1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trên biên giới Tây Nam và tiêu diệt bọn diệt chủng Pol Pot

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi ptlinh, 06/10/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Quyển Giải cứu con tin Dubrovka có ở hs Tiền Phong (Nguyễn thái Học).
  2. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Quyển Giải cứu con tin Dubrovka có ở hs Tiền Phong (Nguyễn thái Học).
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Hoàn thành nhiệm vụ quốc tế vẻ vang
    Cho đến bây giờ, chưa ai phân biệt ?oranh giới? giữa cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia. Chỉ biết rằng, trong 10 năm, kể từ mùa Xuân năm 1979, lực lượng vũ trang ta chiến đấu liên tục, không ngừng. Từ những trận đánh mở đầu của thời kỳ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chống địch xâm lấn lãnh thổ đến cuộc tổng tiến công giải phóng hoàn toàn đất nước Campuchia rồi bắt tay giúp Bạn xây dựng lại chính quyền và lực lượng vũ trang từ Trung ương đến địa phương. Sứ mạng lịch sử mà Đảng và Nhà nước ta đã trao cho nhân dân ta, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt đã kết thúc vẻ vang vào cuối tháng 9 năm 1989. Đó là ngày mà cả thế giới chứng kiến Đảng, Nhà nước và nhân dân Campuchia lưu luyến tiễn đưa quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia Việt Nam rút về nước.
    Có thể hiểu cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới Tây Nam được bắt đầu từ sự xâm nhập lãnh thổ Việt Nam, do bọn ********* Pol Pot-Ieng Sary phát động, chúng đã gây cho nhân dân ta sống dọc biên giới những tổn thất nặng nề, buộc lực lượng vũ trang ta phải chiến đấu bảo vệ, sau đó là những trận chiến đấu đầu tiên diễn ra trên đất đối phương. Những đòn trừng phạt của ta vẫn chưa đủ mạnh buộc nhà cầm quyền Campuchia lúc bấy giờ nhụt chí, mà trái lại chúng tiếp tục đẩy cuộc chiến tranh biên giới ngày càng mở rộng hơn. Vì vậy, chúng ta đã phải tiến hành một chiến dịch tổng tiến công quy mô lớn đến tận sào huyệt, giải quyết tận gốc mối nguy cơ này cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau khỏi phải bận tâm.
    Còn nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia có thể hiểu được bắt đầu từ sự ra đời của Mặt trận Dân tộc cứu nước Campuchia. Theo yêu cầu của Bạn, chúng ta đã tiến hành cuộc tổng tiến công mùa Xuân năm 1979, giải phóng hoàn toàn Campuchia và ở lại để giúp Bạn xây dựng chính quyền, lực lượng vũ trang.
    Hai nhiệm vụ-hai giai đoạn kế tiếp nhau, liên quan mật thiết với nhau: Hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, tạo cơ sở ban đầu để thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Ngược lại khi nhà cầm quyền ********* Campuchia lúc bấy giờ chống lại nhân dân Việt Nam, nhân dân Campuchia thì tất yếu Mặt trận Dân tộc cứu nước Campuchia ra đời, để phối hợp với quân và dân hai nước chống kẻ thù chung.
    Như vậy, theo yêu cầu của Bạn là hành lang pháp lý để chúng ta giúp Bạn làm cuộc Cách mạng từ đầu. Xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang của Bạn lớn mạnh cũng là để bảo vệ vững chắc và toàn vẹn lãnh thổ trên một nửa đất nước ta. Đó là hai phạm trù khác nhau, nhưng cùng một mục đích là bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ hoà bình ở khu vực Đông Nam Á. Nói một cách khác là chúng ta đang thực hiện 2 nhiệm vụ: nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế trên quan điểm giúp Bạn là tự giúp mình.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Hoàn thành nhiệm vụ quốc tế vẻ vang
    Cho đến bây giờ, chưa ai phân biệt ?oranh giới? giữa cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia. Chỉ biết rằng, trong 10 năm, kể từ mùa Xuân năm 1979, lực lượng vũ trang ta chiến đấu liên tục, không ngừng. Từ những trận đánh mở đầu của thời kỳ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chống địch xâm lấn lãnh thổ đến cuộc tổng tiến công giải phóng hoàn toàn đất nước Campuchia rồi bắt tay giúp Bạn xây dựng lại chính quyền và lực lượng vũ trang từ Trung ương đến địa phương. Sứ mạng lịch sử mà Đảng và Nhà nước ta đã trao cho nhân dân ta, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt đã kết thúc vẻ vang vào cuối tháng 9 năm 1989. Đó là ngày mà cả thế giới chứng kiến Đảng, Nhà nước và nhân dân Campuchia lưu luyến tiễn đưa quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia Việt Nam rút về nước.
    Có thể hiểu cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới Tây Nam được bắt đầu từ sự xâm nhập lãnh thổ Việt Nam, do bọn ********* Pol Pot-Ieng Sary phát động, chúng đã gây cho nhân dân ta sống dọc biên giới những tổn thất nặng nề, buộc lực lượng vũ trang ta phải chiến đấu bảo vệ, sau đó là những trận chiến đấu đầu tiên diễn ra trên đất đối phương. Những đòn trừng phạt của ta vẫn chưa đủ mạnh buộc nhà cầm quyền Campuchia lúc bấy giờ nhụt chí, mà trái lại chúng tiếp tục đẩy cuộc chiến tranh biên giới ngày càng mở rộng hơn. Vì vậy, chúng ta đã phải tiến hành một chiến dịch tổng tiến công quy mô lớn đến tận sào huyệt, giải quyết tận gốc mối nguy cơ này cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau khỏi phải bận tâm.
    Còn nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia có thể hiểu được bắt đầu từ sự ra đời của Mặt trận Dân tộc cứu nước Campuchia. Theo yêu cầu của Bạn, chúng ta đã tiến hành cuộc tổng tiến công mùa Xuân năm 1979, giải phóng hoàn toàn Campuchia và ở lại để giúp Bạn xây dựng chính quyền, lực lượng vũ trang.
    Hai nhiệm vụ-hai giai đoạn kế tiếp nhau, liên quan mật thiết với nhau: Hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, tạo cơ sở ban đầu để thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Ngược lại khi nhà cầm quyền ********* Campuchia lúc bấy giờ chống lại nhân dân Việt Nam, nhân dân Campuchia thì tất yếu Mặt trận Dân tộc cứu nước Campuchia ra đời, để phối hợp với quân và dân hai nước chống kẻ thù chung.
    Như vậy, theo yêu cầu của Bạn là hành lang pháp lý để chúng ta giúp Bạn làm cuộc Cách mạng từ đầu. Xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang của Bạn lớn mạnh cũng là để bảo vệ vững chắc và toàn vẹn lãnh thổ trên một nửa đất nước ta. Đó là hai phạm trù khác nhau, nhưng cùng một mục đích là bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ hoà bình ở khu vực Đông Nam Á. Nói một cách khác là chúng ta đang thực hiện 2 nhiệm vụ: nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế trên quan điểm giúp Bạn là tự giúp mình.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Sự ra đời của mặt trận 479
    Từ khi có những diễn biến phức tạp trên biên giới Tây Nam, rồi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thực sự đã xảy ra. Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Quốc phòng nước ta đã quan tâm một cách sâu sắc đến những biến cố xảy ra trên hai đầu đất nước.
    Để tập trung lãnh đạo các lực lượng vũ trang và nhân dân ở các tỉnh phía Nam. Ngay từ những ngày đầu cuộc tổng tiến công vào Campuchia mùa Xuân năm 1979, Bộ Chính trị và Thường vụ Đảng uỷ quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng nước ta đã tổ chức ra Sở chỉ huy tiền phương, nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của đất nước trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia.
    Sở chỉ huy tiền phương Bộ Quốc phòng đặt tại sân bay Tân Sơn Nhất. Sau khi Campuchia được giải phóng, Bộ tư lệnh tiền phương chuyển sang Thành phố Phnôm Pênh và gọi là Bộ tư lệnh Mặt trận 719 (hoặc Bộ tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia) do Thượng tướng Lê Đức Anh đứng đầu.
    Cuộc tổng tiến công như vũ bão của quân ta đã đập tan chế độ diệt chủng Pol Pot-Ieng Sary, đất nước Campuchia được giải phóng; nhưng kẻ thù vẫn còn đó. Đội quân đông đảo của chúng tan rã ra thành từng mảng và đang được tập hợp lại dưới sự hà hơi tiếp sức và điều khiển của các thế lực bên ngoài, hòng khôi phục lại chính quyền, để giành lai tất cả những gì đã mất. Bên cạnh đó, chính quyền và lực lượng vũ trang Cách mạng Campuchia vừa mới hình thành, chưa đủ sức để quản lý đất nước, nhân dân đang bị kìm kẹp, tứ tán khắp nơi.
