1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trên sa mạc và trong rừng thẳm - henrik Sienkievich

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi pathetique, 29/11/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Trên sa mạc và trong rừng thẳm - henrik Sienkievich

    Chương 1

    - Em biết không, Nen, - Xtas Tarcôpxki nói với cô bạn gái người Anh bé nhỏ của mình. - Hôm qua, cảnh sát đã tới bắt vợ viên quản lí Xmainơ cùng với ba đứa con của mụ ta, chính cái mụ Phátma đã mấy lần tới văn phòng của ba anh và ba em đấy.
    Còn Nen, cô bé đẹp như một bức tranh, thì ngước cặp mắt màu lục nhạt của mình lên nhìn Xtas và hỏi vẻ vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi:
    - Thế họ bắt bà ta bỏ tù à, anh?
    - Không, nhưng họ không cho phép mụ ta đi khỏi Xuđan.
    Đồng thời có một nhân viên tới đây để canh không cho mụ ta rời một bước khỏi Port Xaiđơ.
    - Sao vậy hả anh?
    Xtas, cậu thiếu niên vừa hết tuổi mười bốn, tuy rất yêu mến cô bạn gái tám tuổi của mình, song vẫn xem đó chỉ là một đứa bé non nớt, liền nói với vẻ mặt rất kiêu:
    - Khi nào lớn như anh, em sẽ biết không những chỉ mọi chuyện xảy ra dọc kênh đào này, từ Port Xaiđơ đến Xuê(1) mà còn cả trên toàn bộ đất Ai Cập nữa. Thế em không biết gì về Mahơđi hay sao?
    - Em nghe nói là ông ta xấu xí và không ngoan. Cậu bé mỉm cười thương hại.
    - Hắn ta có xấu xí hay không thì anh không biết. Những người dân Xuđan thì quả quyết rằng hắn ta đẹp tuyệt vời. Nhưng bảo kẻ đã giết hại ngần ấy ngườ i là ?okhông ngoan? thì chỉ có thể là một cô nhóc con tám tuổi mặc váy ngắn mà thôi. Đấy, chỉ ngắn tới đầu gối là cùng.
    - Ba em bảo thế, ba em biết giỏi nhất.
    - Ba bảo em thế vì nói cách khác thì em không hiểu nổi. Giá nói với anh thì ba em đã chẳng bảo thế. Mahơđi còn tệ hơn cả một bầy cá sấu. Hiểu chưa? ?oKhông ngoan!? Hay thật! Nói như với bọn trẻ con mới đẻ ấy.
    Song chợt nhìn thấy vẻ mặt xịu đi của cô bé, Xtas liền nín bặt, sau đó nói tiếp:
    - Nen, em biết đấy, anh đâu muốn nặng lời với em. Sẽ đến lúc cả em nữa cũng sẽ mười bốn tuổi. Anh cam đoan với em như thế.
    - Thế cơ! - Cô bé đáp với cái nhìn đầy lo lắng. Nhưng nếu như trước đó Mahơđi tiến được vào Port Xaiđơ và ăn thịt em mất thì sao nào?
    - Mahơđi không phải là kẻ ăn thịt người, nên hắn không ăn thịt dân chúng mà chỉ giết hại họ thôi. Hắn cũng chẳng tiến nổi tới Port Xaiđơ, mà nếu như hắn có tiến vào được và muốn giết em, thì trước hết hắn phải đấu với anh đã.
    Lời tuyên bố đó cùng với tiếng không khí được hít mạnh vào mũi Xtas không hứa hẹn một điều gì tốt lành cho Mahơđi, đã khiến Nen yên tâm về sự an toàn của bản thân mình.
    - Em biết, - cô bé nói, - anh chẳng chịu nộp em đâu, phải không? Thế nhưng tại sao người ta lại không cho bà Phátma rời khỏi Port Xaiđơ?
    - Bởi vì mụ ta là em họ của Mahơđi. Chồng mụ ta, gã Xmainơ hứa với chính phủ Ai Cập ở Cairô rằng y sẽ tới Xuđan, nơi Mahơđi đang ở, để xin tự do cho tất cả những người Âu bị rơi vào tay hắn.
    - Cái ông Xmainơ ấy là người tốt hả anh?
    - Khoan đã nào. Ba em và ba anh, những người hiểu rõ Xmainơ, hoàn toàn không tin hắn ta chút nào, và đã khuyên pasa(2) Nubarơ chớ có tin y. Nhưng chính phủ vẫn đồng ý cử Xmainơ đi, và thế là đã nửa năm nay Xmainơ ở tịt chỗ Mahơđi. Tù binh không những không được thả về mà lại có tin từ Khactum cho biết rằng, bọn Mahơđi đối xử với họ ngày một tàn tệ hơn, còn lão Xmainơ thì sau khi cuỗm tiền của chính phủ đã phản bội. Hắn hoàn toàn ngả hẳn về phía Mahơđi và đã được phong tước emia2. Người ta còn nói rằng, trong trận đánh khủng khiếp mà tướng Hicxơ bị tử trận, chính Xmainơ đã chỉ huy pháo binh của quân Mahơđi, và hình như chính hắn là kẻ đã dạy cho bọn Mahơđi cách sử dụng đạ i bác, loại vũ khí mà trước đó, vốn là những kẻ mọi rợ, chúng hoàn toàn không biết đến. Bây giờ, lão Xmainơ đang muốn đưa vợ con thoát khỏi Ai Cập, cho nên khi mụ Phátma, con người ngay từ đầu hẳn đã biết mọi chuyện mà Xmainơ làm, muốn bí mật chuồn khỏi Port Xaiđơ, thì chính phủ liền bắt giữ mụ ta cùng các con mụ lạ i.
    - Nhưng chính phủ sẽ được gì ở bà Phátma và lũ con của ba ta hở anh?
    - Chính phủ sẽ nói với Mahơđi: ?oHãy trả cho chúng ta các tù binh của ngươi, chúng ta sẽ trả mụ Phátma cho ngươi...? Câu chuyện tạm bị gián đoạn vì lúc này Xtas chợt chú ý đến những con chim đang bay từ phía Êchtum Om Pharagơ về phía hồ Mendalê. Chúng bay khá thấp, trong bầu không khí trong vắt trông rõ mấy con bồ nông với chiếc cổ cong gập lại sát lưng đang khoan thai vỗ những đôi cánh khổng lồ. Xtas dõi theo đường bay của chúng, em ngẩng đầu lên, chạy mươi bước dọc theo bờ kênh, vừa chạy vừa vung vẩy đôi tay.
    - Nhìn kìa anh, có cả chim hồng hạc đang bay nữa kìa! - Nen bỗng kêu lên.
    Xtas đứng sững ngay lại, vì quả thực phía sau đàn bồ nông, nhưng cao hơn chúng một tí, có thể trông thấy hai đoá hoa lớn màu hồng và màu đỏ thắm dường như đang treo lơ lửng trên nền trời xanh thẳm.
    - Hồng hạc! Chim hồng hạc!
    - Chiều chiều chúng nó thường bay về tổ của chúng trên vùng đảo đấy, - cậu bé thốt lên. - Ôi, giá mà anh có khẩu súng nhỉ.
    - Anh bắn chúng nó làm gì cơ?
    - Phụ nữ không thể hiểu được những chuyện ấy đâu. Nhưng thôi, chúng mình đi tiếp đi, có thể sẽ trông thấy chúng nhiều hơn nữa chăng.
    Vừa nói em vừa dắt tay cô bé; cả hai đi về phía bến tầu đầu tiên trên kênh đào tiếp sau cảng PortXaiđơ. Theo sau lưng chúng là bà Đina, một phụ nữ da đen, ngày trước từng là nhũ mẫu của cô bé Nen. Họ đi dọc bờ đập ngăn nước hồ Mendalê với kênh đào, trong kênh lúc ấy đang có một chiếc tầu thuỷ lớn chạy bằng hơi nước của Anh được hoa tiêu dẫn đi. Chiều xuống. Mặt trời hãy còn cao nhưng đã ngả về phía hồ. Làn nước lợ mằn mặn của hồ loang loáng ánh sáng và lung linh phản chiếu muôn sắc cầu vồng. Bên bờ phía Ả Rập, trải dài đến hút tầm mắt là sa mạc trơ trụi, câm lặng, chết chóc, đầy vẻ hằn thù. Giữa bầu trời thuỷ tinh dường như chết cứng và cái mênh mông vô bờ bến của mặt cát gợn sóng không hề có một dấu hiệu gì của sự sống. Trong lúc trên mặt kênh đào cuộc sống đang sôi sục, thuyền bè tấp nập, vang rộn tiếng còi tầu, và trên hồ Mendalê hàng đàn hải âu và vịt trời đang nhộn nhịp đảo chao trong ánh mặt trời, thì phía bên kia, phía bờ Ả Rập lại giống hệt như xứ sở của cái chết. Chỉ khi mặt trời xuống thấp dần và ngày càng ngả sang màu đỏ thì mặt cát mới dần dần nhuốm màu tim tím, màu tím của những mầm cây non trong các khu rừng Ba Lan về mùa thu.
    Trong khi đi về phía bến tầu, bọn trẻ còn trông thấy vài con chim hồng hạc nữa mà chúng vui sướng ngắm không chán mắt.
    Sau đó, bà Đina nói rằng đã đến lúc phải quay về nhà. Ở Ai Cập ban ngày thường nóng nực (thậm chí cả trong mùa đông), nhưng ban đêm lại rất lạnh, mà sức khoẻ của Nen thì lại đòi hỏi phải hết sức giữ gìn, nên ông Rôlixơn, cha của cô bé, không cho phép cô ở lại trên bờ nước sau khi mặt trời lặn. Họ bèn quay trở về thành phố.
    Vila của ông Rôlixơn nằm ngay rìa thành phố, gần bờ kênh đào.
    Khi mặt trời lặn xuống biển, họ đã về tới nhà. Một lát sau, kĩ sư Tarcôpxki, cha của Xtas, được mời đến dự bữa cơm, cũng tới, và thế là cả nhà, cùng với cô Oliviơ, cô gia sư người Pháp của Nen, ngồi vào bàn ăn.
    Đã từ nhiều năm nay, ông Rôlixơn, một trong các giám đốc của công ti kênh đào Xuê, và ông Vlađixlap Tarcôpxki, kĩ sư trưởng của công ti này, kết thân với nhau. Cả hai đều goá vợ: bà Tarcôpxca, vốn dòng dõi người Pháp, đã mất ngay từ khi Xtas vừa chào đời, nghĩa là hơn mười ba năm về trước, còn mẹ của Nen thì qua đời vì bệnh phổi tại Hêluankhi cô bé mới lên ba. Ở Port Xaiđơ, hai ông bố goá vợ sống trong hai ngôi nhà cạnh nhau, và do công việc của mình, ngày nào họ cũ ng gặp nhau. Nỗi bất hạnh chung khiến họ xích lại gần nhau hơn và làm cho tình bạn vốn có càng thêm bền chặt.
    Ông Rôlixơn yêu Xtas như con đẻ, còn ông Tarcôpxki thì sẵn sàng nhảy vào lửa và lao xuống nước vì cô bé Nen. Sau khi kết thú c công việc hàng ngày, phút nghỉ ngơi thú vị nhất đối với họ là được trò chuyện về bọn trẻ , về việc giáo dục và về tương lai của chúng. Trong những câu chuyện đó, ông Rôlixơn thường khen ngợi năng khiếu, nghị lực và lò ng can đảm của Xtas, còn ông Tarcôpxki thì lại say sưa với khuôn mặt thiên thần ngọt ngào của Nen. Và cả hai điều ấy đều là sự thật. Tuy hơi kiêu căng và hơi khoác lác một chút, nhưng Xtas học rất giỏi và các thầy giáo ở trường học dạy tiếng Anh tại Port Xaiđơ, nơi cậu bé học, đều công nhận rằng em có những năng khiếu khác thường. Nếu nói về lòng dũng cảm và tính tháo vát thì em được thừa hưởng ở người cha, vì ông Tarcôpxki có được những đức tính ấy ở trình độ cao, và cũng chính nhờ có chúng mà ông đã vươn tới cương vị cao cấp hiện tại.
