1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trên biên giới Tây Nam và tiêu diệt bọn diệt chủng Pol Pot

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi ptlinh, 06/10/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. songvedem

    songvedem Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/07/2003
    Bài viết:
    683
    Đã được thích:
    34

    Các trận đánh lớn giữa quân ta đánh với quân Thái (theo tôi biết) là ở Lào, nhằm bảo vệ biên giới các bạn Lào. Không thể bàn ở đây vì lạc chủ đề
    ------------------

    Bác em từng công tác nhiều năm ở cả L và K, chuyên về chính trị, (phó gi đốc đài phát thanh và TH HN, phó bí thư TY HN gì đó, cùng nhiều chức danh khác.......). Trước cho nhà em đường Thốt nốt mãi. Có kể về việc Thái tuyên bố bộ đội Vn tại Lào tấn công Thái. Thực ra vấn đề đề là lính lào giống lính Vn. Khi đó VN có cử chuyên gia quân sự sang. Khi tấn công dùng tiếng Lào thì bọn Thái nó hiểu hết. Thế là chuyển sang khẩu lệnh sang tiếng Việt, vì cả chuyên gia và lính đều hiểu tiếng này hết. Bọn Thái nghe được nói là lính Vn.
    Cụ thể thằng nào tẩn trước thì em k biết, nhưng Viên Chăn nằm trong tầm đạn pháo đặt tại biên giới Thái. Hình như vụ đó tranh nhau mấy cái rẻo đất nằm giũa sông Mekong thì phải.
  2. putuzop

