1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trên biên giới Tây Nam và tiêu diệt bọn diệt chủng Pol Pot

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi ptlinh, 06/10/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. VanLyTruongChinh

    VanLyTruongChinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/07/2004
    Bài viết:
    52
    Đã được thích:
    0
    Hehe, Biên giới Tây Nam quả là có ít tài liệu hoặc ít người tiếp cận được chúng. Cảm ơn bác ptling đã post bài nhá.
    ------------------------------
    Việc mình đánh Cambodia là để bảo vệ lãnh thổ VN , còn việc ông Heng Xomrin là việc của ổng , mình không nên can dự vì ở thời điểm đó mình vừa đại thắng US tình hình ngoại giao rất nhạy cảm , cần nên tránh để LHQ & US có cái cớ gây khó khăn & cấm vận mình chứ .Nhưng thôi chuyện cũng qua rồi chỉ nói ra để biết thế thôi .
    -------------------------------
    Việc ông Heng Xomrin không thể là việc của ông ấy được bác ạ. Lý do rất đơn giản là Nam Cực muốn biên giới Tây Nam yên ổn, có phải đánh nhau không muốn đánh nhau ở sát biên giới để dân chúng còn làm ăn, trong khi ông Heng có thể trở thành người đứng đầu cái vùng đất có biên giới với Nam Cực đó. Trong thế giới hiện đại, một chính quyền thân Nam Cực ở Tây Nam là điều mơ ước của các cụ nhà ta bác ạ. Tôi nghĩ là trong một khoảng thời gian nào đó, Nam Cực đã thực hiện được điều này.
    Còn tham vọng tiểu bá, biến cái phần đất phía bên kia biên giới thành vùng phụ thuộc, thì xuất hiện từ thời nhà Nguyễn kia. Để thực hiện tham vọng này, nhà Nguyễn đã từng đặt vùng đất ấy thành Trấn Tây, và nếu không nhầm thì Nguyễn Tri Phương đã có thời gian làm ?otổng trấn? ở đây. Cũng trong thời gian này, các cụ cũng đã từng dùng sọ người nấu cháo đó. Vì tham vọng đó và cách hành xử như vậy, cùng với suy nghĩ phần đất phía Đông biên giới vốn thuộc về Campốt nên Khơ me đỏ cũng như các chính quyền hoặc các chính khách không thân thiện sau này luôn muốn gây sự ở biên giới Tây Nam.
    Thế nên, chuyện của Campốt không phải của riêng Campốt, cũng như chuyện của Ai Lao chẳng phải của riêng Ai Lao là vì vậy. Đối với Khựa, chuyện của Nam Cực cũng chẳng phải của riêng Nam Cực mà các bác.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Từ ngày 15 tháng 6 năm 1978, các lực lượng của Quân đoàn 4 bắt đầu nâng đội hình khỏi bàn đạp, mở cuộc tiến công vào sâu đất địch.
    Trên hướng đường 13, sư đoàn 341 bí mật đưa trung đoàn 273, trung đoàn 266 luồn sâu 18 kilômét, từ bắc Ngã tư Nhà Thương vào phía tây Ngã ba Săng Ke, bao vây sư đoàn 290 địch. Sau đó dùng ba tiểu đoàn bộ binh (4, 5, 7) cơ động bằng ô tô, kết hợp với tiểu đoàn xe tăng T.59 và thiết giáp M.113 đột phá các vị trí địch trên đường 13 đến đường 24, phối hợp với sư đoàn 7 ở hướng đường 241 lên. Chiều hôm đó (15-6), quân ta đã tiến vào thị trấn Choóc.
    Trận này sư đoàn thắng lớn. Riêng tiểu đoàn 3 trên mũi vu hồi phía bắc Xvay Chéc, phó trung đội trưởng Nguyễn Thanh Bình vượt lưới lửa dày đặc của đoàn thiếp giáp địch đang tháo chạy, nhảy lên, thả lựu đạn vào trong xe, diệt bảy tên, bắt sống chiếc xe M.113 số 06.
    Một trận tiến công bằng cả sức mạnh của sư đoàn trên một chính diện 15 kilômét và tun thâm hơn 10 kilômét làm sống dậy khí thế bừng bừng trong mỗi người. Có cán bộ đã nói với tham mưu trưởng sư đoàn: ?oĐánh bọn Pol Pot thì cứ phải như trận này mới thoả chí vẫy vùng!?.
    Nhưng mệnh lệnh của quân đoàn chỉ cho phép sư đoàn dừng lại những khu vực mới chiếm được. Lại phòng ngự! Có nhiều ý kiến không thoả mãn. Mãi đến sau đó ít ngày, khi thông hiểu tình hình rồi, các chiến sĩ mới bằng lòng và tự an ủi mình: ?oThật cũng chẳng dễ gì mà trên lại giao cho anh em mình đảm nhiệm hướng phòng ngự quan trọng này!?.
    Nắm vững tư tưởng tích cực tiến công thì cách đánh của sư đoàn 341 phòng ngự không có nghĩ là chờ giặc vào mới đánh mà phải chủ động nghiên cứu và tiến công cơ động khi chúng vừa xuất hiện. Thế là lính ta vẫn phải cơ động suốt cả tháng trước mặt dải phòng ngự của sư đoàn.
    Ngày 19 tháng 6, sư đoàn 290 Pol Pot đưa hai tiểu đoàn vượt sông vào phía nam Săng Ke, ?ovờn? trước trung đoàn 273. Thấy thế, sư đoàn trưởng gọi điện cho trung đoàn trưởng Trần Măng: ?oPhải diệt ngay bọn đã vượt sông! Băm nát ngay chiến thuật bu bám của nó đi, anh Măng!?.
    Ngay đêm đó trung đoàn trưởng Trần Măng và chính uỷ trung đoàn Diệp Xuân Ánh cùng các lực lượng tiến công chuyển từ Săng Ke về Ngã tư Xvay Chéc. Đại dội 11 và đại đội 2 Sông Lam bí mật luồn sâu ba kilômét, tạo thành hai cụm đón lõng địch ngay trên bờ sông.
    Mờ sáng ngày 20 tháng 6, khi tiểu đoàn 121 và tiểu đoàn 122 địch còn đang bám chốt đại đội 6 và đại đội 2 của ta thì tiếng súng lệnh nổ vang. Trên khắp cánh đồng phía nam Xvay Chéc, suốt từ Kan Đan đến Pơn Tao Am, bộ binh và thiết giáp của ta ào ào xuất trận. Địch bị chia cắt thành từng cụm, bị diệt và bị bắt gần hết. Các chiến sĩ tiểu đoàn 1 đã diệt 142 tên, bắt 10 tên. Riêng đại đội 2 Sông Lam ?ođơm? ở hướng sông gọn một đại đội địch. Còn xạ thủ trung liên Trần Trung Nhẫn bị thương vào tay phải vẫn xách súng xung phong. Với cánh tay trái, Nhẫn đã quật đổ bảy tên và bắt sống một tên khác, thu hai súng AK.
    Cũng ở thế chủ động đó, ngày 23 tháng 6, bộ tư lệnh sư đoàn sử dụng trung đoàn 266 và trung đoàn 270 phối hợp với tiểu đoàn 1, xe tăng, thiết giáp tiến công trung đoàn 32 sư đoàn 703 đang bu bám trung đoàn 266 ở tây bắc Ngã tư Prây Âng Kê, nam đường 24, kéo dài từ Làng Xanh đến cầu Sàm Rông. Chỉ trong ba giờ tiến công, quân ta làm chủ các mục tiêu, diệt 156 tên, phá thế bu bám của địch trên hướng này.
    Hạ tuần tháng 6, chiến trường đông-đông bắc Xvay Riêng vẫn tiếp tục sôi động. Chiến sụ cứ như vết dầu loang tràn đến các vị trí then chốt của địch trên đường số 1, đường 241, đường 24 và đường 13. Ngày 28 tháng 6, khi sư đoàn 9 đã làm chủ Pra Sốt, Tà Cúng, sư đoàn 7 vượt qua Khe Chay, Pô Pét và Prây Tô Bưng thì chiến dịch mở rộng địa bà của Quân đoàn 4 cũng kết thúc thắng lợi để bước vào giai đoạn phòng ngự mùa mưa.
    Mùa mưa tạo thế
    Mùa mưa năm 1978 đến sớm hơn lệ thường. Lượng mưa cũng lớn hơn mọi năm. Tháng 4 mưa bắt đầu. Tháng 5, tháng 6 mưa dầm dề. Khắp dải đồng bằng ven biên giới trắng một màu nước.
    Thời gian này, bọn ********* Pol Pot, dưới cái gậy chỉ huy của bọn bành trướng Bắc Kinh, càng điên cuồng dấn sâu vào con đường chống phá Việt Nam.
    Cuối tháng 6, Trung Quốc đơn phương xoá bỏ những hiệp định hợp tác về xây dựng các hạng mục công trình thiết bị toàn bộ, rút chuyên gia, cắt viện trợ. Tiếp đó, họ phát động vụ ?onạn kiều?, dụ dỗ người Hoa về nước và tăng cường các cuộc khiêu khích vũ trang ở biên giới phía bắc Việt Nam và trên biển Đông.
    Cùng thời gian đó, 5.000 cố vấn, nhân viên quân sự và hàng vạn tấn vũ khí mang ký hiệu 800 (ám chỉ có sự hậu thuẫn của 800 triệu nhân dân Trung Quốc đối với Campuchia) ùn ùn đổ vào đất nước Campuchia.
    Quân đội ********* Pol Pot lúc này đã phình ra đến 17 vạn, tổ chức thành 24 sư đoàn đủ các thành phần, binh chủng, quân chủng. Tuy nhiên, bọn này cũng chỉ đảm trách chức năng của những tên lính bộ binh xung kích. Còn lai pháo tầm xa, xe tăng, máy bay, các trang bị kỹ thuật đều do cố vấn nhân viên quân sự Trung Quốc điều khiển. Với công thức: ?oLính Campuchia+tư tưởng quân sự Mao, cố vấn và vũ khí Tàu?, chúng cho rằng vấn đề thời gian lâu hay mau, còn thắng lợi dứt khoát sẽ thuộc về phía chúng.
    Với một lực lượng như vậy, Pol Pot hí hửng sẽ chiếm lại địa bàn ven biên giới, phá kế hoạch xây dựng tuyến phòng thủ, đưa chiến tranh sang đất Việt Nam, giành thế chủ động hoàn toàn, buộc Việt Nam phải chấp nhận những điều kiện do Trung Quốc và Pol Pot-tay sai Bắc Kinh đưa ra. Trong khi đó, chúng tiếp tục thanh trừng, ổn định tình hình nội bộ?
