1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trên biên giới Tây Nam và tiêu diệt bọn diệt chủng Pol Pot

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi ptlinh, 06/10/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đêm đã xuống, nhanh thế. Trăng hiện qua một lớp sương mỏng, bạc và dịu. Tưởng ánh trăng và đêm có thể làm nguôi cơn khát, nhưng không. Cổ càng khô quánh. Thằng Thiệt hết muốn nói. Nó nằm ngửa thở phì phò.
    ĐK địch vẫn bắn. Nó chọc vào mấy khẩu 82 đang tập trung khu hoả điểm dưới sườn.
    Tiếng ông Bảy Hử:
    -Tản ra, củng cố thêm công sự. Trụ lại, chờ đưa thêm hoả lực và bộc phá lên đánh tiếp.
    Thằng Thiệt rút xẻng. Hắn xúc hai lát rồi bỏ xuống. Hừ, có còn là cánh tay nữa đâu. Mềm quá bã đậu! Nó nói một mình rồi quay sang em:
    -Kệ, ta thử đi tìm nước đi. Mấy ông trinh sát gà mờ sợ ĐK không dâm mò vào đúng chỗ cũ, chứ cái quái gì lại không có nước.
    Nó quay sang phải nói với An, tiểu đội trưởng:
    -Tôi với thằng Thà đi tìm nước nhé. Bộc phá mà khuân lên đây cũng là khuya.
    Em cũng khát như nó, e rằng, còn khát hơn cả nó. Nhưng em nhát. Em lắc đầu.
    -Ông Bảy Hử-chúng tôi thường gọi tiểu đoàn trưởng chúng tôi như vậy, vì điều gì ông không đồng ý là ông hử, ông mà đã bực mình là ông hử luôn chục tiếng, anh lính nào cũng xanh mặt-ổng mà tóm được thì chết?
    -Thế ở đây chịu khát à? Không chừng lại lập công đấy chứ. Tớ mà tìm được nước thì ông Bảy không hử lấy một hử, còn vồ tớ, xốc tớ lên, hôn đùn đụt, thưởng phép, gởi giấy về gia đình nữa.
    Thiệt quay sang An:
    -Hai đứa tôi đi nhé. Bình tông ông đâu, đưa thêm đây? này, đi?
    Thế là chúng em lén đi.
    Em và Thiệt đi sâu mãi về phía cụm rừng xanh, men theo một con suối.
    Mùa khô nắng đã đun cạn hết nước suối. Hoạ hoằn giữa lòng suối còn sót lại một vũng nước. Một vũng nước đọng. Lá cây ven suối rơi xuống tụ dưới đáy suối mùa khô nát thối. Mùi nước hôi nồng nặc, rửa tay, sau một buổi vẫn còn ngửi thấy mùi thối. Nhưng những anh em trinh sát, những chiến sĩ đi phục, những người lính vận tải đường xa, và bây giờ là chúng em trong mùa khô khắc nghiệt vẫn hằng ước ao được may mắn bắt gặp và uống thứ nước đọng ấy.
    Mỗi lần gặp nhau như vậy, người ta reo: nước: Người tháo bình tông, người chuẩn bị khăn mặt. Hằng mấy tiểu đội sẵn sàng cởi tuột áo quần lấy mũ cứng làm gàu ập đến chen nau múc giội tới tấp lên đầu lên cổ, vừa kỳ cọ vừa nhăn mũi: Thơm quá, thơm quá!
    -Cứ được một vũng nước bằng bàn tay là đạt yêu cầu rồi! Thiệt vừa rạp người đi vừa nói.
    Lâu lâu, sợ em nóng lòng rủ về, Thiệt lại khích lệ:
    -Không chừng ở dưới này một tẹo có nước. Đây này? chỗ này mới cạn sạch cách đây đôi ngày, đất hình như còn ẩm.
    Cứ thế, cái khát và một ao ước mơ hồ đẩy chúng em. Một con mễn chạy qua, một quả mìn nổ phía trước. Tiềng mìn đạp nổ cũng đanh như tiếng ĐK.
    -ĐK hay mìn hở Thà? Thiệt hỏi.
    -Có lẽ mìn. Em nói.
    Em thấy rờn rợn. Dưới mặt đất kia, bây giờ đã trở nên mát dịu đang ẩn náu đâu đây những kẻ thù bí mật. Em nói nhỏ với Thiệt, tựa như sợ bọn thù bí mật kia có thể nghe:
    -Thôi ta về, không kiếm được đâu. Gặp mìn nguy hiểm.
    Thiệt gàn, đầy tự tin:
    -Thằng địch gài mìn ở đây là bẫy chúng mình đi tìm nước đấy. Vậy thì chắc là có nước. Có mìn thì ta gỡ ta đi chớ, sợ gì!
    Một con thú lại chạy hoảng qua. Một tiếng mìn nữa nổ. Em khẩn khoảng:
    -Thôi, Thiệt à. Chụ khát còn hơn. Mà hình như đã khuya lắm.
    Em nghĩ đến đơn vị. Em nghĩ đến trận đánh tiếp cả tiểu đoàn đang hì hục sửa soạn. Tiểu đội trưởng An chắc đang hớt hải chờ hai đứa. Không biết anh ta sẽ báo cáo thế nào với trung đội.
    Em định bước một bước. Nhưng tự nghĩ: không chừng dọc lòng suối mình đi qua cũng có mìn, em bảo Thiệt:
    -Mình mệt quá, dù có đi hay trở về, cũng ngồi xuống đây nghỉ đã.
    Theo thói quen của người lính ở chiến trường khắc nghiệt này, em lấy tay dò mìn. Năm ngón tay với vào lòng suối. Lòng suối lạn cạn cuộn pha cát. Có lẽ những lớp cát bồi che giấu dưới bụng bó những quả mìn đạp. Em nghĩ vậy và ráng đào. Ôi, một quả mìn thật.
    -Có mìn, Thiệt ơi.
    -Thế ư?
    -Ừ? Nó đáp gọn và cúi xuống rà.
    Thiệt bỗng vớ được một quả mìn. Nó đưa quả mìn dứ dứ về phía em rồi ngồi bịch xuống.
    Đêm qua lúc nào không biết. Tiếng súng thưa dần rồi im hẳn. Cả tiếng ĐK của địch trên sườn Đăng-rếch cũng vậy. Hay là họ đã rút?
    Sau này trong bao nhiêu nguyên nhân vì sao ta cần ngừng tấn công, có một nguyên nhân em được biết: súng đang còn, đạn đang còn, và người cũng đang còn, nhưng không còn nước, cho nên chỉ còn những con người mệt lả, không lê vững đôi chân mỏi nhừ, và bởi thế cũng không đủ sức chạy lên chạy xuống đánh tiếp những quả bộc phá sào dài ngoằn và nặng trịch. Lui quân đi chưa toàn thắng là điều mà người ra trận không một ai muốn. Nhưng người chỉ huy của chúng em hôm ấy đã cho lui quân, và cho lui quân hôm ấy là đúng.
    Thế là hai đứa em ở lại một mình dưới chân Đăng-rếch, giữa lòng suối mà Thiệt đặt hết ao ước với một bãi mìn dày lẩn khuất quanh quẩn vây lấy chân.
    Chúng em lết từng bước vừa đi vừa rà mìn, vừa đi vừa nghe ngóng địch. Có tiếng súng con của chúng ở vị trí chỉ huy của ông Bảy Hử ngày hôm qua. Chúng em quay tìm đường khác. Ba ngày như thế. Khi không thể cất nổi chân, chúng em ngồi lại đầu óc trống không, ngực nóng như cả mặt trời lửa đặt vào đó, bụng thở thoi thóp, cổ đắng, cố ứa ra một tí nước bọt, nhưng làm gì có được của quý ấy.
    Lúc đơn vị tìm thấy chúng em, tiểu đội trưởng An nói lại, thân thể chúng em mềm và nóng hâm hấp như hai trái chuối luộc. Hai ngày sau vẫn không nói ra tiếng. Lưỡi tụt đi đâu mất.
    Tôi nói với chị Sáu:
    -Chị ạ, trận đánh vào sào huyệt bọn Pol Pot vừa rồi tôi có được đến đơn vị Thà. Bảy Hử đã làm trung đoàn phó. Anh dẫn tôi đi chơi thăm anh em. Thà làm tiểu đội trưởng thay An đi học. Còn Thiệt, trung đội phó quyền trung đội trưởng, da ngăm hơn trước, anh đã tự nhận như thế, miệng liến thoắng, đôi mắt vẫn mở to như ngờ ngệch.
    Bảy Hử chỉ tay về phía Thiệt:
    -Bố mẹ đẻ anh ta cái miệng ra trước, nhưng lại không biết khóc. Bà đỡ bợp cho một cái, anh ta thét đủ bảy ngày bảy đêm, nên bây giờ cái miệng rộng đến mang tai.
    Thiệt đang tập hợp trung đội để kiểm tra khối lượng mang vác từng chiến sĩ.
    -Ông Yên? Súng 7 cân này, xẻng 1 cân rưỡi này, đạn 4 cân này, gạo sấy lương khô 3 cân này, sao lại đến 35 cân? À, tham ô nước.
    Anh chiến sĩ này đã lấy các bao đựng đạn B40 cũ cho nước vào dán lại, bỏ và ruột nghé để mang thêm ngoài tiêu chuẩn 6 lít một người.
    -Ông Văn? 36 cân. Quái nhỉ! Lại tham ô nước? Cái gì đây? Đào đâu ra mấy cái ống nhựa này? Phổ biến rồi mà không chịu quán triệt. Đoàn sẽ tổ chức hai trạm bơm. Sẽ bơm từ hậu cứ rồi tải theo đường quân sự làm gấp. 100 cây số có nghĩa lý gì, đưa nước đến vị trí tập kết 1. Ở đó hậu cần đã lót sẵn những túi ni lông lớn dùng làm bể tạm thời, nước sẽ chứa vào đấy. Vận tải và một phần ba quân số của tiểu đoàn, nghĩa là tất cả đại đội dự bị sẽ áp nước theo chúng. Ngoài mỗi người 6 lít tự mang, chúng ta có một triệu lít nữa. Thế mà không tin. ?oThủ trưởng ơi-Thiệt quay lại nói với Bảy Hử, lễ xuất quân chiều nay đề nghị trên cho dàn toàn bộ đội hình vận tải nước với toàn bộ dụng cụ, khí tài, cái ?oBinh chủng đặc nhiệm của mùa khô? này quan trọng lắm??
    Sau khi kiểm tra xong, có lệnh cho trung đội giải tán, tôi giữ Thiệt và Thà ở lại nói chuyện chơi. Tôi đùa:
    -Nè, qua trận khát năm ngoái cuối cùng Thiệt nhận ra ông Thần Khát được biểu tượng thế nào?
    Thà cướp lời:
    -Nhất định phải là một ông thần tụt lưỡi, toàn thân mềm và nóng như chuối hấp.