    putuzop Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2007
    Bài viết:
    364
    Đã được thích:
    0
    Vào đây em thấy khoái chủ đề này đấy, đúng vào món mà em có cũng có kha khá. Không biết ở đây đã có ai post chưa, em cứ cho đại lên. Nếu có rồi mod xoá hộ em, nếu các bác thấy thích thì vote cho em một cái cho khí thế. Cái này nó tương đối khách quan em có chỉnh sửa chút ít cho phù hợp với đường lối của Đảng, nhưng nói chung là... được
    http://blog.360.yahoo.com/blog-rxFR36ozd6cPP3g7ix0my_9gSO.WLGCf?p=146
    Trước hết em xin bắt đầu từ đoạn:
    Chính quyền Campuchia dân chủ và những tội ác khủng khiếp
    Ngày 17-4-1975, quân Khmer Đỏ tiến vào Phnom Penh, chính thức nắm chủ quyền cả nước Campuchia. Trên danh nghĩa, chính phủ Campuchia lúc đó vẫn là chính phủ Hoàng gia thống nhất quốc gia Campuchia, một liên minh giữa hai phe Sihanouk và Khmer Đỏ được thành lập năm 1970 tại Bắc kinh để đối phó lại chính phủ Cộng hoà của tướng Lon Nol. Chính phủ đó do Sihanouk Quốc trưởng, Pen Nouth Thủ tướng, Khieu Samphan Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng quốc phòng, Hu Nim Bộ trưởng Thông tin, Hou Youn Bộ trưởng Nội Vụ. Thật ra Sihanouk và Penn Nouth chỉ có hư vị. Từ 1970 đến 1975, Sihanouk đã phải ở lì tại Bắc Kinh, bị Ieng Sary lúc đó là trưởng phái bộ liên lạc giám sát chặt chẽ. Ông ta chỉ được về thăm mật khu Khmer Đỏ có một lần vào tháng 3-1973 sau khi nhờ Phạm Văn Đồng can thiệp với Trung hoa để áp lực với Ieng Sary.
    Sau ngày 17-4-1975, Sihanouk vẫn chưa được về nước ngay, mà phải đợi đến ngày 19-8-1975 Khieu Samphan và Ieng Thirith mới qua Bình Nhưỡng đón về. Còn Hou Youn khi vào Phnom Penh đã bị mất tích một cách bí mật, có lẽ bị thủ tiêu vì chống lại chính sách quá khích. Vừa vào đến Phnom Penh, Khmer Đỏ đã bắt đầu thanh toán các thành phần đối lập, phản cách mạng và thực hiện công tác di tản dân thành phố về nông thôn.
    Đảng cộng sản Campuchia, núp dưới cái tên ?oTổ chức? (Angkar) bắt đầu củng cố quyền hành. Ban thường vụ Trung ương Đảng lúc đó gồm có Pol Pot, Nuon Chea, Ta Mok, So Phim, Ieng Sary, Von Verth, Son Sen và Takeu. Sau Pol Pot, nhân vật số hai Nuon Chea là một cán bộ cộng sản kỳ cựu, đã gia nhập đảng cộng sản Thái lan trước khi gia nhập đảng cộng sản Đông dương. Ở đại hội đảng năm 1960, Noun Chea đứng ở vị trí số hai. Sau khi Tổng bí thư Tou Samouth bị mất tích, Noun Chea vẫn đứng hàng thứ hai, để Pol Pot lên thay. Có lẽ vì không tham vọng và trung thành nên Nuon Chea được Pol Pot tin cẩn. Trong đảng, Nuon Chea đặc trách Vụ Tổ chức (chức vụ tương đương với Trưởng ban tổ chức TW Đảng - Lê Đức Thọ của Việt nam lúc đó). Trước 1975, Nuon Chea là Tư lệnh phó Khmer Đỏ kiêm Chính uỷ toàn quân. Hai Uỷ viên khác là Ta Mok và So Phim là hai Bí thư Khu uỷ uy tín nhất. Von Verth trước 1975 là Bí thư Thành uỷ Phnom Penh, Ta Khu chỉ huy trưởng quân sự khu Tây Bắc. Tháng 7-1975, Pol Pot triệu tập đại hội các bí thư khu uỷ để thống nhất quân đội và phân định lại ranh giới. Quốc gia Campuchia được chia ra làm bảy khu. Đó là các khu Tây Nam (bí thư Ta Mok), Tây Bắc (Nhim Ros), Bắc (Khoy Thoàn), Đông (So Phim) Trung ương (Ke Pauk), Đông Bắc (Men San), Tây (Chu Chẹt).
    Trước đó, trong chiến tranh, các bí thư khu uỷ hành động độc lập và được coi như những lãnh chúa, kiêm nhiệm cả về hành chánh lẫn quân sự, toàn quyền sinh sát. Sau đại hội, tất cả các bí thư khu uỷ biểu quyết chấp thuận đường lối cộng sản quá khích của Pol Pot và đồng ý giao lại hai phần ba quân số cơ hữu của mỗi quân khu cho Trung ương, để thành lập một quân đội thống nhất, chính qui. Một phần ba còn lại trở thành lực lượng cơ hữu quân khu. Khmer Đỏ vẫn núp dưới cái tên Tổ chức và Pol Pot vẫn còn là một nhân vật bí mật. Còn Sihanouk và Pen Nouth tuy được mang danh Quốc trưởng và Thủ tướng nhưng chỉ là hư danh, không có một chút quyền hành và gần như bị giam lỏng.
    Ngày 5-1-1976, hiến pháp chính thức của Campuchia ra đời. Hiến pháp không có đoạn nào nói về những quyền tự do căn bản, mà chỉ ám chỉ đến chính sách cường bách lao động bằng câu ?otuyệt đối không có nạn thất nghiệp?.
    Ngày 20-3-1976, Quốc hội Campuchia được bầu ra, đa số các đại biểu là bí thư các quân khu và chi khu, Nuon Chea được cử làm Chủ tịch Quốc hội. Theo hiến pháp, quốc gia Campuchia sẽ có một Hội đồng Chủ tịch nhà nước do Quốc hội bầu lên. Sihanouk, người Quốc trưởng được chỉ định, không còn con đường nào khác, nộp đơn từ chức. Quốc hội đề cử Khieu Samphan giữ chức Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, So Phim đệ nhất Phó chủ tịch, Nhim Ros đệ nhị Phó chủ tịch. Còn Sihanouk từ đó bị quản thúc. Ngày 12-4-1976, chính phủ chính thức của Khmer Đỏ ra mắt. Thủ tướng là Pol Pot, Ieng Sary Bộ trưởng ngoại giao, Son Sen Bộ trưởng quốc phòng, Von Verth Phó Thủ tướng đặc trách Kinh tế, Khẩy Toàn Bộ trưởng Kỹ nghệ, Hu Nam Bộ trưởng Thông tin, Thioun Thioeun Bộ trưởng Y Tế, Tauch Phoem Bộ trưởng Công chánh. Vợ Son Sen là Yun Yet Bộ trưởng Văn hoá giáo dục, vợ Ieng Sary là Thirith Bộ trưởng Xã hội.