    Thế nhưng, thực tế ở chiến trường lại không chiều theo ý chúng. Tại đây, quân ta giữ địa bàn ven biên giới; tiếp tục xây dựng tuyến phòng thủ vững chắc và tích cực giúp đỡ, phối hợp hoạt động với lực lượng cách mạng nổi dậy của bạn.
    Mùa mưa năm 1978, sau khi thống nhất với ban lãnh đạo cách mạng của bạn, ta xác định là mùa tạp thế và lực mới, nhằm tạo ra cục diện chiến tranh hoàn toàn có lợi cho ta và bạn để bước vào trận quyết chiến chiến lược mùa khô với quân ********* Pol Pot.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Từ ngày 15 tháng 6 năm 1978, các lực lượng của Quân đoàn 4 bắt đầu nâng đội hình khỏi bàn đạp, mở cuộc tiến công vào sâu đất địch.
    Trên hướng đường 13, sư đoàn 341 bí mật đưa trung đoàn 273, trung đoàn 266 luồn sâu 18 kilômét, từ bắc Ngã tư Nhà Thương vào phía tây Ngã ba Săng Ke, bao vây sư đoàn 290 địch. Sau đó dùng ba tiểu đoàn bộ binh (4, 5, 7) cơ động bằng ô tô, kết hợp với tiểu đoàn xe tăng T.59 và thiết giáp M.113 đột phá các vị trí địch trên đường 13 đến đường 24, phối hợp với sư đoàn 7 ở hướng đường 241 lên. Chiều hôm đó (15-6), quân ta đã tiến vào thị trấn Choóc.
    Trận này sư đoàn thắng lớn. Riêng tiểu đoàn 3 trên mũi vu hồi phía bắc Xvay Chéc, phó trung đội trưởng Nguyễn Thanh Bình vượt lưới lửa dày đặc của đoàn thiếp giáp địch đang tháo chạy, nhảy lên, thả lựu đạn vào trong xe, diệt bảy tên, bắt sống chiếc xe M.113 số 06.
    Một trận tiến công bằng cả sức mạnh của sư đoàn trên một chính diện 15 kilômét và tun thâm hơn 10 kilômét làm sống dậy khí thế bừng bừng trong mỗi người. Có cán bộ đã nói với tham mưu trưởng sư đoàn: ?oĐánh bọn Pol Pot thì cứ phải như trận này mới thoả chí vẫy vùng!?.
    Nhưng mệnh lệnh của quân đoàn chỉ cho phép sư đoàn dừng lại những khu vực mới chiếm được. Lại phòng ngự! Có nhiều ý kiến không thoả mãn. Mãi đến sau đó ít ngày, khi thông hiểu tình hình rồi, các chiến sĩ mới bằng lòng và tự an ủi mình: ?oThật cũng chẳng dễ gì mà trên lại giao cho anh em mình đảm nhiệm hướng phòng ngự quan trọng này!?.
    Nắm vững tư tưởng tích cực tiến công thì cách đánh của sư đoàn 341 phòng ngự không có nghĩ là chờ giặc vào mới đánh mà phải chủ động nghiên cứu và tiến công cơ động khi chúng vừa xuất hiện. Thế là lính ta vẫn phải cơ động suốt cả tháng trước mặt dải phòng ngự của sư đoàn.
    Ngày 19 tháng 6, sư đoàn 290 Pol Pot đưa hai tiểu đoàn vượt sông vào phía nam Săng Ke, ?ovờn? trước trung đoàn 273. Thấy thế, sư đoàn trưởng gọi điện cho trung đoàn trưởng Trần Măng: ?oPhải diệt ngay bọn đã vượt sông! Băm nát ngay chiến thuật bu bám của nó đi, anh Măng!?.
    Ngay đêm đó trung đoàn trưởng Trần Măng và chính uỷ trung đoàn Diệp Xuân Ánh cùng các lực lượng tiến công chuyển từ Săng Ke về Ngã tư Xvay Chéc. Đại dội 11 và đại đội 2 Sông Lam bí mật luồn sâu ba kilômét, tạo thành hai cụm đón lõng địch ngay trên bờ sông.
    Mờ sáng ngày 20 tháng 6, khi tiểu đoàn 121 và tiểu đoàn 122 địch còn đang bám chốt đại đội 6 và đại đội 2 của ta thì tiếng súng lệnh nổ vang. Trên khắp cánh đồng phía nam Xvay Chéc, suốt từ Kan Đan đến Pơn Tao Am, bộ binh và thiết giáp của ta ào ào xuất trận. Địch bị chia cắt thành từng cụm, bị diệt và bị bắt gần hết. Các chiến sĩ tiểu đoàn 1 đã diệt 142 tên, bắt 10 tên. Riêng đại đội 2 Sông Lam ?ođơm? ở hướng sông gọn một đại đội địch. Còn xạ thủ trung liên Trần Trung Nhẫn bị thương vào tay phải vẫn xách súng xung phong. Với cánh tay trái, Nhẫn đã quật đổ bảy tên và bắt sống một tên khác, thu hai súng AK.
    Cũng ở thế chủ động đó, ngày 23 tháng 6, bộ tư lệnh sư đoàn sử dụng trung đoàn 266 và trung đoàn 270 phối hợp với tiểu đoàn 1, xe tăng, thiết giáp tiến công trung đoàn 32 sư đoàn 703 đang bu bám trung đoàn 266 ở tây bắc Ngã tư Prây Âng Kê, nam đường 24, kéo dài từ Làng Xanh đến cầu Sàm Rông. Chỉ trong ba giờ tiến công, quân ta làm chủ các mục tiêu, diệt 156 tên, phá thế bu bám của địch trên hướng này.
    Hạ tuần tháng 6, chiến trường đông-đông bắc Xvay Riêng vẫn tiếp tục sôi động. Chiến sụ cứ như vết dầu loang tràn đến các vị trí then chốt của địch trên đường số 1, đường 241, đường 24 và đường 13. Ngày 28 tháng 6, khi sư đoàn 9 đã làm chủ Pra Sốt, Tà Cúng, sư đoàn 7 vượt qua Khe Chay, Pô Pét và Prây Tô Bưng thì chiến dịch mở rộng địa bà của Quân đoàn 4 cũng kết thúc thắng lợi để bước vào giai đoạn phòng ngự mùa mưa.
    Mùa mưa tạo thế
    Mùa mưa năm 1978 đến sớm hơn lệ thường. Lượng mưa cũng lớn hơn mọi năm. Tháng 4 mưa bắt đầu. Tháng 5, tháng 6 mưa dầm dề. Khắp dải đồng bằng ven biên giới trắng một màu nước.
    Thời gian này, bọn ********* Pol Pot, dưới cái gậy chỉ huy của bọn bành trướng Bắc Kinh, càng điên cuồng dấn sâu vào con đường chống phá Việt Nam.
    Cuối tháng 6, Trung Quốc đơn phương xoá bỏ những hiệp định hợp tác về xây dựng các hạng mục công trình thiết bị toàn bộ, rút chuyên gia, cắt viện trợ. Tiếp đó, họ phát động vụ ?onạn kiều?, dụ dỗ người Hoa về nước và tăng cường các cuộc khiêu khích vũ trang ở biên giới phía bắc Việt Nam và trên biển Đông.
    Cùng thời gian đó, 5.000 cố vấn, nhân viên quân sự và hàng vạn tấn vũ khí mang ký hiệu 800 (ám chỉ có sự hậu thuẫn của 800 triệu nhân dân Trung Quốc đối với Campuchia) ùn ùn đổ vào đất nước Campuchia.
    Quân đội ********* Pol Pot lúc này đã phình ra đến 17 vạn, tổ chức thành 24 sư đoàn đủ các thành phần, binh chủng, quân chủng. Tuy nhiên, bọn này cũng chỉ đảm trách chức năng của những tên lính bộ binh xung kích. Còn lai pháo tầm xa, xe tăng, máy bay, các trang bị kỹ thuật đều do cố vấn nhân viên quân sự Trung Quốc điều khiển. Với công thức: ?oLính Campuchia+tư tưởng quân sự Mao, cố vấn và vũ khí Tàu?, chúng cho rằng vấn đề thời gian lâu hay mau, còn thắng lợi dứt khoát sẽ thuộc về phía chúng.
    Với một lực lượng như vậy, Pol Pot hí hửng sẽ chiếm lại địa bàn ven biên giới, phá kế hoạch xây dựng tuyến phòng thủ, đưa chiến tranh sang đất Việt Nam, giành thế chủ động hoàn toàn, buộc Việt Nam phải chấp nhận những điều kiện do Trung Quốc và Pol Pot-tay sai Bắc Kinh đưa ra. Trong khi đó, chúng tiếp tục thanh trừng, ổn định tình hình nội bộ?
    Thế nhưng, thực tế ở chiến trường lại không chiều theo ý chúng. Tại đây, quân ta giữ địa bàn ven biên giới; tiếp tục xây dựng tuyến phòng thủ vững chắc và tích cực giúp đỡ, phối hợp hoạt động với lực lượng cách mạng nổi dậy của bạn.
    Mùa mưa năm 1978, sau khi thống nhất với ban lãnh đạo cách mạng của bạn, ta xác định là mùa tạp thế và lực mới, nhằm tạo ra cục diện chiến tranh hoàn toàn có lợi cho ta và bạn để bước vào trận quyết chiến chiến lược mùa khô với quân ********* Pol Pot.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Xin lỗi các bác, hôm qua mạng chỗ em nó bị sập nên em chỉ gửi lên được mối một bài. Còn phần tài liệu em đưa lên đây là từ quyển Sư đoàn Sông Lam, có trong thư viện Hà Nội. Bác donadoan nói đúng đấy ạ, em chỉ có mỗi công gõ thôi!