    Thiệt hứ một tiếng, mím đôi môi hóm:
    -Chớ khiêu khích? Trải qua cái trận chết khát đó mà cũng nghĩ ra được lắm cái hay.
    -Thế à, nói cho tôi nghe với nào.
    -Qua trận khát ấy, em cứ nghĩ các nhà khoa học thật tài. Này nhé? Họ nói rằng giữa sự sống và cái chết có một trạng thái trung gian, nghĩa là có một quãng thời gian trong đó sự sống không còn nữa nhưng cái chết cũng chưa đến? Giỏi thật. Em cứ nghiên cứu mãi hôm đó không biết em đã ở trong trạng thái trung gian ấy chưa? Có thể rồi, vì em cảm thấy tim không đập nữa, ngực không thở nữa, chân tay không cựa quậy nữa. Nhưng cũng có thể là chưa. Vì em cứ còn đang mơ.
    -Lại xạo rồi. Thà cười.
    -Không, thật đấy.
    Tôi hỏi:
    -Thế lúc ấy mơ thấy gì nào?
    -Mơ thấy lửa đang táp cháy cả người em bỗng vụt tắt. Quanh em nhân dân trong phum quây quần làm lễ chúc phước. Các cô gái té nước ướt đẫm mình mẩy. Em hét: coi chừng ướt liều phóng B40, coi chừng ướt gạo sấy, gạo sấy giao tôi mang mà nở phình ra thì cả đại đội tập trung lại ăn không hết đấy. Chẳng ai thèm để ý đến lời em. Họ vẫn té nước ào ào. Nước chảy mát rượi qua đầu, qua mắt, qua hai gò má, qua mũi, em hơi sặc một chút, rồi qua môi, qua ngực, qua bụng, chảy trên những bắp thịt cánh tay và đôi chân trần mệt mỏi. Em chẳng uống một giọt nào.
    Lát sau, một bà mẹ Campuchia đến, bà mẹ cao lớn lạ thường. Trên vai bà một chiếc đòn gánh khổng lồ. Bà quẩy một đôi thúng lớn, to gấp mấy chục lần cái khoanh thuyền của quân khu ấy. Tay phải của bà đặt lên mấu đòn gánh, ở đấy em thấy hiện lên ngôi đền Prết-hi-via. Tay trái bà đong đưa, như mẹ em quẩy nước giếng ở nhà. Bà đi học theo triền Đăng-rếch. Qua mỗi đoạn bà lại nâng đôi thúng, trút nước xuống. Nước chảy trên những tảng đá mái nhà, mài nhẵn nó, xoáy vào đất, làm thành những con suối. Bà nói: Từ nay suối ơi, mày giữ nước trong lòng mày mãi chớ để nước cạn.
    Em nghe bà nói, em mừng quá em reo: Mẹ ơi! Mẹ ơi! Con là coong-tóp (tiếng Campuchia nghĩa là bộ đội) Việt Nam sang đây đánh Pol Pot giúp dân, đi đánh trận hết nước, khát quá, mẹ cho con một hớp!
    Bà mẹ Campuchia lấy tay hất tấm khăn Cà-ma trên đầu. Bà nói: Con! Thương con quá! Con chịu khổ, chịu cực, chịu khát? bà mẹ vục một ống nước nữa vào thúng đưa cho em. Em uống một hơi, ôi, nước thốt nốt, ngọt ơi là ngọt.
    Em định gào: Mẹ ơi, cho con một ống nữa thì có tiếng đập vào người. Mở mắt ra, thấy ông An tiểu đội trưởng và anh em trung đội đi tìm.
    Em nhắm nghiền mắt. Em gào, em lại mơ tiếp: Biển Hồ ơi! Biển Hồ hiện ra, dềnh dàng, lắc lư như một mảng trời màu cánh sen đưa võng trước mắt em. Em vội vàng nói: Biển Hồ ơi, người ta bảo ước gì Biển Hồ là đôi mắt em để anh bơi, còn tôi, tôi ước gì đôi mắt em là Biển Hồ để tôi uống?
    Đám chiến sĩ vẫn còn vây quanh chúng tôi cười ầm ầm muốn tốc cả mái tranh.
    Thế đấy, sáng hôm sau họ lên đường. Các tiểu đoàn lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia và các đơn vị quân tình nguyện sát bên nhau. Tổ quố, hai Đất nước và Đời mãi mãi ghi lại hình dáng người lính khi lên đường. Trên vai chất đủ thứ: súng đạn, áo quần, lương khô, gạo sấy, võng tăng, dây trói tù binh, xẻng và nước. Bên lưng một bình tông nước, trước ngực một bình tông nước và sau lưng một can nước nữa. Đầu hơi lao về trước, trán nhô tới, chân bước chậm và chắc. Tôi nghe rõ tiếng Thiệt đùa:
    -Các cậu ơi, người ta nói mùa khô ở đất nước bạn chỉ có ba nơi có nước: Biển Hồ, cây thốt nốt và vú sữa người mẹ. Bỗng mùa khô năm nay có một dòng suối vĩ đại, dòng suối trong vắt ấy chảy trên vai người lính, ngược lên triền Đăng-rếch, nhận chìm tất cả bọn Pol Pot.
    Thiệt lấy điệu đưa tay vừa vuốt ve chiếc bình tông 5 lít lủng lẳng trước ngực vừa nói: Tổ quốc ở bên cạnh thế này sao lại không chiến thắng.
    Tôi nghe rõ tiếng cười khúc khích của Thà và từng chuỗi cười hồn nhiên, sảng khoái của lớp lớp lính trẻ.
    Thắng trận xong, tôi gắng leo lên cho đến đỉnh núi. Đứng trên cao ấy nhìn về nam, lớp lớp cánh rừng dày và dợn xanh trông tựa biển. Nếu là biển, thì sông biển ở đây cũng không vỗ vào bờ. Dưới những cánh rừng biển bạt ngàn im lặng và xao động, một thế hệ chiến sĩ đang nở sinh. Những chiến công, những phẩm giá đang được sinh nở ở đây cùng với lúa gạo, tôm cá, dầu và điện, gỗ và than của mẹ cha, anh chị bên nước ngày ngày vắt mồ hôi và trí tuệ tạo ra khẳn định sự trường tồn của tình nghĩa hai đất nước ruột rà anh em.
    Tôi nói với chị Sáu:
    -Chị nói rất phải: Người lính bao giờ cũng muốn tâm sự với hậu phương dù đương lúc rối bận nhất.
    Chị Sáu cười:
    -Còn tôi, tôi nhớ câu nói đùa của Thiệt quá.
    Tôi chia tay chj, thầm cảm ơn ngôn ngũ cha ông đã cho ta một từ sâu thẳm: NƯỚC!
    26-4-1984
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đêm đã xuống, nhanh thế. Trăng hiện qua một lớp sương mỏng, bạc và dịu. Tưởng ánh trăng và đêm có thể làm nguôi cơn khát, nhưng không. Cổ càng khô quánh. Thằng Thiệt hết muốn nói. Nó nằm ngửa thở phì phò.
    ĐK địch vẫn bắn. Nó chọc vào mấy khẩu 82 đang tập trung khu hoả điểm dưới sườn.
    Tiếng ông Bảy Hử:
    -Tản ra, củng cố thêm công sự. Trụ lại, chờ đưa thêm hoả lực và bộc phá lên đánh tiếp.
    Thằng Thiệt rút xẻng. Hắn xúc hai lát rồi bỏ xuống. Hừ, có còn là cánh tay nữa đâu. Mềm quá bã đậu! Nó nói một mình rồi quay sang em:
    -Kệ, ta thử đi tìm nước đi. Mấy ông trinh sát gà mờ sợ ĐK không dâm mò vào đúng chỗ cũ, chứ cái quái gì lại không có nước.
    Nó quay sang phải nói với An, tiểu đội trưởng:
    -Tôi với thằng Thà đi tìm nước nhé. Bộc phá mà khuân lên đây cũng là khuya.
    Em cũng khát như nó, e rằng, còn khát hơn cả nó. Nhưng em nhát. Em lắc đầu.
    -Ông Bảy Hử-chúng tôi thường gọi tiểu đoàn trưởng chúng tôi như vậy, vì điều gì ông không đồng ý là ông hử, ông mà đã bực mình là ông hử luôn chục tiếng, anh lính nào cũng xanh mặt-ổng mà tóm được thì chết?
    -Thế ở đây chịu khát à? Không chừng lại lập công đấy chứ. Tớ mà tìm được nước thì ông Bảy không hử lấy một hử, còn vồ tớ, xốc tớ lên, hôn đùn đụt, thưởng phép, gởi giấy về gia đình nữa.
    Thiệt quay sang An:
    -Hai đứa tôi đi nhé. Bình tông ông đâu, đưa thêm đây? này, đi?
    Thế là chúng em lén đi.
    Em và Thiệt đi sâu mãi về phía cụm rừng xanh, men theo một con suối.
    Mùa khô nắng đã đun cạn hết nước suối. Hoạ hoằn giữa lòng suối còn sót lại một vũng nước. Một vũng nước đọng. Lá cây ven suối rơi xuống tụ dưới đáy suối mùa khô nát thối. Mùi nước hôi nồng nặc, rửa tay, sau một buổi vẫn còn ngửi thấy mùi thối. Nhưng những anh em trinh sát, những chiến sĩ đi phục, những người lính vận tải đường xa, và bây giờ là chúng em trong mùa khô khắc nghiệt vẫn hằng ước ao được may mắn bắt gặp và uống thứ nước đọng ấy.
    Mỗi lần gặp nhau như vậy, người ta reo: nước: Người tháo bình tông, người chuẩn bị khăn mặt. Hằng mấy tiểu đội sẵn sàng cởi tuột áo quần lấy mũ cứng làm gàu ập đến chen nau múc giội tới tấp lên đầu lên cổ, vừa kỳ cọ vừa nhăn mũi: Thơm quá, thơm quá!
    -Cứ được một vũng nước bằng bàn tay là đạt yêu cầu rồi! Thiệt vừa rạp người đi vừa nói.
    Lâu lâu, sợ em nóng lòng rủ về, Thiệt lại khích lệ:
    -Không chừng ở dưới này một tẹo có nước. Đây này? chỗ này mới cạn sạch cách đây đôi ngày, đất hình như còn ẩm.
    Cứ thế, cái khát và một ao ước mơ hồ đẩy chúng em. Một con mễn chạy qua, một quả mìn nổ phía trước. Tiềng mìn đạp nổ cũng đanh như tiếng ĐK.
    -ĐK hay mìn hở Thà? Thiệt hỏi.
    -Có lẽ mìn. Em nói.
    Em thấy rờn rợn. Dưới mặt đất kia, bây giờ đã trở nên mát dịu đang ẩn náu đâu đây những kẻ thù bí mật. Em nói nhỏ với Thiệt, tựa như sợ bọn thù bí mật kia có thể nghe:
    -Thôi ta về, không kiếm được đâu. Gặp mìn nguy hiểm.