    Năm 1863(4), ông đã chiến đấu suốt mười một tháng liền không ngơi nghỉ, sau đó ông bị thương, bị bắ t, rồi bị đầy đi Xibia, ông chạy trốn về Ba Lan rồi thoát ra nước ngoài. Trước khi tham gia khởi nghĩa, ông đã tốt nghiệp kĩ sư, nhưng sau đó, ông còn dành thêm một năm nữa để nghiên cứu thuỷ lực học. Rồi sau đó, ông tìm được việc làm ở kênh đào, và chỉ trong vài năm, khi người ta đã đánh giá được sự am tường công việc, nghị lực cùng tính cần cù của ông, ông được nhậ n cương vị kĩ sư trưởng cao quý ấy.
    Xtas được sinh ra, nuôi dưỡng và lớn đến năm mười bốn tuổi ngay tại hải cảng Port Xaiđơ trên kênh đào, nên các kĩ sư, bạn đồng nghiệp của cha em, thường gọi em là ?ođứa con của sa mạc?.
    Khi đang đi học, thỉnh thoảng, trong những dịp nghỉ hè hay nghỉ lễ, em lại được cùng với cha hoặc ông Rôlixơn tham gia các chuyến đi công vụ của họ từ Port Xaiđơ đến tận Xuê để kiểm tra công việc trên bờ kênh cùng việc nạo vét lòng kênh. Em quen hết thảy mọi người, từ các kĩ sư và nhân viên thuế quan, đến công nhân, những người Ả Rập và người da đen. Em ?olùng sục? khắp nơi mọi chốn, tại bất cứ nơi nào đặt chân tới, và dần dần tiến hành những chuyến đi dài dọc theo bờ kênh, đi thuyền trên hồ Mendalê và nhiều lần bơi thuyền ra khá xa.Em đã từng vượt sang phía bờ Ả Rập, và nhảy đại lên lưng một con ngựa của ai đó, hoặc nếu thiếu ngựa thì lạc đà hay thậm chí cả lừa cũ ng được, đóng vai một tay kị sĩ dũng cảm của sa mạc. Tóm lại, nói như ông Tarcôpxki, em ?ochui rúc? khắ p mọi nơi, và hễ rảnh rỗi một chút ngoài giờ học là lại lần ngay ra bờ nước.
    Người cha không ngăn cản chuyện đó, vì ông hiểu rằng, việc chèo thuyền, cưỡi ngựa và sự tiếp xúc thường xuyên với không khí trong lành sẽ củng cố thêm sức khoẻ của đứa trẻ, đồng thời phát triển tính tháo vát của nó. Xtas cao và khoẻ hơn nhiều so với những đứa trẻ cùng tuổi, và chỉ cần nhìn vào cặp mắt cậu bé cũng có thể dễ dàng đoán được rằng, nếu lâm vào một chuyện hiểm nguy nào đó thì chắc hẳn cậu bé sẽ dễ phạm sai lầm do quá hăng hái hơn là vì khiếp sợ. Mới mười bốn tuổi đầu, em đã là một trong những tay bơi lội giỏi nhất ở Port Xaiđơ, điều này không phải là chuyện xoàng,bởi dân Ả Rập và người da đen vốn bơi lội giỏi như cá. Trong khi nhả đạn vào lũ vịt trời và ngỗng trời Ai Cập bằng khẩu súng săn cỡ nhỏ, cậu bé đã rèn luyện cho mình có được cánh tay và con mắt bắn trăm phát trăm trúng. Em ước ao một ngày nào đó sẽ được đi săn các loài thú lớn ở Trung Phi, háo hức lắng nghe chuyện những người Xuđan làm thuê ở vùng kênh đào, những người này đã từng gặp thú dữ và bọn thú da dầy khổng lồ tại quê hương họ.
    Điều này còn có thêm một cái lợi nữa là vừa nghe chuyện, cậu bé vừa học được ngôn ngữ của họ. Kênh đào Xuê không những chỉ đào thông là xong mà còn đòi hỏi phải thường xuyên chăm lo tu sửa, vì nếu không thì chỉ trong vòng một năm thôi, cát từ các sa mạc nằm dọc hai bờ kênh sẽ lấp biến nó đi. Cái công trình khổng lồ này của ông Lécxép(5) kéo theo một sự lao động liên tục và đòi hỏi phải thường xuyên cảnh giác. Do vậy, cho tới nay, có hàng loạt máy móc khổng lồ cùng hàng nghìn công nhân, dướ i sự giá m sát của các kĩ sư thành thạo công việc, lao động nạo nét lòng kênh. Để đào thông con kênh này đã từng phải dùng tới sức của hai mươi lăm nghìn người lao động. Giờ đây, khi công trình đã hoàn thành và lại được trang bị những máy móc hoàn thiện hơn, thì cần ít người hơn hẳn so với trước kia, song số lượng nhân công cho đến nay vẫn còn rất lớn. Trong đó, đại đa số là cư dân trong vùng, cũng không thiếu mặt dân Nubia, Xuđan, Xômali cùng nhiều dân tộc da đen khác sinh sống ở vùng sông Nin Trắ ng và sông Nin Xanh, nghĩa là trong những vùng thuộc phạm vi cai trị của chính phủ Ai Cập, trước khi nổ ra cuộc khởi loạn của Mahơđi. Xtas sống thân mật với mọi người và cũng giống như những người dân Ba Lan khác, vốn sẵn có năng khiếu ngoại ngữ, em nắm được nhiều thứ thổ ngữ của họ mà chính bản thân em cũng không rõ từ khi nào và tại làm sao nữa. Sinhtrưởng ở Ai Cập, em nói tiếng Ả Rập như một Người Ả Rập chính cống. Nhờ có những người Dandiba thường được thuê làm thợ đốt lò phục vụ các thứ máy móc, em học được tiếng Kixvahili, thứ tiếng rất phổ biến trong toàn bộ miền Trung Phi, thậm chí em có thể trò chuyện với những người da đen Đinnếch và Sinlúc sinh sống ở vùng hạ lưu sông Nin, phía dưới Phasôđa(4). Ngoài ra, em nói thạo tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Ba Lan, vì cha em một người yêu nước nhiệt thành, rất quan tâm đến chuyện làm sao cho cậu bé nói được tiếng nói quê hương. Dĩ nhiên, Xtas coi tiếng Ba Lan là thứ ngôn ngữ hay nhất trên thế giới, và cậu bé đã dạy cho bé Nen nói tiếng Ba Lan với không ít thành công. Có điều em không làm sao dạy cho cô bé phát âm được đúng tên em là Xtas chứ không phải ?oXtex?. Cũng chính vì lí do đó mà đôi khi giữa hai đứa trẻ xảy ra chuyện bất hoà, song những chuyện bất hoà đó cũng chỉ kéo dài cho tới khi cặp mắt cô bé bắt đầu long lanh những giọt lệ mà thôi. Và khi ấy, ?oXtex? bèn xin lỗi, đồng thời thường tự giận mình.
    Song cậu bé có một thói quen xấu là hay tỏ vẻ khinh thường khi nói về chuyện Nen mới lên tám và so sánh điều đó với tuổi tác và kinh nghiệm sống của bản thân mình. Em cho rằng một thiếu niên mười bốn tuổi, dẫu vẫn chưa hoàn toàn là người lớn, nhưng đã không còn là trẻ con nữa, và đã có khả năng thực hiện được mọi hành động anh hùng, đặc biệt là khi thiếu niên ấy mang trong mình dòng máu Ba Lan hoà dòng máu Pháp. Em khao khát một lúc nào đó sẽ có hoàn cảnh để thực hiện những hành động anh hùng như thế, nhất là để bảo vệ Nen. Cả hai thường tưởng tượng ra đủ mọi loại hiểm nguy khác nhau, và Xtas thường phải trả lời các câu hỏi của Nen xem em sẽ làm gì, nếu như nói thí dụ - một con cá sấu dài mười mét, hoặc một con bọ cạp to bằng con chó bò qua cửa sổ vào nhà cô bé. Song cả hai không một phút nào ngờ được rằng, chẳng bao lâu nữa, thực tế kinh khủng sẽ vượt xa mọi điều tưởng tượng của chúng.



    ------------------------------
    1 Kênh đào Xuê là một trong những kênh đào quan trọng nhấtthế giới. Kênh ở Đông Bắc Ai Cập, nối thông Địa Trung Hải với Hồng Hải. Dài 160 km. Các hải cảng chính ở hai đầu kênh là PortXaiđơ và Xuê. Được xây dựng trong khoảng 1859-1869 dưới sự chủ trì của viện sĩ người Pháp Ph.M. Lecxép (ND)



    2 Pasa (hay Basa): tước hiệu vương hầu ở các nước Trung Đông.
    3 Emia: chức thủ lĩnh quân sự ở các nước Trung Đông.
    4 Năm 1863, nhân dân Ba Lan khởi nghĩa chống lại sự thống trị của bọn Nga hoàng.
    Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ tháng Giêng năm 1863 và kéo dài đến mùa thu năm 1864.
    5 M.Lecxép (1805-1894): nhà ngoại giao và doanh nghiệp người Pháp - viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Pháp, người tổ chức đàokênh Xuê (1859-1869). Ông cũng là người tổ chức đào kênh Panama (1879-1889) và chính vì việc này mà ông bị phá sản.
    6 Phasôđa (nay là Côđốc) - thành phố ở Xuđan.
  2. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 2
    Trong bữa cơm, có một tin vui chờ đón hai đứa trẻ. Vài tuần trước đây, hai ông Tarcôpxki và Rôlixơn, với tư cách là những kĩ sư lành nghề, được mời đến xem xét và đánh giá công việc trên toàn bộ mạng kênh rạch ở tỉnh En Phaium, trong vùng lân cận thành phố Mêđinét gần hồ Carôun, cũng như vù ng dọc theo sông Duxép và sông Nin. Họ sẽ ở lại đó chừng một tháng và đã được công ti của họ cho nghỉ phép để làm việc đó. Vì lễ Thiên Chúa giáng sinh sắp tới, mà cả hai đều không muốn chia tay với bọn trẻ, nên họ quyết định rằng cả Nen lẫn Xtas sẽ đi tới Mêđinét. Nghe tin này, bọn trẻ suý t nhảy vọt lên vì vui sướng. Cho tới nay, chúng chỉ mới được biết các thành phố nằm dọc kênh đào, đó là Izmailơ và Xuê, còn ngoài vùng kênh là các thành phố Alécxanđria và Cairô. Chúng cũng đã được tham quan các kim tự tháp khổng lồ và tượng con Nhân sư ở gần thành phố Cairô. Song đó chỉ toàn là những chuyến đi ngắ n ngủi, trong khi đó, muốn tới được Mêđinét En Phaium, chúng sẽ phải ngồi tàu hoả suốt cả một ngà y trời dọc theo sông Nin về phía Nam, rồi sau đó, từ En Vaxta trở đi, rẽ về phía Tây, về phía sa mạc Libi. Xtas đã được nghe nói về thành phố Mêđinét qua câu chuyện của các kĩ sư trẻ và các du khách từng được đi tới đó để săn bắn các loài chim nước cùng chó sói sa mạc và linh cẩu. Em biết rằng đó là một ốc đảo lớn nằm ở hữu ngạn sông Nin, nhưng không chịu ảnh hưởng của các trận lụt do con sóng này gây ra, mà có thuỷ hệ riêng, được tạo nên bởi hồ Carôun, sông Bahơrơ Duxép, cùng cả một hệ thống kênh rạch nhỏ khác nữa. Những người từng thấy cái ốc đảo này đều nói rằng mặc dù vùng đất này vẫ n thuộc về Ai Cập, nhưng do bị ngăn cách bởi sa mạc, nên nó tạo thành một chỉnh thể biệt lập hoàn toàn. Chỉ có riêng dòng sông Duxép, trông giống như một sợi dây mỏng mảnh màu xanh lơ là mối liên hệ giữa vùng này với thung lũng sông Nin. Sự dồi dào về nước, độ phì nhiêu của đất và sự phong phú tuyệt vời của hệ thực vật đã khiến cho vùng này gần như trở thành một thiên đường trên mặt đất, còn những di tích trải trên một diện tích rộng lớn của thành phố Crôcôđilôpôlix thì thu hút hàng trăm du khách tới đây viếng thăm. Riêng Xtas thì chủ yếu là bị hấp dẫn bởi bờ hồ Carôun đầy các loài chim nước và những chuyến đi săn chó sói trong vùng đồi núi hoang mạc Guêben En Xêđơmên.