    Ở chiến trường tây-tây nam tỉnh Tây Ninh, sư đoàn 341 đứng trên cánh tuyến phòng ngự của Quân đoàn 4, kéo dài từ Rạch Nàng Đinh đến Choóc, giữ hai trục đường lớn 13 và 24. Dải phòng ngự của sư đoàn tựa hình cánh cung trong thế trận liên hoàn giữa các lực lượng bộ binh, pháo binh và xe tăng. Ở giữa là trung đoàn 266, chốt giữ đường 24 từ Ngã tư Prây Âng Kê đến Ngã ba Sàm Rông. Phía nam là trung đoàn 273 từ tây nam Ngã ba Săng Ke đến tây bắc Choóc. Phía bắc là trung đoàn 270 đứng ở bắc đường 13 từ Làng Xanh, Samava đến Ngã ba Đường Cụt. Trung đoàn 55 pháo binh bố trí ở Ngã ba Săng Ke và Cầu Sắt, Ngã ba Đường Cụt. Tiểu đoàn 1 xe tăng đứng ngay phía sau các trung đoàn. Trong thế đứng đó, trung đoàn 270 làm lực lượng dự bị cơ động của sư đoàn.
    Đường 24, đường 13 có vị trí đặc biệt quan tọng đối với các chiến dịch tiến công của địch vào thị xã Tây Ninh, cho nên ngay từ lúc sư đoàn 341 làm chủ các vị trí trên hai con đường này, thì tính chất quyết liệt của trân chiến đấu đã nổi lên.
    Sau khi mất Ngã ba Sàm Rông, sư đoàn 703 Pol Pot liền tung hai trung đoàn (32 và 304) vào để cố giành lại cho bằng được. Suốt năm ngày (từ 24 đến 28-6), chúng phản kích liên tục vào Ngã ba Sàm Rông và Ngã tư Prây Âng Kê. Địch bâu đặc xung quanh các chốt của trung đoàn 266 (24 trên 24 giờ trong ngày). Khi thì các thê đội lính áo đen thay nhau xông tới, khi thì pháo tầm xa, ĐKZ, cối bắn cấp tập tưởng như băm nát trận địa. Trong khi đó, mặt đất nhão nhoét, công sự chỉ có gỗ đất, hầm hào nước ngập đến thắt lưng, thậm chí đến cổ, thế nhưng các chiến sĩ ?oSông Lam 3? vẫn vững vàng trước cuộc chiến đấu ác liệt, công sự gỗ đất cứ sập dần, mặt đấy bị cày xới đi xới lại. Ở tiểu đoàn 8, tỷ lệ thương vong cao. Nhiều chiến sĩ trên đầu, trên cánh tay quấn băng trắng vẫn đòi ở lại chốt bằng được. Đến ngày thứ tư, trên hướng chốt của tiểu đoàn 8, cuộc chiến đấu giành đi giật lại giữa ta và địch diễn ra quyết liệt.
    Đêm 26 tháng 6, ở chốt đại đội 6, trung đội 1 được tăng cường khẩu đội ĐKZ đã đánh bật năm đợt tiến công của địch. 3 giờ sáng ngày 27, địch luồn vào tiếp cận rồi bất ngờ nổ súng, nhưng chúng vẫn bị các chiến sĩ ta đánh hất ra khỏi chốt. Trận địa chốt ta giữ vưng nhưng bị thương vong nhiều. Trung đội 1 tuy còn ba chiến sĩ, trung đội trưởng hy sinh nhưng vẫn kiên cường đứng vững. Ở khẩu đội ĐKZ thì khẩu đội trưởng Mai Đình Trúc bị thương vào thái dương, hai chiến sĩ hy sinh, hai chiến sĩ khác bị thương năng. Bấy giờ cả hướng chốt này chỉ còn mình Trúc là lớn tuổi nhất lại là đảng viên. Anh lĩnh trách nhiệm chỉ huy các chiến sĩ còn lại. Trúc đến bên từng người dặn dò: ?oBằng mọi giá, phải giữ chốt đến cùng!?. Và cả bốn người ôm hôn nhau thề giữ bằng được trận địa. 4 giờ sáng, cuộc tiến công lần thứ bảy của địch bị đẩy lùi. Mọi người còn chưa kịp vào hầm lấy thêm đạn và lựu đạn thì địch đã hò nhau xông tới. Khói đạn và bùn đất như bọc kín họ. Súng trên chốt bỗng nhiên im bặt. Một mảnh cối găm vào tay phải Trúc. Truc ôm tay ngoài người đến các công sự xem xét. Anh bàng hoàng khi thấy Hùng và Minh đang cố toài lên bờ công sự. Thấy Trúc đến, Minh thều thào: ?oĐánh!? Đánh nữa? anh Trúc!?. Bên cạnh, Khuyên đã tắt thở, nửa người úp trên thân súng trung liên, ngón tay trỏ vẫn còn đặt trong vòng cò. Trúc ôm Khuyên vào lòng, vừa khóc vừa vuốt mắt cho bạn. Lúc đó, những bóng đen đã tiến sát vào chốt trung đội 1, đạn địch như trăm ngàn mũi dao đỏ rạch nát khoảng không. Chốc chốc một ánh chớp xanh lét bùng lên. Rời Khuyên, Trúc ôm trung liên bắn xối xả. Hết đạn, Trúc lao sang công sự bên, vớ được súng, đánh bằng súng, vớ được lựu đạn, dùng lựu đạn. Khi mảnh cối thứ ba găm vào bụng, Trúc vẫn ôm ghì khẩu AK bắn như vãi đạn vào các bóng đen đang ào ào lên và quật ngã chúng.
    Cuối tháng 6, bộ tư lệnh sư đoàn tăng cường cho trung đoàn 266 tiểu đoàn 1 bộ binh và tiểu đoàn 1 xe tăng để mở cuộc phản kích, đánh vào các trung đoàn địch đang bu bám Ngã ba Sàm Rông và Ngã tư Prây Âng Kê. Trung đoàn 32 và trung đoàn 304 địch bị thiệt hại nặng, phải lùi ra xa củng cố và thực hiện ?ophản kích có mức độ!?.
    Ngày 28 tháng 6, trung đoàn 270 tới thay chốt cho trung đoàn 266; trung đoàn 266 làm lực lượng dự bị.
    Trung đoàn 270 vừa thay chốt được hai ngày thì sư đoàn 703 Pol Pot đưa lực lượng luồn vào phía sau Ngã tư Prây Âng Kê và bắc đường 24, định bất ngờ tập kích vào sáng hôm sau. Nhưng chúng bị tiểu đoàn 5 phát hiện và vây đánh. Bên cạnh các chiến dịch bộ binh còn có các tổ chiến đấu của chiến sĩ nuôi quân Nguyễn Văn Hiệu, tổ thông tin, trinh sát, quân y, quản lý của tiểu đoàn bộ do phó chính trị viên tiểu đoàn Lê Ngọc Công và trợ lý tham mưu Nguyễn Văn Sơn chỉ hy. Tiểu đoàn 5 đã cùng với lực lượng cơ động của trung đoàn 270 diệt 219 tên thu trên 100 súng các loại.
    Bị thảm bại trước Ngã ba Sàm Rông, Ngã ba Săng Ke và Ngã tư Prây Âng Kê, địch phải chuyển hướng đột phá. Chúng dùng các sư đoàn 210, 230 và một bộ phận của sư đoàn 703, dồn sức chọc vào khu vực tiếp giáp giữa sư đoàn 341 và sư đoàn 7.
    Ngày 11 tháng 7, sư đoàn 210 địch chiếm được chốt của tiểu đoàn 7 trung đoàn 209 sư đoàn 7. Liền đó, chúng huy động lực lượng ào ạt tiến qua ngã ba phía bắc Choóc. Quân Pol Pot vừa là những kẻ mê muội vừa bị bọn chỉ huy thúc ép, cuối cùng chúng cũng thực hiện được việc chia cắt đội hình phòng ngự của Quân đoàn 4 và trực tiếp uy hiếp sườn phía nam dải phòng ngự của sư đoàn. Đêm 11 tháng 7, gần ba sư đoàn địch được huy động tới phía bắc Choóc, phía tây Ngã tư Prây Âng Kê địch mở cuộc tiến công lớn chiếm Ngã ba Săng Ke, đường 24 vào sớm hôm sau.
    Mặc dù vậy, các chiến sĩ chiến đấu rất bình tĩnh. Trong hai ngày (12 và 13-7), được không quân và pháo binh chi viện đắc lực, bộ binh và xe tăng sư đoàn 341 kết hợp chặt chẽ với sư đoàn 7 phản công đánh địch một đòn đau giành lại toàn bộ khu vực bị mất.
    Tuy bị đẩy lùi một bước quan trọng, song địch vẫn say máu. Bọn chỉ huy quân khu 203 tiếp tục dồn lực lượng đến tây bắc Choóc, chuẩn bị đợt tiến công mới.
    Trước tình hình ấy, đêm 17 tháng 7, bộ tư lệnh sư đoàn 341 lệnh cho trung đoàn 273 chủ động tiến công trước, phá thế chuẩn bị của địch.
    Kế hoạch phản công của địch từ hướng Choóc vào Ngã ba Săng Ke đã bị đập tan. Nhưng chúng vẫn chưa chịu dừng ở đó. Chỉ mấy ngày sau, chúng đưa sư đoàn 210 và trung đoàn 22 sư đoàn 290 chuyển hướng tiến công về phía bắc đường 24, đường 13. Suốt những ngày 25, 26, 27 tháng 7, chúng dồn dập tiến công khu vực phòng ngự của trung đoàn 270, nhưng đều bị chặn đứng.
    Ngày 28 và 29 tháng 7, chúng lại điên cuồng tiến công Ngã ba Sàm Rông, song cũng chẳng có gì may mắn hơn. Cả 18 đợt hò hét xung phong đều bị tiểu đoàn 6 đánh cho tơi tả, buộc phải quay đầu tháo chạy.
    Để thế chốt được vững vàng trước sự bu bám dai như đỉa của quân thù, các chiến sĩ 341 phải đánh hàng trăm trận, cả ban ngày và ban đêm, liên tục. Sư đoàn đã trải qua ba tháng trên chốt; từ lúc mưa chỉ là ?omưa cơn mưa trận, đủ tưới mát mặt đất và cỏ cây, còn bây giờ mưa đã trắng đất, trắng trời, kéo dài tuần này qua tuần khác. Điểm chốt như đảo nhỏ giữa mặt nước mênh mông. Nước ào vào ngập tràn công sự, chiến hào. Trong khi đó, cuộc chiến đấu đánh quân Pol Pot xâm lăng vẫn khẩn trương, quyết liệt.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Xin lỗi các bác, hôm qua mạng chỗ em nó bị sập nên em chỉ gửi lên được mối một bài. Còn phần tài liệu em đưa lên đây là từ quyển Sư đoàn Sông Lam, có trong thư viện Hà Nội. Bác donadoan nói đúng đấy ạ, em chỉ có mỗi công gõ thôi!