    Thiệt gàn, đầy tự tin:
    -Thằng địch gài mìn ở đây là bẫy chúng mình đi tìm nước đấy. Vậy thì chắc là có nước. Có mìn thì ta gỡ ta đi chớ, sợ gì!
    Một con thú lại chạy hoảng qua. Một tiếng mìn nữa nổ. Em khẩn khoảng:
    -Thôi, Thiệt à. Chụ khát còn hơn. Mà hình như đã khuya lắm.
    Em nghĩ đến đơn vị. Em nghĩ đến trận đánh tiếp cả tiểu đoàn đang hì hục sửa soạn. Tiểu đội trưởng An chắc đang hớt hải chờ hai đứa. Không biết anh ta sẽ báo cáo thế nào với trung đội.
    Em định bước một bước. Nhưng tự nghĩ: không chừng dọc lòng suối mình đi qua cũng có mìn, em bảo Thiệt:
    -Mình mệt quá, dù có đi hay trở về, cũng ngồi xuống đây nghỉ đã.
    Theo thói quen của người lính ở chiến trường khắc nghiệt này, em lấy tay dò mìn. Năm ngón tay với vào lòng suối. Lòng suối lạn cạn cuộn pha cát. Có lẽ những lớp cát bồi che giấu dưới bụng bó những quả mìn đạp. Em nghĩ vậy và ráng đào. Ôi, một quả mìn thật.
    -Có mìn, Thiệt ơi.
    -Thế ư?
    -Ừ? Nó đáp gọn và cúi xuống rà.
    Thiệt bỗng vớ được một quả mìn. Nó đưa quả mìn dứ dứ về phía em rồi ngồi bịch xuống.
    Đêm qua lúc nào không biết. Tiếng súng thưa dần rồi im hẳn. Cả tiếng ĐK của địch trên sườn Đăng-rếch cũng vậy. Hay là họ đã rút?
    Sau này trong bao nhiêu nguyên nhân vì sao ta cần ngừng tấn công, có một nguyên nhân em được biết: súng đang còn, đạn đang còn, và người cũng đang còn, nhưng không còn nước, cho nên chỉ còn những con người mệt lả, không lê vững đôi chân mỏi nhừ, và bởi thế cũng không đủ sức chạy lên chạy xuống đánh tiếp những quả bộc phá sào dài ngoằn và nặng trịch. Lui quân đi chưa toàn thắng là điều mà người ra trận không một ai muốn. Nhưng người chỉ huy của chúng em hôm ấy đã cho lui quân, và cho lui quân hôm ấy là đúng.
    Thế là hai đứa em ở lại một mình dưới chân Đăng-rếch, giữa lòng suối mà Thiệt đặt hết ao ước với một bãi mìn dày lẩn khuất quanh quẩn vây lấy chân.
    Chúng em lết từng bước vừa đi vừa rà mìn, vừa đi vừa nghe ngóng địch. Có tiếng súng con của chúng ở vị trí chỉ huy của ông Bảy Hử ngày hôm qua. Chúng em quay tìm đường khác. Ba ngày như thế. Khi không thể cất nổi chân, chúng em ngồi lại đầu óc trống không, ngực nóng như cả mặt trời lửa đặt vào đó, bụng thở thoi thóp, cổ đắng, cố ứa ra một tí nước bọt, nhưng làm gì có được của quý ấy.
    Lúc đơn vị tìm thấy chúng em, tiểu đội trưởng An nói lại, thân thể chúng em mềm và nóng hâm hấp như hai trái chuối luộc. Hai ngày sau vẫn không nói ra tiếng. Lưỡi tụt đi đâu mất.
    Tôi nói với chị Sáu:
    -Chị ạ, trận đánh vào sào huyệt bọn Pol Pot vừa rồi tôi có được đến đơn vị Thà. Bảy Hử đã làm trung đoàn phó. Anh dẫn tôi đi chơi thăm anh em. Thà làm tiểu đội trưởng thay An đi học. Còn Thiệt, trung đội phó quyền trung đội trưởng, da ngăm hơn trước, anh đã tự nhận như thế, miệng liến thoắng, đôi mắt vẫn mở to như ngờ ngệch.
    Bảy Hử chỉ tay về phía Thiệt:
    -Bố mẹ đẻ anh ta cái miệng ra trước, nhưng lại không biết khóc. Bà đỡ bợp cho một cái, anh ta thét đủ bảy ngày bảy đêm, nên bây giờ cái miệng rộng đến mang tai.
    Thiệt đang tập hợp trung đội để kiểm tra khối lượng mang vác từng chiến sĩ.
    -Ông Yên? Súng 7 cân này, xẻng 1 cân rưỡi này, đạn 4 cân này, gạo sấy lương khô 3 cân này, sao lại đến 35 cân? À, tham ô nước.
    Anh chiến sĩ này đã lấy các bao đựng đạn B40 cũ cho nước vào dán lại, bỏ và ruột nghé để mang thêm ngoài tiêu chuẩn 6 lít một người.
    -Ông Văn? 36 cân. Quái nhỉ! Lại tham ô nước? Cái gì đây? Đào đâu ra mấy cái ống nhựa này? Phổ biến rồi mà không chịu quán triệt. Đoàn sẽ tổ chức hai trạm bơm. Sẽ bơm từ hậu cứ rồi tải theo đường quân sự làm gấp. 100 cây số có nghĩa lý gì, đưa nước đến vị trí tập kết 1. Ở đó hậu cần đã lót sẵn những túi ni lông lớn dùng làm bể tạm thời, nước sẽ chứa vào đấy. Vận tải và một phần ba quân số của tiểu đoàn, nghĩa là tất cả đại đội dự bị sẽ áp nước theo chúng. Ngoài mỗi người 6 lít tự mang, chúng ta có một triệu lít nữa. Thế mà không tin. ?oThủ trưởng ơi-Thiệt quay lại nói với Bảy Hử, lễ xuất quân chiều nay đề nghị trên cho dàn toàn bộ đội hình vận tải nước với toàn bộ dụng cụ, khí tài, cái ?oBinh chủng đặc nhiệm của mùa khô? này quan trọng lắm??
    Sau khi kiểm tra xong, có lệnh cho trung đội giải tán, tôi giữ Thiệt và Thà ở lại nói chuyện chơi. Tôi đùa:
    -Nè, qua trận khát năm ngoái cuối cùng Thiệt nhận ra ông Thần Khát được biểu tượng thế nào?
    Thà cướp lời:
    -Nhất định phải là một ông thần tụt lưỡi, toàn thân mềm và nóng như chuối hấp.
    Thiệt hứ một tiếng, mím đôi môi hóm:
    -Chớ khiêu khích? Trải qua cái trận chết khát đó mà cũng nghĩ ra được lắm cái hay.
    -Thế à, nói cho tôi nghe với nào.
    -Qua trận khát ấy, em cứ nghĩ các nhà khoa học thật tài. Này nhé? Họ nói rằng giữa sự sống và cái chết có một trạng thái trung gian, nghĩa là có một quãng thời gian trong đó sự sống không còn nữa nhưng cái chết cũng chưa đến? Giỏi thật. Em cứ nghiên cứu mãi hôm đó không biết em đã ở trong trạng thái trung gian ấy chưa? Có thể rồi, vì em cảm thấy tim không đập nữa, ngực không thở nữa, chân tay không cựa quậy nữa. Nhưng cũng có thể là chưa. Vì em cứ còn đang mơ.
    -Lại xạo rồi. Thà cười.
    -Không, thật đấy.
    Tôi hỏi:
    -Thế lúc ấy mơ thấy gì nào?
    -Mơ thấy lửa đang táp cháy cả người em bỗng vụt tắt. Quanh em nhân dân trong phum quây quần làm lễ chúc phước. Các cô gái té nước ướt đẫm mình mẩy. Em hét: coi chừng ướt liều phóng B40, coi chừng ướt gạo sấy, gạo sấy giao tôi mang mà nở phình ra thì cả đại đội tập trung lại ăn không hết đấy. Chẳng ai thèm để ý đến lời em. Họ vẫn té nước ào ào. Nước chảy mát rượi qua đầu, qua mắt, qua hai gò má, qua mũi, em hơi sặc một chút, rồi qua môi, qua ngực, qua bụng, chảy trên những bắp thịt cánh tay và đôi chân trần mệt mỏi. Em chẳng uống một giọt nào.
    Lát sau, một bà mẹ Campuchia đến, bà mẹ cao lớn lạ thường. Trên vai bà một chiếc đòn gánh khổng lồ. Bà quẩy một đôi thúng lớn, to gấp mấy chục lần cái khoanh thuyền của quân khu ấy. Tay phải của bà đặt lên mấu đòn gánh, ở đấy em thấy hiện lên ngôi đền Prết-hi-via. Tay trái bà đong đưa, như mẹ em quẩy nước giếng ở nhà. Bà đi học theo triền Đăng-rếch. Qua mỗi đoạn bà lại nâng đôi thúng, trút nước xuống. Nước chảy trên những tảng đá mái nhà, mài nhẵn nó, xoáy vào đất, làm thành những con suối. Bà nói: Từ nay suối ơi, mày giữ nước trong lòng mày mãi chớ để nước cạn.
    Em nghe bà nói, em mừng quá em reo: Mẹ ơi! Mẹ ơi! Con là coong-tóp (tiếng Campuchia nghĩa là bộ đội) Việt Nam sang đây đánh Pol Pot giúp dân, đi đánh trận hết nước, khát quá, mẹ cho con một hớp!
    Bà mẹ Campuchia lấy tay hất tấm khăn Cà-ma trên đầu. Bà nói: Con! Thương con quá! Con chịu khổ, chịu cực, chịu khát? bà mẹ vục một ống nước nữa vào thúng đưa cho em. Em uống một hơi, ôi, nước thốt nốt, ngọt ơi là ngọt.
    Em định gào: Mẹ ơi, cho con một ống nữa thì có tiếng đập vào người. Mở mắt ra, thấy ông An tiểu đội trưởng và anh em trung đội đi tìm.
    Em nhắm nghiền mắt. Em gào, em lại mơ tiếp: Biển Hồ ơi! Biển Hồ hiện ra, dềnh dàng, lắc lư như một mảng trời màu cánh sen đưa võng trước mắt em. Em vội vàng nói: Biển Hồ ơi, người ta bảo ước gì Biển Hồ là đôi mắt em để anh bơi, còn tôi, tôi ước gì đôi mắt em là Biển Hồ để tôi uống?
    Đám chiến sĩ vẫn còn vây quanh chúng tôi cười ầm ầm muốn tốc cả mái tranh.