    Nhưng mãi mấy ngày nữa bọn trẻ mới bắt đầu được nghỉ lễ, mà sự kiểm tra công việc ở vùng kênh lại khẩn cấp, khiến các ông bố không thể chờ đợi mất thì giờ, nên họ bèn sắp xế p rằng họ sẽ khởi hành ngay, còn bọn trẻ sẽ cùng với cô Oliviơ xuất phát sau một tuần lễ. Cả Nen lẫn Xtas đều muốn được cù ng đi ngay, nhưng Xtas không dám đề nghị. Cả hai liền bắt đầu hỏi han đủ mọi thứ chuyện liên quan tới chuyến đi, và chúng lại náo nức vui sướng một lần nữa khi được biết rằng, chúng sẽ không phải nghỉ ngơi trong các khách sạn thiếu thốn tiện nghi của người Hy Lạp, mà sẽ nghỉ trong những chiếc lều do Hội du lịch của Cúc(1) cung cấp. Các du khách từ Cairô đến thăm Mêđinét, thậm chí dù họ có lưu lại đó một thời gian dài đi nữa, cũng thường sống theo cách đó. Công ti Cúc cung cấp cho họ lều trại, người phục vụ, lương thực dự trữ, lừa ngựa, lạc đà cùng người dẫn đường, nên du khách chẳng hề phải lo nghĩ chuyện gì cả. Quả tình đó là một phương thức du lịch khá tốn kém, nhưng ông Tarcôpxki và ông Rôlixơn không cần phải quan tâm tới chuyện đó, vì mọi chi phí sẽ do chính phủ Ai Cập đài thọ, chính phủ này đã mời họ tới đánh giá và kiểm tra công việc tại vùng kênh, với tư cách là những chuyên gia giỏi. Cô bé Nen vốn thích cưỡi lạc đà hơn tất cả mọi chuyện khác trên đời, nên được cha hứa rằng sẽ được nhận riêng một con tuấn mã có bướu, trên đó cô bé sẽ cùng với cô Oliviơ, bà Đina, hoặc thỉnh thoảng cùng với Xtas, tham gia vào những chuyến đi chơi trong những vùng sa mạc lân cận và tới Carôun. Ông Tarcôpxki hứa với Xtas rằng sẽ cho phép em đi săn chó sói ban đêm, và nếu như em mang được chứng chỉ học tập giỏi từ trường về, thì sẽ được thưởng một khẩu súng săn Anh chính hiệu, cùng với mọi thứ đồ nghề cần thiết cho thợ săn. Vì Xtas hoàn toàn tin chắc vào kết quả học tập của bản thân, nên ngay lập tức em bắt đầu tự cho mình đã là chủ nhân của một khẩu súng săn và tự nhủ sẽ dùng khẩu súng ấy thực hiện biết bao kì công để đời đời được ghi nhớ.
    Với lũ trẻ đang vui mừng, bữa ăn trôi qua trong những dự kiến và những câu chuyện như vậy. Riêng cô Oliviơ tỏ ra tương đối ít nhiệt tình nhất với chuyến đi, bởi cô ngại phải rời xa cái biệt thự đầy đủ tiện nghi ở Port Xaiđơ này; cô kinh hoàng khi nghĩ tới chuyện sẽ phải sống hàng mấy tuần trong lều, và nhất là chuyện cưỡi lạc đà. Cô đã được thưởng thức vài lần các chuyến đi kiểu ấy, điều mà bất cứ người dân châu Âu nào sống ở Ai Cập cũng đều làm thử vì tò mò. Song bao giờ các chuyến đi ấy cũng bị kết thúc chẳng mỹ mãn chút nào. Một lần, con lạc đà đứng lên sớm quá, khi cô chưa kịp ngồi vững trên bành, kết quả là cô bị tuột từ trên lưng nó xuống đất. Một lần khác, một chú lạc đà một bướu, hẳn không thuộc loại dễ khiến, đã lắc cô đến nỗi hai ngày sau cô vẫn chưa hoàn hồn. Tóm lại, nếu như Nen, sau vài chuyến được ông Rôlixơn cho phép đi như thế, cam đoan rằng trên đời này không có gì sướng hơn là việc cưỡi lạc đà, thì cô Oliviơ lại chỉ nhớ toàn những ấn tượng khó chịu mà thôi. Cô bảo rằng chuyện đó có thể là tốt đối với người Ả Rập, hoặc đối với một ?ocái kẹo? bé bỏng như Nen, cô bé bị lắc chẳng đáng là bao, chẳng khác nào một chú ruồi đỗ lên bướu lạc đà, song chẳng thích hợp chút nào đối với những người có tuổi, chẳng nhẹ nhàng gì, mà lại có xu hướng dễ bị say sóng. Còn nếu nói về Mêđinét En Phaium thì cô lại còn có thêm những lo lắng khác nữa. Ở Port Xaiđơ cũng như ở Alécxanđria, Cairô và trên toàn Ai Cập, người ta chẳng bàn tán gì khác hơn ngoài chuyện khởi loạn của Mahơđi và sự tàn ác của bọn phiến loạn. Cô Oliviơ không biết chính xác thành phố Mêđinét nằm ở đâu, nên cô lo ngại, không hiểu nó có nằm quá gần bọn Mahơđi hay chăng, và thế là cô bèn hỏi ông Rôlixơn điều đó.
    Song ông chỉ mỉm cười và nói:
    - Hiện nay Mahơđi đang bao vây thành phố Kháctum, trong đó tướng Goócđôn đang cố thủ. Cô có biết Mêđinét cách Kháctum bao xa không?
    - Tôi chẳng có khái niệm gì về chuyện đó cả.
    - Cũng xấp xỉ bằng từ đây tới đảo Xixin vậy, ông Tarcôpxki giải thích.
    - Vâng, gần bằng. - Xtas khẳng định. - Kháctumnằm tại điểm mà sông Nin Trắng và Xanh hoà vào nhau tạo thành một dòng chung. Từ chỗ chúng ta tới đó còn cách cả một khoảng không gian mênh mông của đất Ai Cập và toàn bộ miền Nubia.
    Tiếp đó em còn muốn thêm rằng dù cho Mêđinét có nằm gần vùng khởi loạn đi chăng nữa, thì đã có em tại đó với khẩu súng của mình, nhưng em chợt nhớ lại rằ ng đã nhiều lần bị cha quở mắng vì những lời huênh hoang tương tự, nên vội nín lặng.
    Hai ông bố lại bắt đầu nói sang chuyện Mahơđi và cuộc khởi loạn, vì đó là vấn đề quan trọng bậc nhất có quan hệ tới Ai Cập.
    Tin tức từ Kháctumđưa về rất xấu. Đã từ một tháng rưỡi nay, những bộ tộc man rợ bao vây chặt thành phố này, chính phủ Ai Cập và chính phủ Anh thì phản ứng rất chậm chạp. Mãi đến bây giờ đạo viện binh giải vây mới vừa lên đườ ng, và người ta e rằng, mặc dù có áng vinh quang, lòng can trường và năng lực của tướng Goócđôn, song thành phố quan trọng này sẽ bị lọt vào tay bọn dã man mất. Ông Tarcôpxki cũng có ý kiến như thế, ông ngờ rằng, Anh quốc thầm mong sao Mahơđi chiếm lấy Xuđan của Ai Cập để rồi sau đó họ sẽ chiếm lại miền đất này từ tay Mahơđi, và biến miền đất mênh mông này thành tài sản nước Anh. Song ông không trao đổi với ông Rôlixơn những điều nghi ngờ ấy, vì không muốn xú c phạm đến những tình cảm ái quốc của bạn.
    Gần cuối bữa ăn, Xtas hỏi tại sao chính phủ Ai Cập lại chiếm cứ tất cả các nước nằm về phía NamNubia là Coócđôphan, Đácphua và Xuđan cho đến tận Anbéc Nianđa, và tước đoạt quyền tự do của dân cư những miền đất đó. Ông Rôlixơn quyết định giải thích cho cậu bé: tất cả những gì mà chính phủ Ai Cập làm đều là thực hiện theo chỉ thị củ a Anh quốc, bởi nước Anh đang nắm quyền bảo hộ Ai Cập và về thực chất thì đang thống trị nước này một cách tuỳ ý.
    - Chính phủ Ai Cập không tước đoạt tự do của bất cứ một ai cả, - ông nói, - mà ngược lại, còn mang lại tự do cho hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu người. Trong thời gian gần đây, ở Coócđôphan,ở Đácphua và Xuđan không có một quốc gia độc lập nào tồn tại cả. Chỉ thảng hoặc ở nơi này nơi nọ, một tiểu thủ lĩnh nào đó dùng bạo lực áp đặt chính quyền của mình sang một miền đất khác và chiếm đoạt vùng đất ấy, không thèm để ý tới nguyện vọng của các cư dân địa phương. Còn trên đại thể, những miền này quần tụ các bộ tộc độc lập của người Ả Rập pha da đen, nghĩa là những bộ tộc mang trong mình dòng máu của cả hai chủng người đó. Các bộ tộc này luôn luôn sống trong tình trạng chiến tranh liên miên. Họ tấn công nhau, cướp của nhau ngựa,lạc đà, súc vật có sừng và trước hết là nô lệ. Đồng thời họ phạm không biết bao nhiêu điều tàn bạo. Nhưng tệ hại nhất là bọn thương gia săn ngà voi và săn nô lệ. Chúng gần như tạo thành một giai cấp riêng biệt, bao gồm hầu hết các tộc trưởng và những thương nhân giàu có.
    Chúng tiến hành những cuộc săn lùng có vũ trang vào sâu trong lục địa Phi châu, cướp đi ngà voi và bắt sống hàng nghìn người, cả đàn ông, đàn bà, trẻ con. Chúng triệt phá các làng mạ c và trại ấp, phá hoại đồng ruộng, khiến máu chảy thành sông và giết hại không thương tiếc tất cả những ai muốn chống cự lại. Nhiều vùng ở miền nam Xuđan, Đácphua và Coócđôphan cũng như vùng thượng nguồn sông Nin cho tới tận hồ lớn, không còn một bóng người. Song bọn cướp Ả Rập này mỗi ngày tiến thêm một xa, đến nỗi cả vùng Trung Phi trở thành vùng đất của máu và nước mắt.
    Anh quốc, như cháu biết, vốn săn đuổi bọn thương nhân buôn bán nô lệ trên toàn thế giới, bèn đồng ý để chính phủ Ai Cập chiếm Coócđôphan, Đácphua và Xuđan, đó là cách duy nhất buộc lũ cướp phải từ bỏ cuộc buôn bán bẩn thỉu ấy đi, là cách duy nhất để giữ chúng trong vòng kiềm toả. Những người da đen bất hạnh thở phào nhẹ nhõm, những cuộc tấn công ăn cướp lắng dần, và người ta bắt đầu được sống có luật lệ. Dĩ nhiên tình hình ấy khiến bọn lái buôn không thoả mãn. Vậy nên, khi mà trong số chúng nó có tên Môhamét Áchmét, bây giờ được gọi là Mahơđi, tên này bắt đầu kêu gào phát động một cuộc chiến tranh tôn giáo về hình thức, lấy cớ rằng tại Ai Cập lòng tin vào đức Môhamét đang bị suy giảm, thì tất cả bọn chúng đều cầm lấy vũ khí. Và thế là bùng nổ cuộc chiến tranh khủng khiếp này, cuộc chiến tranh mà cho tới nay rất bất lợi cho người Ai Cập. Trong tất cả các trận chiến đấu, Mahơđi đều đánh bại quân chính phủ, chiếm Coócđôphan, Đácphua, Xuđan; hiện nay, các bộ tộc của hắn đang vây hãm Kháctum và tiến về phía Bắc tới tận biên giới Nubia.
    - Nhưng liệu hắn có tiến được tới Ai Cập không ạ? - Xtas hỏi.
    - Không, - ông Rôlixơn trả lời, - Mahơđi quả có nói rằng, hắn sẽ đánh chiếm toàn thế giới, song đó chỉ là một con người mông muội, không hiểu gì cả. Hắn sẽ không bao giờ chiếm được Ai Cập vì Anh quốc không khi nào cho phép chuyện đó xảy ra.
    - Thế nếu như quân đội Ai Cập hoàn toàn tan rã thì sao?
    - Khi đó quân đội Anh sẽ thay, mà quân đội Anhthì chưa từng có ai thắng nổi bao giờ.
    - Thế tại sao người Anh lại cho phép Mahơđichiếm ngần ấy nước?
    - Sao cháu biết là Anh quốc cho phép? - ÔngRôlixơn nói. - Anh quốc chẳng bao giờ phải vội vã cả, bởi Anh quốc là quốc gia vĩnh cửu.