    Phải xây dựng lại đất nước Campuchia từ đầu, từ con số 0. Đó là trách nhiệm đặt ra hết sức nặng nề đối với quân tình nguyện Việt Nam ta trên đất nước này.
    Đứng trước tình hình đó, để bảo vệ thành quả Campuchia Campuchia vừa mới giành được, theo yêu cầu của Mặt trận dân tộc cứu nước Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục ở lại để giúp nhân dân Campuchia xây dựng lại đất nước, nhằm thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
    -Giúp Bạn đưa dân về quê, cứu đau, cứu đói, phục hồi sản xuất.
    -Cùng với Bạn xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang từ Trung ương đến địa phương.
    -Cùng với Bạn tiếp tục chiến đấu để loại bỏ nguy cơ phục hồi chế độ diệt chủng ********* của kẻ địch.
    Một loạt chủ trương, biện pháp đã được ta và Bạn đặt ra, bao gồm: Hiệp định liên minh chiến đấu Việt Nam-Campuchia được ký kết; các Bộ tư lệnh Mặt trận, các đoàn chuyên gia quân sự và dân sự lần lượt được tổ chức trên chiến trường; các đơn vị lực lượng vũ trang Cách mạng Campuchia được thành lập và nhiều công việc khác nữa.
    Ngày 14-4-1979, Bộ tư lệnh Mặt trận 479 được thành lập. Tư lệnh đầu tiên của Mặt trận 479 là thiếu tướng Bùi Thanh Vân và Chính uỷ-đại tá Lê Thanh. Tiếp đến là Bộ tư lệnh các Mặt trận 579, 779, 979 được thành lập. Các đoàn chuyên gia quân sự địa phương như đoàn 7701 (Công Pông Thơm), đoàn 7702 (Công Pông Chàm), đoàn 7703 (xXvây-riêng), 7705 (Xiêm Riệp), đoàn 7706 (Prây Veng). Tại tỉnh Bát Tam Băng đoàn chuyên gia quân sự 7704 cũng đã được thành lập, do đại tá Đỗ Huy Trường làm Đoàn trưởng. Khi đồng chí Đỗ Huy Trường về Cục nghiên cứu nhận công tác khác, thì đại tá Phạm Thành Hưng về thay cà đại tá Nguyễn Ngọc Doanh làm Đoàn phó chính trị đoàn chuyên gia.
    Quán triệt quan điểm ?ogiúp bạn là tự giúp minh?, toàn thể cán bộ chiến sĩ Mặt trận 479 nói riêng và quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Campuchia nói chung đã làm hết sức mình với một tình cảm chân thành, một động cơ trong sáng.
    Trong cuộc tổng tiến công vừa qua, chúng ta đã gặp rất nhiều những người dân Campuchia yêu nước và chúng ta đã tiếp nhận họ vào đội ngũ. Nhiều người đã giúp đỡ bộ đội Việt Nam trong công tác vận động quần chúng, đưa dân trở lại phum-sóc, giúp ta tuyên truyền chính sách của mặt trận và giúp ta truy đánh, truy quét địch lẩn trốn. Nhiều người, sau này, đã trở thành những cán bộ cao cấp của Đảng nhân dân Campuchia, của Chính phủ và quân đội Cách mạng Campuchia.
    Tôi còn nhớ: Năm 1979, trong lúc truy đánh, truy quét địch, chúng tôi đã gặp đồng chí Côi-Bun-Tha, một thanh niên mới lớn, một nạn nhân của chế độ diệt chủng ppo. Đồng chí nhất mực đi theo bộ đội Việt Nam, cùng sống và chiến đấu. Đồng chí đã học tập được rất nhiều ở bộ đội Việt Nam. Dần dần, sau những năm 1980, đồng chí đã trở thành sư đoàn trưởng của sư đoàn bộ binh 196, sát cánh cùng sư đoàn bộ binh 309 chúng tôi-đảm nhiệm trên một địa bàn trọng yếu ở phía Tây tỉnh Bát Tam Băng. Rồi sau đó, đồng chí trở thành chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và đã trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Hoặc đồng chí Sai-Xa-Mon, trưởng ban cán sự tỉnh, chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh Bát Tam Băng; hay đồng chí Keo-Kim-Giang, phó chỉ huy trưởng-tham mưu trưởng tỉnh đội Bát Tam Băng (nay là Đại tướng Tổng tư lệnh các lực lượng Hoàng gia Campuchia) và nhiều đồng chí khác nữa.
    Tình hình trên chiến trường Campuchia trong những năm đầu thập niên 80 còn hết sức phức tạp. Trong cuộc tổng tiến công vào Campuchia mùa Xuân năm 1979, địch đã đề ra ba mục tiêu chiến lược là ?oRút lui chiến lược: 1979-1980,? ?oCầm cự chiến lược 1981-1983? và và ?oPhản công chiến lược: sau năm 1983?.
    Trước sức mạnh tiến công của quân ta, ngay từ năm 1979, để bảo toàn lực lượng, địch đã chủ trương chiến lược là ?orút lui?. Tư tưởng này đã thành phương châm từ chiến lược đến chiến dịch và chiến thuật cũng như thủ đoạn chiến đấu của binh lính trên chiến trường-?oĐịch tiến, ta lùi?. Do đó khi chúng ta tiến công hàng loạt căn cứ, thị trấn và thành phố trên các Quân khu Đông Bắc, Đông và Đông Nam của địch, lực lượng của chúng bị tiêu diệt không bao nhiêu. Tháo chạy là hành động để bảo toàn lực lượng trước sức mạnh tiến công của ta.
    Tháng 4 năm 1979 cơ bản ta đã giải phóng toàn bộ Campuchia. Sau năm 1979, địch đã chuyển sang ?oChiến lược cầm cự? với mục tiêu trong 3 năm chúng sẽ làm chủ các vùng rừng núi, nông thôn, đồng bằng để tiến tới bao vây thành thị. Giai đoạn này chúng đã kéo dài cuộc chiến tranh du kích với ta, nhằm tiêu hao lực lượng ta, làm cho ta ?osa lầy? trên chiến trường Campuchia, buộc ta phải co vào các thị trấn, thị xã và các thành phố lớn để tạo thời cơ ?ophản công chiến lược?, hoặc lấy cứ để quốc tế hoá vấn đề Campuchia, buộc quân đội Việt Nam phải rút về nước.
    Để phục vụ cho ý đồ đó, ngay từ khi đất nước Campuchia được giải phóng, bọn ********* Pol Pot-Ieng Sary-Khieu Xamphon được các thế lực bên ngoài giúp sức, chúng đã lập nên cái gọi là ?trại tị nạn? nằm dọc biên giới Campuchia-Thái Lan và ở những vùng rừng núi để tập trung lực lượng, nhận viện trợ của nước ngoài và duy trì cuộc chiến tranh du kích lâu dài với ta và chính quyền cách mạng Campuchia.
    Hàng loạt các ?otrại tị nạn? được hình thành và xây dựng từ những năm 1980 trở đi. Các ?otrại tị nạn? ở An-long Veng, Prếch-vi-hia, Đăng-rếch, Ămpin, Đăng-cum, Phnôm Mê Lai, Sơ đa, Ô đa, Com Riêng, Tà sanh? đã trở thành những căn cứ quân sự. Từ đây, vừa là nơi tiếp nhận hàng viện trợ, vừa tổ chức huấn luyện quân sự do các chuyên gia nước ngoài chỉ đạo để bằng mọi cách tung lực lượng vào nội địa Campuchia tấn công quân tình nguyện Việt Nam, uy hiếp chính quyền và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Sự ra đời của mặt trận 479
    Từ khi có những diễn biến phức tạp trên biên giới Tây Nam, rồi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thực sự đã xảy ra. Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Quốc phòng nước ta đã quan tâm một cách sâu sắc đến những biến cố xảy ra trên hai đầu đất nước.
    Để tập trung lãnh đạo các lực lượng vũ trang và nhân dân ở các tỉnh phía Nam. Ngay từ những ngày đầu cuộc tổng tiến công vào Campuchia mùa Xuân năm 1979, Bộ Chính trị và Thường vụ Đảng uỷ quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng nước ta đã tổ chức ra Sở chỉ huy tiền phương, nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của đất nước trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia.
    Sở chỉ huy tiền phương Bộ Quốc phòng đặt tại sân bay Tân Sơn Nhất. Sau khi Campuchia được giải phóng, Bộ tư lệnh tiền phương chuyển sang Thành phố Phnôm Pênh và gọi là Bộ tư lệnh Mặt trận 719 (hoặc Bộ tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia) do Thượng tướng Lê Đức Anh đứng đầu.
