào khu vực cảng, bộ đội bị thương vong lớn và chưa dứt điểm được mục tiêu), trung đoàn 66 Sư đoàn 304 nhanh chóng tổ chức đánh chiếm điểm cao 184 và các điểm cao có lợi khống chế toàn bộ khu vực cảng. Sau đó từ các điểm cao có lợi này trung đoàn 66 đã đánh xuống, phối hợp cùng bộ đội hải quân Vùng 5 đổ bộ từ hướng biển lên giải phóng toàn bộ khu vực cảng Công Pông Xom-hải cảng quan trọng nhất của Campuchia vào hồi 7 giờ 15 phút ngày 10-1-1979.
    Đồng chí Lê Đức Anh biểu dương thành tích của trung đoàn 66 và chỉ thị cho trung đoàn tiếp tục tiến công giải phóng nốt cảng Rê Am. Lúc này trung đoàn 9 đã khắc phục được cầu Bô Ko và hành quân vào đến khu vực cầu số 8. Được sư đoàn trưởng Sư đoàn 304 giao nhiệm vụ, trung đoàn 9 tiến ngay xuống hướng cảng quân sự Rê Am. Dọc đường cơ động, bộ binh trung đoàn 9 và xe tăng Lữ đoàn 203 đã diệt nhiều ổ đề kháng của địch và đánh thẳng vào khu vực quân cảng. Đến 13 giờ 30 phút ngày 10-1-1979, cảng Rê Am được hoàn toàn giải phóng.
    Sư đoàn 304 được giao nhiệm vụ cùng với bộ đội Vùng 5 hải quân phối hợp với lực lượng của bạn tổ chức quân quản cảng Công Pông Xom. Tiếp đó, theo yêu cầu của đồng chí Tư lệnh Quân chủng hải quân, Quân đoàn cử một tiểu đoàn của trung đoàn 66, do trung đoàn trưởng trung đoàn 66 trực tiếp chỉ huy hành quân bằng tàu biểu cùng bộ đội hải quân đổ bộ lên đảo Cô Công, phối hợp với lực lượng của bạn đánh chiếm thị xã Cô Công. Ngày 17-1-1979, tỉnh Cô Công và miền duyên hải của Campuchia được giải phóng.
    Cuộc tổng tiến công của liên quân cách mạng và nổi dậy của ndn Campuchia đã toàn thắng. Nước Cộng hoà Nhân dân Campuchia ra đời mở ra một chương mới trong lịch sử đấu tranh giải phóng lâu dài của dân tộc Campuchia anh em.
    Ngày 18-12-1979, Hiệp ước Hoà bình Hữu nghị và hợp tác giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Nhân dân Campuchia được ký kết. Theo yêu cầu của bạn, một số đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam trong đó có Quân đoàn 2 được giao nhiệm vụ ở lại phối hợp cùng bạn tiếp tục phát triển tiến công xoá bỏ các căn cứ của địch ở rừng núi và làm công tác phát động quần chúng, xây dựng vùng mới giải phóng của bạn.
    Lực lượng quân đoàn đứng chân trên hai khu vực:
    -Khu vực Căm Pốt có Sư đoàn 325, các đơn vị binh chủng và Sở chỉ huy quân đoàn.
    -Khu vực đường số 4-cảng Công Pông Xom có Sư đoàn 304, một số đơn vị binh chủng tăng cường và Sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn.
    Mùa xuân đang đến gần, Sư đoàn 304 vinh dự được đón lẵng hoa Chủ tịch Tôn Đức Thắng gửi nhân dịp Tết Kỷ Mùi. Toàn Quân đoàn tiếp tục ra trận. Các chiến sĩ chuẩn bị đón xuân trên những chiến hào, bên trận địa pháo, xen giữa các lần xuất kích đánh địch. Các phân đội trinh sát luồn vào các sào huyệt địch nghiên cứu tình hình. Các đơn vị bộ binh khẩn trương triển khai thế trận theo phương án tác chiến mới. Có đơn vị làm nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ cầu, đường, chốt giữ các khu vực trọng điểm. Có đơn vị hành quân xuyên rừng bao vây chặn địch vòng ngoài. Có đơn vị nhận nhiệm vụ luồn sâu đánh địch trong các căn cứ của chúng. Bộ đội ta lấy tiếng súng hiệp đồng chiến đấu để thay tiếng pháo mừng xuân.