    Được pathetique sửa chữa / chuyển vào 04:50 ngày 30/11/2004
  3. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Câu chuyện bị gián đoạn bởi một người đầy tớ da đen vào báo rằng mụ Phátma Xmainơ tới và cầu xin được vào gặp.
    Phụ nữ phương Đông thường chỉ chăm lo việc nội trợ và rất ít khi rời khỏi ?obuồng the?. Chỉ những người nghèo mới ra chợ hoặc đi làm đồng, thí dụ như vợ của các fellach, tức là những nông dân Ai Cập, nhưng cả những người này cũng che mặt khi ra đường.
    Mặc dù mụ Phátma gốc người Xuđan, tại đó người ta không theo phong tục này, hơn nữa, trước đây cũng đã từng có lần mụ tới văn phòng ông Rôlixơn rồi, xong việc mụ đến đây, nhất là vào lúc đêm hôm thế này và lại tới nhà riêng, cũng gây nên một sự ngạc nhiên.
    - Chúng ta sẽ được biết điều mới về gã Xmainơđây, - ông Tarcôpxki nói.
    - Phải, - ông Rôlixơn đáp lại, đồng thời đưa tay ra hiệu cho người hầu dẫn mụ Phátma vào.
    Lát sau một phụ nữ Xuđan còn trẻ, người cao dong dỏng, mặt hoàn toàn không che mạ ng, với nước da rất sẫm màu, cặp mắt tuyệt đẹp, tuy hơi man dại và dữ tợn, bước vào. Vừa vào, mụ đã sụp mặt xuống đất, và khi ông Rôlixơn bảo mụ đứng dậy thì mụ chỉ ngẩng mặt lên nhưng vẫn tiếp tục quỳ.
    - Thưa ngài, - mụ nói, - cầu đức Ala ban phúc cho ngài, cho con cháu của ngài, ngôi nhà của ngài và súc vật của ngài.
    - Chị muốn gì? - Người kĩ sư hỏi.
    - Thưa ngài, con cầ u xin lòng từ thiện, sự cứu giúp trong cơn hoạn nạn. Con hiện đang bị giam giữ ở Port Xaiđơ, mà cái chết đang treo lơ lửng trên đầu con và các con của con.
    - Chị nói là chị bị giam, thế mà chị lại có thể đi tới đây, thêm nữa lại vào ban đêm!
    - Thưa, cảnh sát áp tải con tới đây, cảnh sát canh giữ nhà con cả ngày lẫn đêm, và con biết rằng chẳng bao lâu nữa họ sẽ được lệnh chặt đầu chúng con.
    - Chị hãy nói cho ra dáng một người đàn bà chín chắn xem nào, - ông Rôlixơn nhún vai đáp, - không phải chị đang ở Xuđan mà là Ai Cập, nơi người ta không giết một ai thiếu quyết định của toà án, vì vậy chị có thể tin chắc rằng, không một sợi tóc nào của chị cũng như của các con chị rơi khỏi đầu đâu.
    Song mụ ta bắt đầu van xin ông hãy một lần nữa bênh vực mụ ta, xin chính phủ cho phép mụ đi đến với lão Xmainơ. Mụ nói:
    ?oNhững ông lớn ngườ i Anh vĩ đại như ngài có thể làm được mọi chuyện, thưa ngài. Chính phủ ở Cairô nghĩ rằng ông Xmainơ phản bội, nhưng điều đó không đúng một chút nào hết! Hôm qua có các thương nhân Ả Rập đến chỗ con, họ từ Xuakim tới, trước đó họ mua nhựa cây và ngà voi ở Xuđan, họ báo cho con hay rằng ông Xmainơ đang bị ốm nằm tại En Phasenrơ và gọi con cùng các cháu tới đó để ban phước cho các cháu...? - Tất cả chỉ là chuyện bịa đặt của nhà chị, chị Phátma, - ông Rôlixơn ngắt lời.
    Mụ ta bắt đầu thề với đức Ala là mụ nói sự thật, rồi tiếp đó mụ nói rằng, nếu như Xmainơ khoẻ lại thì chắc chắn trăm phần trăm là ông ta sẽ chuộc lại tất cả các tù binh Thiên Chúa giáo, còn nếu như ông ta có qua đời đi chăng nữa, thì chính mụ, người họ hàng ruột thịt của thủ lĩnh các tín đồ đạo Hồi, cũng sẽ dễ dàng tìm được cách đến gặp y và sẽ làm được bất cứ điều gì mụ muố n. Chỉ cần người ta cho phép mụ được đi, vì trái tim trong ***g ngực của mụ đang kêu rên bởi nỗi nhớ thương chồng. Mụ ta, một người phụ nữ bất hạnh, có làm gì nên tội với chính phủ và với phó vương cơ chứ?Chuyện đó có phải là lỗi của mụ đâu, và liệu mụ có thể nào chịu trách nhiệm trong chuyện chẳng may mụ là bà con với thầy cả đạo Hồi Môhamét Achmét?
    Mụ Phátma, do sự có mặt của ?onhững người Anh?, không dám gọi người bà con ruột thịt của mình bằng cái tên Mahơđi, vì tên đó có nghĩa là: ?ongười chuộc tội cho thế gian?, bởi mụ biết rõ rằng, chính phủ Ai Cập coi hắn ta là một tên phiến loạn và kẻ chuyên lừa đảo. Song mụ cứ đập đầu xuống đất và vừa cầu khẩn trời cao đất dầy minh chứng cho sự vô tội cùng nỗi bất hạnh của mụ, vừa kêu khóc một cách thảm thương, như kiểu các phụ nữ phương Đông thường kêu khóc khi bị mất chồng hay con trai vậy.
    Rồi mụ lại úp mặt xuống đất - nói đúng hơn là xuống tấm thảm lót sàn nhà - và im lặng chờ đợi.
    Cuối bữa ăn, Nen muốn chợp mắt chút đỉnh, nhưng giờ đây cô bé tỉnh táo hoàn toàn. và vì vốn có trái tim giàu thương cảm, nên cô bé nắm lấy tay cha, vừa hôn vừa cầu xin cho mụ Phátma:
    - Cha ơi, cha giúp bà ta đi cha! Giúp bà ta đi cha!
    Còn mụ Phátma, hẳn là biết tiếng Anh, nên vừa nứ c nở, vừa nói, mặt vẫn không rời khỏi tấm thảm:
    - Cầu đứ c Ala ban phước cho cô, hỡi đoá hoa thiên đường bé nhỏ, hỡi niềm hoan lạc của Omai, hỡi vì sao trong sáng.
    Còn Xtas, mặc dù trong lòng rất căm tức bọn Mahơđi, nhưng em cũng xúc động bởi lời cầu xin và sự đau đớn của mụ Phát ma.
    Hơn nữa vì Nen bênh vực mụ ta, mà em thì nói cho cùng, bao giờ cũng muốn những gì Nen muốn thực hiện, nên một lúc sau em cất tiếng nói khẽ như tự nhủ, nhưng cũng đủ để cho mọi người nghe thấy:
    - Nếu mình là chính phủ, mình sẽ cho phép mụ Phátma ra đi.
    - Nhưng vì con không phải là chính phủ, - ông Tarcôpxki đáp, - nên tốt nhất là con đừng có can thiệp vào những chuyện không thuộc về con.
    Ông Rôlixơn cũng có tâm hồn giàu trắc ẩn và ông cũng thấu hiểu tình cảm của mụ Phátma, nhưng trong những lời của mụ ta có nhiều điều mà theo ông toàn là chuyện dối trá. Vì hàng ngày ông có quan hệ với sở thuế quan ở Idơmailơ, nên ông biết chắc chắn rằng, không có một số hàng hoá nào là nhựa cây và ngà voi được chở qua kênh trong thời gian vừa rồi. Việc buôn bán những mặt hàng này gần như hoàn toàn bị đình lại. Vả chăng, các thương nhân Ả Rập cũng không thể nào trở về từ thành phố En Phaserơ nằm trên đất Xuđan, vì nói chung bọn Mahơđi ngay từ đầu đã không cho phép các thương nhân giao lưu với chúng, còn những kẻ nào bị chúng tóm được, thì đều bị cướp sạch và bị giữ lại làm tù binh cả. Chính vì thế, chắc chắn câu chuyện về bệnh tình của Xmainơ cũng là một điều bịa đặt mà thôi.
    Song vì đôi mắt Nen vẫn đang nhìn cha đầy vẻ van xin, nên không muốn làm con buồn, ông bảo mụ Phátma:
    - Này chị Phátma, ta đã viết thư gửi chính phủ theo lời khẩn cầu của chị, nhưng không có kết quả. Còn bây giờ thì chị nghe đây.
    Sáng mai, cùng với ngài kĩ sư đây, ta sẽ đi Mêđinét En Phaium, dọc đường chúng ta sẽ lưu lại Cairô một ngày, vì khêđíp muốn bàn bạc với chúng ta về các kênh tiêu nước từ sông Bahơrơ Duxép và sẽ cho chúng ta chỉ thị về những con kênh đó. Trong khi bàn bạc, ta sẽ cố gắng trình bày với ngài chuyện của nhà chị và cố gắng xin ngài ban cho chị đặc ân. Nhưng ta không thể làm được điều gì hơn nữa và ta cũng không thể hứa hẹn một điều gì hết.
    Mụ Phátma nhổ m ngay dậy và vừa đưa hai tay ra dấu cảm ơn vừa bật kêu lên:
    - Vậy là con đã được cứu sống!- Không đâu, chị Phátma, - ông Rôlixơn đáp, nhà chị đừng nói chuyện cứu mạng, vì như ta đã nói với chị, cái chết không hề đe doạ chị lẫn các con chị. Còn liệu khêđíp có đồng ý cho chị ra đi hay không thì ta không dám chắc, bởi vì Xmainơ không ốm mà hắn là một tên phản bội, đã lấy tiền của chính phủ, hoàn toàn không nghĩ gì đến việc chuộc các tù binh khỏi tay Môhamét Achmét cả.
    - Ông Xmainơ là người vô tội, thưa ngài, hiện ông ấy đang nằm ở En Phaserơ, - mụ Phátma lặp lại, - còn nếu như ông ta có bội tín với chính phủ đi nữa, thì con xin thề với ngài, ông chủ đáng kính của con, rằng nếu như người ta cho phép con ra đi, thì con sẽ khẩn cầu Môhamét Achmét cho đến khi nào xin tha hết tù binh của các ngài mới thôi.
    - Thôi được rồi. Ta hứa với chị một lần nữa là ta sẽ gặp khêđíp để xin cho chị. Mụ Phátma bắt đầu vái lia lịa.
    - Xin đa tạ người, thưa xidi. Ngài thật quả là người vừa nhiều quyền thế vừa công minh chính đại. Còn bây giờ con cầu xin ngài một điều nữ a là hãy cho chúng con được hầu hạ ngài như nô lệ vậy.
    - Ở Ai Cập không một ai có thể là nô lệ cả, - ông ôlixơn mỉm cười đáp lại. - Ta có đủ gia nhân rồi, vả chăng ta cũng không thể sử dụng sự hầu hạ của chị vì rằng, như ta đã nói với chị, tất cả chúng ta đây sẽ rời đi Mêđinét, và có thể chúng ta sẽ ở lại đó cho đến tận ngày lễ ramadan(2).
    - Con biết, thưa ngài, vì ông quản gia Khađigi đã nói với con, còn con, biết tin ấy, con đến đây không những chỉ để cầu xin ngài giúp đỡ, mà còn để thưa với ngài rằng, hai người cùng bộ tộc Dangan với con là Iđrix và Ghebơrơ, hiện đang là những chủ lạc đà tại Mêđinét, và họ sẽ rập trán trước ngài khi ngài đến đó cốt để xin ngài ra lệnh cho họ và lạc đà của họ được hầu hạ các ngài.
    - Được rồ i, được rồi, - ông giám đốc nói, - nhưng đó là việc của công ti Cúc chứ đâu phải là việc của ta.
    Sau khi hôn tay hai kĩ sư và bọn trẻ, mụ Phátma lui ra ngoài, vừa lui vừa cầu phước, nhất là cho cô bé Nen. Cả hai ông bố cùng im lặng một lát, rồi ông Rôlixơn cất tiếng:
    - Một người đàn bà đáng thương... nhưng mụ ta nói dối như cuội vậy, thậm chí trong những lời cảm ơn cũng toát lên cái ý không có quyền giữ mụ ta ở Ai Cập, vì mụ ta không thể chịu trách nhiệm thay cho chồng được.