    Cuộc tổng tiến công như vũ bão của quân ta đã đập tan chế độ diệt chủng Pol Pot-Ieng Sary, đất nước Campuchia được giải phóng; nhưng kẻ thù vẫn còn đó. Đội quân đông đảo của chúng tan rã ra thành từng mảng và đang được tập hợp lại dưới sự hà hơi tiếp sức và điều khiển của các thế lực bên ngoài, hòng khôi phục lại chính quyền, để giành lai tất cả những gì đã mất. Bên cạnh đó, chính quyền và lực lượng vũ trang Cách mạng Campuchia vừa mới hình thành, chưa đủ sức để quản lý đất nước, nhân dân đang bị kìm kẹp, tứ tán khắp nơi.
    Phải xây dựng lại đất nước Campuchia từ đầu, từ con số 0. Đó là trách nhiệm đặt ra hết sức nặng nề đối với quân tình nguyện Việt Nam ta trên đất nước này.
    Đứng trước tình hình đó, để bảo vệ thành quả Campuchia Campuchia vừa mới giành được, theo yêu cầu của Mặt trận dân tộc cứu nước Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục ở lại để giúp nhân dân Campuchia xây dựng lại đất nước, nhằm thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
    -Giúp Bạn đưa dân về quê, cứu đau, cứu đói, phục hồi sản xuất.
    -Cùng với Bạn xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang từ Trung ương đến địa phương.
    -Cùng với Bạn tiếp tục chiến đấu để loại bỏ nguy cơ phục hồi chế độ diệt chủng ********* của kẻ địch.
    Một loạt chủ trương, biện pháp đã được ta và Bạn đặt ra, bao gồm: Hiệp định liên minh chiến đấu Việt Nam-Campuchia được ký kết; các Bộ tư lệnh Mặt trận, các đoàn chuyên gia quân sự và dân sự lần lượt được tổ chức trên chiến trường; các đơn vị lực lượng vũ trang Cách mạng Campuchia được thành lập và nhiều công việc khác nữa.
    Ngày 14-4-1979, Bộ tư lệnh Mặt trận 479 được thành lập. Tư lệnh đầu tiên của Mặt trận 479 là thiếu tướng Bùi Thanh Vân và Chính uỷ-đại tá Lê Thanh. Tiếp đến là Bộ tư lệnh các Mặt trận 579, 779, 979 được thành lập. Các đoàn chuyên gia quân sự địa phương như đoàn 7701 (Công Pông Thơm), đoàn 7702 (Công Pông Chàm), đoàn 7703 (xXvây-riêng), 7705 (Xiêm Riệp), đoàn 7706 (Prây Veng). Tại tỉnh Bát Tam Băng đoàn chuyên gia quân sự 7704 cũng đã được thành lập, do đại tá Đỗ Huy Trường làm Đoàn trưởng. Khi đồng chí Đỗ Huy Trường về Cục nghiên cứu nhận công tác khác, thì đại tá Phạm Thành Hưng về thay cà đại tá Nguyễn Ngọc Doanh làm Đoàn phó chính trị đoàn chuyên gia.
    Quán triệt quan điểm ?ogiúp bạn là tự giúp minh?, toàn thể cán bộ chiến sĩ Mặt trận 479 nói riêng và quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Campuchia nói chung đã làm hết sức mình với một tình cảm chân thành, một động cơ trong sáng.
    Trong cuộc tổng tiến công vừa qua, chúng ta đã gặp rất nhiều những người dân Campuchia yêu nước và chúng ta đã tiếp nhận họ vào đội ngũ. Nhiều người đã giúp đỡ bộ đội Việt Nam trong công tác vận động quần chúng, đưa dân trở lại phum-sóc, giúp ta tuyên truyền chính sách của mặt trận và giúp ta truy đánh, truy quét địch lẩn trốn. Nhiều người, sau này, đã trở thành những cán bộ cao cấp của Đảng nhân dân Campuchia, của Chính phủ và quân đội Cách mạng Campuchia.
    Tôi còn nhớ: Năm 1979, trong lúc truy đánh, truy quét địch, chúng tôi đã gặp đồng chí Côi-Bun-Tha, một thanh niên mới lớn, một nạn nhân của chế độ diệt chủng ppo. Đồng chí nhất mực đi theo bộ đội Việt Nam, cùng sống và chiến đấu. Đồng chí đã học tập được rất nhiều ở bộ đội Việt Nam. Dần dần, sau những năm 1980, đồng chí đã trở thành sư đoàn trưởng của sư đoàn bộ binh 196, sát cánh cùng sư đoàn bộ binh 309 chúng tôi-đảm nhiệm trên một địa bàn trọng yếu ở phía Tây tỉnh Bát Tam Băng. Rồi sau đó, đồng chí trở thành chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và đã trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Hoặc đồng chí Sai-Xa-Mon, trưởng ban cán sự tỉnh, chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh Bát Tam Băng; hay đồng chí Keo-Kim-Giang, phó chỉ huy trưởng-tham mưu trưởng tỉnh đội Bát Tam Băng (nay là Đại tướng Tổng tư lệnh các lực lượng Hoàng gia Campuchia) và nhiều đồng chí khác nữa.
    Tình hình trên chiến trường Campuchia trong những năm đầu thập niên 80 còn hết sức phức tạp. Trong cuộc tổng tiến công vào Campuchia mùa Xuân năm 1979, địch đã đề ra ba mục tiêu chiến lược là ?oRút lui chiến lược: 1979-1980,? ?oCầm cự chiến lược 1981-1983? và và ?oPhản công chiến lược: sau năm 1983?.
    Trước sức mạnh tiến công của quân ta, ngay từ năm 1979, để bảo toàn lực lượng, địch đã chủ trương chiến lược là ?orút lui?. Tư tưởng này đã thành phương châm từ chiến lược đến chiến dịch và chiến thuật cũng như thủ đoạn chiến đấu của binh lính trên chiến trường-?oĐịch tiến, ta lùi?. Do đó khi chúng ta tiến công hàng loạt căn cứ, thị trấn và thành phố trên các Quân khu Đông Bắc, Đông và Đông Nam của địch, lực lượng của chúng bị tiêu diệt không bao nhiêu. Tháo chạy là hành động để bảo toàn lực lượng trước sức mạnh tiến công của ta.
    Tháng 4 năm 1979 cơ bản ta đã giải phóng toàn bộ Campuchia. Sau năm 1979, địch đã chuyển sang ?oChiến lược cầm cự? với mục tiêu trong 3 năm chúng sẽ làm chủ các vùng rừng núi, nông thôn, đồng bằng để tiến tới bao vây thành thị. Giai đoạn này chúng đã kéo dài cuộc chiến tranh du kích với ta, nhằm tiêu hao lực lượng ta, làm cho ta ?osa lầy? trên chiến trường Campuchia, buộc ta phải co vào các thị trấn, thị xã và các thành phố lớn để tạo thời cơ ?ophản công chiến lược?, hoặc lấy cứ để quốc tế hoá vấn đề Campuchia, buộc quân đội Việt Nam phải rút về nước.
    Để phục vụ cho ý đồ đó, ngay từ khi đất nước Campuchia được giải phóng, bọn ********* Pol Pot-Ieng Sary-Khieu Xamphon được các thế lực bên ngoài giúp sức, chúng đã lập nên cái gọi là ?trại tị nạn? nằm dọc biên giới Campuchia-Thái Lan và ở những vùng rừng núi để tập trung lực lượng, nhận viện trợ của nước ngoài và duy trì cuộc chiến tranh du kích lâu dài với ta và chính quyền cách mạng Campuchia.
    Hàng loạt các ?otrại tị nạn? được hình thành và xây dựng từ những năm 1980 trở đi. Các ?otrại tị nạn? ở An-long Veng, Prếch-vi-hia, Đăng-rếch, Ămpin, Đăng-cum, Phnôm Mê Lai, Sơ đa, Ô đa, Com Riêng, Tà sanh? đã trở thành những căn cứ quân sự. Từ đây, vừa là nơi tiếp nhận hàng viện trợ, vừa tổ chức huấn luyện quân sự do các chuyên gia nước ngoài chỉ đạo để bằng mọi cách tung lực lượng vào nội địa Campuchia tấn công quân tình nguyện Việt Nam, uy hiếp chính quyền và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Bằng các hình thức ?otrá hàng?, trong những năm 1980, 1981, 1982 và đầu 1983 chúng đã thâm nhập vào nội địa Campuchia một lực lượng khá lớn và biến thành những phần tử ?ohai mặt? trong chính quyền và nhân dân Bạn. Đồng thời trong những năm đó, địch tăng cường đánh phá khắp nơi trên địa bàn Mặt trận 479.
    Trở lại với tình hình năm 1979, sau khi Quân đoàn 3 rút đi, sư đoàn bộ binh 309 đảm nhiệm khu vực Nam đường số 10, Quân đoàn 4 của ta đã đưa sư đoàn bộ binh 9 lên đứng chân và hoạt động ở khu vực phía Tây đường số 5, Ni-mít đi Pôi Pét, Sôphi.