    Trái với sự mong đợi của nhiều người, nhất là những người dân Campuchia, ngày 17-4-1975 đã không đánh dấu một kỷ nguyên hoà bình no ấm, mà nó đã bắt đầu một giai đoạn đen tối nhất của lịch sử Campuchia. Là những người cộng sản cuồng tín, tập đoàn lãnh đạo Khmer Đỏ đã kết hợp những thực nghiệm xã hội chủ nghĩa đẫm máu của Stalin và Mao Trạch Đông với những kinh nghiệm lao động nô lệ của đời vua Jayavarman VII đến một mức độ cực đoan, gần như điên cuồng. Cũng công xã, cũng tập thể, cũng kinh tế chỉ huy, nhưng đường lối không tưởng tiến thẳng lên cộng sản chủ nghĩa của Campuchia đã đưa đến một thảm hoạ chưa từng thấy cho toàn dân tộc Campuchia. Dĩ nhiên công tác đầu tiên và chính yếu của một Đảng cộng sản khi mới nắm được chính quyền là nắm vững chuyên chính vô sản?, ?otiêu diệt những phần tử phản cách mạng?. Nhưng hơn cả Stalin, Mao Trạch Đông và Hitler, đường lối quá khích của Khmer Đỏ đã gây ra thảm kịch tự diệt chủng hơn một phần tư dân số. Cộng sản Campuchia gọi những thành phần đối nghịch cần tiêu diệt là ?oba ngọn núi quyền lực *********?. Ba ngọn núi kể trên lần lượt là đế quốc, phong kiến và tư sản mại bản. Nhưng sự suy diễn và xếp loại những thành phần này lại rất mơ hồ và lỏng lẻo. Đế quốc ngoài những viên chức hay sĩ quan, hạ sĩ quan chế độ cũ, còn là bất cứ người nào có liên quan đến ngoại quốc, như người gốc Việt, gốc Ấn, gốc Hoa, gốc Chàm. Cũng thế, phong kiến không chỉ có nghĩa những người liên quan đến hoàng tộc mà còn là những người tương đối có địa vị trong xã hội cũ như chuyên viên, trí thức, tăng ni... Còn tư sản mại bản là những thương gia, tiểu thương, nhất là những người cho vay nặng lãi.
    Những người đầu tiên Khmer Đỏ phải giải quyết ngay là những sĩ quan viên chức chế độ cũ. Họ bị kêu đi trình diện ngay trong ngày 17-4-1975. Trong danh sách ?obảy tên phản bội? mà đài phát thanh Khmer Đỏ tuyên án tử hình trước khi vào Phnom Penh gồm có Lon Nol, Sirik Matak, Long Boret, tướng Fernandez, cựu Thủ tướng In Tam, cựu Quốc trưởng Cheng Keng, và ông Sơn Ngọc Thành, chỉ có hoàng thân Sirik Matak và Thủ tướng Long Boret còn ở lại. Cả hai đều từ chối lời mời của Đại sứ Dan cùng lên máy bay di tản. Hoàng thân Sirik Matak bị bắt sau khi tị nạn trong toà đại sứ Pháp, còn ông Long Boret thì chán nản, mệt mỏi, gọi điện thoại cho Khmer Đỏ chỉ đường cho họ đến nhà bắt. Dĩ nhiên cả hai bị giết ngay.
    Những sĩ quan cao cấp của quân Cộng hoà cũ sau khi khai lý lịch bị bắn chết ngay ở sân vận động thành phố, còn các viên chức dân sự thì bị xử tử ở Hội quán thể thao Phnom Penh. Trong số những người bị giết trong ngày đầu tiên có tướng Lon Non, em ruột Lon Nol, các tướng Chim Chuồn, Hem Keth Dong, phát ngôn viên quân sự Am Rong, các bộ trưởng trong chính phủ cũ, Chủ tịch Quốc hội Ung Bun Hor, cao tăng Phật Giáo Saundech Saugh.
    Riêng tại tỉnh Battambang, ngày 23-4-1975, Khmer Đỏ đem sáu xe vận tải chở các sĩ quan nói là đi đón Sihanouk nhưng lại đưa đến một địa điểm hoang vắng phục kích tàn sát hết, chỉ có bốn người chạy thoát trốn sang Thái lan. Đồng thời khoảng ba trăm hạ sĩ quan cũng bị giết tại một địa điểm khác. Sau các sĩ quan, hạ sĩ quan, về sau một số binh lính cùng những người thuộc ?ohai ngọn núi? ********* còn lại cũng dần dần bị bắt và thủ tiêu, trong lúc đang còn trên đường di chuyển, hoặc sau khi đã đến nơi định cư. Ngay từ ngày đầu tiên, song song với công tác tiêu diệt những phần tử phản cách mạng, cộng sản Campuchia bắt đầu thực hiện ngay một cuộc cách mạng thứ hai, cuộc cách mạng tiến thẳng lên cộng sản chủ nghĩa và xây dựng một quốc gia Campuchia ?ohùng cường thịnh vượng? trong vòng mười năm, bằng cách áp dụng một chính sách kinh tế tập trung, thiết lập một xã hội cộng sản nguyên thuỷ và cưỡng bách lao động toàn thể dân chúng. Họ phá bỏ hoàn toàn hệ thống kinh tế cũ, bãi bỏ tiền tệ, bãi bỏ tư hữu, tiêu diệt giai cấp tư sản và các thành phần buôn bán. Toàn thể dân chúng ở Phnom Penh cũng như ở các thành phố lớn như Battambang, Kompong Cham, Siem Reap, Kompong Thom... phải di tản về những vùng quê hẻo lánh xa xôi để tham gia lao động sản xuất. Chưa kịp hưởng một giây phút chào đón hoà bình, họ bắt buộc phải di tản ngay, vì theo Khmer Đỏ, ?omáy bay Mỹ sắp oanh tạc thành phố?. Đối với Khmer Đỏ, dân thành thị được coi như những thành phần khả nghi, *********, ăn bám, trong chiến tranh đã không đóng góp được gì cho ?ocách mạng?. Tất cả mọi người kể cả thương binh, những người già yếu bệnh tật phải rời thành phố ngay lập tức. Con đường di chuyển được quyết định một cách độc đoán. Có những người phải đi bộ hàng tuần, có những người phải đi bộ hàng tháng mới đến nơi định cư. Nhiều người bị chết trên đường đi hoặc vì bì đói khát, bệnh tật, hoặc vì bị bất hay xử tử vì đủ mọi lý do. Suốt hơn bốn năm Khmer Đỏ nắm chính quyền một bầu không khí khủng bố và chết chóc bao phủ toàn quốc Campuchia. Ngay sau khi đến nơi định cư, những người dân thành thị di tản bị xếp ngay vào thành phần những ?ongười mới? để phân biệt với những ?ongười cũ? là những người địa phương từng ở dưới sự cai trị của Khmer Đỏ trước đó. ?oNgười mới? phải ở cách biệt với ?ongười cũ?. Nhiều khi, vì nhu cầu công lách họ phải đổi chỗ định cư luôn, và phải thi hành những công tác nặng nhọc nhất, dưới những điều kiện khắc nghiệt nhất, ở những nơi khí hậu và đất đai khó khăn như những vùng rừng núi, sình lầy. đời sống riêng tư bị cấm đoán và phương tiện y tế hầu như không có. Khẩu phần của người mới lúc nào cũng thiếu thốn (thường thì người cũ được hai bát cơm một bữa, người mới một bát rưỡi). Mỗi khi địa phương bị thiếu lương thực thì những người mới bị lãnh hậu quả trước tiên. Gia đình những người mới bị phân tán khắp nơi, tuỳ theo tuổi và nhu cầu, nhất là những thiếu niên dưới mười tám tuổi phải ở riêng với cha mẹ để khỏi bị ?oô nhiễm ý thức hệ? cũ. Kể cả ông hoàng Sihanouk cũng có một số con cái bị phân tán, không biết lao động ở đâu và sau này chết nơi nào. Những người mới thường xuyên bị theo dõi, bị khai lý lịch, bị kiểm soát và có thể bị kết tội và xử tử bất cứ lúc nào. Nếu không bị bắt vì lý lịch, thì cũng có thể bị bắt và bị giết vì lười lao động, vì tỏ thái độ bất mãn hay có những quan hệ tình cảm bị cấm đoán. Người bị kết tội không cần phải ra toà, và để tiết kiệm đạn họ sẽ bị xử tử bằng búa, rìu, hay bị trùm túi nhựa cho đến khi bị nghẹt thở. Những người sống sót cùng những ?ongười cũ? đều được đội ngũ hoá, được xếp thành tổ, xã, phường, quận...
  3. putuzop