    - Hiện nay chính phủ không cho phép một ai trong số dân Xuđan đi Xuakim không có giấy phép, cũng như đi Nubia, nghĩa là lệnh cấm đó không chỉ riêng cho mụ Phátma. Ở Ai Cập hiện có rất nhiều người vốn tìm tới đây để kiếm sống, trong đó có một nhóm người thuộc bộ tộc Dangan, nghĩa là bộ tộc của chính Mahơđi. Thí dụ, ngoài mụ Phátma ra, còn có Khađigi và hai gã chủ lạc đà ở Mêđinét cũng thuộc bộ tộc này. Bọn Mahơđi gọi người Ai Cập là dân Thổ và tiến hành chiến tranh chống lại họ,nhưng trong số những người Ả Rập tại đây cũng có khối môn đệ của Mahơđi, những kẻ sẵn lòng bỏ trốn đến với hắn. Cần phải gộp vào bọn này tất cả những kẻ cuồng đạo, tất cả những kẻ ủng hộ pasa Ả Rập ngày trước, cùng nhiều kẻ trong các tầng lớp nghèo khổ nhất. Họ trách chính phủ đã hoàn toàn chịu ảnh hưởng của Anh, và cho rằng điều đó xúc phạm tới tôn giáo. Chỉ có Chúa mới biết rõ bao nhiêu kẻ đã chạy trốn bằng cách vượt qua sa mạc, bỏ qua con đường biển thông thường tới Xuakim; do vậy, khi chính phủ biết được rằng mụ Phátma cũng muốn chuồn, họ bèn ra lệnh canh giữ mụ ta. Qua mụ ta và các con của mụ, những người ruột thịt với Mahơđi, rất có thể sẽ chuộc lại được tù binh.
    - Liệu có đúng là những tầng lớp nghèo khổ nhất ở Ai Cập ủng hộ Mahơđi hay chăng?
    - Mahơđi có đệ tử ngay cả trong quân đội, có thể chính vì vậy mà quân chính phủ đánh nhau kém đến thế.
    - Nhưng bằng cách nào những người Xuđan có thể trốn qua sa mạc được nhỉ? Hàng nghìn dặm đường cơ mà?
    - Ấy thế mà chính bằng con đường ấy người ta đưa nô lệ tới Ai Cập đấy.
    - Tôi e rằng bọn trẻ con của mụ Phátma không chịu đựng nổi một cuộc hành trình như thế.
    - Mụ ta cũng muốn rút ngắn bớt đường đi bằng cách đi theo đường biển tới Xuakim đấy thôi.
    - Dù sao thì cũng là một người đàn bà tội nghiệp...
    Câu chuyện kết thúc ở đó.
    Nhưng mười hai giờ sau đó, mụ ?ođàn bà tội nghiệp? ấy, sau khi đã đóng thật kín cửa nhà, bắt đầu thì thầm với con trai của tên quản gia Khađigi, cặp lông mày nhíu lại, đôi mắt đẹp ánh lên thật ảm đạm.
    - Hỡi Khamix, con trai của Khađigi, đây là tiền. Ngay hôm nay, người hãy đi Mêđinét và giao cho Iđrix bức thư này, bức thư mà thầy cả Benlali thánh thiện đã thảo gửi cho hắn theo lời yêu cầu của ta... Bọn trẻ của các kĩ sư ấy tốt bụng đấy, song nếu như ta không được phép ra đi thì không cò n cách nào khác. Ta biết là ngươi không phản ta... Hãy nhớ rằng, ngươi và cha ngươi đều sinh ra từ bộ tộc Dangan, bộ tộc đã sản sinh ra đức Mahơđi vĩ đại.
    -------------
    1 Cúc: tên một công ti tư bản lớn ở nước ngoài.
    2 Lễ ramadan: lễ của người Hồi giáo, bắt đầu từ tháng hai cho đến hết tháng ba.


  4. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 3
    Tối hôm sau, cả hai kĩ sư lên đường đi Cairô. Tại đó, họ sẽ tới thăm thống sứ Anh và vào yết kiến phó vương. Xtas tính rằng, có thể chuyện đó sẽ khiến họ mất chừng hai ngày, và quả thật, những tính toán của em rất chính xác, vì chiều hôm thứ ba, em nhận được một bức điện của cha, đánh từ Mêđinét, với nội dung như sau: ?oLều trại đã sẵn sàng. Các con, hãy đi ngay sau khi con bắt đầu được nghỉ. Báo cho Phátma thông qua Khađigi biết là chúng ta không làm gì được cho chị ta...?. Cô Oliviơ cũng nhận được một bức điện tương tự, và với sự giúp đỡ của bà da đen Đina, cô bắt đầu tiến hành việc chuẩn bị để lên đường.
    Chỉ riêng cảnh chuẩn bị thôi cũng đã làm cho trái tim bọn trẻ náo nức vui sướng. Bỗng nhiên một chuyện không lành xảy ra suýt nữa khiến cho mọi dự định đều bị đảo lộn, thậm chí có thể chuyến đi phải đình lại. Vào hôm kì nghỉ của Xtas bắt đầu, ngay trước hôm ra đi, khi đang chợp mắt ban trưa trong vườn, cô Oliviơ bị một con bọ cạp đốt. Thông thường, những con vật có nọc độc này ở Ai Cập không mấy nguy hiểm, nhưng lần này vết đốt lại rất có thể nguy đến tính mạng. Con bọ cạp đã bò lên chỗ tựa đầu của chiếc ghế vải và đốt vào cổ cô Oliviơ khi cô tựa đầu vào đó. Và vì rằng trước đây cô đã có lần bị nổi ban đỏ trên mặt, nên người ta e rằng bệnh ấy lại tái phát. Người ta lập tức cho mời bác sĩ, song mãi hai giờ sau ông ta mới tới, vì ông bận việc ở một nơi nào khác.
    Khi ấy, cả cổ lẫn mặt cô đã bị sưng vù lên, cô bị sốt và có những triệu chứ ng thường có của sự nhiễm độc. Trong những điều kiện như thế, bác sĩ cho rằng không thể nói tới chuyện đi đâu được cả, và ra lệnh đặt bệnh nhân vào giường. Vì vậ y bọn trẻ bị đe doạ bởi triển vọng sẽ phải nghỉ lễ Thiên Chúa giáng sinh tại nhà. Nói cho công bằng, trong những phút đầu tiên, quả tình Nen lo lắng nhiều tới nỗi đau đớn của cô giáo hơn là nghĩ ngợi về những điều sung sướng bị mất đi tại Mêđinét. Em chỉ khóc thầm ở góc phòng khi nghĩ rằng em sẽ không được gặp mặt cha trong mấy tuần lễ liền.
    Tuy nhiên, Xtas không dễ dàng chấp nhận điều không may đến thế, em lập tức gửi đi một bức điện, rồi tiếp đó, một bức thư, hỏi xem chúng cần làm gì.
    Hai ngày sau có điện trả lời. Trước đó, ông Rôlixơn đã trao đổi với bác sĩ, và sau khi được biết rằng nguy hiểm đã qua, và giờ đây chỉ còn lo bệnh ban đỏ tái phát nên không thể để cho cô Oliviơ rời khỏi Port Xaiđơ được. Ông bèn chỉ thị trước hết phải lo lắng theo dõi và chăm sóc cô, rồi sau đó mới gửi cho bọn trẻ, cho phép chúng được lên đường cùng với bà Đina. Bà Đina, mặc dù vô cùng gắn bó với Nen nhưng không thể đảm đương chuyện tàu xe và khách sạn, nên người dẫn đường và thủ quỹ của chuyến đi sẽ là Xtas. Dễ dàng có thể hiểu được cậu bé tự hào đến thế nào về cương vị ấy, và với lòng can trường của một hiệp sĩ, cậu bé đã bảo đảm với Nen rằng sẽ không kẻ nào động được đến một sợi tóc của Nen, cứ hệt như là trong thực tế, đường đến Cairô và Mêđinét có biết bao hiểm nguy và gian khó vậy.
    Vì mọi việc chuẩn bị đã xong xuôi, nên ngay hôm ấy, bọn trẻ lên đường đến Idơmailơ theo kênh đào, rồi từ Idơmailơ đi tàu hoả tới Cairô, tại đó chúng nghỉ đêm, rồi hôm sau tới Mêđinét. Khi rời khỏi Idơmailơ, chúng trông thấy hồ Timxa mà Xtas đã từng được biết, vì ông Tarcôpxki, vốn là một thợ săn hăng hái trong những lúc rảnh rỗi, thỉnh thoảng có đưa em tới đây săn chim nước. Sau đó, con đường chạy dọc theo lũng Vađi Tumilat, gần con kênh nước ngọt chảy từ sông Nin tới Idơmailơ và Xuê. Người ta đào con kênh này trước khi khởi công đào kênh Xuê, vì nếu không thì công nhân làm việc cho cái công trình vĩ đại của ông Lecxép hẳn sẽ không có nước ngọt để uống. Tuy nhiên, việc đào con kênh này còn có thêm một tác dụng tốt nữa: vùng đất trước kia vốn là một sa mạc cằn cỗi nay lại được hồi sinh bởi có được dòng nước ngọt to lớn và đầy sức sống chảy ngang qua.
    Từ cửa sổ toa tầu, về phía bên trái, bọn trẻ có thể nhìn thấy một dải xanh mênh mông gồm những đồng cỏ - trên có ngựa, lạc đà và cừu đang gặm cỏ - và những cánh đồng trồng ngô, kê, có linh lăng cùng những thứ cỏ chăn nuôi khác xen lẫn nhau. Trên bờ kênh là đủ mọi loại công cụ lấy nước, từ những bánh xe nước có gầu múc đến những cần vọt thông thường, mà những nông dân đang cần cù lấy nước vào các thửa ruộng hoặc chở đi trong những thùng chứa đặt trên các xe trâu. Trên những ruộng ngũ cốc mới nẩy mầm dày đặc hàng đàn bồ câu, thỉnh thoảng một đàn chim cun cút lại bay vọt lên. Dọc bờ kênh lũ cò và sếu long trọng dạo bước. Phía xa xa, trên những túp nhà bằng đất sét của nông dân, nhữ ng tán cây chà là vươn lên cao trông như những chiếc mũ cắm lông chim.
    Ngược lại, phía Bắc đường tàu trải dài một sa mạc mênh mông, nhưng không giống cái sa mạc nằm phía bên kia kênh đào Xuê. Sa mạc kia trông như một đáy biển bằng phẳng mà nước đã chảy đi hết, chỉ còn lại mặt cát gợn sóng, còn ở đây, cát vàng hơn, dường như được đổ thành từng gò đống lớn, trên sườn gò mọc đầy các bụi cây màu xám. Giữa các gò đống ấy - những gò thỉnh thoảng nhô lên thành những quả đồi cao - là những thung lũng rộng; trên đó đôi khi có thể trông thấy những đoàn thương khách kéo dài.
    Từ cửa sổ toa tàu, bọn trẻ có thể nhìn thấy những con lạc đà thồ nặng hàng đi thành một dãy dài, con nọ nối con kia, đi trên con đường cát. Trướcmỗi con lạc đà là một người Ả Rập mặc áo khoác đen và đội một vành khăn trắng trên đầu. Nen chợt nhớ lại những bức tranh trong quyển kinh thánh mà cô bé được xem ở nhà vẽ cảnh những người dân Ixraen tiến vào đất Ai Cập từ thời thánh Duxép. Chúng giống hệt nhau. Tiếc một điều là cô bé không thể ngắm được đoàn thương khách kĩ hơn, bởi có hai sĩ quan người Anh đứng ở phía bên ấy của toa tàu chắn mất tầm nhìn của cô bé.
    Song khi cô bé vừ a nói với Xtas điều đó, thì cậu bé liền quay sang các sĩ quan, đặt một ngón tay lên vành mũ phớt và nói với vẻ mặt rất long trọng:
    - Thưa các quý ông, không rõ các quý ông có vui lòng nhường chỗ cho tiểu thư đây chăng, bởi tiểu thư rất muốn được nhìn kĩ đoàn lạc đà?
    Cả hai vị sĩ quan, cũng có vẻ trang trọng như vậy, chấp nhận lời đề nghị, và một người không những chỉ nhường chỗ cho cô tiểu thư đang tò mò mà còn nhấc bổng cô bé lên, đặt vào chỗ ngồi bên cạnh cửa sổ.