    Trên hai tỉnh thuộc phạm vi hoạt động của Mặt trận 479 là tỉnh Xiêm Riệp và Bát Tam Băng, hiện tại đã có 5 sư đoàn bộ binh quân tình nguyện Việt Nam gồm: sư đoàn bộ binh 309, 317, 5 và 9 tại tỉnh Bát Tam Băng; sư đoàn bộ binh 302 đảm nhiệm phía Bắc tỉnh Xiêm Riệp và một phần tỉnh Prếch-vi-hia-nơi tiếp giáp với địa bàn thuộc trách nhiệm của Mặt trận 579.
    Về phía lực lượng vũ trang của Bạn, ngoài các tiểu đoàn bộ đội huyện, tỉnh, Bạn đã thành lập trên địa bàn này được 3 sư đoàn. Đó là sư đoàn bộ binh 196 (hoạt động tại huyện Pailin, chủ yếu khu vực Nam đường số 10) sư đoàn bộ binh 179 (hoạt động ở khu vực Đăng-cum, Ămpin, Pôi Pét, Sơ-vai-Chếch và Si-sô Phô-sau này là tỉnh Bần-tia Miên-chây), sư đoàn bộ binh 286 cùng với sư đoàn bộ binh 302 ta hoạt động ở khu vực Phnôm Cu-lên (núi Hồng), Chông-can, Ka-ra-lanh và dãy Đăng-rếch. Sau đó, Bạn còn thành lập thêm sư đoàn bộ binh 6, hoạt động tại khu vực Nam-sấp, Bua, Ămpin Prămđơm.
    Như vậy, trên phạm vi hai tỉnh đã có tới 9 đến 10 sư đoàn bộ binh và các tiểu đoàn, lữ đoàn, trung đoàn xe tăng, pháo binh và các lực lượng khác với hàng vạn người. Chúng ta đã giúp Bạn tổ chức các tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn bộ binh và các binh chủng. Cuối năm 1980 và sang năm 1981, các Bộ tư lệnh và cơ quan Khu vực cũng đã được hình thành và bước vào hoạt động. Mặt trận 479 giúp Bạn tổ chức và xây dựng cơ quan Khu vực 4 (sau này goi là Bộ tư lệnh Quân khu 4) do đồng chí Hun-Xà-von làm tư lệnh, đồng chí Song-sa-phiếp làm tham mưu trưởng và các đồng chí khác).
    Để tạp thắng lợi trong vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang giúp Bạn. Sở chỉ huy và cơ quan thuộc các đơn vị của Bạn được bố trí gần Sở chỉ huy và cơ quan cùng cấp của bộ đội Việt Nam.
    Bộ tư lệnh và cơ quan Khu vực 4 đóng bên cạnh Bộ tư lệnh và cơ quan Mặt trận 479 ở thị xã Xiêm Riệp; Sở chỉ huy và cơ quan sư đoàn bộ binh 196 được bố trí gần Sở chỉ huy và cơ quan sư đoàn bộ binh 309 của ta tại cua chữ ?oV? đường số 10. Sau khi tổ chức ra các đoàn chuyên gia quân sự thì các đoàn chuyên gia quân sự của ta được bố trí bê cạnh cơ quan các cấp của Bạn, như đoàn chuyên gia quân sự khu vực 4 được tổ chức vào đầu năm 1984-do đồng chí thiếu thướng Trần Văn Đối làm đoàn trưởng, đồng chí đai tá Hồ Đình Quỳ làm đoàn phó, chuyên gia tham mưu trưởng, đồng chí thiếu tướng Phùng Đình Ấm và đại tá Phan Cảnh làm trưởng, phó đoàn chuyên gia chính trị. Không những các đoàn chuyên gia quân sự và dân sự từ Quân khu xuống đến các tỉnh và thành phố được tổ chức một cách hoàn chỉnh, mà ngay từ cuối năm 1979 và đầu năm 1980, ta đã phái ra một đội ngũ cán bộ đông đảo, tổ chức ra các đội công tác len lỏi xuống những phum, xã ở các vùng sâu, vùng xa để giúp Bạn xây dựng cơ sở chính quyền và lực lượng vũ trang, giúp Bạn tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Nhà nước cách mạng Campuchia.
    Khi các sư đoàn chủ lực của Bạn được thành lập và lực lượng vũ trang địa phương được hình thành và phát triển, chúng ta đã kịp thời tổ chức hệ thống chuyên gia từ các sư đoàn xuống đến tận các đơn vị cơ sở. Các đoàn chuyên gia đóng bên cạnh Bộ tư lệnh khu vực 4 của Bạn; các đoàn chuyên gia cấp Tỉnh, cả về quân sự lẫn chính trị như đoàn 7704, 7705 được bố trí cạnh Uỷ ban Nhân dân và Bộ chỉ huy quân sự hai tỉnh Bát Tam Băng và Xiêm Riệp. Nêu lên vấn đề này để chứng tỏ rẳng Đảng, Nhà nước và quân đội ta rất quan tâm đến công tác giúp Bạn một cách toàn diện.
    Về công tác giúp Bạn xây dựng cơ sở chính quyền và lực lượng vũ trang địa phương lại càng khó khăn và phức tạp hơn. Bởi vì những người lãnh đạo chân chính, những chiến sĩ cách mạng, những nhà yêu nước đã bị chế độ độc tài Pol Pot thủ tiêu gần như hầu hết trong 2 năm cầm quyền. Mặt khác, trong cuộc tổng tiến công vừa qua, kẻ địch tan rã và trà trộn trong dân thành những phần tử hai mặt khống chế chính quyền non trẻ của Bạn. Nhân dân Campuchia tuy căm thù chúng nhưng trình độ dân trí còn thấp và luôn bị khống chế, đe dọa. Vì vậy mà khi tổ chức chính quyền cơ sở các cấp thì biết trao trách nhiệm cho ai. Vả lại, trong công tác vận động quần chúng của bộ đội ta cũng gặp không ít khó khăn do ngôn ngữ bất đồng. Song có một điều, chúng ta xác định rằng đại bộ phận nhân dân là tốt. Nếu khơi dậy được tinh thần dân tộc và mối quan hệ đoàn kết lâu đời giữa nhân dân hai nước thì nhất định chúng ta sẽ thành công.
    Tôi xin kể ra đây một câu chuyện có tính hài hước, nhưng lại là sự thật, sự thật nói lên tình cảm truyền thống của nhân dân hai nước Việt Nam-Campuchia; đặc biệt là tấm lòng của người dân Campuchia vừa mới được giải phóng đối với bộ đội Việt Nam.
    Chuyện kể rằng: Có một đơn vị bộ đội Việt Nam trên đường hành quân qua một phum nhỏ: mùa khô trời nắng nóng, anh em hỏi dân làng: ?onước ở đâu??. Đồng bào ở đây không biết tiếng Việt Nam nên có nhiều người nói ?oÓt-che? (nghĩa là không biết). Anh em ta hỏi ở đâu cũng đều được trả lời như thế. Có mấy đồng chí hơi bực mình: ?oTức thật! Tức thật!?. Đồng bào nghe nói tiếng ?otức? (trong tiếng Campuchia nghĩa là nước), liền cho người đưa nước đến cho bộ đội. Nhưng ở đây, người thì đông mà nước lại rất hạn chế. Một anh lính quê khu tư nói một câu bâng quơ: ?oNgười ?ođôông? ra ri mà được từng nớc nác, thì ai uống ai nhịn đây!? (Tiếng phổ thông có nghĩa là: Người đông thế này mà được từng ấy nước thì ai uống ai nhịn đây). Đồng bào nghe bộ đội nói tiếng ?ođôông? (trong tiếng Campuchia ?ođôông? nghĩa là nước dừa), liền cho người lên hái dừa cho bộ đội. Mỗi gia đình mang đến mấy trái, cả thôn tập trung lại được số dừa xếp thành đống. Bộ đội ta cười hả hê, có anh chàng quê miền trong nói như tuyên bố: uống ?ochết? bỏ. Bà con ở đây nghe tiếng ?ochết? (tiếng Campuchia ?om?Tchếch? có nghĩa là chuối), tưởng bộ đội Việt Nam muốn ăn chuối, nên những buồng chuối chín lại được mang ra. Nhân dân vui mừng ngồi nhìn bộ đội Việt Nam ăn uống no nê như những đứa con xa về thăm cha mẹ vậy? Còn biết bao câu chuyện cảm động trước tấm lòng của odòng bào Campuchia dành cho bộ đội Việt Nam chúng ta trong những năm làm nhiệm vụ quốc tế trên đất nước chùa tháp này.