    putuzop Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2007
    Bài viết:
    364
    Đã được thích:
    0
    Tiếp tội ác của Ponpot nè.....
    Về lao động sản xuất, họ được tổ chức thành những lực lượng?, ?ohợp tác?, công đoàn?, ?onông trường?. Sau khi nhân dân đã được đội ngũ hoá như thế cả nước Campuchia trở nên một trại tập trung khổng lồ. Dân chúng phải làm việc mỗi ngày từ sáu giờ sáng đến tám chín giờ đêm. Sau đó còn phải họp tổ để kiểm điểm. Hầu như trong năm không có ngày lễ. Những ngày nghỉ được luật quy định là những ngày 10, 20, 30 trong tháng, nhưng điều này hiếm khi được thực hiện.
    Mục tiêu đội ngũ hoá cả nước này đã được Khieu Samphan hoạch định trong luận án tiến sĩ kinh tế tại Sorbonne năm 1959. Ông ta viết: ?oSự tổ chức có phương pháp tiềm năng của quần chúng nông dân sẽ làm tăng hiệu năng sản xuất lên hàng trăm lần?, và biện pháp tiêu diệt tư hữu, cường bách lao động, ăn ở tập thể này ít ra đã được một người thán phục, đó là Mao Trạch Đông, tác giả ?obước nhảy vọt vĩ đại? ở Trung hoa. Ông ta đã khen Pol Pot: chỉ trong một hành động mà các đồng chí đã thực hiện được những gì chúng tôi không làm được. Nhưng cũng không ai biết rõ hậu quả khủng khiếp của đường lối này hơn Chu Ân Lai. Năm 1975, trên giường bệnh, ông ta đã khuyên Khieu Samphan và Ieng Thirith ?oHãy tiến từ từ từng giai đoạn, chậm mà chắc?, lúc đó Khieu Samphan và Ieng Thirith chỉ nhìn nhau mỉm cười và không trả lời. Tương tự như Stalin trong những năm 1930 hay Mao Trạch Đông trong những năm 1960, chính sách quá khích của Khmer Đỏ đã đưa đến những hậu quả kinh tế tại hại. Hầu hết chuyên viên, trí thức đều đã bị giết hại hoặc bị tập trung, những nông trường do những cán bộ không có kinh nghiệm nông nghiệp chỉ huy, những công trình thuỷ lợi được xây dựng một cách ngu dốt, những nguyên tắc về quản trị và kế toán cơ bản không có khiến cho dù cả nước tập trung lao động đến kiệt quệ mà kết quả là mức sản xuất đã quá tồi tệ.
    Và rồi cũng giống như ở Liên xô, Trung quốc để đổ lỗi cho những thất bại, cuộc thanh trừng nội bộ triền miên bắt đầu. Sau khi những thành phần thuộc ?oba ngọn núi? ********* đã bị tiêu diệt hết, nạn nhân chính của những cuộc thanh trừng là những người bị nghi ngờ là tay sai ngoại bang cài vào phá hoại chế độ. Những nạn nhân đầu tiên thường bị gán là tay sai CIA phá hoại kinh tế, nhưng những nạn nhân về sau, thì bị cho là tay sai do Việt nam phá hoại cả kinh tế, chính trị lẫn quân sự. Điển hình cho những đợt thanh trừng này, chúng ta có thể thấy khi xét đến những thành phần tù nhân bị bắt vào Tuol Sleng. Toàn quốc Campuchia có nhiều trung tâm thẩm vấn nhưng Tuol Sleng, có nghĩa ?oĐồi độc dược? bí danh S21, là một trung tâm thẩm vấn nổi tiếng và điển hình, vì nó ở ngay Phnom Penh, đã giam giữ và thủ tiêu những nhân vật quan trọng, và vì đã để lại hồ sơ những can phạm rất đầy đủ so với các địa ngục trần gian khác như Đầm Đùn, Lý Bá Sơ, Phan Đăng Lưu, Lubyanka thì Tuol Sleng đã đạt đến tột cùng của sự tàn ác. Được thành lập năm 1976, cho đến cuối năm 1978, trung tâm này đã giam giữ khoảng 20,000 tù nhân. Tra tấn ở nơi đây đã trở nên một quy luật. Tài liệu ở Tuol Sleng có ghi rõ ?ocông tác của ngành Công an đặc biệt là một công tác đấu tranh giai cấp. Dù bí mật của địch sâu kín đến mức nào, chúng ta cũng sẽ lôi ra cho được?. Nó cũng là một nghệ thuật. ?oChúng ta sẽ phải làm tất cả những gì cần thiết để kẻ thù lúc nào cũng mơ hồ về vấn đề được sống hay chết, và còn hy vọng là có thể sống sót?, hay một khoa học: ?oChúng ta không tra tấn quá nặng tay. Nếu chúng vẫn còn đau ngay cả khi không bị đánh, chúng ta sẽ thu thập rất ít. Nếu chúng bị tra tấn đến nỗi không mở miệng nổi, điều đó sẽ gây phiền phức cho Đảng?. Với đường lối tra tấn dã man này, những người bị bất đành phải ký tên nhận bừa tội lỗi để được chết sớm.
    Chỉ huy trại Tuol Sleng là Duch, trước kia là một giáo viên, tham gia phong trào cộng sản ở khu Tây Nam dưới quyền Tamok. Năm 1972 Duch phụ trách an ninh ở Phnom Penh dưới quyền Von Verth. Sau 1975, là chỉ huy trưởng Công an toàn quốc, chỉ dưới quyền Pol Pot và Son Sen. Theo thời gian, trại này bành trướng dần. Năm 1976, trung tâm chỉ có hai ngàn tù nhân, năm 1977 tăng lên sáu ngàn, năm 1978 lên tới mười hai ngàn. Những thành phần bị bắt và thủ tiêu cũng thay đổi. Mới đầu là những người ít nhiều có dính dáng đến chế độ cũ như giáo sư, bác sĩ, sinh viên, binh sĩ. Sau đó là những phần tử khả nghi phá hoại kinh tế như các công nhân, cán bộ chỉ huy và ?okiều bào hải ngoại yêu nước? trở về phục vụ. Trong đợt này còn có Khoa Thoàn, Bộ trưởng Kinh tế và Nhím Ros, Bí thư Khu uỷ khu Tây Bắc vì không đạt chỉ tiêu sản xuất. Sau cùng là những người bị tố cáo có ?othân xác Khmer và đầu óc Việt nam?, kể cả những cán bộ cao cấp như Keo Meas, Hu Năm, Von Verth.
    Việc thanh trừng Keo Meas mở đầu một giai đoạn cắt đứt những gì quan hệ với Việt nam một cách sâu rộng và công khai. Keo Meas là một đảng viên cộng sản kỳ cựu từ thời Đông dương cộng sản Đảng, từng là bí thư thành uỷ Phnom Penh trước Pol Pot. Năm 1958, vì xuất hiện công khai để tranh cử quốc hội nên Keo Meas bị lộ tông tích và bị mật vụ Sihanouk theo dõi, phải trốn sang Việt nam. Tới 1960 Keo Meas từ Việt nam lén lút trở về tham dự đại hội đảng lần thứ nhất và được bầu lên làm một trong năm Uỷ viên Thường vụ. Sau khi Tou Samouth chết, trong đại hội đảng lần thứ hai năm 1963, Keo Meas bị mất chức, nhưng ông ta vẫn còn uy tín với một số đồng chí cũ nên được giao phó trọng trách viết lịch sử đảng. Thời gian đó, phong trào cộng sản Campuchia đã có hai phe, phe các cựu đảng viên như Keo Meas vẫn coi ngày 30-9-1951 là ngày đầu tiên thành lập đảng cộng sản Campuchia. Phe thứ hai do Pol Pot đứng đầu, không muốn có dấu tích gì của Việt nam nên muốn lấy ngày 21-9-1960 là ngày kỷ niệm. Tuy phe Pol Pot mạnh hơn, nhưng trong chiến tranh đang cần có sự giúp đỡ của Việt nam, nên Keo Meas đã đưa ra một giải pháp dung hoà là lấy ngày 30.9, ngày thành lập đảng Nhân dân cách mạng làm ngày kỷ niệm, nhưng lại lấy năm 1960, năm thành lập đảng Lao động Campuchia là năm đầu tiên của phong trào cộng sản. Cuộc tranh chấp giữa hai phe trở nên công khai vào tháng 9-1976, khi Keo Meas viết trên tờ Cờ đỏ, cơ quan ngôn luận của Đoàn Thanh niên cộng sản, tái công nhận đảng cộng sản Campuchia được thành lập từ năm 1951 và đã được sự giúp đỡ của những đảng cộng sản anh em, nhất là của Việt nam. Trong khi đó, báo Cờ cách mạng, tờ báo chính thức của Trung ương đảng cộng sản, viết rằng đảng được thành lập năm 1960, theo một đường lối riêng biệt Khmer và hoàn toàn do tự lập. Cùng thời gian, Pol Pot tuyên bố tạm từ chức vì lý do sức khỏe, lui vào bóng tối lãnh đạo cuộc thanh trừng. Mấy ngày sau, Keo Meas bị bắt, và sau khi bị tra tấn, đành thú nhận rằng ý kiến dung hoà về ngày 21-9-1960 là một âm mưu nhằm phá hoại sự chính thống và hợp pháp của đảng cộng sản Campuchia.
    Sau vụ thanh toán Keo Meas, tập đoàn Pol Pot, Ngon Chia, Son Sen và Dịch càng tin chắc là Việt nam đang mưu toan phá hoại đảng và chế độ nhằm thôn tích Campuchia và thành lập Liên bang Đông dương. Nhất là sau đó, tháng 12-1976, Việt nam ký thông cáo thân hữu với Lào và nêu mục tiêu thiết lập ?oquan hệ đặc biệt? giữa ba nước. Nhưng tình hình biên giới giữa hai nước lúc đó tạm yên, vì nước đỡ đầu cho Campuchia, Trung hoa, sau cái chết của Mao Trạch Đông ngày 9-9-1976, đang chìm trong một cuộc đấu tranh nội bộ gay gắt. Mấy tháng sau, khi tình hình Trung hoa đã sáng tỏ, các nhà lãnh đạo mới ở Bắc kinh tái xác nhận sự ủng hộ đối với đường lối của đảng cộng sản Campuchia, Pol Pot mới ra lệnh phát động cuộc chiến tranh biên giới trên một qui mô rộng lớn hơn. Nhưng cuộc chiến tranh đó đã không giúp Pol Pot có được sự đoàn kết trong nội bộ đảng và nhân dân, mà chỉ gây thêm chia rẽ và căm thù trong lòng dân chúng. Nhất là sau vụ thanh toán So Phim và quân đội quân khu Đông, chế độ Khmer Đỏ đã đi nhanh hơn trên con đường tự huỷ hoại, và chỉ hơn một năm sau, chế độ này đã bị sụp đổ.
    http://blog.360.yahoo.com/blog-rxFR36ozd6cPP3g7ix0my_9gSO.WLGCf?p=146
  4. leuleu001