    Ở chiến trường tây-tây nam tỉnh Tây Ninh, sư đoàn 341 đứng trên cánh tuyến phòng ngự của Quân đoàn 4, kéo dài từ Rạch Nàng Đinh đến Choóc, giữ hai trục đường lớn 13 và 24. Dải phòng ngự của sư đoàn tựa hình cánh cung trong thế trận liên hoàn giữa các lực lượng bộ binh, pháo binh và xe tăng. Ở giữa là trung đoàn 266, chốt giữ đường 24 từ Ngã tư Prây Âng Kê đến Ngã ba Sàm Rông. Phía nam là trung đoàn 273 từ tây nam Ngã ba Săng Ke đến tây bắc Choóc. Phía bắc là trung đoàn 270 đứng ở bắc đường 13 từ Làng Xanh, Samava đến Ngã ba Đường Cụt. Trung đoàn 55 pháo binh bố trí ở Ngã ba Săng Ke và Cầu Sắt, Ngã ba Đường Cụt. Tiểu đoàn 1 xe tăng đứng ngay phía sau các trung đoàn. Trong thế đứng đó, trung đoàn 270 làm lực lượng dự bị cơ động của sư đoàn.
    Đường 24, đường 13 có vị trí đặc biệt quan tọng đối với các chiến dịch tiến công của địch vào thị xã Tây Ninh, cho nên ngay từ lúc sư đoàn 341 làm chủ các vị trí trên hai con đường này, thì tính chất quyết liệt của trân chiến đấu đã nổi lên.
    Sau khi mất Ngã ba Sàm Rông, sư đoàn 703 Pol Pot liền tung hai trung đoàn (32 và 304) vào để cố giành lại cho bằng được. Suốt năm ngày (từ 24 đến 28-6), chúng phản kích liên tục vào Ngã ba Sàm Rông và Ngã tư Prây Âng Kê. Địch bâu đặc xung quanh các chốt của trung đoàn 266 (24 trên 24 giờ trong ngày). Khi thì các thê đội lính áo đen thay nhau xông tới, khi thì pháo tầm xa, ĐKZ, cối bắn cấp tập tưởng như băm nát trận địa. Trong khi đó, mặt đất nhão nhoét, công sự chỉ có gỗ đất, hầm hào nước ngập đến thắt lưng, thậm chí đến cổ, thế nhưng các chiến sĩ ?oSông Lam 3? vẫn vững vàng trước cuộc chiến đấu ác liệt, công sự gỗ đất cứ sập dần, mặt đấy bị cày xới đi xới lại. Ở tiểu đoàn 8, tỷ lệ thương vong cao. Nhiều chiến sĩ trên đầu, trên cánh tay quấn băng trắng vẫn đòi ở lại chốt bằng được. Đến ngày thứ tư, trên hướng chốt của tiểu đoàn 8, cuộc chiến đấu giành đi giật lại giữa ta và địch diễn ra quyết liệt.
    Đêm 26 tháng 6, ở chốt đại đội 6, trung đội 1 được tăng cường khẩu đội ĐKZ đã đánh bật năm đợt tiến công của địch. 3 giờ sáng ngày 27, địch luồn vào tiếp cận rồi bất ngờ nổ súng, nhưng chúng vẫn bị các chiến sĩ ta đánh hất ra khỏi chốt. Trận địa chốt ta giữ vưng nhưng bị thương vong nhiều. Trung đội 1 tuy còn ba chiến sĩ, trung đội trưởng hy sinh nhưng vẫn kiên cường đứng vững. Ở khẩu đội ĐKZ thì khẩu đội trưởng Mai Đình Trúc bị thương vào thái dương, hai chiến sĩ hy sinh, hai chiến sĩ khác bị thương năng. Bấy giờ cả hướng chốt này chỉ còn mình Trúc là lớn tuổi nhất lại là đảng viên. Anh lĩnh trách nhiệm chỉ huy các chiến sĩ còn lại. Trúc đến bên từng người dặn dò: ?oBằng mọi giá, phải giữ chốt đến cùng!?. Và cả bốn người ôm hôn nhau thề giữ bằng được trận địa. 4 giờ sáng, cuộc tiến công lần thứ bảy của địch bị đẩy lùi. Mọi người còn chưa kịp vào hầm lấy thêm đạn và lựu đạn thì địch đã hò nhau xông tới. Khói đạn và bùn đất như bọc kín họ. Súng trên chốt bỗng nhiên im bặt. Một mảnh cối găm vào tay phải Trúc. Truc ôm tay ngoài người đến các công sự xem xét. Anh bàng hoàng khi thấy Hùng và Minh đang cố toài lên bờ công sự. Thấy Trúc đến, Minh thều thào: ?oĐánh!? Đánh nữa? anh Trúc!?. Bên cạnh, Khuyên đã tắt thở, nửa người úp trên thân súng trung liên, ngón tay trỏ vẫn còn đặt trong vòng cò. Trúc ôm Khuyên vào lòng, vừa khóc vừa vuốt mắt cho bạn. Lúc đó, những bóng đen đã tiến sát vào chốt trung đội 1, đạn địch như trăm ngàn mũi dao đỏ rạch nát khoảng không. Chốc chốc một ánh chớp xanh lét bùng lên. Rời Khuyên, Trúc ôm trung liên bắn xối xả. Hết đạn, Trúc lao sang công sự bên, vớ được súng, đánh bằng súng, vớ được lựu đạn, dùng lựu đạn. Khi mảnh cối thứ ba găm vào bụng, Trúc vẫn ôm ghì khẩu AK bắn như vãi đạn vào các bóng đen đang ào ào lên và quật ngã chúng.
    Cuối tháng 6, bộ tư lệnh sư đoàn tăng cường cho trung đoàn 266 tiểu đoàn 1 bộ binh và tiểu đoàn 1 xe tăng để mở cuộc phản kích, đánh vào các trung đoàn địch đang bu bám Ngã ba Sàm Rông và Ngã tư Prây Âng Kê. Trung đoàn 32 và trung đoàn 304 địch bị thiệt hại nặng, phải lùi ra xa củng cố và thực hiện ?ophản kích có mức độ!?.
    Ngày 28 tháng 6, trung đoàn 270 tới thay chốt cho trung đoàn 266; trung đoàn 266 làm lực lượng dự bị.
    Trung đoàn 270 vừa thay chốt được hai ngày thì sư đoàn 703 Pol Pot đưa lực lượng luồn vào phía sau Ngã tư Prây Âng Kê và bắc đường 24, định bất ngờ tập kích vào sáng hôm sau. Nhưng chúng bị tiểu đoàn 5 phát hiện và vây đánh. Bên cạnh các chiến dịch bộ binh còn có các tổ chiến đấu của chiến sĩ nuôi quân Nguyễn Văn Hiệu, tổ thông tin, trinh sát, quân y, quản lý của tiểu đoàn bộ do phó chính trị viên tiểu đoàn Lê Ngọc Công và trợ lý tham mưu Nguyễn Văn Sơn chỉ hy. Tiểu đoàn 5 đã cùng với lực lượng cơ động của trung đoàn 270 diệt 219 tên thu trên 100 súng các loại.
    Bị thảm bại trước Ngã ba Sàm Rông, Ngã ba Săng Ke và Ngã tư Prây Âng Kê, địch phải chuyển hướng đột phá. Chúng dùng các sư đoàn 210, 230 và một bộ phận của sư đoàn 703, dồn sức chọc vào khu vực tiếp giáp giữa sư đoàn 341 và sư đoàn 7.
    Ngày 11 tháng 7, sư đoàn 210 địch chiếm được chốt của tiểu đoàn 7 trung đoàn 209 sư đoàn 7. Liền đó, chúng huy động lực lượng ào ạt tiến qua ngã ba phía bắc Choóc. Quân Pol Pot vừa là những kẻ mê muội vừa bị bọn chỉ huy thúc ép, cuối cùng chúng cũng thực hiện được việc chia cắt đội hình phòng ngự của Quân đoàn 4 và trực tiếp uy hiếp sườn phía nam dải phòng ngự của sư đoàn. Đêm 11 tháng 7, gần ba sư đoàn địch được huy động tới phía bắc Choóc, phía tây Ngã tư Prây Âng Kê địch mở cuộc tiến công lớn chiếm Ngã ba Săng Ke, đường 24 vào sớm hôm sau.
    Mặc dù vậy, các chiến sĩ chiến đấu rất bình tĩnh. Trong hai ngày (12 và 13-7), được không quân và pháo binh chi viện đắc lực, bộ binh và xe tăng sư đoàn 341 kết hợp chặt chẽ với sư đoàn 7 phản công đánh địch một đòn đau giành lại toàn bộ khu vực bị mất.
    Tuy bị đẩy lùi một bước quan trọng, song địch vẫn say máu. Bọn chỉ huy quân khu 203 tiếp tục dồn lực lượng đến tây bắc Choóc, chuẩn bị đợt tiến công mới.
    Trước tình hình ấy, đêm 17 tháng 7, bộ tư lệnh sư đoàn 341 lệnh cho trung đoàn 273 chủ động tiến công trước, phá thế chuẩn bị của địch.
    Kế hoạch phản công của địch từ hướng Choóc vào Ngã ba Săng Ke đã bị đập tan. Nhưng chúng vẫn chưa chịu dừng ở đó. Chỉ mấy ngày sau, chúng đưa sư đoàn 210 và trung đoàn 22 sư đoàn 290 chuyển hướng tiến công về phía bắc đường 24, đường 13. Suốt những ngày 25, 26, 27 tháng 7, chúng dồn dập tiến công khu vực phòng ngự của trung đoàn 270, nhưng đều bị chặn đứng.
    Ngày 28 và 29 tháng 7, chúng lại điên cuồng tiến công Ngã ba Sàm Rông, song cũng chẳng có gì may mắn hơn. Cả 18 đợt hò hét xung phong đều bị tiểu đoàn 6 đánh cho tơi tả, buộc phải quay đầu tháo chạy.