    Từ đây, trên chiến trường, mỗi đợt truy quét địch ngoài địa hình hoặc mỗi lần đi đến các phum, sóc làm công tác vận động quần chúng, bộ đội ta luôn sát cánh cùng bộ đội và nhân dân Campuchia cùng chiến đấu và công tác bên nhau. Đây là những biểu tuợng của mối liên minh chiến đấu Việt Nam-Campuchia; là hình ảnh ?oanh bộ đội *****? trong lòng quân và dân nước Bạn.
    Tôi nhớ, sau cuộc tổng tiến công, sư đoàn bộ binh 309 chúng tôi cơ động đến đóng quân và hoạt động trên địa bàn tỉnh Bát Tam Băng. Trong những ngày ấy, địch lùa dân chạy theo chúng vào rừng, nhiều người đã lả đi vì đói, vì khát, vì ốm đau, bệnh tật. Bộ đội ta vừa truy kích địch vừa khiêng cáng những người dân kiệt sức trở về phía sau, bón cháo cho từng người, tổ chức khám bệnh, cho thuốc, nhường cơm, sẻ áo cho họ trong lúc khó khăn. Có nhiều người dân cảm động quá, nói không nên lời: ?oBộ đội Việt Nam tốt quá, đã cứu nhân dân chúng tôi lần thứ 3. Chúng tôi nhớ ơn bộ đội Việt Nam suốt đời!?-Đó là câu nói thường gặp ở nhân dân Campuchia.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Bằng các hình thức ?otrá hàng?, trong những năm 1980, 1981, 1982 và đầu 1983 chúng đã thâm nhập vào nội địa Campuchia một lực lượng khá lớn và biến thành những phần tử ?ohai mặt? trong chính quyền và nhân dân Bạn. Đồng thời trong những năm đó, địch tăng cường đánh phá khắp nơi trên địa bàn Mặt trận 479.
    Trở lại với tình hình năm 1979, sau khi Quân đoàn 3 rút đi, sư đoàn bộ binh 309 đảm nhiệm khu vực Nam đường số 10, Quân đoàn 4 của ta đã đưa sư đoàn bộ binh 9 lên đứng chân và hoạt động ở khu vực phía Tây đường số 5, Ni-mít đi Pôi Pét, Sôphi.
    Trên hai tỉnh thuộc phạm vi hoạt động của Mặt trận 479 là tỉnh Xiêm Riệp và Bát Tam Băng, hiện tại đã có 5 sư đoàn bộ binh quân tình nguyện Việt Nam gồm: sư đoàn bộ binh 309, 317, 5 và 9 tại tỉnh Bát Tam Băng; sư đoàn bộ binh 302 đảm nhiệm phía Bắc tỉnh Xiêm Riệp và một phần tỉnh Prếch-vi-hia-nơi tiếp giáp với địa bàn thuộc trách nhiệm của Mặt trận 579.
    Về phía lực lượng vũ trang của Bạn, ngoài các tiểu đoàn bộ đội huyện, tỉnh, Bạn đã thành lập trên địa bàn này được 3 sư đoàn. Đó là sư đoàn bộ binh 196 (hoạt động tại huyện Pailin, chủ yếu khu vực Nam đường số 10) sư đoàn bộ binh 179 (hoạt động ở khu vực Đăng-cum, Ămpin, Pôi Pét, Sơ-vai-Chếch và Si-sô Phô-sau này là tỉnh Bần-tia Miên-chây), sư đoàn bộ binh 286 cùng với sư đoàn bộ binh 302 ta hoạt động ở khu vực Phnôm Cu-lên (núi Hồng), Chông-can, Ka-ra-lanh và dãy Đăng-rếch. Sau đó, Bạn còn thành lập thêm sư đoàn bộ binh 6, hoạt động tại khu vực Nam-sấp, Bua, Ămpin Prămđơm.
    Như vậy, trên phạm vi hai tỉnh đã có tới 9 đến 10 sư đoàn bộ binh và các tiểu đoàn, lữ đoàn, trung đoàn xe tăng, pháo binh và các lực lượng khác với hàng vạn người. Chúng ta đã giúp Bạn tổ chức các tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn bộ binh và các binh chủng. Cuối năm 1980 và sang năm 1981, các Bộ tư lệnh và cơ quan Khu vực cũng đã được hình thành và bước vào hoạt động. Mặt trận 479 giúp Bạn tổ chức và xây dựng cơ quan Khu vực 4 (sau này goi là Bộ tư lệnh Quân khu 4) do đồng chí Hun-Xà-von làm tư lệnh, đồng chí Song-sa-phiếp làm tham mưu trưởng và các đồng chí khác).
    Để tạp thắng lợi trong vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang giúp Bạn. Sở chỉ huy và cơ quan thuộc các đơn vị của Bạn được bố trí gần Sở chỉ huy và cơ quan cùng cấp của bộ đội Việt Nam.
    Bộ tư lệnh và cơ quan Khu vực 4 đóng bên cạnh Bộ tư lệnh và cơ quan Mặt trận 479 ở thị xã Xiêm Riệp; Sở chỉ huy và cơ quan sư đoàn bộ binh 196 được bố trí gần Sở chỉ huy và cơ quan sư đoàn bộ binh 309 của ta tại cua chữ ?oV? đường số 10. Sau khi tổ chức ra các đoàn chuyên gia quân sự thì các đoàn chuyên gia quân sự của ta được bố trí bê cạnh cơ quan các cấp của Bạn, như đoàn chuyên gia quân sự khu vực 4 được tổ chức vào đầu năm 1984-do đồng chí thiếu thướng Trần Văn Đối làm đoàn trưởng, đồng chí đai tá Hồ Đình Quỳ làm đoàn phó, chuyên gia tham mưu trưởng, đồng chí thiếu tướng Phùng Đình Ấm và đại tá Phan Cảnh làm trưởng, phó đoàn chuyên gia chính trị. Không những các đoàn chuyên gia quân sự và dân sự từ Quân khu xuống đến các tỉnh và thành phố được tổ chức một cách hoàn chỉnh, mà ngay từ cuối năm 1979 và đầu năm 1980, ta đã phái ra một đội ngũ cán bộ đông đảo, tổ chức ra các đội công tác len lỏi xuống những phum, xã ở các vùng sâu, vùng xa để giúp Bạn xây dựng cơ sở chính quyền và lực lượng vũ trang, giúp Bạn tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Nhà nước cách mạng Campuchia.
    Khi các sư đoàn chủ lực của Bạn được thành lập và lực lượng vũ trang địa phương được hình thành và phát triển, chúng ta đã kịp thời tổ chức hệ thống chuyên gia từ các sư đoàn xuống đến tận các đơn vị cơ sở. Các đoàn chuyên gia đóng bên cạnh Bộ tư lệnh khu vực 4 của Bạn; các đoàn chuyên gia cấp Tỉnh, cả về quân sự lẫn chính trị như đoàn 7704, 7705 được bố trí cạnh Uỷ ban Nhân dân và Bộ chỉ huy quân sự hai tỉnh Bát Tam Băng và Xiêm Riệp. Nêu lên vấn đề này để chứng tỏ rẳng Đảng, Nhà nước và quân đội ta rất quan tâm đến công tác giúp Bạn một cách toàn diện.
    Về công tác giúp Bạn xây dựng cơ sở chính quyền và lực lượng vũ trang địa phương lại càng khó khăn và phức tạp hơn. Bởi vì những người lãnh đạo chân chính, những chiến sĩ cách mạng, những nhà yêu nước đã bị chế độ độc tài Pol Pot thủ tiêu gần như hầu hết trong 2 năm cầm quyền. Mặt khác, trong cuộc tổng tiến công vừa qua, kẻ địch tan rã và trà trộn trong dân thành những phần tử hai mặt khống chế chính quyền non trẻ của Bạn. Nhân dân Campuchia tuy căm thù chúng nhưng trình độ dân trí còn thấp và luôn bị khống chế, đe dọa. Vì vậy mà khi tổ chức chính quyền cơ sở các cấp thì biết trao trách nhiệm cho ai. Vả lại, trong công tác vận động quần chúng của bộ đội ta cũng gặp không ít khó khăn do ngôn ngữ bất đồng. Song có một điều, chúng ta xác định rằng đại bộ phận nhân dân là tốt. Nếu khơi dậy được tinh thần dân tộc và mối quan hệ đoàn kết lâu đời giữa nhân dân hai nước thì nhất định chúng ta sẽ thành công.
    Tôi xin kể ra đây một câu chuyện có tính hài hước, nhưng lại là sự thật, sự thật nói lên tình cảm truyền thống của nhân dân hai nước Việt Nam-Campuchia; đặc biệt là tấm lòng của người dân Campuchia vừa mới được giải phóng đối với bộ đội Việt Nam.