    leuleu001 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/12/2007
    Bài viết:
    54
    Đã được thích:
    0
    Có mấy bài bên Ô tô SG của các bác cựu binh BG TN, khoan nói thực hư, mời cả nhà thưởng lãm
    http://www.otosaigon.com/forum/tm.aspx?m=366839&mpage=1
  5. putuzop

    putuzop Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2007
    Bài viết:
    364
    Đã được thích:
    0
    Tiếp chiến tranh biên giới Tây Nam đây:
    Chiến trường biên giới Tây nam năm 1977
    Đêm 30-4-1977, hai năm sau ngày bộ đội cộng sản chiến thắng tại miền Nam Việt nam, những đơn vị thuộc hai sư đoàn 210 và 250 thuộc quân khu Tây Nam Campuchia mở một cuộc tấn công quy mô cấp trung đoàn vào lãnh thổ quân khu 9 Việt nam thuộc tỉnh An Giang, bắt đầu cuộc chiến tranh hậu chiến, chiến tranh Đông dương thứ ba, hay cuộc chiến huynh đệ tương tàn giữa hai quốc gia Đông Dương.
    Xét về tương quan lực lượng, ưu thế quân sự nghiêng hẳn về phía Việt nam. Dân số, quân số đông đảo hơn bội phần. Vũ khí, chiến cụ dồi dào, tối tân hơn. Binh sĩ thiện chiến, nhiều kinh nghiệm hơn. Ngay cả đồng minh Trung hoa của Campuchia cũng không tin Campuchia có thể thắng được một trận chiến quy ước với Việt nam. Đứng hậu thuẫn cho Campuchia trong chiến tranh chống phá Việt nam, Trung hoa chỉ muốn có một cuộc chiến tiêu hao và giới hạn, nhằm làm kiệt quệ tài nguyên và nhân lực của Việt nam, gây áp lực để Việt nam từ bỏ đường lối thân Liên xô và giảm bớt mối đe doạ từ biên giới phía Nam. Tuy nhiên, những nhà lãnh đạo cộng sản Campuchia, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nhất là do lòng cuồng tín đến bệnh hoạn, đã ước tính sai khả năng của mình và của Việt Nam, đã tự chia rẽ và tự huỷ hoại, để cho cuộc chiến tranh mới đầu lẻ tẻ, giới hạn sau đó lan rộng, đưa đến sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ.
    Sau 1975, miền Nam bị sụp đổ, Việt nam trở nên một quốc gia có dân số đứng hàng thứ mười ba trên thế giới, và một quân số đông hàng thứ tư (chỉ đứng sau Trung Quốc, Liên Xô, Mỹ) nhiều hơn quân số của tất cả sáu nước ASEAN cộng lại. Nhưng dù với một quân lực hùng hậu như thế, sau chiến thắng, Việt nam vẫn không được yên ổn mà lại bị đe doạ bởi hai nước lân bang mới đây là đồng minh ở phía Bắc và phía Tây. Vì thế mà dù mang tiếng có hoà bình và ở trong một hoàn cảnh kinh tế kiệt quệ, chính quyền Việt nam vẫn phải duy trì và phát triển một đạo quân khổng lồ với 1.5 triệu người.
    Về tổ chức, quân đội Việt nam, được tự gọi là Quân đội nhân dân Việt nam, gồm có ba binh chủng lục quân, hải quân và không quân. Lãnh thổ được chia làm các quân khu I, II, III, IV, V, VII, IX, Quân khu Thủ Đô, đặc khu Quảng Ninh và đặc khu thành phố Hồ Chí Minh. Lục quân gồm có chính quy, chủ lực quân khu và dân quân địa phương. Lực lượng chính quy, trực thuộc Bộ tổng tham mưu, sau 1975 được tổ chức thành bốn quân đoàn cơ động, sử dụng như những lực lượng tổng trừ bị. Bốn quân đoàn 1, 2, 3, 4 này, còn được gọi là những binh đoàn Quyết Thắng, Hương Giang, Tây Nguyên và Cửu Long. Sau 1979, số quân đoàn này được tăng lên thành sáu rồi tám. Mỗi quân đoàn có từ ba mươi ngàn đến bốn mươi ngàn quân, gồm có ba hay bốn sư đoàn bộ binh, cùng những đơn vị yểm trợ như pháo binh, thiết giáp, truyền tin, quân y... Ngoài những vũ khí mà thu được từ quân đội Việt nam cộng hoà, bộ đội Việt nam có khoảng hơn một ngàn xe tăng T34, T54, T55, T59, T62, năm trăm xe PTP76, khoảng sáu trăm súng đại bác, ba ngàn súng phòng không và các đơn vị tên lửa SAM. Chủ lực miền là những đơn vị cơ hữu của mỗi quân khu. Ngoài những sư đoàn chủ lực quân khu, mỗi tỉnh còn có một hay hai trung đoàn chủ lực tỉnh như những trung đoàn Vàm Cỏ, Sông Bé, Gia định, Bắc Thái... Lực lượng dân quân là những tỉnh đội, huyện đội, xã đội, có nhiệm vụ phòng thủ và trinh sát nhiều hơn. Ngoài ra, bộ binh Việt nam còn có những đơn vị đặc biệt như lực lượng đặc công, lữ đoàn 305 dù, đoàn 559 Công binh, sư đoàn 673 cao xạ, các đoàn vận tải v.v...
    Hải quân của quân đội Việt nam bắt đầu được thành lập từ những năm 1960, mới đầu là hai mươi lăm pháo thuyền của Trung hoa và ba mươi tàu tuần duyên do Liên xô viện trợ. Sau 1975, cùng với những thuyền bè do hải quân Việt nam cộng hoà để lại, hải quân Việt nam đã có hơn một ngàn tàu chiến lớn nhỏ. Vùng trách nhiệm duyên hải được chia làm năm vùng mà các Bộ tư lệnh đóng ở Hải Phòng, Vinh, Đà Nẵng, Vũng Tàu và Rạch Giá. Có hai hạm đội, hạm đội Hàm Tử phụ trách vùng biển phía bắc, hạm đội Bạch Đằng phụ trách vùng biển phía Nam của Đông Hải và vịnh Thái lan. Tư lệnh hải quân lúc đó là Hoàng Hữu Thái. Chính uỷ là Hoàng Trà. Việt Nam cũng tổ chức những đơn vị được gọi là ?ohải quân đánh bộ?. Không quân Việt nam có quân số khoảng hai chục ngàn. Ngoài những phi cơ A37, F5 và một số phi cơ vận tải và trực thăng của không quân Việt nam cộng hoà để lại, là những phi cơ MiG 21, MiG 23 và những phi cơ trực thăng võ trang do Liên xô viện trợ. Tất cả có hơn một ngàn phi cơ, được chia thành những không đoàn chiến đấu, vận tải, trực thăng và huấn luyện. Ngoài ra còn có một không đoàn oanh tạc cơ. Bộ tư lệnh không quân trú đóng tại phi trường Bạch Mai. Năm 1979, Tư lệnh không quân là Đào Đình Luyện, Tư lệnh phòng không là Hoàng Văn Khanh. Tư lệnh radar Nguyễn Xuân Mậu.
    Cũng như quân đội của những nước cộng sản khác, quân đội Việt nam nằm trong sự kiểm soát chặt chẽ của đảng. Những chức vụ chỉ huy trong quân đội đều do những cán bộ quan trọng nắm giữ. Tuy ở những cấp từ trung đoàn trưởng trở xuống, đôi khi vì nhu cầu chiến trường, cán bộ có khả năng chỉ huy không đủ nên một số sĩ quan dù có ít thành tích chính trị vẫn được giao chức vụ chỉ huy.
    Với một đội quân đông đảo, hoả lực dồi dào, sự chỉ huy thống nhất, những cấp chỉ huy nhiều kinh nghiệm. Bộ đội Việt Nam có một truyền thống dũng cảm, thông minh, sáng tạo và tự trọng. Trong cuộc chiến Đông dương thứ ba, khi đất nước bị quân Pon pot tấn công tàn phá ở phía Nam và Trung Quốc xâm lược ở phía bắc tinh thần đó lại được khơi dậy mãnh liệt. Quân đội đó đã bảo vệ đất nước chống Trung hoa xâm lược, có thể tiến công đánh bại Pon pot chỉ trong một thời gian ngắn.
    Trong trận chiến Đông dương thứ ba, khi quân đội Trung hoa đánh vào biên giới phía Bắc, lực lượng tham chiến chính của Việt nam là những đơn vị chủ lực của các quân khu I, II, III và một số sư đoàn tăng phái từ quân khu IV. Ba quân đoàn chính quy bị kẹt lại tại Campuchia quân đoàn I đóng quanh Hà nội được dùng làm trù bị.