    Thế là Xtas bắt đầu giảng bài:
    - Đây là đất nước Gôsen cổ xưa, mà vua Pharaon đã nhường cho thánh Duxép để dành cho những người anh em Ixraen của ông ta. Ngày xưa, vào thời cổ đại, đây cũng đã từng có một con kênh nước ngọt, nên con kênh mới này chỉ là làm lại con kênh cũ mà thôi. Song sau đó, con kênh ấy bị cạn đi và đất đai biến thành sa mạc. Giờ đây, một lần nữa, đất đai sẽ trở lại phì nhiêu.
    - Vì sao quý anh biết điều đó? - Một trong hai sĩ quan hỏi.
    - Ở lứa tuổi tôi, ai cũng biết những điều đó. -Xtas đáp. - Thêm nữa cách đây không lâu, giáo sư Xtơling vừa giảng cho chúng tôi nghe về lũng Vađi Tumilat.
    Mặc dù Xtas nói tiếng Anh rất thạo, nhưng cách phát âm của em hơi lơ lớ, nên người sĩ quan thứ hai để ý và hỏi:
    - Hình như quý anh trẻ tuổi không phải là ngườiAnh?
    - Cô đây là tiểu thư Nen, mà cha cô giao phó cho tôi chăm sóc lúc đi đường, còn tôi không phải là người Anh, tôi là người Ba Lan và là con của một kĩ sư làm việc tại kênh đào.
    Người sĩ quan mỉm cười khi nghe câu trả lời của cậu bé và nói:
    - Tôi rất trọng người Ba Lan. Tôi thuộc trung đoàn kỵ binh từ thời Napoleon đã vài lần được chiến đấu cùng với khinh kị binh Ba Lan, và cho tớ i nay, truyền thống đó trở thành niềm tự hào và vinh dự của trung đoàn1.
    - Rất hân hạnh được làm quen với ông, - Xtas đáp.
    Và thế là câu chuyện diễn ra rôm rả, bởi rõ ràng hai viên sĩ quan rất thích thú. Hoá ra, cả hai cũng đi từ Port Xaiđơ đến Cairô để yết kiến đại sứ Anh quốc, nhận các chỉ thị cuối cùng về chuyến đi tiếp theo đang chờ đợi họ. Người trẻ hơn trong số hai người là bác sĩ quân y, còn người nói chuyện với Xtas là đại uý Glen. Đại uý được lệnh của chính phủ đi từ Cairô qua Xuê tới Mombaxa để phụ trách toà n bộ khu vực kế cận với hải cảng này và kéo dài mãi tới tận vùng đất chưa được biết là Xamburu. Vốn rất say mê đọc sách về nhữ ng cuộc thám hiểm châu Phi, Xtas biết rõ rằng, Mombaxa nằm ở vài độ vĩ tuyến phía bên kia xích đạo và các đất nước kế cận với nó, mặc dù đã được tính vào phạm vi những vùng thuộc quyền lợi của Anh quốc, nhưng thực ra vẫn rất ít được biết đến, hoàn toàn hoang dã, đầy voi, hươu cao cổ, tê giác, trâu và các loài linh dương mà các đoà n quân, các đoàn truyền giáo cũng như các đoàn khách thương thường xuyên đụng độ với chúng. Với cả tấm lòng, em ghen thầm với đại uý Glen và nói rằng em phải đến Mombaxa thăm ông ta và cùng ông ta săn sư tử hoặc trâu rừng.
    - Hay lắm, nhưng khi đến thăm xin hãy đi cùng với cô tiểu thư bé nhỏ này, - đại uý Glen vừa cười vừa đáp và trỏ sang Nen, cô bé lúc nãy vừa rời cửa sổ đến ngồi bên ông.
    - Tiểu thư Rôlixơn còn có cha, - Xtas đáp, - còn tôi chỉ là người đỡ đầu tiểu thư trong khi đi đường mà thôi.
    Nghe thấy thế, viên sĩ quan kia liền quay lại hỏi:
    - Rôlixơn? Có phải đó là một trong các giám đốc của kênh đào và có anh trai ở Bombay hay không?
    - Ở Bombay hiện có bác tôi. - Nen vừa đáp vừa đưa một ngón tay nhỏ bé lên.
    - Thế thì bác của em, cô bé thân mến, lấy chị tôi làm vợ. Tôi là Clery. Chúng ta là bà con với nhau đấy, và tôi rất mừng là đã được gặp và quen biết với em, con chim bé bỏng ạ.
    Quả thực bác sĩ rất vui mừng. Ông nói rằng, ngay sau khi tới Port Xaiđơ ông đã hỏi thăm ông Rôlixơn, nhưng ở Văn phòng ban giám đốc người ta nói với ông rằng ông Rôlixơn đã đi nghỉ lễ. Ông cũng tiếc rằng chiếc tầu mà ông đã cùng với ông Glen đi Mombaxa sẽ rời Xuê sau vài ngày nữa, nên ông không thể tạt qua Mêđinét được.
    Ông yêu cầu Nen chuyển lời chúc sức khoẻ tới cha em và hứa sẽ viết thư về cho cô bé từ Mombaxa. Bây giờ hai sĩ quan chủ yếu chỉ nói chuyện với Nen, khiến Xtas hơi đứng ra ngoài rìa.Để bù lại, cứ đến ga là lại xuất hiện hàng tá quýt, chà là tươi, thậm chí cả quả thanh lương trà rất tuyệt nữa. Ngoài Xtas và Nen, cả bà Đina cũng được thưởng thức những thứ quả ấy. Bên cạnh tất cả các đức tính của mình, bà nổi bật lên với tính phàm ăn ít gặp.
    Nhờ thế, con đường đi Cairô đối với bọn trẻ nhanh chóng trôi qua. Lúc chia tay, các sĩ quan hôn bàn tay và mái đầu bé nhỏ của Nen, bắt chặt tay Xtas. Đại uý Glen, người rất thích cậu bé tháo vát và bạo dạn này, nói nửa đùa nửa thật:
    - Anh bạn trẻ của tôi! Trong cuộc đời nào ai biết được khi nào, tại đâu và trong hoàn cảnh nào chúng ta lại có thể gặp nhau.
    Tuy nhiên xin anh hãy nhớ rằng, bao giờ anh cũng có thể dựa vào tấm lòng và sự trợ giúp của tôi.
    - Và cả ông cũ ng vậy! - Xtas đáp lại và em cúi chào đầy vẻ tự trọng.
    ---------------
    1 Trung đoàn kị binh Anh từng gặp gỡ kị binh Ba Lan trong thời Napoleon, cho tới nay vẫn còn tự hào về điều đó, và mỗi sĩ quan, khi nói về trung đoàn mình thường bảo: ?oChúng tôi đã được cùng chiến đấu với người Ba Lan? (Chú thích của tác giả).

    Được pathetique sửa chữa / chuyển vào 04:48 ngày 30/11/2004
  5. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chuong 4
    Ông Tarcôpxki cũng như ông Rôlixơn, vốn yêu thương cô bé Nen hơn cả cuộc sống của mình, rất vui mừng khi bọn trẻ đến. Đôi trẻ cũng vui sướng được gặp lại cha, nhưng chỉ lát sau đã bắt đầu đi thăm các căn lều bên trong đã được bài trí xong hoàn toàn và sẵn sàng chờ đón các vị khách đáng yêu. Những căn lều ấy thật tuyệt vời, hai lớp vải Flanen, một mặt màu xanh, một mặt màu đỏ, bên dưới trải nỉ thô và rộng rãi như những căn phòng lớn. Công ti muốn làm đẹp lòng các quan chức cao cấp của Hiệp hội kênh đào nên đã cố gắng để họ được tiện nghi và thoả mãn. Lúc đầu ông Rôlixơn sợ rằng việc sống một thời gian dài trong lều sẽ có hại cho sứ khoẻ của Nen, nhưng ông đồng ý chuyện đó cũng là vì, nếu như thời tiết xấu thì bất kì lúc nào cũ ng có thể chuyển vào ở trong khách sạn. Song bây giờ đây, sau khi xem xét kĩ lưỡng mọi thứ tại chỗ, ông lại tin rằng, ngày đêm tiếp xúc với không khí trong lành sẽ trăm lần tốt hơn cho sức khoẻ của cô con gái rượu của ông so với chuyện sống trong những căn phòng hôi hám của các khách sạn nhỏ của địa phương. Thêm vào đó, thời tiết rất tuyệt. Mêđinét, tức En Mêđine, được vây quanh bởi những đồi cát của sa mạc Libi, có khí hậu tốt hơn nhiều so với Cairô, và chẳng phải tự nhiên người ta lại mệnh danh là ?oxứ sở hoa hồng?. Với vị trí được che chắn tốt, độ ẩm không khí lại cao, nên tại đây ban đêm không quá lạnh như ở những miền khác của Ai Cập, kể cả những miền nằm xa hơn nữa về phía Nam. Mùa đông ở đây thật là dễ chịu, và từ tháng mười một trở đi lại chính là mùa cây cối phát triển nhanh nhất. Những cây chà là, ôliu, vốn rất ít gặp ở Ai Cập, nhữ ng cây vả, cây cam, quýt, những cây thầu dầu khổng lồ, những cây lựu và biết bao nhiêu thứ thực vật phương Nam khác tạo nên một rừng cây lớn trùm lên cái ốc đảo tuyệt diệu này. Những khu vườn như được bao trùm trong một làn sóng khổng lồ của những cây xiêm gai, tử đinh hương và hồng, đến nỗi về đêm, mỗi làn gió đều mang về hương thơm dễ chịu của những loài hoa ấy. Ở đây, người ta căng ngực thở, và nói như các cư dân địa phương thì ?ochẳng ai muốn chết?.
    Khí hậu tương tự như vậy chỉ có ở một địa điểm khác là Hêluan, nằm phía bên kia sông Nin, nhưng tại đó cây cối cũng không tươi tốt bằng ở đây.
    Tuy nhiên, với ông Rôlixơn, Hêluan gắn liền với một kỉ niệm đau đớn, vì mẹ của Nen qua đời ở đó. Vì lí do đó, ông chọn Mêđinét, và giờ đây, khi ngắm nhìn nét mặt tưng bừng rạng rỡ của cô bé, ông tự nhủ thầm trong lòng rằng, trong thời gian tới, ông sẽ mua ở đây một mảnh đất có cả vườn tược, sẽ dựng lên trên đó một ngôi nhà đầy tiện nghi theo kiểu Anh, và sẽ về đây, về miền đất lành này, để nghỉ ngơi trong tất cả những kì nghỉ phép mà ông có thể có được, và rồi sau khi đã kết thúc công vụ ở kênh đào, thậm chí ông sẽ về ở hẳn tại đây.
    Dù sao, đó cũ ng mới chỉ là kế hoạch cho một tương lai xa và chưa hoàn toàn chắc chắn. Trong khi đó, từ lúc đặt chân tới đây, lũ trẻ lùng sục mọi chỗ như hai chú ruồi, vì chúng muốn ngắm nghía tất cả các căn lều cùng lũ lừa và lạc đà mà công ti Cúc đã thuê tại chỗ, ngay trước bữa cơm. Song hoá ra rằng lũ súc vật hiện đang ở trên bãi chăn cách xa đấy, nên mãi ngày mai mới có thể thấy chúng được. Ngượ c lại, bên cạnh căn lều của ông Rôlixơn, Nen và Xtas rất vui mừng được gặp lại Khamix, con trai Khađigi, một người quen tốt bụng của chúng từ Port Xaiđơ. Anh ta không thuộc đám gia nhân do công ti Cúc thuê, thậm chí ông Rôlixơn còn ngạc nhiên khi gặp anh ta ở En Mêđine, song vì trước đây ông vẫn sử dụng anh ta làm ngườ i mang dụng cụ, nên giờ đây ông cũng dùng anh ta làm kẻ sai vặt.