    Để thế chốt được vững vàng trước sự bu bám dai như đỉa của quân thù, các chiến sĩ 341 phải đánh hàng trăm trận, cả ban ngày và ban đêm, liên tục. Sư đoàn đã trải qua ba tháng trên chốt; từ lúc mưa chỉ là ?omưa cơn mưa trận, đủ tưới mát mặt đất và cỏ cây, còn bây giờ mưa đã trắng đất, trắng trời, kéo dài tuần này qua tuần khác. Điểm chốt như đảo nhỏ giữa mặt nước mênh mông. Nước ào vào ngập tràn công sự, chiến hào. Trong khi đó, cuộc chiến đấu đánh quân Pol Pot xâm lăng vẫn khẩn trương, quyết liệt.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trên trận địa lõng bõng bùn, nước, các chiến sĩ phải ngâm mình hàng tháng để quần nhau với giặc. Bệnh ghẻ lở, hắc lào được thể phát triển mạnh. Trên cánh đồng nước bao quanh sặc mùi hôi thối xác giặc và xác súc vật. Lại thêm ruồi, muỗi nhiều vô kể, đêm ngày ?obu bám? chiến sĩ ta. Những đêm không có bộ binh địch mò vào, chiến sĩ ta cũng không thể ngủ yên trên các sạp nằm đã sũng nước, chốc chốc họ lại bị pháo, cối của địch quấy rầy. Do hầm hố phải đắp nổi hoặc nửa chìm nửa nổi, nên mỗi trận pháo ít ra cũng có dăm ba chiếc bị sập. Công sự, chiến hào thì ngày nào cũng phải đào đi, đắp lại. Các chiến sĩ, ai nấy người gầy rộc, mắt thâm quầng.
    Đường 13-con đường huyết mạch nối trận địa phòng ngự với hậu phương, từ Đồn Binh đến Ngã ba Săng Ke nhiều đoạn ngập ngụa bùn nước. Công binh đã phải về những cánh rừng Tây Ninh chặt hàng vạn cây gỗ lót đường cho xe đi. Và, các đoàn xe vận tải hàng ngày phải ?onhảy sạp? trên những đoạn cây lát đường đó để chở đến trận địa vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc men và chở thương binh, bệnh binh về phía sau.
    Lúc này (thượng tuần tháng 8), sư đoàn đang gặp những khó khăn không ít. Chẳng phải khó khăn về lương thực, đạn dược! Khoản này thì suốt cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam chẳng ai phải lo thiếy. Vì tiền tuyến liền với hậu phương, địch lại chưa có khả năng đánh phá vận chuyển, nên đường vận tải cứ thông mạch từ hậu phương đến thẳng người chiến sĩ. Cũng chẳng phải gian khổ, hy sinh mà nảy sinh vấn đề tư tưởng. Tất nhiên không kể cá biệt. Cả sư đoàn vẫn cùng chung một ý chí. Càng vào thời kỳ quyết liệt, thì trên trận địa chốt càng sản sinh ra nhiều anh hùng, dũng sĩ. Bên cạnh trung đội trưởng Ngô Khắc Quyền một mình giữ chốt hàng chục trận, diệt hơn 100 tên địch, có cả một đội ngũ ?ochiến sĩ thép? như Mai Đình Trúc, Nguyễn Đức Lĩnh, Đặng Thái Đình, Trương Quang Trung, Trần Trung Nhẫn, Hà Quốc Ân?
    Cái khó chính lúc này là sư đoàn đã qua 10 tháng liên tục chiến đấu mà chưa kịp bổ sung quân số. Trong khi đó, ốm đau, bệnh tật? cứ tăng dần; thêm vào đó là thương vong sau mỗi trận đánh. Lúc này, các chiến sĩ bị thương, bị đau ốm không nỡ lòng nào rời chốt. Một lần, phó đại đội trưởng đại đội 6 Nguyễn Đức Lĩnh đã nói với trung đoàn trưởng Trần Minh: ?oBáo cáo thủ trưởng, tôi cũng như nhiều anh em khác, đã năm lần bị thương vẫn có mặt ở đây. Thủ trưởng cư yên tâm, không bao giờ chúng tôi để chốt rơi vào tay địch!?. Còn chiến sĩ trung đoàn 273 thì nói vui rằng: ?oDù phải ăn cơm cục, uống nước đục, cuộc sống cực cũng ráng khắc phục! Quyết đánh cho Pol Pot chết gục!?. Cán bộ chiến sĩ nêu khẩu hiệu :?Chốt là nhà, chốt là thao trường, mục tiêu là quân K (quân Pol Pot)?. Trên chốt không phải chỉ có hầm hố chiến đấu, mà đã có thêm luống rau muống, cũi lợn, ***g gà? Tuy trong hầm nghỉ lúc nào cũng lõng bõng nước, nhưng đã có những ?otờ? báo tường, báo liếp dày đặc thơ, ca, hò, vè mà chiến sĩ đã khắc họa trên những vỏ nhựa quả đạn B.40, B.41 và những tàu lá thốt nốt.
    Ta khó, địch càng khó, Trên toàn chiến trường, quân số của chúng đã bị hao hụt nghiêm trọng. Dân loại 2 và trẻ con dưới 15 tuổi cũng bị đưa vào lính để đẩy ra mặt trận. Địch có lợi thế đặc biệt là chúng chịu được khí hậu, thời tiết khắc nghiệt, quen môi trường sống, suốt ngày đêm đầm mình được dưới trời mưa, nắng. Ruồi, muỗi cũng phải ?oco vòi? chịu thứ da dày bì bì của chúng. Chúng cứ như những con chuột chũi luồn lách phá ta dữ dội, nhất là lúc mưa lớn, nước lên. Vì nước to, đường lầy, các cuộc vận động tiến công hiệp đồng binh chủng của ta bị hạn chế. Trên chốt thì mưa to làm rã hầm hào công sự. Nhằm vào đó, địch dùng hoả lực là chủ yếu để đánh các chốt. Không có ?opháo đài bay B.52?, ?ovua chiến trường? như Mỹ, thì bọn ********* bành trướng đưa đến cho Pol Pot ?odư xài? các loại ĐKZ, cối 82, cối 120, súng 12,7 và 37? Chúng cứ nhằm từng mỏm đất, từng chiếc hầm mà giội đạn vào. Những lúc như thế, từ các điểm ?odi tản?, chiến sĩ ta ung dung dùng hoả lực giáng trả! Và khi địch hí hứng bò vào định lấy chốt thì bị quật ngã ngay tại chỗ trước sự kết hợp tài tình giữa lực lượng chốt và lực lượng cơ động của ta. Điều này làm cho các mũi tiến quân của địch phải dè chừng và khiếp sợ.
    Trong lúc trên chốt đang ầm ào tiếng súng, thì cũng là lúc anh nuôi vai súng, vai cơm lội bì bõm trên cánh đồng đến trận địa. Có khi anh nuôi phải lội nước đến tận cổ mà đẩy nồi đến chốt. Con đường tiếp tế ấy thường là nằm trong tầm súng bắn tỉa của địch, có lúc địch luồn vào phục ngang đường. Nhưng thường là bên những gánh cơm còn nguyên vẹn, các chiến sĩ nuôi quân còn giong thêm cả những tên tù binh đang run lẩy bẩy nữa!
    Cho đến ngày 8 tháng 8, khi ở Hà Nội bắt đầu cuộc đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao giữa ta và Trung Quốc, thì trên chiến trường, Bắc Kinh lại thúc ép Pol Pot mở cuộc tiến công quân sự mới, điên cuồng hơn. Lần này, chúng vẫn tiếp tục ?odũi? từ phía bắc đường 13, đường 14 vào trận địa phòng ngự của sư đoàn. Một thử thách mới lại đến với các điểm chốt của ta.
    Suốt ba ngày liền (8, 9, 10 tháng 8), các sư đoàn 703, 210, 280 thay nhau đánh kiểu ?ocuốn chiếu? vào Ngã ba Sàm Rông, Làng Xanh, Ngã ba Giếng Xây, Bạch Bột? với ý đồ chọc một mũi dùi vào sườn sau trận địa phòng ngự của sư đoàn 341, nhằm chia cắt đường 13, cô lập đường 24, tiến đến chiếm lại khu vực này và phá hoại công trình xây dựng tuyến phòng thủ ở khu vực Đồn Binh.
    Lợi dụng địa thế phức tạp của những khu vực xen kẽ rừng thưa, gò đống ở bắc đường 13, địch tiến công rất quyết liệt cả bằng bộ binh và pháo binh. Có nơi chúng tiến côn 24 trên 24 giờ trong một ngày. Chúng không nhích thêm được bước nào, mà còn bị diệt mất hai tiểu đoàn, cháy hai xe thiết giáp M.113 và hai xe ô tô. Tuy bị đòn đau, nhưng vì bị ?oăng ca? thúc ép quá, chúng vẫn không dừng bước tiến công.
    Cán bộ, chiến sĩ ta chiến đấu rất kiên cường nhưng vì kéo dài nên cũng bắt đầu thấm mệt. Công sự bị đánh sập. Một số chốt bắt đầu rơi vào tay địch. Tại chốt đại đội 7, tiểu đội trưởng Nguyễn Kim Tha, người cuối cùng trên chốt, đã đánh địch bằng nhiều loại súng, bị thương ba lần vẫn chặn đứng cả tiểu đoàn giặc cho đến lúc hy sinh. Vào được Làng Xanh, địch dồn sức lấn luôn Ngã ba Giếng Xây, tràn lên Bạch Bột. Chúng đang kề sát đường 13 và Đồn Binh.
    Tình thế khẩn trương. Nếu để địch vào được đường 13, chúng sẽ cắt còn đường huyết mạch này, uy hiếp sở chỉ huy sư đoàn trong tầm cối 82 và trực tiếp đánh phá công trình xây dựng tuyến phòng thủ nữa.
    Bộ tư lệnh sư đoàn quyết định nhanh chóng dùng biện pháp tích cực để chặn đứng và đẩy lùi cuộc tiến công của địch. Trong lúc trên trận địa phòng ngự quân số quá ít, phải bố trí kiểu ?orái mành mành?, việc nhấc ra một đại đội làm cơ động quả là khó khăn. Lực lượng cơ động của sư đoàn có tiểu đoàn 9 và tiểu đoàn xe tăng cùng một tiểu đoàn đặc công của Bộ phối thuộc. Ngày 11 thán 8, số cán bộ khung và đội mẫu của tiểu đoàn 28 đã được đưa từ Cao Xá đến đông nam Bạch Bột cùng với tiểu đoàn 9 chặn đứng cuộc tiến công của địch.