    Trong khi đó, tại mặt trận biên giới Tây Nam, nằm sát bên lãnh thổ Campuchia là các quân khu V, VII và IX. Mặt trận thuộc quân khu V không quan trọng lắm vì đó là miền rừng núi, ít trục lộ giao thông. Khác với ở trận chiến Đông dương thứ hai, chiếm được vùng rừng núi Tây Nguyên là chia cắt được miền Nam Việt nam. Lần này, mục tiêu chính của Campuchia là Sài gòn và châu thổ sông Cừu Long. Do đó mà mặt trận biên giới quân khu VII quan trọng nhất. Chọc thủng được tuyến phòng thủ của đối phương ở biên giới này, quân đội mỗi bên có thể tiến tới Sài gòn hay Phnom Penh dễ dàng. Phía Việt nam, trú đóng tại biên giới quân khu VII, ngoài những sư đoàn chủ lực quân khu như sư đoàn 303, 302, 5... các trung đoàn chủ lực tỉnh như Vàm Cỏ, Sông Bé, Gia Định..., Bộ tổng tham mưu quân đội Việt nam sử dụng thêm quân đoàn 4 hay binh đoàn Cửu Long gồm có các sư đoàn 7, 9 và 341. Vì binh đoàn này đóng ở vị trí chủ yếu dọc quốc lộ 1, và sau đó được dùng làm mũi nhọn tấn công chính nên còn được tăng cường thêm sư đoàn 2 của quân khu V. Mặt trận quân khu IX cũng quan trọng vì đó là lãnh thổ Thuỷ Chân Lạp cũ. Phòng thủ biên giới quân khu là những trung đoàn chủ lực tỉnh Hậu Giang, Đồng Tháp và những sư đoàn 4, 8, 330... chủ lực quân khu.
    Cuối năm 1978, để tiến hành phản công sang lãnh thổ Campuchia, quân khu IX được tăng cường thêm quân đoàn 2 hay binh đoàn Hương Giang gồm các sư đoàn chính quy 325, 304 rút từ Lào về để tấn công hướng cực nam của Campuchia (sư đoàn 306 của binh đoàn được giữ lại làm nghĩa vụ quốc tế ở Lào).
    Trong những thời gian đầu, tư lệnh quân khu VII là Trần Văn Trà, tư lệnh quân khu IX là Lê Đức Anh. Tư lệnh các binh đoàn Cửu Long và Hương Giang là Hoàng Cầm và Nguyễn Hữu An. Khi bộ đội Việt nam mở cuộc tấn công vào Campuchia, ở mũi tấn công phía bắc, binh đoàn chính quy Tây Nguyên hay quân đoàn 3 cũng tham chiến dưới sự chỉ huy của tướng Kim Tuấn, cựu tư lệnh sư đoàn 320 năm 1975. Trong năm 1977, giám sát tổng quát mặt trận là Lê Trọng Tấn, Tổng tham mưu Phó quân đội, kiêm nhiệm tư lệnh Bộ chỉ huy Tiền Phương, đóng bản doanh ở Tân Sơn Nhất. Trong số những tướng lãnh của Việt nam, tướng Lê Trọng Tấn là người tham dự nhiều chiến trường nhất. Xuất thân là một hạ sĩ quan của không quân Pháp, Lê Trọng Tấn là một trong những tư lệnh sư đoàn đầu tiên (sư đoàn 312) cùng với Văn Tiến Dũng (sư đoàn 320), Vương Thừa Vũ (sư đoàn 308) Hoàng Minh Thảo (sư đoàn 304), Lê Quảng Ba (sư đoàn 316), trong chiến tranh Đông dương thứ nhất. Trong những năm đầu tiên của chiến tranh Đông dương thứ hai, Lê Trọng Tấn được cử làm Cục trưởng Cục tham mưu Cục R dưới bí danh Ba Long. Năm 1972, Lê Trọng Tấn chỉ huy quân đoàn 76E đánh ở mặt trận Quảng Trị, và năm 1975 thì Tấn chỉ huy cánh quân duyên hải tiến xuống miền Nam. Sau 1975, Tấn được cất nhắc làm Tổng tham mưu phó, và tới 1980 thì được thăng Tổng tham mưu trưởng thay Văn Tiến Dũng. Cùng với Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Hoàng Cầm, Lê Trọng Tấn cũng là người rất quen thuộc vơi địa thế của Campuchia.
    Đối đầu với một lực lượng quân sự hùng hậu như thế, quân đội Campuchia hay Khmer Đỏ trong năm 1975 chỉ có 68 ngàn quân. Mấy năm sau, khi mở rộng chiến tranh với Việt nam, quân số này tăng lên hơn 150 ngàn, được tổ chức thành 23 sư đoàn. Hải quân hầu như không có, một số tàu chiến nhỏ của quân đội cộng hoà để lại đã bị không quân Mỹ tiêu diệt trong vụ giải cứu chiếc tàu Mayaguez. Còn không quân thì ngoài những máy bay cũ không thể sử dụng vì thiếu bảo trì, thiếu cơ phận sửa chữa, Campuchia được Trung hoa viện trợ cho vài máy bay MiG 15 và MiG 17, nhưng vẫn chưa được dùng đến trong chiến tranh với Việt nam. Bộ binh tuy tổ chức thành sư đoàn, nhưng binh sĩ đa số còn nhỏ tuổi, số còn lại tuy có kinh nghiệm chiến đấu trong thời chiến tranh với quân của tướng Lon Nol, nhưng chỉ là chiến tranh du kích, chưa có kinh nghiệm trong những trận đánh cấp trung đoàn trở lên, hay những trận đánh phối hợp với pháo binh, thiết giáp. Bù đắp lại, chúng cuồng tín hơn, quen thuộc địa thế, di chuyển nhanh chóng ở những vùng rừng núi, sình lầy, nên sau khi những đại đơn vị bị đánh tan trong cuộc chiến quy ước và chính diện với bộ đội Việt nam, những lực lượng nhỏ còn lại vẫn tiếp tục đánh du kích, gây tổn thất không ít cho bộ đội Việt nam.
    Sau tháng 4-1975, chính quyền Khmer Đỏ chia lãnh thổ Campuchia ra thành bảy quân khu (Bắc, Đông Bắc, Đông, Tây Nam, Tây, Tây Bắc, Trung ương) cùng hai đặc khu Phnom Penh và 505. Bí thư mỗi quân khu kiêm nhiệm cả về hành chánh lẫn quân sự. Trung ương lấy hai phần ba quân số của mỗi quân khu để thành lập quân đội chính quy, đặt dưới quyền chỉ huy của Son Sen, Bộ trưởng quốc phòng. Một phần ba quân số còn lại dùng làm chủ lực quân khu, do các bí thư khu uỷ trực tiếp chỉ huy.
    Trong chiến tranh biên giới, nằm sát với quân khu VII của Việt nam là quân khu Đông, và đối đầu với quân khu IX là quân khu Tây Nam. Cũng như quan niệm chiến thuật của Việt nam, Campuchia coi mặt trận quân khu Đông là mặt trận chủ yếu. Theo lời giới lãnh đạo Khmer Đỏ, nếu chọc thủng được phòng tuyến của Việt nam (vùng Mỏ Vẹt, Tây Ninh), quân Campuchia chỉ cần đi bộ hai ngày là tới Sài gòn. Bí thư khu uỷ khu Đông là So Phim, một thủ lĩnh Khmer Đỏ kỳ cựu, đã có nhiều kinh nghiệm chiến trường từ chiến tranh Đông dương thứ nhất. Vì đã từng hoạt động ở những vùng sát biên giới Việt nam như Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt, xưa kia là mật khu của bộ đội cộng sản Việt Nam, nên So Phim đã thường xuyên tiếp xúc với các cán bộ Việt nam, và được cán bộ Việt nam đặt cho một cái tên Việt là Mười Su. Tuy thế, vào những năm 1974 và 1975, là một cán bộ Khmer Đỏ cao cấp So Phim vẫn trung thành với lệnh của Trung ương tiêu diệt hết những cán bộ cộng sản cũ hồi kết từ Bắc Việt. Sau ngày chiến thắng, So Phim được cất nhắc làm Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng, đệ nhất Phó Chủ tịch nhà nước, bí thư kiêm tư lệnh quân khu Đông. Vì tính cách chiến lược quan trọng của quân khu, nên ngoài hai sư đoàn 3 và 4 cơ hữu, So Phim còn được tăng phái thêm hai sư đoàn 280 và 290 của Trung ương. Hai trục lộ chính của quân khu là quốc lộ 7 và quốc lộ 1. Quốc lộ 7 là một quốc lộ chiến lược quan trọng có hình cánh cung, đi vòng từ thị xã Kratié qua Snoul, Mimot, Krek, Chúp tới Kompong Cham, song song với biên giới phía bắc của tỉnh Tây Ninh. Năm 1977, khi chiến cuộc công khai bùng nổ, So Phim được cử làm Tư lệnh mặt trận đường số 7.
    Trong khi đó, quốc lộ 1 là con đường đi từ Nạm Vang qua bến phà Neak Luong đi ngang tỉnh lỵ Svayrleng, qua Prasaut, Chiếu, vượt biên giới Việt Miên đi thẳng về Sài gòn. Mặt trận nơi này do Son Sen đích thân chỉ huy gồm những sư đoàn tăng phái từ Trung ương hay từ những quân khu khác.
    Người có uy tín ngang với So Phim trong hàng ngũ các bí thư quân khu là Ta Mok (Mok là tên, Ta có nghĩa là ông già), bí thư kiêm tư lệnh quân khu Tây Nam, giáp giới quân khu IX Việt nam. Tuy nổi tiếng liều lĩnh và khôn ngoan, nhưng Ta Mok không có tham vọng chính trị, một lòng mù quáng trung thành, nên được Pol Pot tin cẩn, cất nhắc làm Uỷ viên Thường vụ, sau đó lên làm Tư lệnh quân đội. Các sư đoàn trú đóng ở quân khu Tây Nam là 210, 230, 250. Đến giữa năm 1978, khi cuộc chiến với Việt nam đã trở nên quyết liệt, Campuchia ký hiệp ước thân hữu với Thái lan, rút bớt quân đội ở các quân khu miền Tây sang biên giới phía Đông, nâng tổng số quân đội miền này lên 19 sư đoàn để đối phó với bộ đội Việt nam.
  6. putuzop