    Thế đấy, sáng hôm sau họ lên đường. Các tiểu đoàn lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia và các đơn vị quân tình nguyện sát bên nhau. Tổ quố, hai Đất nước và Đời mãi mãi ghi lại hình dáng người lính khi lên đường. Trên vai chất đủ thứ: súng đạn, áo quần, lương khô, gạo sấy, võng tăng, dây trói tù binh, xẻng và nước. Bên lưng một bình tông nước, trước ngực một bình tông nước và sau lưng một can nước nữa. Đầu hơi lao về trước, trán nhô tới, chân bước chậm và chắc. Tôi nghe rõ tiếng Thiệt đùa:
    -Các cậu ơi, người ta nói mùa khô ở đất nước bạn chỉ có ba nơi có nước: Biển Hồ, cây thốt nốt và vú sữa người mẹ. Bỗng mùa khô năm nay có một dòng suối vĩ đại, dòng suối trong vắt ấy chảy trên vai người lính, ngược lên triền Đăng-rếch, nhận chìm tất cả bọn Pol Pot.
    Thiệt lấy điệu đưa tay vừa vuốt ve chiếc bình tông 5 lít lủng lẳng trước ngực vừa nói: Tổ quốc ở bên cạnh thế này sao lại không chiến thắng.
    Tôi nghe rõ tiếng cười khúc khích của Thà và từng chuỗi cười hồn nhiên, sảng khoái của lớp lớp lính trẻ.
    Thắng trận xong, tôi gắng leo lên cho đến đỉnh núi. Đứng trên cao ấy nhìn về nam, lớp lớp cánh rừng dày và dợn xanh trông tựa biển. Nếu là biển, thì sông biển ở đây cũng không vỗ vào bờ. Dưới những cánh rừng biển bạt ngàn im lặng và xao động, một thế hệ chiến sĩ đang nở sinh. Những chiến công, những phẩm giá đang được sinh nở ở đây cùng với lúa gạo, tôm cá, dầu và điện, gỗ và than của mẹ cha, anh chị bên nước ngày ngày vắt mồ hôi và trí tuệ tạo ra khẳn định sự trường tồn của tình nghĩa hai đất nước ruột rà anh em.
    Tôi nói với chị Sáu:
    -Chị nói rất phải: Người lính bao giờ cũng muốn tâm sự với hậu phương dù đương lúc rối bận nhất.
    Chị Sáu cười:
    -Còn tôi, tôi nhớ câu nói đùa của Thiệt quá.
    Tôi chia tay chj, thầm cảm ơn ngôn ngũ cha ông đã cho ta một từ sâu thẳm: NƯỚC!
    26-4-1984
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Em mới tậu được quyển lịch sử trung đoàn bộ binh cơ giới 48 Thăng Long sư đoàn 320B. Trong sách có một phần nói về sự tham gia của trung đoàn trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và tiêu diệt bọn diệt chủng Pol Pot!
    Chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế vẻ vang (1975-1979)
    1.Biên giới Tây Nguyên vang mãi chiến công
    Sau chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn 48 trong đội hình Sư đoàn 320 về đóng quân ở căn cứ Đồng Dù làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và xây dựng đơn vị theo hướng chính quy từng bước hiện đại. Thời gian này, trung đoàn được giao đảm nhiệm phương án tác chiến cơ bản theo đường số 1 vào các mục tiêu sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ tổng tham mưu nguỵ cũ. Đồng thời tham gia nhiều nhiệm vụ đột xuất: phát động quần chúng củng cố chính quyền cách mạng cơ sở ở Củ Chi, đổi tiền, duyệt binh ở Sài Gòn (2-9-1975) thu hồi cơ sở vật chất của địch sau chiến tranh, tổng kết rút kinh nghiệm qua hai chiến dịch Tây Nguyên và Hồ Chí Minh. Với thành tích xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Trung đoàn 48, Tiểu đoàn 1 và Đại đội 3 (Tiểu đoàn 1) được ************* Việt Nam dân chủ cộng hoà phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Tiểu đoàn 2 được Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 tặng cờ thưởng luân lưu ?oĐơn vị có phong trào thanh niên khá nhất năm 1975?.
    Mùa thu năm 1976, Trung đoàn 48 trong đội hình Sư đoàn 320 về đóng quân làm nhiệm vụ ở Ninh Hoà, tỉnh Phú Khánh. Từ cuối năm 1976 đến mùa thu năm 1977, Trung đoàn làm nhiệm vụ huấn luyện chiến sĩ mới và quét FULRO ở Đắc Lắc. Tháng 6 năm 1976 Trung đoàn cùng sở chỉ huy Sư đoàn 320 chuyển về đứng chân ở Dục Mỹ (Ninh Hoà, Khánh Hoà) vừa làm công tác huấn luyện vừa sẵn sàng vật liệu xây dựng. Ngày 1 tháng 8 năm 1977, Trung đoàn bàn giao toàn bộ quân số, cơ sở phương tiện sản xuất gạch ngói cho Cục Hậu cần Quân đoàn. Trước yêu cầu nhiệm vụ mới ngày 1 tháng 8 năm 1977 Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 ra Chỉ thị 99/CT-B điều chỉnh đội hình đóng quân và quy định nhiệm vụ cho các đơn vị ở vị trí mới. Theo quyết định, Trung đoàn 48 được ?okhôi phục chấn chỉnh thành một trung đoàn chiến đấu có quân? và bước vào huấn luyện xây dựng mọi mặt trước khi bước vào chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam tháng 12 năm 1977.
    Thắng lợi vĩ đại năm 1975 của nhân dân ba nước Đông Dương đã kết thúc oanh liệt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài ngót một phần tư thế kỷ. Lẽ ra từ đây nhân dân ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia anh em phải được sống trong hoà bình để xây dựng đất nước giàu mạnh, cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nhưng bè lẽ Pol Pot-Ieng Sary được bọn ********* quốc tế xúi giục, từ lâu đã có âm mưu đen tối ngấm ngầm chống phá ta.
    Vì vậy, ngay sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước ta được thống nhất, bọn ********* Pol Pot-Ieng Sary được các thế lực ********* quốc tế xúi giục, tiếp tay đã thi hành chính sách thù địch chống Việt Nam-người bạn chiến đấu thân thiết đã từng hy sinh xương máu góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng Campuchia. Chúng tuyên truyền xuyên tạc, kích động trong dân chúng và quân đội Campuchia tâm lý chống Việt Nam, coi Việt Nam là kẻ thù truyền kiếp. Từ đó chúng liều lĩnh cho quân đội xâm lấn lãnh thổ nước ta, gây tội ác chồng chất đối với đồng bào ta trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, Campuchia. Tháng 5 năm 1975, Pol Pot cho quân đánh chiếm quần đảo Hòn Khoai, quần đảo Thổ Chu và một số nơi từ Hà Tiên đến Tây Ninh. Đầu năm 1976, Pol Pot cho quân liên tiếp xâm phạm vùng biên giới nước ta từ Kon Tum, Gia Lai tới Bình Long.
    Tiếp theo những hành động tội ác man rợ gây ra cho đồng bào ta ở Châu Đốc, An Giang, bất chấp thiện chí hoà bình của Đảng, Nhà nước ta, ngày 24 tháng 9 năm 1977, bọn Pol Pot-Ieng Sary ngang nhiên huy động một lực lượng lớn quân đội dánh chiếm nhiều vùng dân cư thuộc huyện Tân Biên tỉnh Tây Ninh. Tại xã Tân Lập, Tên Biên, Tân Đông, trong một đêm chúng đã giết 700 người dân vô tội, hầu hết là người già, trẻ em và phụ nữ.
    Trước những hành động leo thang chiến tranh cực kỳ nghiêm trọng của bọn ********* Pol Pot, cuối cùng tháng 9 năm 1977, Trung đoàn 48 và các đơn vị trong Sư đoàn 320 được lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Em mới tậu được quyển lịch sử trung đoàn bộ binh cơ giới 48 Thăng Long sư đoàn 320B. Trong sách có một phần nói về sự tham gia của trung đoàn trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và tiêu diệt bọn diệt chủng Pol Pot!
    Chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế vẻ vang (1975-1979)
    1.Biên giới Tây Nguyên vang mãi chiến công
    Sau chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn 48 trong đội hình Sư đoàn 320 về đóng quân ở căn cứ Đồng Dù làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và xây dựng đơn vị theo hướng chính quy từng bước hiện đại. Thời gian này, trung đoàn được giao đảm nhiệm phương án tác chiến cơ bản theo đường số 1 vào các mục tiêu sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ tổng tham mưu nguỵ cũ. Đồng thời tham gia nhiều nhiệm vụ đột xuất: phát động quần chúng củng cố chính quyền cách mạng cơ sở ở Củ Chi, đổi tiền, duyệt binh ở Sài Gòn (2-9-1975) thu hồi cơ sở vật chất của địch sau chiến tranh, tổng kết rút kinh nghiệm qua hai chiến dịch Tây Nguyên và Hồ Chí Minh. Với thành tích xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Trung đoàn 48, Tiểu đoàn 1 và Đại đội 3 (Tiểu đoàn 1) được ************* Việt Nam dân chủ cộng hoà phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Tiểu đoàn 2 được Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 tặng cờ thưởng luân lưu ?oĐơn vị có phong trào thanh niên khá nhất năm 1975?.
    Mùa thu năm 1976, Trung đoàn 48 trong đội hình Sư đoàn 320 về đóng quân làm nhiệm vụ ở Ninh Hoà, tỉnh Phú Khánh. Từ cuối năm 1976 đến mùa thu năm 1977, Trung đoàn làm nhiệm vụ huấn luyện chiến sĩ mới và quét FULRO ở Đắc Lắc. Tháng 6 năm 1976 Trung đoàn cùng sở chỉ huy Sư đoàn 320 chuyển về đứng chân ở Dục Mỹ (Ninh Hoà, Khánh Hoà) vừa làm công tác huấn luyện vừa sẵn sàng vật liệu xây dựng. Ngày 1 tháng 8 năm 1977, Trung đoàn bàn giao toàn bộ quân số, cơ sở phương tiện sản xuất gạch ngói cho Cục Hậu cần Quân đoàn. Trước yêu cầu nhiệm vụ mới ngày 1 tháng 8 năm 1977 Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 ra Chỉ thị 99/CT-B điều chỉnh đội hình đóng quân và quy định nhiệm vụ cho các đơn vị ở vị trí mới. Theo quyết định, Trung đoàn 48 được ?okhôi phục chấn chỉnh thành một trung đoàn chiến đấu có quân? và bước vào huấn luyện xây dựng mọi mặt trước khi bước vào chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam tháng 12 năm 1977.
    Thắng lợi vĩ đại năm 1975 của nhân dân ba nước Đông Dương đã kết thúc oanh liệt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài ngót một phần tư thế kỷ. Lẽ ra từ đây nhân dân ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia anh em phải được sống trong hoà bình để xây dựng đất nước giàu mạnh, cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nhưng bè lẽ Pol Pot-Ieng Sary được bọn ********* quốc tế xúi giục, từ lâu đã có âm mưu đen tối ngấm ngầm chống phá ta.