    Trên hướng Căm Pốt, Sư đoàn 325 nổ súng tiến công vào căn cứ địch ở khu vực rừng núi đông đường số 3 (thung lũng điểm cao 46). Tuy không diệt được nhiều địch, nhưng qua đợt hoạt động này các lực lượng của ta và bạn đã củng cố được một địa bàn khá rộng, đẩy lùi ra xa, bảo đảm an toàn cho thị xã Căm Pốt và hậu phương chiến dịch. Tiếp đó từ ngày 17 đến 31-1-1979, Sư đoàn 325 chuyển hướng hoạt động lên bắc đường số 3, đánh địch ở khu vực từ bắc điểm cao 127 đến tây nam núi Con Sâu, đèo 244. Kết quả sau 15 ngày chiến đấu, ta và bạn đã loại khỏi vòng chiến gần 700 địch và thu được một số vũ khí, tạo được một bàn đạp vững chắc để chuẩn bị tiến công trung đoàn 123 và sư đoàn 230 địch đang co cụm ở Trốp Sa La.
    Trên hướng đường số 4-cảng Công Pông Xom, Sư đoàn 304 vừa khẩn trương củng cố khu vực đứng chân, vừa cùng lực lượng bạn tổ chức tiến công địch từ bắc cầu Công Pông Sơ Mách đến Vênh Riêng và đánh chiếm khu vực Vêh Riêng đến nam cầu Tà Này. Vào những ngày giáp Tết Kỷ Mùi, địch âm mưu phản kích chiếm lại khu vực này để từ đó thọc xuống chiếm lại cảng Công Pông Xom và Rê Am. Biết được ý đồ đó của địch, Quân đoàn đã chỉ thị cho Sư đoàn 304 cảnh giác sẵn sàng chiến đấu và bố trí sẵn thế trận phòng thủ, vừa có lực lượng chốt chặn các điểm xung yếu, vừa có lực lượng cơ động đánh địch. Đúng như ta dự đoán, ngày 27 và 28-1-1979, địch dùng một lực lượng lớn bộ binh có xe tăng, xe bọc thép đi cùng, chia thành nhiều mũi liều mạng đánh vào các khu vực phòng thủ của ta từ nam cầu Tà Này đến Vênh Riêng. Các chiến sĩ trung đoàn 24 chiến đấu dũng cảm, nhưng áp dụng cách dánh chưa tốt nên bị tổn thất. Sau khi rút kinh nghiệm, bộ đội ta thực hiện đánh kiểu ?osâu đo?, có lực lượng chặn đầu, khóa đuôi, bao vây chia cắt, vu hồi đánh vào hai bên sườn, cắt bộ binh địch ra khỏi đội hình xe tăng của chúng, diệt gọn từng bộ phận địch. Kết quả trung đoàn 24 đã đập tan cuộc phản kích lớn của địch, bắn cháy ba xe tăng. Trong trận đánh này nổi lên tấm gương của Nguyễn Văn Hợi-chính trị viên phó đại đội 12 tiểu đoàn 6 bộ binh đã chỉ huy đơn vị mưu trí, dũng cảm đẩy lùi nhiều đợt phản kích của địch, giữ vững khu vực cầu Tà Này. Khi xe tăng địch đột nhập vào trận địa của ta, noi gương Cù Chính Lan người chiến sĩ của sư đoàn năm xưa diệt xe tăng địch trên đường số 6, được đồng đội yểm hộ, Nguyễn Văn Hợi đã táo bạo nhảy lên xe tăng địch và dùng lựu đạn diệt gọn chiếc xe tăng đó.

Chia sẻ trang này