    Bữa cơm chiều thật thịnh soạn, vì ông lão Cốptơ, người đã nhiều năm liền đảm nhiệm chức đầu bếp trong công ti Cúc, muốn biểu diễn tài nghệ của mình. Bọn trẻ kể lại chuyện người mới quen trong khi đi đường là hai viên sĩ quan, điều này khiến ông Rôlixơn rất quan tâm, vì anh ruột của ông là Risác, có vợ là chị của bác sĩ Clery, quả thực đã sinh sống nhiều năm tại Ấn Độ. Đôi vợ chồng ấy không có con, nên ông bác nọ rất yêu quý cô cháu gái bé nhỏ mà ông ta chỉ được biết chủ yếu qua các bức ảnh, và trong tất cả mọi bức thư ông đều thăm hỏi kĩ lưỡng về cô bé. Cả hai ông bố cũng rất buồn cười về lời mời đi Mombaxa mà Xtas nhận được từ đại uý Glen. Cậu bé coi đó là lời mời nghiêm túc và cương quyết tự hứa với mình rằng, khi nào đó, cậu sẽ tới thăm người bạn mới quen ở bên kia đường xích đạo. Mãi sau, ông Tarcôpxki phải giải thích cho em biết rằng các quan chức người Anh không bao giờ làm việc lâu tại một chỗ, vì khí hậu châu Phirất độc, và trước khi Xtas kịp lớn lên thì hẳn là đại uý đã thay đổi nhiệm sở tới mười lầ n rồi, hoặc đã không còn trên cõi đời này nữa cũng nên.
    Sau bữa ăn, cả nhà bước ra trước lều, nơi gia nhân đã bầy sẵn cái ghế vải gấp, đồng thời chuẩn bị riêng cho người lớn những bình xiphông chứa nước khoáng và rượu brandi.
    Đêm đã buông xuống, nhưng là đêm rất ấm áp, và vì đúng tiết rằm, nên trời sáng như ban ngày. Những bức tường trắng của các toà nhà trong thành phố đối diện với khu lều sáng lên mầu xanh mờ mờ, những vì sao long lanh trên bầu trời, trong không khí lan toả mùi hương hoa hồng, mùi cây xiêm gai và mùi hoa vòi voi.
    Thành phố đã say ngủ. Trong sự tĩnh mịch của đêm thảng hoặc mới có vài tiếng kêu của lũ sếu, diệc và hồng hạc đang bay từ phía sông Nin về phía Cairôun. Bỗng chợt có tiếng chó sủa rất lâu, trầm, tiếng sủa khiến Nen và Xtas kinh ngạc, bởi hình như nó vang ra từ căn lều mà chúng chưa vào thăm, căn lều dùng để chứa yên cương, dụng cụ và các thứ đồ dùng đi đường các loại.
    - Con chó này hẳn phải to lắm! Ta đi xem nó đi!
    - Xtas nói.
    Ông Tarcôpxki bắt đầu cười thành tiếng, còn ông Rôlixơn thì cũng vừa cười, vừ a gẩy tàn thuốc từ điếu xìgà:
    - Thôi được! Chẳng có cách nào giữ kín được! Rồi quay sang phía lũ trẻ:
    - Ngày mai, các con biết đấy, là ngày lễ Giáng sinh, con chó này sẽ là món quà bất ngờ mà bác Tarcôpxki dành để tặng Nen, nhưng vì cái điều bất ngờ đã bắt đầu sủa, nên ba buộc phải thông báo ngay từ hôm nay.
    Nghe thấy thế, trong chớp mắt Nen trèo lên đầu gối của ông Tarcôpxki và ôm chầm lấy cổ ông, rồi tiếp đó cô bé nhảy sang đầu gối cha:
    - Cha ơi, con sung sướng quá! Con sung sướng quá đi mất!
    Những cái ôm và cái hôn dường như bất tận. Mãi sau, khi đã đứng xuống đất trên đôi chân của mình, Nen mới bắt đầu nhìn vào mắt ông Tarcôpxki:
    - Bác Tarcôpxki...
    - Gì cơ, Nen?
    - Nếu như cháu đã biết rằng có nó ở đó, thì cháu có được phép nhìn nó một chút ngay hôm nay không hở bác?
    - Tôi biết mà, - ông Rôlixơn giả vờ phẫn nộ kêu lên, - cái con ruồi con này chẳng bao giờ chịu để yên khi nghe tin mới.
    Còn ông Tarcôpxki quay lại phía con trai của Khađigi và bảo:
    - Khamix, dẫn chó ra đây.
    Cậu thanh niên Xuđan biến vào sau căn lều dùng làm bếp và một lát sau lại xuất hiện, dắt theo một con vật to tướng có đeo vòng cổ.
    Nen thốt nhiên lùi lại.
    - Ối! - Cô bé kêu lên, túm lấy tay cha.Còn Xtas thì lại hăng hái:
    - Đấy là sư tử chứ đâu phải là chó.
    - Tên nó là Xaba (sư tử). - Ông Tarcôpxki đáp. Nó thuộc giống maxtif, là giống chó to nhất trên thế giới. Con này mới được hai tuổi, nhưng quả là to.Đừng sợ, Nen, nó lành như một chú cừu non thôi mà. Nào, can đảm lên! Thả nó ra, Khamix!
    Khamix buông dây vòng cổ mà anh ta vẫn giữ, con chó thấy được tự do, liền ve vẩy đuôi, sán lại ông Tarcôpxki, người mà trước đó nó đã quen biết và sủa lên vui sướng.
    Bọn trẻ kinh ngạc ngắm cái đầu tròn với đôi môi trễ của con chó, ngắm nghía những cái chân đồ sộ, và thân hình với bộ lông màu vàng nhạt thật giống dáng sư tử dưới ánh trăng. Trong đời, quả thực chúng chưa từng gặp một con vật nào tương tự như thế.
    - Với một con chó thế này có thể đi xuyên suốt châu Phi một cách an toàn. - Xtas thốt lên.
    - Con hãy hỏi thử xem liệu nó có thể mang được tê giác về theo mệnh lệnh hay không? - Ông Tarcôpxki bảo.
    Thực ra Xaba không thể trả lời câu hỏi đó, song nó vẫy đuôi mỗi lúc một vui vẻ hơn và sán vào những người ngồi đó một cách chân thành đến nỗi Nen hết sợ hãi mà bắt đầu vuốt ve đầu nó.
    - Xaba, Xaba đáng yêu, Xaba quý mến!
    Ông Rôlixơn cúi xuống nâng đầu con chó lên hướng vào mặt cô bé và nói:
    - Xaba, hãy nhìn cho kĩ cô bé này. Đây là cô chủ của mày.
    Mày phải vâng lời và phải bảo vệ cô chủ, hiểu chưa?
    - Gâu! - Xaba liền đáp lại bằng giọng trầm, dường như quả thực nó hiểu được điều người ta nói.
    Thậm chí nó còn hiểu rõ hơn là người ta tưởng, vì nhân lúc đầu cao gần ngang với khuôn mặt cô bé, nó dùng cái lưỡi rộng bản của mình liếm cái mũi nho nhỏ và đôi má cô bé để ra điều bày tỏ lòng thành kính của mình.
    Mọi người phá lên cười. Nen phải vào lều để rửa mặt. Mười lăm phút sau quay trở ra, cô bé thấy Xaba đang đặt chân lên vai Xtas, còn cậu bé thì còng người dưới sức nặng của nó. Con chó cao hơn cậu bé một cái đầu.
    Đã tới lúc đi nghỉ, nhưng cô bé xin phép được chơi nửa giờ nữa để làm quen thân hơn với người bạn mới. Sự quen biết lẫn nhau diễn ra rất dễ dàng, đến nỗi chẳng mấy chốc, ông Tarcôpxki đã có thể đặt Nen ngồi bỏ chân một bên trên lưng con chó và đỡ lấy cô bé phòng khi nó ngã, rồi bảo Xtas cầm cổ dề dắt chó đi. Cô bé cưỡi chó như vậy tới mười mấy bước, sau đó cả Xtas cũng thử cưỡi lên lưng con ?ongựa? đặc biệt này, nhưng ?ongựa? ngồi xệp hai chân sau xuống, khiến chú bé bất ngờ bị tuột xuống mặt cát gần đuôi chó.
    Đến lúc bọn trẻ phải đi nghỉ, thì chợt từ phía xa xa, trên bãi chợ sáng ánh trăng, hiện ra hai bóng trắng tiến dần lại phía khu lều.
    Xaba vốn hiền lành từ nãy đến giờ bỗng bắt đầu gầm gừ một cách dữ tợn, khiến cho Khamix, theo lệnh ông Rôlixơn, phải tóm cổ dề giữ chặt lấy nó. Trong khi đó hai người đàn ông, mặc áo choàng kín đầu, đã dừng lại trước cửa lều.
    - Ai đấy? - Ông Tarcôpxki hỏi.
    - Chúng tôi là người quản lạc đà ạ. - Một trong hai người mới đến lên tiếng đáp.
    - A, Iđrix và Ghebơrơ đấy à? Các anh muốn gì?
    - Chúng tôi đến để hỏi xem ngày mai chúng tôi có cần thiết cho ngài hay chăng?
    - Không. Ngày mai và ngày kia là những ngày lễ lớn, chúng tôi không thể đi tham quan vào những ngày ấy được. Ngày kìa các anh hãy đến vào buổi sáng.
    - Xin cảm ơn các ngài.
    - Lạc đà của các anh có tốt không? - Ông Rôlixơnhỏi.
    - Tuyệt vời ạ!(1) - Iđrix đáp - Những con lạc đà có bướu nhiều mỡ và hiền lành như cừu. Nếu không thì Cúc đã không thuê của chúng tôi.
    - Chúng có lắc nhiều lắm không?
    - Thưa ngài, có thể đặt một nắm đậu lên lưng từng con mà không một hạt nào bị rơi xuống trong khi chúng chạy với tốc độ nhanh nhất.
    - Đã nói khoác thì nói khoác kiểu Ả Rập! - Ông Tarcôpxki bật cười nói.
    - Hoặc theo kiểu Xuđan. - Ông Rôlixơn thêm.
    Trong lúc đó, Iđrix và Ghebơrơ đứng yên như hai cây cột màu trắng, nhìn chòng chọc vào Xtas và Nen. Mặt trăng soi sáng hai khuôn mặt rất sẫm màu của họ, trong ánh trăng nom họ như được đúc bằng đồng. Dưới vành khăn trắng, tròng trắng của mắt họ ánh lên màu lục nhạt.
    - Chào các anh! - Ông Rôlixơn chào.
    - Cầu đứ c Ala canh giữ cho các ngài, đêm cũng như ngày.
    Nói xong họ cúi chào rồi đi. Tiễn chân họ là tiếng gầm gừ trầm trầm của Xaba tựa như tiếng sấm xa xa, rõ ràng là nó không thích hai người đàn ông Xuđan này chút nào hết.
    ---------------
    1 Nguyên văn: Bismillach! - Thán từ mà người Ả Rập hay dùng để biểu lộ sự thán phục.


  6. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 5​

    Suốt mấy ngày tiếp theo đó không có cuộc đi chơi nào. Chiều tối hôm lễ Giáng sinh, khi trên bầu trời hiện ra vì sao đầu tiên, trong lều của ông Rôlixơn hàng trăm ngọn nến bừng sáng trên cái cây dành cho Nen. Thực ra, cây thông được thay bằng một cây trắc bách diệp chặt ở trong một cái vườn tại En Mêđinét, tuy nhiên, Nen vẫn tìm thấy giữa những cành cây vô khối kẹo bánh và một con búp bê tuyệt đẹp mà cha đã mua cho cô bé từ Cairô, còn Xtas thì được nhận khẩu súng săn của Anh mà em hằng khao khát. Em còn được cha trao cho đạn, nhiều thứ dụ ng cụ dùng cho thợ săn và yên ngựa. Nen không thể ngồi nóng chỗ vì sung sướng, còn Xtas, dù vẫn cho rằng, ai đã làm chủ một khẩu súng săn thật sự thì cũng phải có được sự đúng đắn tương ứng, song cũng vẫn không sao kìm giữ nổi - và chọn lúc quanh lều vắng vẻ, em liền trồng cây chuối và đi vòng quanh lều bằng hai tay. Nghệ thuật này em đã từng luyện tập rất kĩ ở trường học tại Port Xaiđơ; em làm thành thạo đến mức đáng kinh ngạc và nhiều lần đã khiến Nen thích thú, thậm chí cô bé còn ghen với Xtas một cách chân thành về chuyện đó nữa.