    Vì vậy, ngay sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước ta được thống nhất, bọn ********* Pol Pot-Ieng Sary được các thế lực ********* quốc tế xúi giục, tiếp tay đã thi hành chính sách thù địch chống Việt Nam-người bạn chiến đấu thân thiết đã từng hy sinh xương máu góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng Campuchia. Chúng tuyên truyền xuyên tạc, kích động trong dân chúng và quân đội Campuchia tâm lý chống Việt Nam, coi Việt Nam là kẻ thù truyền kiếp. Từ đó chúng liều lĩnh cho quân đội xâm lấn lãnh thổ nước ta, gây tội ác chồng chất đối với đồng bào ta trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, Campuchia. Tháng 5 năm 1975, Pol Pot cho quân đánh chiếm quần đảo Hòn Khoai, quần đảo Thổ Chu và một số nơi từ Hà Tiên đến Tây Ninh. Đầu năm 1976, Pol Pot cho quân liên tiếp xâm phạm vùng biên giới nước ta từ Kon Tum, Gia Lai tới Bình Long.
    Tiếp theo những hành động tội ác man rợ gây ra cho đồng bào ta ở Châu Đốc, An Giang, bất chấp thiện chí hoà bình của Đảng, Nhà nước ta, ngày 24 tháng 9 năm 1977, bọn Pol Pot-Ieng Sary ngang nhiên huy động một lực lượng lớn quân đội dánh chiếm nhiều vùng dân cư thuộc huyện Tân Biên tỉnh Tây Ninh. Tại xã Tân Lập, Tên Biên, Tân Đông, trong một đêm chúng đã giết 700 người dân vô tội, hầu hết là người già, trẻ em và phụ nữ.
    Trước những hành động leo thang chiến tranh cực kỳ nghiêm trọng của bọn ********* Pol Pot, cuối cùng tháng 9 năm 1977, Trung đoàn 48 và các đơn vị trong Sư đoàn 320 được lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Giữa tháng 10 năm 1977, để triển khai nhiệm vụ sẵn sàng cơ động chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc, Đảng uỷ Trung đoàn 48 đã họp mở rộng bàn biện pháp lãnh đạo thực hiện.
    Là một đơn vị chuyên trách huấn luyện chiến sĩ mới cho quân đoàn từ hơn một năm nay, khi chuyển sang trạng thái chiến đấu đơn vị gặp không ít khó khăn trở ngại. Số cán bộ, chiến sĩ nhất là tiểu đội, trung đội đã kinh qua chiến đấu còn ít. Số khác có nhiều kinh nghiệm huấn luyện, xây dựng lại ở diện phục viên, chuyển ngành. Phần còn lại là thương binh, bệnh binh đang an dưỡng, chữa trị chờ ngày giải quyết chính sách, v.v?
    Từ những đặc điểm trên, Đảng uỷ trung đoàn chủ trương: ?oTập trung sức mạnh của từng cấp uỷ đảng và đảng viên, quán triệt tốt nhiệm vụ trên giao bằng ý thức trách nhiệm chính trị của mình; giáo dục, vận động, động viên tinh thần cán bộ, chiến sĩ hiểu rõ tính cấp bách của nhiệm vụ chiến đấu mới, tự nguyện ở lại xây dựng đơn vị, đăng ký qr hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cấp trên giao?.
    Nhờ có chủ trương đúng, biện pháp sát thực, sau khi được học tập, quán triệt nghị quyết, 35 cán bộ, đảng viên chuẩn bị nghỉ phép, 50 hạ sĩ quan, chiến sĩ đã cầm quyết định phục viên, chuyển ngành đều tự nguyện gác lại. Nhiều anh em ốm đau, bệnh tật sức khỏe chưa bình phục, xin về đơn vị để được tham gia chiến đấu. Chiến sĩ mới chưa hết khóa huấn luyện, đồng loạt đăng ký lên đường. Hơn 300 tân binh được bổ sung cho các tiểu đoàn hối hả về đơn vị nhận nhiệm vụ. Nhờ vậy, ngay sau khi chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 48 đã nỗ lực vượt bậc khẩn trưởng củng cố tổ chức đơn vị từ huấn luyện chuyển sang chiến đấu giữ vững và phát huy vai trò chủ công của sư đoàn chủ lực có truyền thống bề dày thành tích trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
    Sáng ngày 12 tháng 12 năm 1977, Trung đoàn 48 được lệnh hành quân ra trận. Các tiểu đoàn, đại đội trực thuộc đều dùng ô tô để cơ động. Chiều ngày 13 tháng 12, cuộc hành quân bằng cơ giới ?ođi nhanh, đến đủ, bí mật, an toàn? hoàn thành tốt đẹp. Các tiểu đoàn lần lượt đổ quân vào các xóm ấp dọc biên giới thuộc huyện Tân Biên tỉnh Tây Ninh. Cả trung đoàn khẩn trương chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
    Ngày 15 tháng 12, cùng với việc cho các đơn vị triển khai vị trí đứng chân, trung đoàn trưởng Lê Văn Hược, chính uỷ trung đoàn Phạm Mậu Chướng và một số cán bộ tham mưu được triệu tập lên sở chỉ huy sư đoàn nhận nhiệm vụ chiến đấu.
    Sau khi kiểm tra sở bộ tình hình các đơn vị sau cuộc hành quân đường dài, đồng chí Ngô Huy Phát, quyền tư lệnh sư đoàn triển khai nhiệm vụ.
    Về địch, trong vùng Mỏ Vẹt (vùng đất biên giới tỉnh Tây Ninh uốn cong như hình mỏ con vẹt) từ bắc Cà Tum qua Xa Mát đến Lò Gò, Xóm Giữa (huyện Tân Biên). Pol Pot luôn duy trì lực lượng khá lớn gồm ba sư đoàn (4, 5, 177), một tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn xe tăng và lực lượng của hai vùng chiến thuật trực thuộc Quân khu 203.
    Với tham vọng đánh chiếm toàn bộ vùng Mỏ Vẹt và tỉnh Tây Ninh, địch cho sư đoàn 4 (đơn vị gây tội ác ở Tân Lập) và vùng chiến thuật 20 chiếm lĩnh bàn đạp từ ngã ba Krếch theo trục đường 78 xuống Xa Mát nối thông với đường 22 đi Thiện Ngôn. Đây là lực lượng chủ yếu tiến công các mục tiêu quan trọng ở tỉnh Tây Ninh. Sư đoàn 177 và vùng chiến thuật 22 bố trí từ nam trục đường 78 tới tỉnh lộ 24 ?othê đội 2? sẵn sàng thay thế sư đoàn 4 trong cuộc tiến công chiến lược này. Sư đoàn 5 là lực lượng dự bị chiếm các bàn đạp Tà Âm, Tà Nốt sẵn sàng hỗ trợ cho hai sư đoàn tiến công ở phía trước.
    Về ta, để phối hợp với đơn vị bạn trên chiến trường biên giới Tây Nam tiến công trừng trị nghiêm khắc hành động gây chiến của bọn ********* Pol Pot, Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 quyết định mở chiến dịch Đ7, giáng đòn trừng trị đích đáng, đập tan bàn đạp gây tội ác của địch tại khu vực Krếch-Tà Hiên, tiêu diệt lực lượng của sư đoàn 4 và lực lượng địa phương vùng chiến thuật 20, 21.
    Căn cứ vào nhiệm vụ Quân đoàn 3 giao cho: ?oĐánh chiếm mở rộng bàn đạp tiến công trước khi chiến dịch mở một ngày, tổ chức luồn sâu kết hợp với cơ giới và hoả lực chi viện đánh chiếm ngã tư Tà Hiên đúng thời gian quy định, thực hiện chốt chặn chia cắt chiến dịch; tích cực truy quét trong và ngoài kháng chiến phân công; chủ động tiến công và tạo thế đánh bại phản kích của địch?. Chỉ huy Sư đoàn 320 giao nhiệm vụ chủ yếu cho Trung đoàn 64 và Trung đoàn 52 phối hợp với Sư đoàn 10 tiến công vào nam Krếch. Trung đoàn 48 giai đoạn một làm lực lượng dự bị chiến dịch, giai đoạn hai phát triển xuống phía nam đánh Tà Âm, Tà Nốt.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Giữa tháng 10 năm 1977, để triển khai nhiệm vụ sẵn sàng cơ động chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc, Đảng uỷ Trung đoàn 48 đã họp mở rộng bàn biện pháp lãnh đạo thực hiện.
    Là một đơn vị chuyên trách huấn luyện chiến sĩ mới cho quân đoàn từ hơn một năm nay, khi chuyển sang trạng thái chiến đấu đơn vị gặp không ít khó khăn trở ngại. Số cán bộ, chiến sĩ nhất là tiểu đội, trung đội đã kinh qua chiến đấu còn ít. Số khác có nhiều kinh nghiệm huấn luyện, xây dựng lại ở diện phục viên, chuyển ngành. Phần còn lại là thương binh, bệnh binh đang an dưỡng, chữa trị chờ ngày giải quyết chính sách, v.v?
    Từ những đặc điểm trên, Đảng uỷ trung đoàn chủ trương: ?oTập trung sức mạnh của từng cấp uỷ đảng và đảng viên, quán triệt tốt nhiệm vụ trên giao bằng ý thức trách nhiệm chính trị của mình; giáo dục, vận động, động viên tinh thần cán bộ, chiến sĩ hiểu rõ tính cấp bách của nhiệm vụ chiến đấu mới, tự nguyện ở lại xây dựng đơn vị, đăng ký qr hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cấp trên giao?.
    Nhờ có chủ trương đúng, biện pháp sát thực, sau khi được học tập, quán triệt nghị quyết, 35 cán bộ, đảng viên chuẩn bị nghỉ phép, 50 hạ sĩ quan, chiến sĩ đã cầm quyết định phục viên, chuyển ngành đều tự nguyện gác lại. Nhiều anh em ốm đau, bệnh tật sức khỏe chưa bình phục, xin về đơn vị để được tham gia chiến đấu. Chiến sĩ mới chưa hết khóa huấn luyện, đồng loạt đăng ký lên đường. Hơn 300 tân binh được bổ sung cho các tiểu đoàn hối hả về đơn vị nhận nhiệm vụ. Nhờ vậy, ngay sau khi chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 48 đã nỗ lực vượt bậc khẩn trưởng củng cố tổ chức đơn vị từ huấn luyện chuyển sang chiến đấu giữ vững và phát huy vai trò chủ công của sư đoàn chủ lực có truyền thống bề dày thành tích trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
    Sáng ngày 12 tháng 12 năm 1977, Trung đoàn 48 được lệnh hành quân ra trận. Các tiểu đoàn, đại đội trực thuộc đều dùng ô tô để cơ động. Chiều ngày 13 tháng 12, cuộc hành quân bằng cơ giới ?ođi nhanh, đến đủ, bí mật, an toàn? hoàn thành tốt đẹp. Các tiểu đoàn lần lượt đổ quân vào các xóm ấp dọc biên giới thuộc huyện Tân Biên tỉnh Tây Ninh. Cả trung đoàn khẩn trương chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
    Ngày 15 tháng 12, cùng với việc cho các đơn vị triển khai vị trí đứng chân, trung đoàn trưởng Lê Văn Hược, chính uỷ trung đoàn Phạm Mậu Chướng và một số cán bộ tham mưu được triệu tập lên sở chỉ huy sư đoàn nhận nhiệm vụ chiến đấu.