    putuzop Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2007
    Bài viết:
    364
    Đã được thích:
    0

    Phần tiếp nè!.....
    Ngoài những nguyên nhân sâu xa như mối hận thù lâu đời cùng giấc mơ tái chiếm lãnh thổ Thuỷ Chân Lạp cũ, giới lãnh đạo Campuchia đã phát động chiến tranh với Việt nam vì họ mù quáng tin rằng Việt nam đang âm mưu phá hoại chế độ và kiếm cớ sát nhập đất đai, xâm lăng lãnh thổ. Họ coi chiến tranh giữa hai nước là điều không thể tránh, và cách tự vệ hay nhất là tấn công. Ngoài ra, vì tình hình nội bộ, gây chiến với Việt nam, họ có lý do để đổ lỗi cho những thất bại kinh tế và giữ được đoàn kết nội bộ. Dù cán cân lực lượng rất chênh lệch, họ tin vào sự trợ giúp và áp lực của Trung hoa. Theo tài liệu của Việt nam, những vũ khí mà Trung hoa viện trợ cho Campuchia đều có in số 800, tượng trưng cho con số 800 triệu dân Trung hoa đứng đằng sau (đây có lẽ chỉ là lý lẽ bị bóp méo). Theo Edgar Snow, Mao thường nói Trung hoa sau 1949 được điều hành bởi 800 cán bộ cộng sản sống sót trong số 50,000 đảng viên đầu tiên, số 800 kể trên mang ý nghĩa đó thì đúng hơn). Vì thế, Campuchia không tin Việt nam dám công khai tấn công sang lãnh thổ của họ. Mặt khác, bị ảnh hưởng của Mao Trạch Đông, họ tin là yếu tố con người quan trọng hơn vũ khí, và khả năng chiến đấu của binh lính Campuchia trội hơn bộ đội Việt nam bội phần. Trong chiến tranh Đông dương thứ hai, dù trực tiếp tham chiến có hơn hai năm, Pol Pot luôn tin rằng quân Khmer Đỏ đã đánh bại Hoa kỳ và giúp cho Việt nam chiến thắng.
    Trong một cuộc tiếp xúc với ký giả Elizabeth Becker, Pol Pot còn tưởng tượng ra một hoàn cảnh trong tương lai, khi quân Việt nam đã bị đánh bại và phải cầu cứu tới quân đội của các nước trong khối Varsava. Niềm tin vào khả năng siêu nhân của lính Khmer Đỏ được thể hiện trong một bài bình luận trên đài phát thanh Phnom Penh vào ngày 10-5-1978: ?oCho đến nay, chúng ta dã đạt được tỷ số một người lính Campuchia chết sau khi giết được ba mươi người Việt. Như vậy chúng ta chỉ cần hy sinh có hai triệu người Khmer để tiêu diệt trên năm chục triệu người Việt, và chúng ta vẫn còn sáu triệu?.
    Ngoài những ước tính chủ quan và điên cuồng đó, tình hình kinh tế và chính trị nội bộ như biến cố Keo Meas, ý định phản kháng của tướng Chakrang, tư lệnh đặc khu Phnom Penh, cùng những hành động của Việt nam như ký hiệp ước liên minh và đưa quân trú đóng tại Lào, nghị quyết của đại hội ********************** trong đó có đoạn ?othực hiện mối quan hệ đặc biệt? với Lào và Campuchia khiến cho những lãnh tụ Khmer Đỏ thấy cần phải phát động chiến tranh. Nhưng họ vẫn còn đủ khôn ngoan để chờ đến sau khi tình hình nội bộ Trung hoa được sáng tỏ, các nhà lãnh đạo mới của Trung hoa tiếp tục cam kết ủng hộ Campuchia, họ mới bắt đầu mở một cuộc tấn công quy mô vào lãnh thổ Việt nam, và để hạ uy tín Việt nam, cuộc tập kích quy mô đó được chọn đúng vào ngày Việt nam kỷ niệm hai năm chiến thắng.
    Đêm 30-4-1977, trong khi cả nước Việt nam đang Kỷ niệm 2 năm ngày giải phóng hoàn toàn Miền nam thì ba trung đoàn quân Campuchia thuộc các sư đoàn 210 và 250 của quân khu Tây Nam mở một cuộc hành quân lớn đánh vào nhiều quận lỵ và làng mạc sát biên giới thuộc tỉnh An Giang.
    Bị tấn công bất ngờ, bộ đội biên phòng Việt nam đã chiến đấu rất kiên cường nhưng lực lượng yếu hơn rất nhiều nên không ngăn chặn được chúng. Khmer Đỏ được thể tràn đến đốt phá làng mạc, tàn sát dã man thường dân vô tội. Khoảng năm trăm dân lành bị tàn sát, kể cả đàn bà, trẻ con. Có người bị chặt đầu, có người bị thiêu sống, có người bị mổ bụng. Riêng tại quận Tịnh Biên đã có hơn một trăm thường dân bị giết. Ngay lập tức Việt nam đã phản ứng lại bằng cách dùng phi cơ oanh tạc trả đũa những vị trí quân sự trong nội địa Campuchia, cho bộ đội tấn công và áp sát các khu vực của quân Khơme đỏ đồng thời trao kháng thư cho đại sứ So Khaeng tại Hà nội, quy trách nhiệm cho chính phủ Campuchia, vì theo kháng thư, ?omột cuộc tấn công hàng loạt có phối hợp như vậy không thể xảy ra do quyết định của cán bộ địa phương?. Nhưng vì vẫn muốn tìm một giải pháp hoà bình cho hai nước và giảm căng thẳng với Trung Hoa nên bộ đội Việt Nam được lệnh không tấn công sang lãnh thổ Campuchia.
    Phản ứng thụ động của Việt nam càng làm cho Pol Pot tin vào phán đoán của mình và sức mạnh của Khmer Đỏ và sau đó, lúc Việt nam cùng Lào ký hiệp ước liên minh hỗ tương phòng thủ ngày 18-7-1977, Pol Pot càng mù quáng tin rằng những nhận định về âm mưu bành trướng của Việt nam là đúng. Vì thế, ba ngày trước khi Pol Pot chính thức ra mắt đảng cộng sản Campuchia và lên đường công du Bắc kinh và Bình Nhưỡng, để biểu dương sức mạnh và quyết tâm của mình với những nhà lãnh đạo Trung hoa, đêm 24-9-1977, Pol Pot lại ra lệnh cho các đơn vị của hai sư đoàn 3 và 4 của quân khu Đông ồ ạt tấn công vào nhiều vị trí của Việt nam ở biên giới tỉnh Tây Ninh như Bến Cầu, Tân Biên, Xa Mát, Châu Thành. Đó là những vùng đất mà Campuchia nghĩ là thuộc về họ và đã bị Việt nam lấn chiếm. Khu kinh tế mới Long Cường cũng bị tấn công. Theo Campuchia, các khu kinh tế mới vùng biên giới là nằm trong chính sách ?otằm ăn lá dâu? từ mấy trăm năm trước của Việt nam (?otằm ăn lá dâu?, hay ?otầm thực? là chính sách do ông Nguyễn Cư Trinh năm 1756 bày ra cho chúa Nguyễn để dần dần mở rộng lãnh thổ về phía Chân Lạp).
    Quân Khơme đỏ đã tàn sát một cách man rợ hơn một nghìn người dân Việt Nam. Riêng tại xã Tân Lập, quận Tân Biên, có hơn năm trăm dân làng bị giết, trẻ con bị ném xuống giếng, trâu bò gà vịt bị tàn sát, nhà cửa bị đốt cháy.
    Chịu trách nhiệm phòng vệ Tây Ninh lúc đó là đại tướng Trần Văn Trà, tư lệnh quân khu VII. Đại tướng Trần Văn Trà tức giận, ra lệnh soạn thảo một kế hoạch phản công hai mặt một mặt tấn công chính diện, đẩy lui quân Campuchia về nước. Mặt khác, một đơn vị lớn sẽ vượt biên giới để chân hậu và tiêu diệt toán quân đó. Đồng thời, để tố cáo với thế giới tội ác của quân Khmer Đỏ đã tấn công và tàn sát thường dân vô tội, đại tướng Trần Văn Trà mời một nhà báo Hungary đến thăm trận địa. Nhưng các nhà Lãnh đạo Đảng, Nhà nước lúc đó vẫn còn hy vọng giảng hoà được với Trung hoa nên chưa muốn phản ứng mạnh và công khai. Nhà báo Hungary bị tịch thu bài vở và phim ảnh. Kế hoạch phản công của đại tướng Trần Văn Trà bị huỷ bỏ. Theo tài liệu quân sự của Việt nam thì ?ophương án? đó không được Bộ tổng tham mưu chấp thuận. Vì lúc này chúng ta vẫn phải tự kiềm chế để tìm một giải pháp vừa giải quyết được xung đột, vừa tránh đổ máu. Thay vào kế hoạch của đại tướng Trần Văn Trà, Bộ tổng tham mưu quân Việt nam điều động thêm sư đoàn 341 lên tăng cường cho quân đoàn IV, cùng các sư đoàn 7 và 9 của quân đoàn tái chiếm các xã đã mất, đẩy lui quân Campuchia về bên kia biên giới. đại tướng Trần Văn Trà bị gọi về Hà nội, được giao cho chức Thứ trưởng quốc phòng đặc trách trang bị và kỹ nghệ quốc phòng, và một năm sau thì bị giải ngũ.
    Lý do Trần Văn Trà bị thuyên chuyển có thể do sơ hở lãnh đạo, để cho quân Campuchia bất ngờ tấn công, trong khi ý định và kế hoạch tấn công Tây Ninh đã được một số sĩ quan Campuchia đào ngũ tiết lộ trước. Nhưng sự thuyên chuyển đó cũng có thể do khuynh hướng hành động độc lập với Trung ương của đại tướng Trần Văn Trà. Sau khi đại tướng Trần Văn Trà bị thuyên chuyển công tác, Lê Đức Anh, đang làm Tư lệnh quân khu IX, được đổi về làm Tư lệnh quân khu VII, và Trần Nghiêm, đang giữ chức Tư lệnh phó quân khu IX được đôn lên Tư lệnh, Hồ Bá Phúc tư lệnh phó. Trong giai đoạn này, mặt trận biên giới Tây Nam được đặt dưới sự giám sát tổng quát của Lê Trọng Tấn. Chịu trách nhiệm phòng thủ phía bắc Tây Ninh là các sư đoàn 5, 302, 303 thuộc Bộ tư lệnh Quân khu VII, còn phía tây và tây nam của tỉnh, dọc theo quốc lộ 1 và tỉnh lộ 13 là trách nhiệm của các sư đoàn 7, 9 và 341 chính quy của quân đoàn 4.