    Chuyện kể rằng: Có một đơn vị bộ đội Việt Nam trên đường hành quân qua một phum nhỏ: mùa khô trời nắng nóng, anh em hỏi dân làng: ?onước ở đâu??. Đồng bào ở đây không biết tiếng Việt Nam nên có nhiều người nói ?oÓt-che? (nghĩa là không biết). Anh em ta hỏi ở đâu cũng đều được trả lời như thế. Có mấy đồng chí hơi bực mình: ?oTức thật! Tức thật!?. Đồng bào nghe nói tiếng ?otức? (trong tiếng Campuchia nghĩa là nước), liền cho người đưa nước đến cho bộ đội. Nhưng ở đây, người thì đông mà nước lại rất hạn chế. Một anh lính quê khu tư nói một câu bâng quơ: ?oNgười ?ođôông? ra ri mà được từng nớc nác, thì ai uống ai nhịn đây!? (Tiếng phổ thông có nghĩa là: Người đông thế này mà được từng ấy nước thì ai uống ai nhịn đây). Đồng bào nghe bộ đội nói tiếng ?ođôông? (trong tiếng Campuchia ?ođôông? nghĩa là nước dừa), liền cho người lên hái dừa cho bộ đội. Mỗi gia đình mang đến mấy trái, cả thôn tập trung lại được số dừa xếp thành đống. Bộ đội ta cười hả hê, có anh chàng quê miền trong nói như tuyên bố: uống ?ochết? bỏ. Bà con ở đây nghe tiếng ?ochết? (tiếng Campuchia ?om?Tchếch? có nghĩa là chuối), tưởng bộ đội Việt Nam muốn ăn chuối, nên những buồng chuối chín lại được mang ra. Nhân dân vui mừng ngồi nhìn bộ đội Việt Nam ăn uống no nê như những đứa con xa về thăm cha mẹ vậy? Còn biết bao câu chuyện cảm động trước tấm lòng của odòng bào Campuchia dành cho bộ đội Việt Nam chúng ta trong những năm làm nhiệm vụ quốc tế trên đất nước chùa tháp này.
    Từ đây, trên chiến trường, mỗi đợt truy quét địch ngoài địa hình hoặc mỗi lần đi đến các phum, sóc làm công tác vận động quần chúng, bộ đội ta luôn sát cánh cùng bộ đội và nhân dân Campuchia cùng chiến đấu và công tác bên nhau. Đây là những biểu tuợng của mối liên minh chiến đấu Việt Nam-Campuchia; là hình ảnh ?oanh bộ đội *****? trong lòng quân và dân nước Bạn.
    Tôi nhớ, sau cuộc tổng tiến công, sư đoàn bộ binh 309 chúng tôi cơ động đến đóng quân và hoạt động trên địa bàn tỉnh Bát Tam Băng. Trong những ngày ấy, địch lùa dân chạy theo chúng vào rừng, nhiều người đã lả đi vì đói, vì khát, vì ốm đau, bệnh tật. Bộ đội ta vừa truy kích địch vừa khiêng cáng những người dân kiệt sức trở về phía sau, bón cháo cho từng người, tổ chức khám bệnh, cho thuốc, nhường cơm, sẻ áo cho họ trong lúc khó khăn. Có nhiều người dân cảm động quá, nói không nên lời: ?oBộ đội Việt Nam tốt quá, đã cứu nhân dân chúng tôi lần thứ 3. Chúng tôi nhớ ơn bộ đội Việt Nam suốt đời!?-Đó là câu nói thường gặp ở nhân dân Campuchia.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Sau hai tháng thành lập Mặt trận 479, từ ngày 14 tháng 4 đến 14 tháng 6 năm 1979, trên phạm vi hai tỉnh Xiêm Riệp và Bát Tam Băng, ta đã giúp Bạn tổ chức học tập cho 14.921 người dân, xây dựng chính quyền hoàn chỉnh được 129 phum, 12 xã và một thị trấn (Sisôphôn) gồm 83.000 dân, xây dựng 339 du kích xã, lựa chọn được 1.153 du kích phum, 66 uỷ viên xã.
    Trên hướng của đoàn 72 (phiên hiệu của sư đoàn bộ binh 309 trong năm 1979-1980) đảm nhiệm đã tổ chức học tập cho 11.600 lượt người. Tổ chức chính quyền được 26 phum, 26 đội du kích (330 người), trng bị 130 súng; bầu được 52 uỷ viên phum: huyện Sầm Rông 20 phum, huyện Chông Can 6 phum.
    Đoàn 59 (phiên hiệu của sư đoàn bộ binh 302 trong năm 1979-1980) trên địa bàn tỉnh Bát Tam Băng đã củng cố 12 cơ quan xã, 113 phum, phát động nhân dân tố giác và bắt 74 tên địch, ra trình diện 174 tên khác.
    Đoàn 75 (phiên hiệu của sư đoàn bộ binh 5 trong năm 1979-1980) đã xây dựng được cơ quan ở 10 phum (xã Công Pông Soai được 7 phum), bầu được 14 uỷ viên, tổ chức học tập cho 3861 lượt người dân.
    Toàn tỉnh Xiêm Riệp có 92 xã, tính từ đầu giải phóng, ta đã xây dựng chính quyên được 33 xã. Tỉnh Bát Tam Băng có 101 xã, đã xây dựng được 14 xã.
    Tính chung trong hai năm 1979-1980, sư đoàn bộ binh 309 đã giúp nhân dân Bát Tam Băng 43 tấn lúa giống, 16.702 tấn gạo cứu đói, giúp nhân dân sản xuất 68.574 ha lúa, tặng 6.232 bộ quần áo, xây dựng và sửa chữa 62 trường học với 638 lớp, 6.070 trẻ em được đến trường. Cán bộ chiến sĩ của sư đoàn bộ binh 309 còn vận động, quyên góp được một số tiền đủ để mua sách vở cho các em đến trường, xây dựng được 32 trạm xá phum với 420 giường bệnh; đã khám và phát thuốc và điều trị cho 2.117 người. Ta đã thành lập ra 55 đội công tác. Phối hợp với 55 đội công tác là các tổ tự quản ở 9 xí nghiệp, nhà máy của Bạn. Các tổ chức quần chúng này đã sát cánh cùng chúng ta tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Mặt trận, giúp chính quyền, cơ sở hoạt động. Sư đoàn còn tổ chức, xây dựng và huấn luyện quân sự cho 3 tiểu đoàn, 8 đại đội bộ binh tỉnh, huyện. Nhiều đơn vị, cá nhân trong lực lượng vũ trang địa phương của Bạn trên địa bàn tỉnh Bát Tam Băng đã độc lập tác chiến, hoặc hợp đồng chiến đấu với ta đạt hiệu suất chiến đấu tốt cụ thể là:
    Đội du kích xã Xưa thuộc huyện Mông-côn Bô-rây, tỉnh Bát Tam Băng được thành lập tháng 6 năm 1979 có 20 người do đồng chí Út Sơn làm xã đội trưởng. Đội du kích này đã đánh 5 trận, diệt 6 tên địch, thu 178 súng. Có trận đã đánh lui nhiều đợt phản kích của địch đông gấp nhiều lần.
    Đội du kích xã Chòm Nom, cũng thuộc huyện Mông-côn Bô-rây có 30 người, do đồng chí Leng Loóc làm xã đội trưởng. Trong một tháng đội du kích đã đánh 4 trận-trong đó có 2 trận phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam, diệt 8 tên, bắt 45 tên (có 3 tên chỉ huy), thu 16 súng.
    Đội du kích xã Lô-via cũng thuộc Mông-côn Bô-rây, có 25 người, do đồng chí Sơn Pon làm xã đội trưởng, đã đánh một số trận, diệt 5 tên, bắt 16 tên, thu 37 súng.
    Đội du kích xã Chang Ha, huyện Sisôphôn diệt 5 tên, bắt 3 tên thu 3 súng.
    Hoặc là đội du kích xã Sơ-rai Ch-năng, ngày 23 tháng 7 đã đánh lui một lực lượng địch khoảng 70 tên, có cối 82 mm và 12,7 mm yểm trợ tấn công vào một phum, đội du kích xã này đã diệt được 5 tên, bắn bị thương 5 tên khác, thu 1 khẩu AK và bảo vệ được nhân dân ở đây, và còn nhiều đội du kích các xã khác thuộc địa bàn tỉnh Bát Tam Băng đều đã đánh được địch, bảo vệ được cơ sở chính quyền cách mạng và nhân dân địa phương.
    Đặc biệt là đại đội 131, bộ đội tỉnh Bát Tam Băng, trong mùa khô 1979, 1980 đã đánh 15 trận, diệt 79 tên địch, bắt 58 tên, thu 27 súng, 5 lựu đạn. Đại đội đã tổ chức tuyên truyền các chính sách của mặt trận được 16 buổi cho nhân dân, đưa được 20700 người về quê cũ làm ăn.