    Sau khi kiểm tra sở bộ tình hình các đơn vị sau cuộc hành quân đường dài, đồng chí Ngô Huy Phát, quyền tư lệnh sư đoàn triển khai nhiệm vụ.
    Về địch, trong vùng Mỏ Vẹt (vùng đất biên giới tỉnh Tây Ninh uốn cong như hình mỏ con vẹt) từ bắc Cà Tum qua Xa Mát đến Lò Gò, Xóm Giữa (huyện Tân Biên). Pol Pot luôn duy trì lực lượng khá lớn gồm ba sư đoàn (4, 5, 177), một tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn xe tăng và lực lượng của hai vùng chiến thuật trực thuộc Quân khu 203.
    Với tham vọng đánh chiếm toàn bộ vùng Mỏ Vẹt và tỉnh Tây Ninh, địch cho sư đoàn 4 (đơn vị gây tội ác ở Tân Lập) và vùng chiến thuật 20 chiếm lĩnh bàn đạp từ ngã ba Krếch theo trục đường 78 xuống Xa Mát nối thông với đường 22 đi Thiện Ngôn. Đây là lực lượng chủ yếu tiến công các mục tiêu quan trọng ở tỉnh Tây Ninh. Sư đoàn 177 và vùng chiến thuật 22 bố trí từ nam trục đường 78 tới tỉnh lộ 24 ?othê đội 2? sẵn sàng thay thế sư đoàn 4 trong cuộc tiến công chiến lược này. Sư đoàn 5 là lực lượng dự bị chiếm các bàn đạp Tà Âm, Tà Nốt sẵn sàng hỗ trợ cho hai sư đoàn tiến công ở phía trước.
    Về ta, để phối hợp với đơn vị bạn trên chiến trường biên giới Tây Nam tiến công trừng trị nghiêm khắc hành động gây chiến của bọn ********* Pol Pot, Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 quyết định mở chiến dịch Đ7, giáng đòn trừng trị đích đáng, đập tan bàn đạp gây tội ác của địch tại khu vực Krếch-Tà Hiên, tiêu diệt lực lượng của sư đoàn 4 và lực lượng địa phương vùng chiến thuật 20, 21.
    Căn cứ vào nhiệm vụ Quân đoàn 3 giao cho: ?oĐánh chiếm mở rộng bàn đạp tiến công trước khi chiến dịch mở một ngày, tổ chức luồn sâu kết hợp với cơ giới và hoả lực chi viện đánh chiếm ngã tư Tà Hiên đúng thời gian quy định, thực hiện chốt chặn chia cắt chiến dịch; tích cực truy quét trong và ngoài kháng chiến phân công; chủ động tiến công và tạo thế đánh bại phản kích của địch?. Chỉ huy Sư đoàn 320 giao nhiệm vụ chủ yếu cho Trung đoàn 64 và Trung đoàn 52 phối hợp với Sư đoàn 10 tiến công vào nam Krếch. Trung đoàn 48 giai đoạn một làm lực lượng dự bị chiến dịch, giai đoạn hai phát triển xuống phía nam đánh Tà Âm, Tà Nốt.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Sau khi nhận nhiệm vụ chiến đấu cấp trên giao, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 48 vừa tập trung học tập quán triệt nhiệm vụ, vừa dồn sức làm công tác chuẩn bị. Cùng thời gian này, Trung đoàn 48 nhận được lệnh tăng cường Tiểu đoàn 3 cho Trung đoàn 64 làm nhiệm vụ trên hướng chủ yếu. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 Phạm Văn Tiến và chính trị viên Phạm Văn Cổn nhận được lệnh tổ chức cho bộ đội lên đường ngày.
    Tháng 12 chiến dịch Đ7 bắt đầu mở màn. Các lực lượng trên từng hướng được lệnh chuyển quân vào vị trí tập kết. Hai giờ sáng ngày 19 tháng 12, Trung đoàn 64 (có lực lượng Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48 tăng cường) và Trung đoàn 52 bí mật hành quân vào vị trí chiếm lĩnh.
    9 giờ ngày 19 tháng 12 các đơn vị trên hướng chủ yếu báo về đã nhìn rõ các mục tiêu thì Bộ tư lệnh sư đoàn phát lệnh cho Trung đoàn 64 và Trung đoàn 52 tiến công. Qua ba ngày chiến đấu hiệp đồng binh chủng (19, 20, 21 tháng 12) Trung đoàn 64 và Trung đoàn 52 đã làm chủ mục tiêu trên giao trên chính diện 10 kilômét với chiều sâu 20 kilômét, từ Bản Không Tên đến đường 24, từ Tà Âm tới Tà Hiên.
    Do bị đột phá mạnh, một nửa địch chạy sang phía tây đường 7, số còn lại mắc kẹt trong vòng vây của ta. Chúng được lệnh phân tán nhỏ trong rừng để đánh phục kích quấy phá hành lang vận chuyển tiếp tế cho các đơn vị phía trước.
    Để nhanh chóng tiêu diệt quân địch còn lại trong khu vực, ngày 24 tháng 12 Trung đoàn 48-lực lượng dự bị chiến dịch được lệnh chuyển sang truy quét địch trong thời gian ba ngày nhằm tạo thế vững chắc đánh địch phản kích. Ngay sau khi nhận được lệnh, ban chỉ huy Trung đoàn 48 đã soạn thảo kế hoạch cụ thể.
    -Ngày 25 tháng 12, Tiểu đoàn 1 truy quét địch ở khu vực Tà Âm và nam đường 24 (đoạn Tà Âm đến cầu Stốc).
    -Ngày 26 tháng 12, Tiểu đoàn 2, truy quét địch ở bắc đường 24 đến Plây Kê giáp đường 7.
    -Ngày 27 tháng 12, hai Tiểu đoàn 1 và 2 hành quân so le hai bên đường 24 truy quét địch từ ngã 4 Stoeng đến giáp vị trí Trung đoàn 64.
    Rút kinh nghiệm địch không triển khai trận địa đặt sở chỉ huy ở trong bản, bãi trống, không đắp lô cốt hào giao thông; không bố trí các loại hàng rào che chắn mà chúng triển khai trận địa phục kích, tập kích bằng những hầm chữ U chìm, so le, thưa ở rìa bản, bìa rừng, bờ ruộng rất bí mật, bất ngờ. Nên khi truy quét địch, các đơn vị thường chia làm hai mũi hành tiến song song. Mũi nào gặp địc thì triển khai đội hình chiến đấu ?ođánh vỗ mặt? thu hút địch. Mũi thứ hai lợi dụng địa hình vòng phải (hoặc trái) đánh vào sườn hoặc sau lưng địch. Biện pháp truy quét địch mới này của Trung đoàn 48 đã đem lại hiệu quả. Ngày 25 tháng 12, Đại đội 3 Tiểu đoàn 1 tiêu diệt 3 tổ chốt (6 tên địch), thu 4 súng; Đại đội 6 Tiểu đoàn 2 (truy quét địch ở nam đường 24) diệt 2 tổ chốt (5 tên địch) thu 2 súng. Ngày 26 tháng 12, Đại đội 1 Tiểu đoàn 1 diệt 4 tổ chốt (11 tên địch) thu 7 súng; Đại đội 7 Tiểu đoàn 2 diệt 3 tổ chốt (8 tên địch) thu 5 súng (có 1 đại liên). Ngày 27 tháng 12, bộ đội ta truy kích đến đâu địch phá chạy đến đấy. Chúng rất lo sợ cách đánh mới này của ta.
    Cuối tháng 12 năm 1977, sau đợt truy kích địch hỗ trợ đắc lực cho Trung đoàn 64 đánh chiếm ngã tư Stoeng giành thắng lợi. Trung đoàn 48 được lệnh phát triển mở rộng cánh nam đường số 7 tiến công truy kích sư đoàn 5 địch. Ngày 29 tháng 12, cán bộ và chiến sĩ Tiểu đoàn 3 (từ Trung đoàn 64 về) được lệnh tổ chức tiến công điểm cao 31 (nam đường 24 khoảng 6 kilômét). Tiểu đoàn 2 và các đơn vị hoả lực trung đoàn triển khai đội hình ở phía sau hỗ trợ. Được nhân dân bạn (vừa được giải phóng) dẫn đường, sáng ngày 30 tháng 12 sau 15 phút tiến công. Tiểu đoàn 3 đã làm chủ trận địa. Đại đội 6 Tiểu đoàn 2 chốt giữ sườn phải, phát hiện một toán địch gần 50 tên mặc áo đen chạy tắt đồng đã nổ súng tiêu diệt 12 tên. Ngày 1 tháng 1 năm 1978, Tiểu đoàn 2 tiến công Bản Cháy 1 (địch đốt cháy nhiều bản làng ở khu vực này) diệt 20 tên, triệt phá một số kho tàng (chủ yếu là đạn) cung cấp cho sư đoàn 117 tiến công biên giới nước ta. Tiểu đoàn 1 phát triển song song với Tiểu đoàn 2 cách nhau hơn 1 kilômé, truy quét nhiều tốp địch bật khỏi những khu rừng thưa, những cánh đồng trống trải.
    Đến trưa ngày 2 tháng 1 năm 1978, sau bốn đợt đột kích lớn đánh tan các trận địa phục kích, tập kích cấp tiểu đoàn địch trên một chính diện 10 kilômét và chiều sâu 20 kilômét. Trung đoàn 48 cùng các đơn vị phối thuộc đã chiếm được ngã tư Chrum và Khu ?othành vuông góc?, phá huỷ hàng chục chiến sĩ hậu cần quan trọng của quân khu 203 địch trên tuyến đường 7 và đường 24, loài khỏi vòng chiến đấu hơn 500 tên, thu gần 200 súng các loại, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của địch.
    Ngày 5 tháng 1 năm 1978, chấp hành mệnh lệnh của trên. Trung đoàn 48 và các đơn vị bạn lần lượt rút về biên giới. Cuộc hành quân của Trung đoàn 48 cũng như các đơn vị bạn đã để lại những ấn tượng tốt đẹp trong lòng đồng bào Campuchia đang sống quằn quại rên xiết dưới chế độ diệt chủng tàn bạo của tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary.
    Chiến dịch phản công địch để bảo vệ lãnh thổ mà Trung đoàn 48 và các đơn vị trong Sư đoàn 320 tham gia đã ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục suy nghĩ nghiên cứu về kẻ thù mới, về nghệ thuật chiến dịch và chiến đấu trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, về công tác bảo đảm hậu cần chiến dịch, khi chiến đấu trong một chiến dịch phản công địch.