    Trận đánh quy mô vào tỉnh Tây Ninh cuối tháng 9-1977 đã tạo cơ hội cho hai nhân vật tương đối còn chìm trong bóng tối có cơ hội tiến thân. Ở Việt nam, Lê Đức Anh, bí danh Sáu Nam, từng là cái bóng của Trần Văn Trà trong nhiều năm, được đổi về làm tư lệnh quân khu VII. Nhờ sự quan trọng của quân khu VII và sự nâng đỡ của Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh sau đó được đề cử làm tư lệnh chiến dịch phản công biên giới Tây Nam, rồi thăng dần lên làm Tham mưu trưởng quân đội, Bộ trưởng quốc phòng, và cuối cùng là Chủ tịch nhà nước. Bên kia biên giới, người chỉ huy trận đánh này là Heng Samrin, tư lệnh sư đoàn 4. Sau trận đánh, Heng Samrin được cất nhắc làm phó bí thư khu uỷ quân khu Đông, quyền chủ tịch mặt trận đường số 7 trong lúc So Phim đi Trung hoa chữa bệnh. Mấy tháng sau, khi Pol Pot mở cuộc thanh trừng ở quân khu Đông, Heng Samrin phải trốn sang Việt nam, rồi sau trở thành Chủ tịch Nhà nước. Sau trận đánh tháng 9, quân Campuchia tiếp tục mở những trận tấn công quấy rối, thăm dò, cho đến ngày 17-11-1977, thì mười ba tiểu đoàn thuộc các sư đoàn 3, 4, 290 lại mở một cuộc tấn công lớn đánh chiếm những làng xã phía tây tỉnh Tây Ninh dọc theo tỉnh lộ 13 như các xã Phước Tường, Năm Căn, Hoà Hội, Phước Tân, Tân Lập, Phú Tân. Tỉnh lộ 13 là một con lộ nhỏ chạy song song với biên giới phía tây của tỉnh Tây Ninh, khác với quốc lộ 13, là một quốc lộ lớn chạy từ Sài gòn qua phía bắc Tây Ninh tới Snoul, Kratié rồi sang Lào.
    Lần này, sau chuyến đi hoà đàm lần chót với Trung hoa của Tổng bí thư Lê Duẩn thất bại, được sự hỗ trợ của Liên xô, Việt nam quyết định phản ứng quyết liệt hơn. Quân đội nhân dân Việt nam được Bộ Chính trị cho phép tấn công sâu vào nội địa Campuchia để trả đũa. Ngày 2-12-1977, đ/c Lê Trọng Tấn đích thân ra lệnh cho quân đoàn 4 vượt qua biên giới tấn công quân Khơme đỏ.
    Quân đoàn 4 hay Binh đoàn Cửu Long, lúc đó gồm có các sư đoàn chính quy 7, 9, 341 do Hoàng Cầm làm tư lệnh, Trần Văn Trân, Võ Văn Dần, Bùi Cát Vũ làm tư lệnh phó. Hoàng Cầm, bí danh Năm Thạch, từng phục vụ ở Cục Tham mưu Cục R và chỉ huy sư đoàn 9 nên rất quen thuộc với địa thế Campuchia. Được sự yểm trợ của Không quân, trực thăng vũ trang, pháo binh, thiết giáp..., lực lượng tấn công của tướng Hoàng Cầm lên tới hơn sáu mươi ngàn. Đó là không kể đến những đơn vị Thanh niên xung phong được giao những nhiệm vụ yểm trợ như đắp đường, tiếp tế.
    Mục đích chính của cuộc tấn công của quân đoàn 4 là tái chiếm những vị trí ở tỉnh Tây Ninh, sau đó vượt qua biên giới, phá huỷ những căn cứ quân sự và tiếp vận, đồng thời tìm cách tiêu diệt hay gây tổn thất thật nặng cho các đơn vị quân Khơme đỏ trong quân khu Đông. Cuộc tấn công cũng nhằm biểu dương sức mạnh của quân đội Việt nam với chính quyền Pol Pot, và đưa tuyến phòng thủ của Việt nam vào sâu trong lãnh thổ Campuchia từ mười đến bốn mươi cây số.
    Trong trận đánh này, quân Việt nam tấn công theo ba hướng:
    Hướng thứ nhất do sư đoàn 9 cùng trung đoàn 209 của sư đoàn 7 phản công tái chiếm những làng xã đã mất thuộc quận Châu Thành và Tân Biên dọc theo tỉnh lộ 13, sau đó vượt biên giới chiếm đóng các vị trí quân sự, và tiêu diệt các đơn vị của sư đoàn 4 Campuchia.
    Hướng thứ hai do sư đoàn 341 cùng trung đoàn 55 pháo binh tiến dọc theo trục đường 24 tấn công trung đoàn 21 thuộc sư đoàn 290 Campuchia.
    Hướng thứ ba do trung đoàn 14 của sư đoàn 7, cùng một đại đội xe tăng T59, một đại đội thiết vận xa M 113 tấn công theo quốc lộ 1 vượt biên giới trên ba mươi cây số tấn công trung đoàn 182 thuộc sư đoàn 3 Campuchia.
    Ngày 4-12-1977, bộ đội Việt nam bắt đầu tấn công. Nhờ quân số đông đảo, hoả lực hùng hậu, chỉ ba ngày sau, quân Việt nam đã tiến sâu vào lãnh thổ Campuchia, chiếm được quận lỵ Prasaut sát bên tỉnh Svayneng. Tuy nhiên, mục tiêu chính để gây thiệt hại nặng cho sư đoàn 3 vẫn chưa thực hiện được. Ngày 14-12-1977, các đơn vị quân Việt nam giả bộ rút lui khỏi Prasaut. Trung đoàn 273 rút theo hướng nam về Mộc Hoá, trung đoàn 266, trung đoàn 55 pháo binh và tiểu đoàn 1 thiết giáp theo quốc lộ 1 rút về Tây ninh. Khi sư đoàn 3 của Campuchia trở lại Prasaut, đêm đến, quân đội Việt nam hành quân ngược trở lại bao vây tấn công, gây thiệt hại nặng cho quân Campuchia. Trước tình thế đó, Bộ tổng tham mưu quân đội Campuchia điều động thêm hai sư đoàn 703 và 301 từ Trung ương lên tăng cường mặt trận Prasaut. Sau mấy trận đụng độ, cả hai bên đều bị thiệt hại nặng. Khoảng một ngàn binh sĩ thương vong.
    Song song với việc phản công quân sự, chính phủ Campuchia bắt đầu tấn công trên mặt trận ngoại giao. Ngày 31-12-1977, Campuchia công khai vu cáo Việt nam xâm lăng Campuchia, và tuyên bố cất đứt quan hệ ngoại giao. Thời gian đó, Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Duy Trinh của Việt nam đang đi thăm thân hữu các nước Đông Nam Á. Đang rất cần sự giúp đỡ của tất cả các nước để tránh bị hiểu nhầm ngày 6-1-1978, quân Việt nam rút về nước.
    Sau khi quân đội Việt nam rút về nước, chính phủ Pol Pot gọi ngày 6-1-1978 là ngày ?ochiến thắng vĩ đại?, vĩ đại hơn cả ngày 17-4-1975. Họ cho tăng khẩu phần cán bộ và binh sĩ để ăn mừng. Nhân dân được học tập và tuyên truyền là quân đội Campuchia đã bắn cháy nhiều xe tăng của Việt nam, rồi nấu chảy sắt thép những xe tăng đó làm bát ăn cơm. Tuy nhiên, bên trong, trước phản ứng yếu ớt của quân đội quân khu công, Pol Pot nghi ngờ là có nội tuyến trong hàng ngũ lãnh đạo quân khu, nên chỉ thị cho Son Sen, Ta Mok, Ke Pauk và Duch điều tra để thanh lọc hàng ngũ. Cuộc thanh trừng đó đã gây chia rẽ và làm suy yếu lực lượng phòng thủ quân khu, giúp cơ hội và phương tiện cho Việt nam thực hiện kế hoạch ?omặt trận giải phóng?, rồi sau đó tiến hành phản công tiêu diệt hoàn toàn Pon pot. Trận đánh cuối năm 1977 đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong trận chiến biên giới. Cuộc xích mích đã trở nên công khai, và Việt nam bắt đầu tính toán một kế hoạch quy mô hơn, nhằm thanh toán một lần và tận gốc chính quyền Pol Pot.
    http://blog.360.yahoo.com/blog-rxFR36ozd6cPP3g7ix0my_9gSO.WLGCf?p=156
  7. luckyn6688

    luckyn6688 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/11/2007
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    e theo lời bác sang bên đấy copy mấy ảnh e thấy hình như mình chưa có về post lên fục vụ các bác nhé
    [​IMG]
    [​IMG]
    được maseo sửa chữa / chuyển vào 07:43 ngày 08/01/2008
  8. luckyn6688

    luckyn6688 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/11/2007
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    nữa nè[​IMG][​IMG]
  9. porthos

    porthos Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/10/2004
    Bài viết:
    964
    Đã được thích:
    0
    Hôm nay thấy có cái này rất hay. Cho lên đây không nó lại xoá mất.
    Trình độ bọn nhà báo bây giờ phải nói là 4`
    [​IMG]
  10. kienmama

    kienmama Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/08/2006
    Bài viết:
    435
    Đã được thích:
    1
    Hì~ Nó xoá rồi!

Chia sẻ trang này