    Trong phong trào hành động cách mạng đã xuất hiện nhiều gương chiến đấu dũng cảm, tận tuỵ với công việc được giao, được nhân dân tin tưởng; như đồng chí Sóc Long, trợ lý tham mưu của tiểu đoàn 18 bộ đội tỉnh, trong một trận, một mình đồng chí đã diệt được 6 tên địch; đồng chí Sóc Đen, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 18 luôn luôn gương mẫu trong công tác, dũng cảm trong chiến đấu. Trong trận đánh ngày 20-7-1979, đồng chí đã chỉ huy tiểu đoàn diệt được nhiều địch. Riêng đồng chí đã diệt được một tên, thu 1 súng, sau đó đồng chí bị hy sinh. Hoặc là các đồng chí Mi Khương, cán bộ đại đội 113 gan dạ, dũng cảm, diệt 10 tên, thu 10 súng; đồng chí Non Chăn Rên, đại đội phó đại đội 133 đã diệt được 2 tên, bắt 8 tên, thu 2 súng? và còn rất nhiều, rất nhiều đồng chí cán bộ, chiến sĩ khác thuộc các đại đội 131, 133, 134, 135? đã lập được thành tích trong chiến đấu và công tác.
    Được sự giúp đỡ tận tình của các đơn vị thuộc sư đoàn bộ binh 309 quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia Việt Nam trong năm 1979 và 1980 trên địa bàn tỉnh Bát Tam Băng đã có 9 đội du kích xã, 5 đại đội, 1 tiểu đoàn bộ đội tỉnh và gần 100 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tỉnh Bát Tam Băng được khen thưởng.
    Không chỉ có lực lượng vũ trang các tỉnh Bát Tam Băng đã hoạt động tốt, có hiệu quả, mà trên địa bàn tỉnh Xiêm Riệp cũng có nhiều tập thể và cá nhân tiêu biểu trong phong trào hành động cách mạng. Đội du kích xã Pơ-rây-chơ-rúc thuộc huyện Puốc đã chiến đấu nhiều trận diệt được địch, thu được vũ khí, nội bộ đoàn kết, tích cực trong công tác vận động quần chúng, bảo vệ được Chính quyền cách mạng. Đội du kích xã Soxaddan cũng thuộc huyện Puốc, có nhiều thành tích trong chiến đấu và công tác, phối hợp với quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hoạt động có hiệu quả, và gần 50 đồng chí cán bộ, chiến sĩ thuộc các đội du kích xã và tiểu đoàn 6, 8 Đông Bắc địa phương tỉnh Xiêm Riệp cũng đã được khen thưởng.
    Sau này, các đơn vị đã trưởng thành, phát triển lên thành những đơn vị chủ lực mạnh trong lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia.
    Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố, chống phá đến cùng của địch, được sự tiếp tay của các thế lực bên ngoài, với âm mưu kéo dài cuộc chiến tranh du kích, tiêu hao lực lượng vũ trang ta và Bạn, hòng lật lại thế cờ, chuyển từ chiến lược cầm cự sang chiến lược phản công và tiến công, với hy vọng nhằm quốc tế hoá vấn đề Campuchia. Trên địa bàn tỉnh Bát Tam Băng lúc bấy giờ, địch tập trung được một lực lượng đáng kể. Trong cuộc chiến tranh giành dân, chúng đã mua chuộc, hù dọa, lôi kéo lên vùng biên giới giữa Campuchia-Thái Lan, thành lập ra các cái gọi là trại tị nạn; nhưng thực chất là để bắt lính, bổ sung cho các đơn vị goi là trung đoàn, sư đoàn của chúng, và lợi dụng ?otrại tị nạn? để nhận viện trợ từ bên ngoài, rồi bắt nhân dân vận chuyển vũ khí vào nội địa để cung cấp cho bọn ********* chống phá ta và Bạn lâu dài.
    Từ cuối năm 1980 trở đi, chỉ trên hướng chính diện khoảng 50-60 km vùng biên giới tỉnh Bát Tam Băng, từ Phnôm Mê Lai xuống đến Nam thị trấn Pailin, chúng đã xây dựng được 5 căn cứ, với hàng vạn dân, gồm: căn cứ Cao Mê Lai, Sơ-đa, bắc Ô-đa, Com Riêng, Tà Sanh-Sầm Lốt. Riên căn cứ Cao Mê Lai, cuối năm 1979, sư đoàn bộ binh 309 bàn giao lại cho sư đoàn bộ binh 5 chốt giữ. Nhiều lần địch tấn công, gây sức ép, ta và địch giành đi, giật lại mấy lần, nhưng cuối cùng địch đã chiếm lại được. Nơi đây là văn phòng Trung ương 3 phái Campuchia ********* lập ra để quan hệ với một số nước bên ngoài và kéo dài cuộc chiến tranh. Chúng đã tổ chức và khôi phục lại các đấu sư đoàn, như sư đoàn bộ binh 320 có các căn cứ ở Sơ-đa-Ô-đa, sư đoàn bộ binh 415 ở Com-Riêng-Pailin, sư đoàn bộ binh 221 ở Tà Sanh-Sầm Lốt, sư đoàn bộ binh 519 ở Đăng-cum và các đơn vị khác.
    Từ những căn cứ này, chúng thiết lập ra các hành lang vận chuyển chủ yếu là vũ khí, đạn được, mìn vào sâu trong nội địa, đến Biển Hồ. Còn lương thực thì chúng bắt ép dân ở trong nội địa cung cấp. Các hành lang này, địch thường lợi dụng sơ hở của ta ở những nơi tiếp giáp giữa 2 đơn vị, như hành lang Nam Phnôm Mê Lai-là nơi tiếp giáp giữa sư đoàn bộ binh 5 và sư đoàn bộ binh 309. Hoặc ở cả những nơi tiếp giáp giữa các trung đoàn trong một sư đoàn. Tình trạng này còn kéo dài mãi đến mùa khô năm 1984.
    Ngoài những căn cứ trên tuyến biên giới phía Tây tỉnh Bát Tam Băng, phía Bắc, Đông Bắc Sisôphôn (như Đăng-cum, Ămpin) và các nơi khác, địch còn thiết lập các căn cứ lõm trong nội địa, nhất là xung quanh Biển Hồ.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Sau hai tháng thành lập Mặt trận 479, từ ngày 14 tháng 4 đến 14 tháng 6 năm 1979, trên phạm vi hai tỉnh Xiêm Riệp và Bát Tam Băng, ta đã giúp Bạn tổ chức học tập cho 14.921 người dân, xây dựng chính quyền hoàn chỉnh được 129 phum, 12 xã và một thị trấn (Sisôphôn) gồm 83.000 dân, xây dựng 339 du kích xã, lựa chọn được 1.153 du kích phum, 66 uỷ viên xã.
    Trên hướng của đoàn 72 (phiên hiệu của sư đoàn bộ binh 309 trong năm 1979-1980) đảm nhiệm đã tổ chức học tập cho 11.600 lượt người. Tổ chức chính quyền được 26 phum, 26 đội du kích (330 người), trng bị 130 súng; bầu được 52 uỷ viên phum: huyện Sầm Rông 20 phum, huyện Chông Can 6 phum.
    Đoàn 59 (phiên hiệu của sư đoàn bộ binh 302 trong năm 1979-1980) trên địa bàn tỉnh Bát Tam Băng đã củng cố 12 cơ quan xã, 113 phum, phát động nhân dân tố giác và bắt 74 tên địch, ra trình diện 174 tên khác.
    Đoàn 75 (phiên hiệu của sư đoàn bộ binh 5 trong năm 1979-1980) đã xây dựng được cơ quan ở 10 phum (xã Công Pông Soai được 7 phum), bầu được 14 uỷ viên, tổ chức học tập cho 3861 lượt người dân.
    Toàn tỉnh Xiêm Riệp có 92 xã, tính từ đầu giải phóng, ta đã xây dựng chính quyên được 33 xã. Tỉnh Bát Tam Băng có 101 xã, đã xây dựng được 14 xã.
    Tính chung trong hai năm 1979-1980, sư đoàn bộ binh 309 đã giúp nhân dân Bát Tam Băng 43 tấn lúa giống, 16.702 tấn gạo cứu đói, giúp nhân dân sản xuất 68.574 ha lúa, tặng 6.232 bộ quần áo, xây dựng và sửa chữa 62 trường học với 638 lớp, 6.070 trẻ em được đến trường. Cán bộ chiến sĩ của sư đoàn bộ binh 309 còn vận động, quyên góp được một số tiền đủ để mua sách vở cho các em đến trường, xây dựng được 32 trạm xá phum với 420 giường bệnh; đã khám và phát thuốc và điều trị cho 2.117 người. Ta đã thành lập ra 55 đội công tác. Phối hợp với 55 đội công tác là các tổ tự quản ở 9 xí nghiệp, nhà máy của Bạn. Các tổ chức quần chúng này đã sát cánh cùng chúng ta tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Mặt trận, giúp chính quyền, cơ sở hoạt động. Sư đoàn còn tổ chức, xây dựng và huấn luyện quân sự cho 3 tiểu đoàn, 8 đại đội bộ binh tỉnh, huyện. Nhiều đơn vị, cá nhân trong lực lượng vũ trang địa phương của Bạn trên địa bàn tỉnh Bát Tam Băng đã độc lập tác chiến, hoặc hợp đồng chiến đấu với ta đạt hiệu suất chiến đấu tốt cụ thể là:
    Đội du kích xã Xưa thuộc huyện Mông-côn Bô-rây, tỉnh Bát Tam Băng được thành lập tháng 6 năm 1979 có 20 người do đồng chí Út Sơn làm xã đội trưởng. Đội du kích này đã đánh 5 trận, diệt 6 tên địch, thu 178 súng. Có trận đã đánh lui nhiều đợt phản kích của địch đông gấp nhiều lần.