    Sau khi ra rút quân về biên giới, địch nhanh chóng đưa lực lượng bám sát, tăng cường cho các vị trí cũ, bổ sung thêm lực lượng ra biên giới phía đông, lấy Tây Ninh làm hướng chủ yếu, thường xuyên đánh phá bằng lực lượng vừa và nhỏ, bắn pháo bừa bãi vào các thị trấn, thị xã và khu đông dân cư của ta.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Sau khi nhận nhiệm vụ chiến đấu cấp trên giao, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 48 vừa tập trung học tập quán triệt nhiệm vụ, vừa dồn sức làm công tác chuẩn bị. Cùng thời gian này, Trung đoàn 48 nhận được lệnh tăng cường Tiểu đoàn 3 cho Trung đoàn 64 làm nhiệm vụ trên hướng chủ yếu. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 Phạm Văn Tiến và chính trị viên Phạm Văn Cổn nhận được lệnh tổ chức cho bộ đội lên đường ngày.
    Tháng 12 chiến dịch Đ7 bắt đầu mở màn. Các lực lượng trên từng hướng được lệnh chuyển quân vào vị trí tập kết. Hai giờ sáng ngày 19 tháng 12, Trung đoàn 64 (có lực lượng Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48 tăng cường) và Trung đoàn 52 bí mật hành quân vào vị trí chiếm lĩnh.
    9 giờ ngày 19 tháng 12 các đơn vị trên hướng chủ yếu báo về đã nhìn rõ các mục tiêu thì Bộ tư lệnh sư đoàn phát lệnh cho Trung đoàn 64 và Trung đoàn 52 tiến công. Qua ba ngày chiến đấu hiệp đồng binh chủng (19, 20, 21 tháng 12) Trung đoàn 64 và Trung đoàn 52 đã làm chủ mục tiêu trên giao trên chính diện 10 kilômét với chiều sâu 20 kilômét, từ Bản Không Tên đến đường 24, từ Tà Âm tới Tà Hiên.
    Do bị đột phá mạnh, một nửa địch chạy sang phía tây đường 7, số còn lại mắc kẹt trong vòng vây của ta. Chúng được lệnh phân tán nhỏ trong rừng để đánh phục kích quấy phá hành lang vận chuyển tiếp tế cho các đơn vị phía trước.
    Để nhanh chóng tiêu diệt quân địch còn lại trong khu vực, ngày 24 tháng 12 Trung đoàn 48-lực lượng dự bị chiến dịch được lệnh chuyển sang truy quét địch trong thời gian ba ngày nhằm tạo thế vững chắc đánh địch phản kích. Ngay sau khi nhận được lệnh, ban chỉ huy Trung đoàn 48 đã soạn thảo kế hoạch cụ thể.
    -Ngày 25 tháng 12, Tiểu đoàn 1 truy quét địch ở khu vực Tà Âm và nam đường 24 (đoạn Tà Âm đến cầu Stốc).
    -Ngày 26 tháng 12, Tiểu đoàn 2, truy quét địch ở bắc đường 24 đến Plây Kê giáp đường 7.
    -Ngày 27 tháng 12, hai Tiểu đoàn 1 và 2 hành quân so le hai bên đường 24 truy quét địch từ ngã 4 Stoeng đến giáp vị trí Trung đoàn 64.
    Rút kinh nghiệm địch không triển khai trận địa đặt sở chỉ huy ở trong bản, bãi trống, không đắp lô cốt hào giao thông; không bố trí các loại hàng rào che chắn mà chúng triển khai trận địa phục kích, tập kích bằng những hầm chữ U chìm, so le, thưa ở rìa bản, bìa rừng, bờ ruộng rất bí mật, bất ngờ. Nên khi truy quét địch, các đơn vị thường chia làm hai mũi hành tiến song song. Mũi nào gặp địc thì triển khai đội hình chiến đấu ?ođánh vỗ mặt? thu hút địch. Mũi thứ hai lợi dụng địa hình vòng phải (hoặc trái) đánh vào sườn hoặc sau lưng địch. Biện pháp truy quét địch mới này của Trung đoàn 48 đã đem lại hiệu quả. Ngày 25 tháng 12, Đại đội 3 Tiểu đoàn 1 tiêu diệt 3 tổ chốt (6 tên địch), thu 4 súng; Đại đội 6 Tiểu đoàn 2 (truy quét địch ở nam đường 24) diệt 2 tổ chốt (5 tên địch) thu 2 súng. Ngày 26 tháng 12, Đại đội 1 Tiểu đoàn 1 diệt 4 tổ chốt (11 tên địch) thu 7 súng; Đại đội 7 Tiểu đoàn 2 diệt 3 tổ chốt (8 tên địch) thu 5 súng (có 1 đại liên). Ngày 27 tháng 12, bộ đội ta truy kích đến đâu địch phá chạy đến đấy. Chúng rất lo sợ cách đánh mới này của ta.
    Cuối tháng 12 năm 1977, sau đợt truy kích địch hỗ trợ đắc lực cho Trung đoàn 64 đánh chiếm ngã tư Stoeng giành thắng lợi. Trung đoàn 48 được lệnh phát triển mở rộng cánh nam đường số 7 tiến công truy kích sư đoàn 5 địch. Ngày 29 tháng 12, cán bộ và chiến sĩ Tiểu đoàn 3 (từ Trung đoàn 64 về) được lệnh tổ chức tiến công điểm cao 31 (nam đường 24 khoảng 6 kilômét). Tiểu đoàn 2 và các đơn vị hoả lực trung đoàn triển khai đội hình ở phía sau hỗ trợ. Được nhân dân bạn (vừa được giải phóng) dẫn đường, sáng ngày 30 tháng 12 sau 15 phút tiến công. Tiểu đoàn 3 đã làm chủ trận địa. Đại đội 6 Tiểu đoàn 2 chốt giữ sườn phải, phát hiện một toán địch gần 50 tên mặc áo đen chạy tắt đồng đã nổ súng tiêu diệt 12 tên. Ngày 1 tháng 1 năm 1978, Tiểu đoàn 2 tiến công Bản Cháy 1 (địch đốt cháy nhiều bản làng ở khu vực này) diệt 20 tên, triệt phá một số kho tàng (chủ yếu là đạn) cung cấp cho sư đoàn 117 tiến công biên giới nước ta. Tiểu đoàn 1 phát triển song song với Tiểu đoàn 2 cách nhau hơn 1 kilômé, truy quét nhiều tốp địch bật khỏi những khu rừng thưa, những cánh đồng trống trải.
    Đến trưa ngày 2 tháng 1 năm 1978, sau bốn đợt đột kích lớn đánh tan các trận địa phục kích, tập kích cấp tiểu đoàn địch trên một chính diện 10 kilômét và chiều sâu 20 kilômét. Trung đoàn 48 cùng các đơn vị phối thuộc đã chiếm được ngã tư Chrum và Khu ?othành vuông góc?, phá huỷ hàng chục chiến sĩ hậu cần quan trọng của quân khu 203 địch trên tuyến đường 7 và đường 24, loài khỏi vòng chiến đấu hơn 500 tên, thu gần 200 súng các loại, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của địch.
    Ngày 5 tháng 1 năm 1978, chấp hành mệnh lệnh của trên. Trung đoàn 48 và các đơn vị bạn lần lượt rút về biên giới. Cuộc hành quân của Trung đoàn 48 cũng như các đơn vị bạn đã để lại những ấn tượng tốt đẹp trong lòng đồng bào Campuchia đang sống quằn quại rên xiết dưới chế độ diệt chủng tàn bạo của tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary.
    Chiến dịch phản công địch để bảo vệ lãnh thổ mà Trung đoàn 48 và các đơn vị trong Sư đoàn 320 tham gia đã ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục suy nghĩ nghiên cứu về kẻ thù mới, về nghệ thuật chiến dịch và chiến đấu trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, về công tác bảo đảm hậu cần chiến dịch, khi chiến đấu trong một chiến dịch phản công địch.
    Sau khi ra rút quân về biên giới, địch nhanh chóng đưa lực lượng bám sát, tăng cường cho các vị trí cũ, bổ sung thêm lực lượng ra biên giới phía đông, lấy Tây Ninh làm hướng chủ yếu, thường xuyên đánh phá bằng lực lượng vừa và nhỏ, bắn pháo bừa bãi vào các thị trấn, thị xã và khu đông dân cư của ta.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Từ những cuộc xung đột nhỏ lẻ Pol Pot đang dồn quân chủ lực ra biên giới, đẩy quy mô, cường độ cuộc xung đột thành một cuộc chiến tranh thực sự.
    Để đối phó với hành động vi phạm trắng trợn của địch, Trung đoàn 48 được lệnh triển khai phòng thủ từ đồn biên phòng Lò Gò đến khu vực Tà Âm, một trong những đoạn phòng thủ rất quan trọng từ Lò Gò đến Xa Mát do Sư đoàn 320 đảm nhiệm.
    Được cấp trên giao nhiệm vụ, Trung đoàn 48 nhanh chóng tổ chức thực hiện. Sau một tuần đi trinh sát thực địa, luồn lách qua những cánh rừng rậm rạp, dây dợ ken dày nhằng nhịt, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 48 đã quyết định chọn địa hình phòng thủ từ bắc Xóm Giữa qua đồn Lò Gò đến điểm cao 21 (tây bắc suối Đà Ha 300 mét). Đây là đoạn có địa hình phức tạp nhất, hầu hết là rừng rậm âm u bao bọc sông Vàm Cỏ và suối Đa Ha. Từ khi có âm mưu đánh chiếm biên giới Việt Nam, địch đã lợi dụng địa hình phức tạp ở đây thường xuyên bắn pháo, đột nhập, phục kích, tập kích gài mìn giết hại nhiều dân thường, cướp đi nhiều tài sản, làm cho nhân dân phải sơ tán về phía sau để các lực lượng vũ trang ta khó hoạt động. Cuối tháng 12 năm 1977, ta mở chiến dịch Đ7, địch đã phân tán nhỏ (án binh bất động) để bảo toàn lực lượng. Khi chiến dịch kết thúc, các đơn vị ta được lệnh trở về biên giới lập tuyến phòng thủ, thì địch ở đây hoạt động ráo riết trở lại. Nếu ta tổ chức đánh trả không tốt, bị động đối phó, chúng liền tổ chức bâu bám tiêu hao dần lực lượng ta.