    Trưởng ban tác chiến sư đoàn Lê Hải Anh được điều xuống làm trung đoàn trưởng trung đoàn 270, thay thế trung đoàn trưởng Nguyễn Thế Vân. Cùng thời gian này, sư đoàn chủ trương tập trung lực lượng giữ chốt bằng mọi giá. Mọi lực lượng được biên chế lại để dồn quân lên tuyến trước. Các tiểu đoàn trực thuộc phục vụ chiến đấu đều có thêm nhiệm vụ chốt. Cơ quan sư đoàn cũng được trang bị vũ khí như đơn vị bộ binh và có phương án chốt. Hậu cứ, đoàn sản xuất cũng được rút gọn. Cán bộ, đảng viên làm công tác chuyên môn cũng được ưu tiên cho tuyến trước để tăng cường sức mạnh lãnh đạo chỉ huy.
    Trước sự tiến công dữ dội của kẻ thù, thế trận của sư đoàn vẫn vững cho đến trung tuần tháng 8, khi Bộ đưa sư đoàn 2 Quân khu 5 đến tăng cường cho hướng đường 13, các trung đoàn 270 và 266 mới có dịp rời về phía sau củng cố, xây dựng. Riêng trung đoàn 273 ở Ngã ba Săng Ke vẫn lấy chốt là nhà, trận địa là thao trường để vừa chiến đấu vừa xây dựng.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trên trận địa lõng bõng bùn, nước, các chiến sĩ phải ngâm mình hàng tháng để quần nhau với giặc. Bệnh ghẻ lở, hắc lào được thể phát triển mạnh. Trên cánh đồng nước bao quanh sặc mùi hôi thối xác giặc và xác súc vật. Lại thêm ruồi, muỗi nhiều vô kể, đêm ngày ?obu bám? chiến sĩ ta. Những đêm không có bộ binh địch mò vào, chiến sĩ ta cũng không thể ngủ yên trên các sạp nằm đã sũng nước, chốc chốc họ lại bị pháo, cối của địch quấy rầy. Do hầm hố phải đắp nổi hoặc nửa chìm nửa nổi, nên mỗi trận pháo ít ra cũng có dăm ba chiếc bị sập. Công sự, chiến hào thì ngày nào cũng phải đào đi, đắp lại. Các chiến sĩ, ai nấy người gầy rộc, mắt thâm quầng.
    Đường 13-con đường huyết mạch nối trận địa phòng ngự với hậu phương, từ Đồn Binh đến Ngã ba Săng Ke nhiều đoạn ngập ngụa bùn nước. Công binh đã phải về những cánh rừng Tây Ninh chặt hàng vạn cây gỗ lót đường cho xe đi. Và, các đoàn xe vận tải hàng ngày phải ?onhảy sạp? trên những đoạn cây lát đường đó để chở đến trận địa vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc men và chở thương binh, bệnh binh về phía sau.
    Lúc này (thượng tuần tháng 8), sư đoàn đang gặp những khó khăn không ít. Chẳng phải khó khăn về lương thực, đạn dược! Khoản này thì suốt cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam chẳng ai phải lo thiếy. Vì tiền tuyến liền với hậu phương, địch lại chưa có khả năng đánh phá vận chuyển, nên đường vận tải cứ thông mạch từ hậu phương đến thẳng người chiến sĩ. Cũng chẳng phải gian khổ, hy sinh mà nảy sinh vấn đề tư tưởng. Tất nhiên không kể cá biệt. Cả sư đoàn vẫn cùng chung một ý chí. Càng vào thời kỳ quyết liệt, thì trên trận địa chốt càng sản sinh ra nhiều anh hùng, dũng sĩ. Bên cạnh trung đội trưởng Ngô Khắc Quyền một mình giữ chốt hàng chục trận, diệt hơn 100 tên địch, có cả một đội ngũ ?ochiến sĩ thép? như Mai Đình Trúc, Nguyễn Đức Lĩnh, Đặng Thái Đình, Trương Quang Trung, Trần Trung Nhẫn, Hà Quốc Ân?
    Cái khó chính lúc này là sư đoàn đã qua 10 tháng liên tục chiến đấu mà chưa kịp bổ sung quân số. Trong khi đó, ốm đau, bệnh tật? cứ tăng dần; thêm vào đó là thương vong sau mỗi trận đánh. Lúc này, các chiến sĩ bị thương, bị đau ốm không nỡ lòng nào rời chốt. Một lần, phó đại đội trưởng đại đội 6 Nguyễn Đức Lĩnh đã nói với trung đoàn trưởng Trần Minh: ?oBáo cáo thủ trưởng, tôi cũng như nhiều anh em khác, đã năm lần bị thương vẫn có mặt ở đây. Thủ trưởng cư yên tâm, không bao giờ chúng tôi để chốt rơi vào tay địch!?. Còn chiến sĩ trung đoàn 273 thì nói vui rằng: ?oDù phải ăn cơm cục, uống nước đục, cuộc sống cực cũng ráng khắc phục! Quyết đánh cho Pol Pot chết gục!?. Cán bộ chiến sĩ nêu khẩu hiệu :?Chốt là nhà, chốt là thao trường, mục tiêu là quân K (quân Pol Pot)?. Trên chốt không phải chỉ có hầm hố chiến đấu, mà đã có thêm luống rau muống, cũi lợn, ***g gà? Tuy trong hầm nghỉ lúc nào cũng lõng bõng nước, nhưng đã có những ?otờ? báo tường, báo liếp dày đặc thơ, ca, hò, vè mà chiến sĩ đã khắc họa trên những vỏ nhựa quả đạn B.40, B.41 và những tàu lá thốt nốt.
    Ta khó, địch càng khó, Trên toàn chiến trường, quân số của chúng đã bị hao hụt nghiêm trọng. Dân loại 2 và trẻ con dưới 15 tuổi cũng bị đưa vào lính để đẩy ra mặt trận. Địch có lợi thế đặc biệt là chúng chịu được khí hậu, thời tiết khắc nghiệt, quen môi trường sống, suốt ngày đêm đầm mình được dưới trời mưa, nắng. Ruồi, muỗi cũng phải ?oco vòi? chịu thứ da dày bì bì của chúng. Chúng cứ như những con chuột chũi luồn lách phá ta dữ dội, nhất là lúc mưa lớn, nước lên. Vì nước to, đường lầy, các cuộc vận động tiến công hiệp đồng binh chủng của ta bị hạn chế. Trên chốt thì mưa to làm rã hầm hào công sự. Nhằm vào đó, địch dùng hoả lực là chủ yếu để đánh các chốt. Không có ?opháo đài bay B.52?, ?ovua chiến trường? như Mỹ, thì bọn ********* bành trướng đưa đến cho Pol Pot ?odư xài? các loại ĐKZ, cối 82, cối 120, súng 12,7 và 37? Chúng cứ nhằm từng mỏm đất, từng chiếc hầm mà giội đạn vào. Những lúc như thế, từ các điểm ?odi tản?, chiến sĩ ta ung dung dùng hoả lực giáng trả! Và khi địch hí hứng bò vào định lấy chốt thì bị quật ngã ngay tại chỗ trước sự kết hợp tài tình giữa lực lượng chốt và lực lượng cơ động của ta. Điều này làm cho các mũi tiến quân của địch phải dè chừng và khiếp sợ.
    Trong lúc trên chốt đang ầm ào tiếng súng, thì cũng là lúc anh nuôi vai súng, vai cơm lội bì bõm trên cánh đồng đến trận địa. Có khi anh nuôi phải lội nước đến tận cổ mà đẩy nồi đến chốt. Con đường tiếp tế ấy thường là nằm trong tầm súng bắn tỉa của địch, có lúc địch luồn vào phục ngang đường. Nhưng thường là bên những gánh cơm còn nguyên vẹn, các chiến sĩ nuôi quân còn giong thêm cả những tên tù binh đang run lẩy bẩy nữa!
    Cho đến ngày 8 tháng 8, khi ở Hà Nội bắt đầu cuộc đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao giữa ta và Trung Quốc, thì trên chiến trường, Bắc Kinh lại thúc ép Pol Pot mở cuộc tiến công quân sự mới, điên cuồng hơn. Lần này, chúng vẫn tiếp tục ?odũi? từ phía bắc đường 13, đường 14 vào trận địa phòng ngự của sư đoàn. Một thử thách mới lại đến với các điểm chốt của ta.
    Suốt ba ngày liền (8, 9, 10 tháng 8), các sư đoàn 703, 210, 280 thay nhau đánh kiểu ?ocuốn chiếu? vào Ngã ba Sàm Rông, Làng Xanh, Ngã ba Giếng Xây, Bạch Bột? với ý đồ chọc một mũi dùi vào sườn sau trận địa phòng ngự của sư đoàn 341, nhằm chia cắt đường 13, cô lập đường 24, tiến đến chiếm lại khu vực này và phá hoại công trình xây dựng tuyến phòng thủ ở khu vực Đồn Binh.
    Lợi dụng địa thế phức tạp của những khu vực xen kẽ rừng thưa, gò đống ở bắc đường 13, địch tiến công rất quyết liệt cả bằng bộ binh và pháo binh. Có nơi chúng tiến côn 24 trên 24 giờ trong một ngày. Chúng không nhích thêm được bước nào, mà còn bị diệt mất hai tiểu đoàn, cháy hai xe thiết giáp M.113 và hai xe ô tô. Tuy bị đòn đau, nhưng vì bị ?oăng ca? thúc ép quá, chúng vẫn không dừng bước tiến công.
    Cán bộ, chiến sĩ ta chiến đấu rất kiên cường nhưng vì kéo dài nên cũng bắt đầu thấm mệt. Công sự bị đánh sập. Một số chốt bắt đầu rơi vào tay địch. Tại chốt đại đội 7, tiểu đội trưởng Nguyễn Kim Tha, người cuối cùng trên chốt, đã đánh địch bằng nhiều loại súng, bị thương ba lần vẫn chặn đứng cả tiểu đoàn giặc cho đến lúc hy sinh. Vào được Làng Xanh, địch dồn sức lấn luôn Ngã ba Giếng Xây, tràn lên Bạch Bột. Chúng đang kề sát đường 13 và Đồn Binh.
    Tình thế khẩn trương. Nếu để địch vào được đường 13, chúng sẽ cắt còn đường huyết mạch này, uy hiếp sở chỉ huy sư đoàn trong tầm cối 82 và trực tiếp đánh phá công trình xây dựng tuyến phòng thủ nữa.