    Đội du kích xã Chòm Nom, cũng thuộc huyện Mông-côn Bô-rây có 30 người, do đồng chí Leng Loóc làm xã đội trưởng. Trong một tháng đội du kích đã đánh 4 trận-trong đó có 2 trận phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam, diệt 8 tên, bắt 45 tên (có 3 tên chỉ huy), thu 16 súng.
    Đội du kích xã Lô-via cũng thuộc Mông-côn Bô-rây, có 25 người, do đồng chí Sơn Pon làm xã đội trưởng, đã đánh một số trận, diệt 5 tên, bắt 16 tên, thu 37 súng.
    Đội du kích xã Chang Ha, huyện Sisôphôn diệt 5 tên, bắt 3 tên thu 3 súng.
    Hoặc là đội du kích xã Sơ-rai Ch-năng, ngày 23 tháng 7 đã đánh lui một lực lượng địch khoảng 70 tên, có cối 82 mm và 12,7 mm yểm trợ tấn công vào một phum, đội du kích xã này đã diệt được 5 tên, bắn bị thương 5 tên khác, thu 1 khẩu AK và bảo vệ được nhân dân ở đây, và còn nhiều đội du kích các xã khác thuộc địa bàn tỉnh Bát Tam Băng đều đã đánh được địch, bảo vệ được cơ sở chính quyền cách mạng và nhân dân địa phương.
    Đặc biệt là đại đội 131, bộ đội tỉnh Bát Tam Băng, trong mùa khô 1979, 1980 đã đánh 15 trận, diệt 79 tên địch, bắt 58 tên, thu 27 súng, 5 lựu đạn. Đại đội đã tổ chức tuyên truyền các chính sách của mặt trận được 16 buổi cho nhân dân, đưa được 20700 người về quê cũ làm ăn.
    Trong phong trào hành động cách mạng đã xuất hiện nhiều gương chiến đấu dũng cảm, tận tuỵ với công việc được giao, được nhân dân tin tưởng; như đồng chí Sóc Long, trợ lý tham mưu của tiểu đoàn 18 bộ đội tỉnh, trong một trận, một mình đồng chí đã diệt được 6 tên địch; đồng chí Sóc Đen, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 18 luôn luôn gương mẫu trong công tác, dũng cảm trong chiến đấu. Trong trận đánh ngày 20-7-1979, đồng chí đã chỉ huy tiểu đoàn diệt được nhiều địch. Riêng đồng chí đã diệt được một tên, thu 1 súng, sau đó đồng chí bị hy sinh. Hoặc là các đồng chí Mi Khương, cán bộ đại đội 113 gan dạ, dũng cảm, diệt 10 tên, thu 10 súng; đồng chí Non Chăn Rên, đại đội phó đại đội 133 đã diệt được 2 tên, bắt 8 tên, thu 2 súng? và còn rất nhiều, rất nhiều đồng chí cán bộ, chiến sĩ khác thuộc các đại đội 131, 133, 134, 135? đã lập được thành tích trong chiến đấu và công tác.
    Được sự giúp đỡ tận tình của các đơn vị thuộc sư đoàn bộ binh 309 quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia Việt Nam trong năm 1979 và 1980 trên địa bàn tỉnh Bát Tam Băng đã có 9 đội du kích xã, 5 đại đội, 1 tiểu đoàn bộ đội tỉnh và gần 100 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tỉnh Bát Tam Băng được khen thưởng.
    Không chỉ có lực lượng vũ trang các tỉnh Bát Tam Băng đã hoạt động tốt, có hiệu quả, mà trên địa bàn tỉnh Xiêm Riệp cũng có nhiều tập thể và cá nhân tiêu biểu trong phong trào hành động cách mạng. Đội du kích xã Pơ-rây-chơ-rúc thuộc huyện Puốc đã chiến đấu nhiều trận diệt được địch, thu được vũ khí, nội bộ đoàn kết, tích cực trong công tác vận động quần chúng, bảo vệ được Chính quyền cách mạng. Đội du kích xã Soxaddan cũng thuộc huyện Puốc, có nhiều thành tích trong chiến đấu và công tác, phối hợp với quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hoạt động có hiệu quả, và gần 50 đồng chí cán bộ, chiến sĩ thuộc các đội du kích xã và tiểu đoàn 6, 8 Đông Bắc địa phương tỉnh Xiêm Riệp cũng đã được khen thưởng.
    Sau này, các đơn vị đã trưởng thành, phát triển lên thành những đơn vị chủ lực mạnh trong lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia.
    Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố, chống phá đến cùng của địch, được sự tiếp tay của các thế lực bên ngoài, với âm mưu kéo dài cuộc chiến tranh du kích, tiêu hao lực lượng vũ trang ta và Bạn, hòng lật lại thế cờ, chuyển từ chiến lược cầm cự sang chiến lược phản công và tiến công, với hy vọng nhằm quốc tế hoá vấn đề Campuchia. Trên địa bàn tỉnh Bát Tam Băng lúc bấy giờ, địch tập trung được một lực lượng đáng kể. Trong cuộc chiến tranh giành dân, chúng đã mua chuộc, hù dọa, lôi kéo lên vùng biên giới giữa Campuchia-Thái Lan, thành lập ra các cái gọi là trại tị nạn; nhưng thực chất là để bắt lính, bổ sung cho các đơn vị goi là trung đoàn, sư đoàn của chúng, và lợi dụng ?otrại tị nạn? để nhận viện trợ từ bên ngoài, rồi bắt nhân dân vận chuyển vũ khí vào nội địa để cung cấp cho bọn ********* chống phá ta và Bạn lâu dài.
    Từ cuối năm 1980 trở đi, chỉ trên hướng chính diện khoảng 50-60 km vùng biên giới tỉnh Bát Tam Băng, từ Phnôm Mê Lai xuống đến Nam thị trấn Pailin, chúng đã xây dựng được 5 căn cứ, với hàng vạn dân, gồm: căn cứ Cao Mê Lai, Sơ-đa, bắc Ô-đa, Com Riêng, Tà Sanh-Sầm Lốt. Riên căn cứ Cao Mê Lai, cuối năm 1979, sư đoàn bộ binh 309 bàn giao lại cho sư đoàn bộ binh 5 chốt giữ. Nhiều lần địch tấn công, gây sức ép, ta và địch giành đi, giật lại mấy lần, nhưng cuối cùng địch đã chiếm lại được. Nơi đây là văn phòng Trung ương 3 phái Campuchia ********* lập ra để quan hệ với một số nước bên ngoài và kéo dài cuộc chiến tranh. Chúng đã tổ chức và khôi phục lại các đấu sư đoàn, như sư đoàn bộ binh 320 có các căn cứ ở Sơ-đa-Ô-đa, sư đoàn bộ binh 415 ở Com-Riêng-Pailin, sư đoàn bộ binh 221 ở Tà Sanh-Sầm Lốt, sư đoàn bộ binh 519 ở Đăng-cum và các đơn vị khác.
    Từ những căn cứ này, chúng thiết lập ra các hành lang vận chuyển chủ yếu là vũ khí, đạn được, mìn vào sâu trong nội địa, đến Biển Hồ. Còn lương thực thì chúng bắt ép dân ở trong nội địa cung cấp. Các hành lang này, địch thường lợi dụng sơ hở của ta ở những nơi tiếp giáp giữa 2 đơn vị, như hành lang Nam Phnôm Mê Lai-là nơi tiếp giáp giữa sư đoàn bộ binh 5 và sư đoàn bộ binh 309. Hoặc ở cả những nơi tiếp giáp giữa các trung đoàn trong một sư đoàn. Tình trạng này còn kéo dài mãi đến mùa khô năm 1984.
    Ngoài những căn cứ trên tuyến biên giới phía Tây tỉnh Bát Tam Băng, phía Bắc, Đông Bắc Sisôphôn (như Đăng-cum, Ămpin) và các nơi khác, địch còn thiết lập các căn cứ lõm trong nội địa, nhất là xung quanh Biển Hồ.

Chia sẻ trang này