    Căn cứ vào địa hình và khu vực tác chiến đã lựa chọn, ban chỉ huy trung đoàn quyết định sử dụng lực lượng: Tiểu đoàn 2 đứng chân ở khu vực Xóm Giữa và Lò Gò lập tuyến chốt chặn địch từ ngã ba sông Vàm Cỏ và suối Đà Ha đến Xóm Giữa với chính diện rộng khoảng 5 kilômét có nhiệm vụ cùng các chiến sĩ biên phòng bảo vệ Lò Gò, kiên quyết không cho địch đột nhập qua biên giới giết hại dân chúng, phá hoại cuộc sống bình yên của nhân dân ta. Tiểu đoàn 3 chốt giữ từ bắc ngã ba sông Vàm Cỏ theo suối Đà Ha đến ngầm đá (trục đường nối Mương Mới đi Tà Nốt). Địa hình ở đây hầu hết là rừng rậm, xen kẽ các bãi đá, một vài trảng trống và có rất nhiều đường cơ giới dã chiến dùng trong chiến tranh, dù đã bỏ lâu ngày, nhưng vẫn còn cơ động khá tốt. Với địa hình ấy, Tiểu đoàn 3 sau khi bố trí xong trận địa chốt chặn cấp đại đội phải làm kỹ công tác hiệp đồng chiến đấu giữa các đơn vị, đặc biệt chú trọng thủ đoạn chiến thuật của từng tổ, từng người trên chốt.
    Tiểu đoàn 1 đứng chân ở tây Mường Mới, là lực lượng dự bị của trung đoàn sẵn sàng cơ động chi viện cho các tiểu đoàn khi cần thiết. Các đơn vị trực thuộc: Đại đội 15 ĐKZ, có một khẩu 82 ly đi tăng cường cho Tiểu đoàn 2 bảo vệ đồn Lò Gò; Đại đội 16, có một khẩ 12,7 ly đi phối thuộc với Tiểu đoàn 3; Đại đội 17 công binh dò gỡ mìn tuyến đường đi Lò Gò và Ngầm Đá.
    Như vậy để chặn đứng các cuộc xâm nhập của địch dưới bất cứ hình thức, thủ đoạn, chiến thuật nào, Trung đoàn 48 phải khẩn trương xây dựng thế trận phòng ngự, ổn định vị trí trú quân, tranh thủ thời gian huấn luyện quân sự, đồng thời phải thường xuyên tổ chức các lực lượng luân phiên tuần tra, trực chiến bảo đảm an toàn đội hình đơn vị.
    Ngày 20 tháng 2 năm 1978 (sau Tết âm lịch nửa tháng) qua hơn một tháng dồn hết tâm lực chuẩn bị, tuyến phòng thủ của trung đoàn đã được hình thành. Hai tiểu đoàn (2,3) và các đơn vị phối thuộc ở phía trước sẵn sàng đánh địch từ mọi phía.
    Cuối tháng 2, vùng chiến thuật 20 quân khu 203 Pol Pot cho hai tểu đoàn thuộc sư đoàn 117 bao vây uy hiếp đồn Lò Gò. Vẫn như trận tập kích trước (tháng 10 năm 1977), ngày 26 tháng 2, địch cho một tiểu đoàn từ bên kia sông Vàm Cỏ lội bộ sang sự hỗ trợ của hoả lực pháo cối, 12,7, đại liên. Theo phương án đã chuẩn bị, Đại đội 7 Tiểu đoàn 2 và các chiến dịch biên phòng chờ cho địch lội ngoi ngóp đến sát bờ mới bất ngờ nổ súng. Gần 30 tên địch chết và bị thương trong một trận đánh đã làm cho chúng nhụt chí.
    Ngày 28 tháng 2, địch lại tổ chức tiến công ta. Rút kinh nghiệm, lần này địch cho hai đại đội có hoả lực ĐKZ82, cối 82, 12,7 từ trận địa bên kia sống bắn sang đồn hồi hò hét xung phong ầm ĩ. Khi bộ đội ta đang chú ý hướng chính diện mặt sông, thì từ phía sườn phải đồn (tây bắc) hai đại đội địch bất ngờ nổ súng. Trong chốc lát, ba tổ chốt phía bắc đồn Lò Gò do các chiến sĩ biên phòng đảm nhiệm rơi vào tình thế khó khăn. Có 12 đồng chí chốt giữ hướng này, thì 6 đã hy sinh và bị thương. Từ trưa đến tối, Đại đội 7 Tiểu đoàn 2 cho hai trung đội lợi dụng tuyến đường Lò Gò đi Mương Mới vòng sang phải đánh vào sườn địch, nhưng đều bị địch đánh bật trở lại. Cả đêm hôm đó, các chiến sĩ chốt giữ đồn Lò Gò phải đánh trả hàng chục đợt tiến công nhỏ lẻ của địch.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Từ những cuộc xung đột nhỏ lẻ Pol Pot đang dồn quân chủ lực ra biên giới, đẩy quy mô, cường độ cuộc xung đột thành một cuộc chiến tranh thực sự.
    Để đối phó với hành động vi phạm trắng trợn của địch, Trung đoàn 48 được lệnh triển khai phòng thủ từ đồn biên phòng Lò Gò đến khu vực Tà Âm, một trong những đoạn phòng thủ rất quan trọng từ Lò Gò đến Xa Mát do Sư đoàn 320 đảm nhiệm.
    Được cấp trên giao nhiệm vụ, Trung đoàn 48 nhanh chóng tổ chức thực hiện. Sau một tuần đi trinh sát thực địa, luồn lách qua những cánh rừng rậm rạp, dây dợ ken dày nhằng nhịt, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 48 đã quyết định chọn địa hình phòng thủ từ bắc Xóm Giữa qua đồn Lò Gò đến điểm cao 21 (tây bắc suối Đà Ha 300 mét). Đây là đoạn có địa hình phức tạp nhất, hầu hết là rừng rậm âm u bao bọc sông Vàm Cỏ và suối Đa Ha. Từ khi có âm mưu đánh chiếm biên giới Việt Nam, địch đã lợi dụng địa hình phức tạp ở đây thường xuyên bắn pháo, đột nhập, phục kích, tập kích gài mìn giết hại nhiều dân thường, cướp đi nhiều tài sản, làm cho nhân dân phải sơ tán về phía sau để các lực lượng vũ trang ta khó hoạt động. Cuối tháng 12 năm 1977, ta mở chiến dịch Đ7, địch đã phân tán nhỏ (án binh bất động) để bảo toàn lực lượng. Khi chiến dịch kết thúc, các đơn vị ta được lệnh trở về biên giới lập tuyến phòng thủ, thì địch ở đây hoạt động ráo riết trở lại. Nếu ta tổ chức đánh trả không tốt, bị động đối phó, chúng liền tổ chức bâu bám tiêu hao dần lực lượng ta.
    Căn cứ vào địa hình và khu vực tác chiến đã lựa chọn, ban chỉ huy trung đoàn quyết định sử dụng lực lượng: Tiểu đoàn 2 đứng chân ở khu vực Xóm Giữa và Lò Gò lập tuyến chốt chặn địch từ ngã ba sông Vàm Cỏ và suối Đà Ha đến Xóm Giữa với chính diện rộng khoảng 5 kilômét có nhiệm vụ cùng các chiến sĩ biên phòng bảo vệ Lò Gò, kiên quyết không cho địch đột nhập qua biên giới giết hại dân chúng, phá hoại cuộc sống bình yên của nhân dân ta. Tiểu đoàn 3 chốt giữ từ bắc ngã ba sông Vàm Cỏ theo suối Đà Ha đến ngầm đá (trục đường nối Mương Mới đi Tà Nốt). Địa hình ở đây hầu hết là rừng rậm, xen kẽ các bãi đá, một vài trảng trống và có rất nhiều đường cơ giới dã chiến dùng trong chiến tranh, dù đã bỏ lâu ngày, nhưng vẫn còn cơ động khá tốt. Với địa hình ấy, Tiểu đoàn 3 sau khi bố trí xong trận địa chốt chặn cấp đại đội phải làm kỹ công tác hiệp đồng chiến đấu giữa các đơn vị, đặc biệt chú trọng thủ đoạn chiến thuật của từng tổ, từng người trên chốt.
    Tiểu đoàn 1 đứng chân ở tây Mường Mới, là lực lượng dự bị của trung đoàn sẵn sàng cơ động chi viện cho các tiểu đoàn khi cần thiết. Các đơn vị trực thuộc: Đại đội 15 ĐKZ, có một khẩu 82 ly đi tăng cường cho Tiểu đoàn 2 bảo vệ đồn Lò Gò; Đại đội 16, có một khẩ 12,7 ly đi phối thuộc với Tiểu đoàn 3; Đại đội 17 công binh dò gỡ mìn tuyến đường đi Lò Gò và Ngầm Đá.
    Như vậy để chặn đứng các cuộc xâm nhập của địch dưới bất cứ hình thức, thủ đoạn, chiến thuật nào, Trung đoàn 48 phải khẩn trương xây dựng thế trận phòng ngự, ổn định vị trí trú quân, tranh thủ thời gian huấn luyện quân sự, đồng thời phải thường xuyên tổ chức các lực lượng luân phiên tuần tra, trực chiến bảo đảm an toàn đội hình đơn vị.
    Ngày 20 tháng 2 năm 1978 (sau Tết âm lịch nửa tháng) qua hơn một tháng dồn hết tâm lực chuẩn bị, tuyến phòng thủ của trung đoàn đã được hình thành. Hai tiểu đoàn (2,3) và các đơn vị phối thuộc ở phía trước sẵn sàng đánh địch từ mọi phía.
    Cuối tháng 2, vùng chiến thuật 20 quân khu 203 Pol Pot cho hai tểu đoàn thuộc sư đoàn 117 bao vây uy hiếp đồn Lò Gò. Vẫn như trận tập kích trước (tháng 10 năm 1977), ngày 26 tháng 2, địch cho một tiểu đoàn từ bên kia sông Vàm Cỏ lội bộ sang sự hỗ trợ của hoả lực pháo cối, 12,7, đại liên. Theo phương án đã chuẩn bị, Đại đội 7 Tiểu đoàn 2 và các chiến dịch biên phòng chờ cho địch lội ngoi ngóp đến sát bờ mới bất ngờ nổ súng. Gần 30 tên địch chết và bị thương trong một trận đánh đã làm cho chúng nhụt chí.
    Ngày 28 tháng 2, địch lại tổ chức tiến công ta. Rút kinh nghiệm, lần này địch cho hai đại đội có hoả lực ĐKZ82, cối 82, 12,7 từ trận địa bên kia sống bắn sang đồn hồi hò hét xung phong ầm ĩ. Khi bộ đội ta đang chú ý hướng chính diện mặt sông, thì từ phía sườn phải đồn (tây bắc) hai đại đội địch bất ngờ nổ súng. Trong chốc lát, ba tổ chốt phía bắc đồn Lò Gò do các chiến sĩ biên phòng đảm nhiệm rơi vào tình thế khó khăn. Có 12 đồng chí chốt giữ hướng này, thì 6 đã hy sinh và bị thương. Từ trưa đến tối, Đại đội 7 Tiểu đoàn 2 cho hai trung đội lợi dụng tuyến đường Lò Gò đi Mương Mới vòng sang phải đánh vào sườn địch, nhưng đều bị địch đánh bật trở lại. Cả đêm hôm đó, các chiến sĩ chốt giữ đồn Lò Gò phải đánh trả hàng chục đợt tiến công nhỏ lẻ của địch.

Chia sẻ trang này