    Bộ tư lệnh sư đoàn quyết định nhanh chóng dùng biện pháp tích cực để chặn đứng và đẩy lùi cuộc tiến công của địch. Trong lúc trên trận địa phòng ngự quân số quá ít, phải bố trí kiểu ?orái mành mành?, việc nhấc ra một đại đội làm cơ động quả là khó khăn. Lực lượng cơ động của sư đoàn có tiểu đoàn 9 và tiểu đoàn xe tăng cùng một tiểu đoàn đặc công của Bộ phối thuộc. Ngày 11 thán 8, số cán bộ khung và đội mẫu của tiểu đoàn 28 đã được đưa từ Cao Xá đến đông nam Bạch Bột cùng với tiểu đoàn 9 chặn đứng cuộc tiến công của địch.
    Trưởng ban tác chiến sư đoàn Lê Hải Anh được điều xuống làm trung đoàn trưởng trung đoàn 270, thay thế trung đoàn trưởng Nguyễn Thế Vân. Cùng thời gian này, sư đoàn chủ trương tập trung lực lượng giữ chốt bằng mọi giá. Mọi lực lượng được biên chế lại để dồn quân lên tuyến trước. Các tiểu đoàn trực thuộc phục vụ chiến đấu đều có thêm nhiệm vụ chốt. Cơ quan sư đoàn cũng được trang bị vũ khí như đơn vị bộ binh và có phương án chốt. Hậu cứ, đoàn sản xuất cũng được rút gọn. Cán bộ, đảng viên làm công tác chuyên môn cũng được ưu tiên cho tuyến trước để tăng cường sức mạnh lãnh đạo chỉ huy.
    Trước sự tiến công dữ dội của kẻ thù, thế trận của sư đoàn vẫn vững cho đến trung tuần tháng 8, khi Bộ đưa sư đoàn 2 Quân khu 5 đến tăng cường cho hướng đường 13, các trung đoàn 270 và 266 mới có dịp rời về phía sau củng cố, xây dựng. Riêng trung đoàn 273 ở Ngã ba Săng Ke vẫn lấy chốt là nhà, trận địa là thao trường để vừa chiến đấu vừa xây dựng.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trong thời gian ngắn ngủi này, sư đoàn đã tranh thủ từng giờ để tập huấn cán bộ, mở các hội nghị rút kinh nghiệm, bồi dưỡng trình độ, mở các hội nghị rút kinh nghiệm, bồi dưỡng trình độ cho các xạ thủ hoả lực và giáo dục truyền thống sư đoàn cho chiến sĩ mới.
    Tháng 9 năm 1978, những trận bão lớn liên tiếp đổ bộ vào miền Trung Đông Dương gây ra nạn lụt hiếm có suốt các vùng ven lưu vực sông Mê Công từ đông bắc Thái Lan, đông bắc Campuchia đến châu thổ sông Cửu Long Việt Nam.
    Bọn ********* Trung Quốc-Campuchia hí hửng: ?oCần tranh thủ lúc Việt Nam đang lụt, tập trung đánh phá toàn diện trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, giao thông? lấy đây là yếu tố quyết định để đánh bại Việt Nam trong mùa khô tới!?.
    Ở Đồng Tháp, An Giang, địch dùng cả các giang thuyền đánh vào vùng cửa sông Tiền, sông Hậu, thả thuỷ lôi theo dòng nước xuôi vào hạ lưu hai sông này, nhằm giết hại dân lành Việt Nam đang phải chống chọi với lũ lụt.
    Lúc này ở Tây Ninh, nước sông Vàm Cỏ Đông cũng dềnh lên gập các cánh đồng lúa của các huyện Châu Thành, Bến Cầu và Trảng Bàng. Đường 22 nhiều đoạn bi ngập. Đường số 1 ngập từ đoạn Gò Dầu Thượng đến Ngã ba Mộc Bài. Đường 13 ngập từ thị trấn Châu Thành đến Bến Sỏi? Trong lúc đường cơ động gặp khó khăn, thì trên các chốt, bộ đội ta cũng bước vào giai đoạn quyết liệt nhất.
    Đến giữa tháng 9, địch vẫn phải tức tối nhìn những ?opháo đài nổi? của các chiến sĩ mặt trận đường 13 (gồm sư đoàn 2 và sư đoàn 341). Lúc này, Bộ chỉ huy Mặt trận đường 13 đã thành lập, do các d Lê Ngọc Bì làm Tư lệnh, Vũ Đình Na làm phó tư lệnh, Nguyễn Quế giữ chức quyền Chính uỷ. Sau khi hoàn thành giai đoạn củng cố, trung đoàn 270 cùng với tiểu đoàn đặc công đã giành lại khu vực từ Bạch Bột và tây bắc Ngã tư Nhà Thương, từ Đường Cụt đến Làng Xanh, đẩy địch ra xa. Hy vọng của chúng trên đường 13 thế là tiêu tan. Chúng chuyển hướng tập trung lực lượng, mở cuộc tiến công lớn trên đường số 1, đánh vào trận địa phòng ngự của sư đoàn 9.
    Tại đây, các chiến sĩ trung đoàn 1 sư đoàn 9 đã bám chắc các trận địa ngập ngụa bùn nước, ngoan cường đánh địch.
    Để bảo đảm giữ được tuyến 1 trong điều kiện mưa lũ khắc nghiệt. Bộ tư lệnh Quân đoàn cho phép sư đoàn 9 bỏ trống Pra Sốt, rời về sông Tà Yên xây dựng tuyến phòng ngự mới.
    Vào được Pra Sốt, địch vội vã tập trung lực lượng, phát triển tiến công theo đường số 1. Nhưng suốt mấy ngày đột phá, chúng vẫn bị các chiến sĩ sư đoàn 9 đánh cho tơi tả ở bờ tây sông Tà Yên.
    Cuối tháng 9, địch tăng cường cho hướng đường số 1 thêm lực lượng của sư đoàn 340, trung đoàn 804, ba đại đội xe tăng thiết giáp và ba cụm pháo lớn. Đội hình cơ bản của chúng đã đến Sàm Lây, Phum Môn, Tà Nốt. ĐKZ của địch đã bắn vào đất Trảng Bàng. Trinh sát của chúng đã luồn đến Mộc Bài (Bến Cầu). Chúng đắc chí, cố dồn sức ?olàm gọn đường 1? trong vòng tháng 10 để dâng lên quan thầy món quà nhân ngày quốc khánh Trung Quốc.
    Lúc địch đã chui vào ?ovùng lõm? sát tuyến phòng thủ của ta ở Bến Cầu, Trảng Bàng thì cũng là lúc sư đoàn 341 (thiếu trung đoàn 273) được lệnh cơ động từ đường 13 về hướng đường 1, phối hợp với sư đoàn 9, mở đợt phản đột kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch lọt v ào phía nam và đông nam Tà Yên.
    Các đơn vị của sư đoàn lần lượt tiến vào Bến Cầu và Chi Pu. Cán bộ, chiến sĩ sư đoàn 9 tay bắt mặt mừng gặp người bạn đã có dịp hợp sức trên đường 13, lòng đầy tin tương. Còn các ba, các má ở Bến Cầu lại chuyện nở như ngô rang về những đứa con của mình.
    Mờ sáng ngày 10 tháng 10, pháo của ta gầm lên dữ dội. Cả ?obiển nước? mênh mông như chao đảo. và từ trên ?obiển nước? ấy, các chiến sĩ trung đoàn 266 ào ạt xông lên như thác lũ đánh tan trung đoàn 43 sư đoàn 1 và một tiểu đoàn của sư đoàn 5 địch, chiếm Phum Leng, Phum Th-nanh và Ngã ba đường 96, mở đầu giai đoạn phản đột kích trên hướng đường 1.
    Tiếp ngay đêm sau (11-10), trung đoàn 266 tràn xuống chiếm phum Don Noy để tạo bàn đạp. Mất phum Don Noy, địch cho rằng: ?oĐây chỉ là phản ứng tất nhiên của quân Việt Nam!?. Đối với chúng: ?okế hoạch đánh chiếm Prây Kô Ki và Chi Pu vẫn không thay đổi!?. Nhưng chúng chưa kịp hành động thì sư đoàn 341 đã bước vào đợt 2 với phương châm ?ođánh từng bước, lấy vận động tiến công làm chính, tiêu diệt đại bộ phận quân địch vừa với sức mình?. Cuộc chiến đấu của sư đoàn trên cánh đồng ngập nước này đã được chuẩn bị chu đáo.
    Đêm 12 tháng 10, các chiến sĩ bộ binh dùng xuồng ba lá và lội ruộng đến vị trí chiếm lĩnh. Trên các con đường ngập nước, các chiến sĩ pháo binh cởi trần làm lộ tiêu dẫn đường cho ô tô kéo pháo vào trận.
    5 giờ ngày 13 tháng 10, dưới hỏa lực chi viện của pháo 85 và cao xạ 37 hạ nòng bắn thẳng, các chiến sĩ 270, 266 cùng với các phân đội xe lội nước xốc thẳng vào phum Che Re, phum Tho, phum Bếch. Đến 10 giờ, toàn bộ quân địch ở đây đã tan như đám bào gặp bão. Ở hướng chủ yếu, tiểu đoàn 7 đã truy kích địch đến sát thị trấn Công Pông Rồ.
    Lúc này, địch mới ?ongã ngửa người!? vì đã hiểu phần nào ý định của đối phương. Chúng vội vã co về lập tuyến phòng ngự lâm thời bảo vệ Công Pông Rồ.
    Trong khi ấy ở sở chỉ huy Quân đoàn 4, Bộ tư lệnh chỉ rằng: ?oCần tiếp tục đánh bồi, đánh nhồi khi địch còn đang hoang mang và thế trận chưa vững!?. Tư lệnh Quân đoàn nhắc sư đoàn 341: ?oPhải khẩn trương đánh vỡ tuyến ngăn chặn Công Pông Rồ-Sóc Nóc, đẩy địch xuống dốc thêm một bước nữa, tạo thế cho cách nam và hoàn chỉnh kế hoạch phản đột kích!?.
    Thế là ngày 17 tháng 10, cuộc đột kích mạnh như thác lũ của ta đã cuốn phăng cái tuyến phòng ngự lâm thời mà địch mới hấp tấp dựng lên. Trên hướng chủ yếu, trung đoàn 266 đánh chiếm Ngã tư phum Prây Môn và Ngã ba phum Vay. Trung đoàn 270 chiếm Sàm Lây và Làng Xanh.
    Sau trận thua đậm ngày 17 tháng 10, địch không còn sức để ôm ấp kế hoạch đánh chiếm Chi Pu. Ba sư đoàn 1, 5, 221 buộc phải lùi về sau củng cố.
    Tháng 10, ở đường số 1, đường 13, đường 24, sư đoàn 341 đã thắng lớn và liên tiếp bẻ quằn các mũi tiến quân của bọn Pol Pot vào Ngã ba Săng Ke.
    Tháng 10, ở chiến trường tây-tây nam tỉnh Tây Ninh, quân ta thắng lớn, thường xuyên chặn đứng từ sáu đến tám sư đoàn của địch vào biên giới ta.
    Tháng 10, mùa mưa sắp qua. Mùa ?otạo thời, tạo thế? của ta đã giành được những thắng lợi quan trọng. Cục diện mới đang dẫn dắt cuộc chiến Tây nam vào bước ngoặt vĩ đại!
    Ở sư đoàn 341, một khí thế mới đang bùng lên, giục giã.
    Mùa khô đang tới gần!
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trong thời gian ngắn ngủi này, sư đoàn đã tranh thủ từng giờ để tập huấn cán bộ, mở các hội nghị rút kinh nghiệm, bồi dưỡng trình độ, mở các hội nghị rút kinh nghiệm, bồi dưỡng trình độ cho các xạ thủ hoả lực và giáo dục truyền thống sư đoàn cho chiến sĩ mới.
    Tháng 9 năm 1978, những trận bão lớn liên tiếp đổ bộ vào miền Trung Đông Dương gây ra nạn lụt hiếm có suốt các vùng ven lưu vực sông Mê Công từ đông bắc Thái Lan, đông bắc Campuchia đến châu thổ sông Cửu Long Việt Nam.
    Bọn ********* Trung Quốc-Campuchia hí hửng: ?oCần tranh thủ lúc Việt Nam đang lụt, tập trung đánh phá toàn diện trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, giao thông? lấy đây là yếu tố quyết định để đánh bại Việt Nam trong mùa khô tới!?.
    Ở Đồng Tháp, An Giang, địch dùng cả các giang thuyền đánh vào vùng cửa sông Tiền, sông Hậu, thả thuỷ lôi theo dòng nước xuôi vào hạ lưu hai sông này, nhằm giết hại dân lành Việt Nam đang phải chống chọi với lũ lụt.
    Lúc này ở Tây Ninh, nước sông Vàm Cỏ Đông cũng dềnh lên gập các cánh đồng lúa của các huyện Châu Thành, Bến Cầu và Trảng Bàng. Đường 22 nhiều đoạn bi ngập. Đường số 1 ngập từ đoạn Gò Dầu Thượng đến Ngã ba Mộc Bài. Đường 13 ngập từ thị trấn Châu Thành đến Bến Sỏi? Trong lúc đường cơ động gặp khó khăn, thì trên các chốt, bộ đội ta cũng bước vào giai đoạn quyết liệt nhất.
    Đến giữa tháng 9, địch vẫn phải tức tối nhìn những ?opháo đài nổi? của các chiến sĩ mặt trận đường 13 (gồm sư đoàn 2 và sư đoàn 341). Lúc này, Bộ chỉ huy Mặt trận đường 13 đã thành lập, do các d Lê Ngọc Bì làm Tư lệnh, Vũ Đình Na làm phó tư lệnh, Nguyễn Quế giữ chức quyền Chính uỷ. Sau khi hoàn thành giai đoạn củng cố, trung đoàn 270 cùng với tiểu đoàn đặc công đã giành lại khu vực từ Bạch Bột và tây bắc Ngã tư Nhà Thương, từ Đường Cụt đến Làng Xanh, đẩy địch ra xa. Hy vọng của chúng trên đường 13 thế là tiêu tan. Chúng chuyển hướng tập trung lực lượng, mở cuộc tiến công lớn trên đường số 1, đánh vào trận địa phòng ngự của sư đoàn 9.
    Tại đây, các chiến sĩ trung đoàn 1 sư đoàn 9 đã bám chắc các trận địa ngập ngụa bùn nước, ngoan cường đánh địch.
    Để bảo đảm giữ được tuyến 1 trong điều kiện mưa lũ khắc nghiệt. Bộ tư lệnh Quân đoàn cho phép sư đoàn 9 bỏ trống Pra Sốt, rời về sông Tà Yên xây dựng tuyến phòng ngự mới.
    Vào được Pra Sốt, địch vội vã tập trung lực lượng, phát triển tiến công theo đường số 1. Nhưng suốt mấy ngày đột phá, chúng vẫn bị các chiến sĩ sư đoàn 9 đánh cho tơi tả ở bờ tây sông Tà Yên.
    Cuối tháng 9, địch tăng cường cho hướng đường số 1 thêm lực lượng của sư đoàn 340, trung đoàn 804, ba đại đội xe tăng thiết giáp và ba cụm pháo lớn. Đội hình cơ bản của chúng đã đến Sàm Lây, Phum Môn, Tà Nốt. ĐKZ của địch đã bắn vào đất Trảng Bàng. Trinh sát của chúng đã luồn đến Mộc Bài (Bến Cầu). Chúng đắc chí, cố dồn sức ?olàm gọn đường 1? trong vòng tháng 10 để dâng lên quan thầy món quà nhân ngày quốc khánh Trung Quốc.
    Lúc địch đã chui vào ?ovùng lõm? sát tuyến phòng thủ của ta ở Bến Cầu, Trảng Bàng thì cũng là lúc sư đoàn 341 (thiếu trung đoàn 273) được lệnh cơ động từ đường 13 về hướng đường 1, phối hợp với sư đoàn 9, mở đợt phản đột kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch lọt v ào phía nam và đông nam Tà Yên.
    Các đơn vị của sư đoàn lần lượt tiến vào Bến Cầu và Chi Pu. Cán bộ, chiến sĩ sư đoàn 9 tay bắt mặt mừng gặp người bạn đã có dịp hợp sức trên đường 13, lòng đầy tin tương. Còn các ba, các má ở Bến Cầu lại chuyện nở như ngô rang về những đứa con của mình.
    Mờ sáng ngày 10 tháng 10, pháo của ta gầm lên dữ dội. Cả ?obiển nước? mênh mông như chao đảo. và từ trên ?obiển nước? ấy, các chiến sĩ trung đoàn 266 ào ạt xông lên như thác lũ đánh tan trung đoàn 43 sư đoàn 1 và một tiểu đoàn của sư đoàn 5 địch, chiếm Phum Leng, Phum Th-nanh và Ngã ba đường 96, mở đầu giai đoạn phản đột kích trên hướng đường 1.
    Tiếp ngay đêm sau (11-10), trung đoàn 266 tràn xuống chiếm phum Don Noy để tạo bàn đạp. Mất phum Don Noy, địch cho rằng: ?oĐây chỉ là phản ứng tất nhiên của quân Việt Nam!?. Đối với chúng: ?okế hoạch đánh chiếm Prây Kô Ki và Chi Pu vẫn không thay đổi!?. Nhưng chúng chưa kịp hành động thì sư đoàn 341 đã bước vào đợt 2 với phương châm ?ođánh từng bước, lấy vận động tiến công làm chính, tiêu diệt đại bộ phận quân địch vừa với sức mình?. Cuộc chiến đấu của sư đoàn trên cánh đồng ngập nước này đã được chuẩn bị chu đáo.
    Đêm 12 tháng 10, các chiến sĩ bộ binh dùng xuồng ba lá và lội ruộng đến vị trí chiếm lĩnh. Trên các con đường ngập nước, các chiến sĩ pháo binh cởi trần làm lộ tiêu dẫn đường cho ô tô kéo pháo vào trận.
    5 giờ ngày 13 tháng 10, dưới hỏa lực chi viện của pháo 85 và cao xạ 37 hạ nòng bắn thẳng, các chiến sĩ 270, 266 cùng với các phân đội xe lội nước xốc thẳng vào phum Che Re, phum Tho, phum Bếch. Đến 10 giờ, toàn bộ quân địch ở đây đã tan như đám bào gặp bão. Ở hướng chủ yếu, tiểu đoàn 7 đã truy kích địch đến sát thị trấn Công Pông Rồ.
    Lúc này, địch mới ?ongã ngửa người!? vì đã hiểu phần nào ý định của đối phương. Chúng vội vã co về lập tuyến phòng ngự lâm thời bảo vệ Công Pông Rồ.
    Trong khi ấy ở sở chỉ huy Quân đoàn 4, Bộ tư lệnh chỉ rằng: ?oCần tiếp tục đánh bồi, đánh nhồi khi địch còn đang hoang mang và thế trận chưa vững!?. Tư lệnh Quân đoàn nhắc sư đoàn 341: ?oPhải khẩn trương đánh vỡ tuyến ngăn chặn Công Pông Rồ-Sóc Nóc, đẩy địch xuống dốc thêm một bước nữa, tạo thế cho cách nam và hoàn chỉnh kế hoạch phản đột kích!?.
    Thế là ngày 17 tháng 10, cuộc đột kích mạnh như thác lũ của ta đã cuốn phăng cái tuyến phòng ngự lâm thời mà địch mới hấp tấp dựng lên. Trên hướng chủ yếu, trung đoàn 266 đánh chiếm Ngã tư phum Prây Môn và Ngã ba phum Vay. Trung đoàn 270 chiếm Sàm Lây và Làng Xanh.
    Sau trận thua đậm ngày 17 tháng 10, địch không còn sức để ôm ấp kế hoạch đánh chiếm Chi Pu. Ba sư đoàn 1, 5, 221 buộc phải lùi về sau củng cố.
    Tháng 10, ở đường số 1, đường 13, đường 24, sư đoàn 341 đã thắng lớn và liên tiếp bẻ quằn các mũi tiến quân của bọn Pol Pot vào Ngã ba Săng Ke.
    Tháng 10, ở chiến trường tây-tây nam tỉnh Tây Ninh, quân ta thắng lớn, thường xuyên chặn đứng từ sáu đến tám sư đoàn của địch vào biên giới ta.
    Tháng 10, mùa mưa sắp qua. Mùa ?otạo thời, tạo thế? của ta đã giành được những thắng lợi quan trọng. Cục diện mới đang dẫn dắt cuộc chiến Tây nam vào bước ngoặt vĩ đại!
    Ở sư đoàn 341, một khí thế mới đang bùng lên, giục giã.
    Mùa khô đang tới gần!
  10. bmkhanh76

    bmkhanh76 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    13/12/2002
    Bài viết:
    191
    Đã được thích:
    0
    Có ảnh minh họa thì tốt qua.

Chia sẻ trang này