    Đêm Lễ Giáng sinh và ngày đầu tiên của lễ trôi qua với bọn trẻ một phần trong lễ cầu kinh ở nhà thờ, một phần để ngắm nghía những thứ quà tặng mà chúng nhận được, và phần nữa dành để huấn luyện Xaba. Người bạn mới này tỏ ra sáng dạ không ngờ. Ngay trong ngày đầu tiên, nó đã học được cách đưa chân cho người ta bắt, mang khăn mùi soa lại cho chủ theo mệnh lệnh - tuy nó không dễ dàng trao trả những chiếc khăn ấy - và hiểu được rằng việc dùng lưỡi liếm mặt Nen là việc làm không xứng đáng với một con chó lịch sự. Với một ngón tay đặt lên cánh mũi, Nen giảng giải cho nó nhiều bài học khác nhau, còn nó vẫy đuôi để chứng tỏ rằng nó rất chăm chú lắng nghe và thâu nhận vào đáy lòng những bài học ấy. Trong những chuyến đi dạo trên quảng trường đầy cát của thành phố, tiếng tăm của Xaba tại Mêđinét mỗi giờ một lớn lên, thậm chí, cũng như mọi thứ vinh quang khác, cái tiếng tăm này bắt đầu có mặt khó chịu của nó, bởi nó kéo theo hàng đàn lũ trẻ con Ả Rập. Ban đầu chúng còn đứng xa xa, nhưng sau đó, bạo dạn hơn vì sự hiền lành của con ?oquái vật?, chúng mỗi lúc một tiến lại gần, và cuối cùng ngồi vây chặt quanh lều đến nỗi không ai còn có thể cử động thoải mái được nữa.Thêm nữa, vì đứa trẻ Ả Rập nào cũng hít mía từ sáng tới đêm, nên bọn trẻ kéo theo hàng binh đoàn ruồi nhặng; bọn này không những chỉ gây khó chịu mà thậm chí còn nguy hiểm nữa, bởi chúng truyền bệnh đau mắt Ai Cập. Vì vậy, gia nhân buộc phải xua bọn trẻ con đi, nhưng Nen đứng ra bảo vệ chúng, và cô bé còn phân phát helou tức là kẹo bánh, cho bọn trẻ ít tuổi nhất, vì thế Nen rất được chúng yêu mến, và dĩ nhiên, cũng khiến cho số lượng đám trẻ con tăng lên khá nhiều.
    Ba ngày sau bắt đầu những chuyến đi chơi chung, thường là một phần bằng tàu hoả chạy trên đường ray hẹp - những đường ray mà người Anh đã xây dựng khá nhiều ở Mêđinét Em Phaium - một phần bằng lừa, và đôi khi bằng lạc đà. Hoá ra, mặc dù trong những lời ca ngợi mà Iđrix dành cho những con vật này dẫu có nhiều phần khoác lác, bởi không những hạt đậu mà thậm chí ngay cả con người cũng chật vật lắm mới ngồi yên được trên lưng chúng, song vẫn có phần đúng. Số lạc đà này dĩ nhiên là thuộc loại lạc đà để cưỡi, và vì chúng được nuôi dưỡng khá đầy đủ bằng ngô địa phương hoặc ngô Xiri nên bướu của chúng rất nhiều mỡ và chúng chạ y rất hăng, đến mứ c cần phải ghìm bớt chúng lại. Hai gã người Xuđan là Iđrix và Ghebơrơ đã lấy được lòng tin và tình cảm của mọi người (mặc dù mắt họ đôi khi loáng lên những ánh hoang dã), và điều đó chủ yếu là do sự tuân thủ hết mực cùng sự chăm lo rất tận tình dành cho Nen. Ghebơrơ lúc nào cũng có vẻ mặt tàn ác và hơi thú vật, song Iđrix thì nhanh chóng nhận ra rằng cô bé là nhân vật được yêu quý nhất trong cả đoàn, nên mỗi khi có dịp là y lại tìm cách chứng tỏ rằng y lo lắng cho cô chủ hơn lo cho chính ?olinh hồn? của mình. Dĩ nhiên ông Rôlixơn hiểu được rằng, thông qua Nen, Iđrix muốn lần đến túi tiền của ông, nhưng vốn cho rằng, trên đời này không có một ai có thể không yêu mến cô con gái một của ông, ông vẫn biết ơn y và không tiếc tiền.
    Trong vòng năm ngày, họ đã đi tham quan những di tích của thành phố cổ đại Crôcôđilôpôlix nằm gần thành phố, nơi đó ngày xưa những người Ai Cập thờ một vị thần tên là Xêbắc, thần có mình người nhưng đầu cá sấu. Chuyến du lịch tiếp đó là chuyến đi tới kim tự tháp Hanarơ và thăm các di tích mê cung, song chuyến đi dài nhất và toàn bằng lạc đà là chuyến đi tới hồ Cairôun. Bờ phía bắc của hồ là sa mạc mênh mông, trên đó, ngoài di tích của các thành phố thuộc Ai Cập cổ đại, không còn một dấu vết nào khác của sự sống. Ngược lại, về phía Nam là một miền đất phì nhiêu và tuyệt vời; ngay bên bờ hồ, mọc đầy thạch thảo và lau sậy, là hàng đàn bồ nông, hồng hạc, diệc, ngỗng trời và vịt trời. Tại đây, Xtas có dịp để biểu diễn tài thiện xạ của mình. Bằng khẩu súng săn thông thường bắn đạn chì không có rãnh khương tuyến cũng như bằng khẩu súng săn bắn đạn viên với nòng có rãnh xoắn, những phát đạn của em tuyệt vời đến nỗi sau mỗi tiếng nổ dường như đều nghe thấy tiếng tắc lưỡi kinh ngạc của Iđrix và những người Ả Rập chèo thuyền, và những con chim bị bắn rơi xuống nước bao giờ cũng đi kèm với tiếng kêu không đổi: Tuyệt! Tuyệt vời!
    Những người dân Ả Rập đoán chắc rằng ở phía bờ ?osa mạc? bên kia có rất nhiều chó sói và linh cẩu, và chỉ cần ném một xác cừu ra cồn cát là có thể chắ c chắn săn được thú rồi. Do nghe theo những lời cam đoan ấy, ông Tarcôpxki và Xtas thức hai đêm liề n ngoài sa mạc, gần các di tích của Đine. Nhưng con cừu đầu tiên bị dân Bêđuin cuỗm mất, ngay sau khi những người thợ săn vừa quay gót, còn con cừu thứ hai chỉ dụ được mỗi một con lang núi thọt chân và liền bị Xtas hạ ngay. Những chuyến đi săn tiếp theo phải tạm thời hoãn lại, vì hai kĩ sư đã đến lúc phả i lên đường đi kiểm tra các công trình thuỷ lợi tiến hành ở sông Bahơrơ Duxép,gần En Lahum, về phía Đông Nam Mêđinét.
    Ông Rôlixơn chỉ chờ cô Oliviơ đến. Chẳng may, thay vì cô gia sư là một lá thư của bác sĩ, trong đó báo tin rằng, những vết han đỏ trên mặt lại xuất hiện sau khi bị bọ cạp đốt, và trong một thời gian dài nữa, người bệnh không thể rời khỏi Port Xaiđơ được. Tình thế trở nên khá rắc rối. Mang theo cả bọn trẻ, bà Đina, lều trại cùng toàn bộ đám gia nhân là điều không thể thực hiện được, chí ít cũng vì lí do đơn giản là các kĩ sư phải nay đây mai đó, và thậm chí họ có thể được lệnh phải đi đến tận kênh đào lớn Ibrahim. Vì vậy, sau một cuộc bàn bạc ngắn, ông Rôlixơn quyết định để Nen ở lại dưới sự chăm sóc của bà Đina và Xtas, cùng với viên đại diện cho toà lãnh sự Italia và viên thống đốc của địa phương, mà trước đó ông đã làm quen. Ông cũng hứa với Nen - cô bé tiếc vì phải chia tay với cha - rằng cùng với ông Tarcôpxki, ông sẽ từ những địa điểm là m việc ở gần đấy ghé về Mêđinét, hoặc nếu tìm thấy gì đáng tham quan, thì họ sẽ gọi bọn trẻ đến nơi ấy.
    - Ba và bác sẽ mang theo Khamix, - ông nói, và nếu cần thiết thì sẽ cử anh ta trở lại đón các con. Bà Đina lúc nào cũng phải đi kèm Nen, nhưng vì với bà Nen có thể làm mọi chuyện theo ý mình, nên cháu, Xtas, cháu phải canh chừng cho cả hai nhé.
    - Bác có thể tin chắc rằng, - Xtas đáp, - cháu sẽ trông nom em Nen như em gái của cháu. Em có Xaba, cháu có khẩu súng săn, thách kẻ nào dám đụng tới em.
    - Không phải bác muốn nói chuyện đó. - ÔngRôlixơn nói. - Chắc chắn là các con sẽ không cần tới Xaba cũng như khẩu súng săn. Chỉ cần cháu làm ơn trông chừng cho em khỏi mệt nhọc quá, và cẩn thận chớ để cho em bị cảm lạnh. Bác đã yêu cầu ông lãnh sự, hễ khi nào em cảm thấy không được khoẻ lắm thì ông ta sẽ mời bác sĩ từ Cairô đến. Bác và ba cháu sẽ thường xuyên phái Khamix về đây để lấy tin tức. Ngài thống đốc của địa phương cũng sẽ tới thăm các con. Thêm nữa, bác đồ rằng, ba cháu và bác sẽ chẳng khi nào vắng mặt lâu lâu.
    Ông Tarcôpxki cũng không tiếc lời căn dặn Xtas. Ông nói với em rằng Nen không cần tới sự bảo vệ của em, vì rằng ở Mêđinét cũng như trong toàn tỉnh En Phaium không có những người dã man, cũng không hề có thú dữ. Thật là một chuyện tức cười và không xứng đáng với một thiếu niên chẳng bao lâu sẽ hết tuổi mười bốn nếu nghĩ như thế. Chỉ cần em ân cần và thận trọng, chớ tự ý một mình, hoặc cùng với Nen tiến hà nh một chuyến du lịch nào, nhất là bằng lạc đà, vì việc cưỡi lạc đà bao giờ cũng khiến cho người ta mệt mỏi.
    Nghe thấy thế, Nen làm ra vẻ buồn bã, khiến ông Tarcôpxki phải an ủi cô.
    - Dĩ nhiên, - ông vừa nói vừa vuốt mái tóc cô bé - các con có thể cưỡi lạc đà, nhưng chỉ khi nào có mặt chúng ta, hoặc khi đến với chúng ta, nếu Khamix được phái đến đón các con.
    - Thế chúng con không được phép du lịch, dù chỉ là những chuyến đi chút chút ngần này hay sao ạ?
    - Cô bé hỏi.
    Và cô bé đưa ngón tay nhỏ bé chỉ mức độ bé nhỏ của những chuyến du lịch ấy. Cuối cùng hai ông bố đồng ý rằng, chúng có thể đi chơi bằng lừa, chứ không phải bằng lạc đà, và không được đến các di tích cổ, nơi chúng dễ dàng lọt xuống một cái hang hốc nào đó, mà chỉ được phép đi chơi trên đường cái tại những cánh đồng lân cận, và tới những khu vườn nằm ngoài thành phố mà thôi.
    Người thông ngôn cùng với một nhân viên phục vụ của công ti Cúc sẽ có nhiệm vụ luôn luôn đi kèm bọn trẻ.
    Được Pathetique sửa chữa / chuyển vào 06:50 ngày 06/12/2004
  7. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Sau đó, hai ông ra đi, nhưng chỉ đi gần thôi, đến Hamarét En Macta, nên chỉ sau mười giờ đồng hồ họ lại quay trở về Mêđinét nghỉ đêm. Chuyện đó lặp đi lặp lại trong vài ngày, cho tới khi họ kiểm tra hết công việc ở những địa điểm gần nhất. Sau đó, khi công việc ở xa hơn, nhưng vẫn chưa phải ở những địa phương quá xa, thì đêm đêm, Khamix quay trở về, và sáng sớm hôm sau đưa Xtas và Nen tới những thị trấn nhỏ, mà cha chúng muốn cho chúng tham quan một chốn nào đó thú vị. Phần lớn thì giờ ban ngày, bọn trẻ sống cùng với cha, gần tối, chúng quay trở về Mêđinét, về lại khu lều trại. Cũng có những ngày Khamix không quay lại, và khi đó, mặc dù có Xtas và Xaba làm bạn - càng ngày cô bé càng phát hiện ra ở con vật những đứ c tính mới - song Nen vẫn cứ trông ngóng người liên lạc ấy đến. Cứ như thế, thời gian trôi đi đến lễ Ba Vua, khi cả hai kĩ sư quay về Mêđinét nghỉ lễ.
    Hai ngày sau họ lại ra đi, nói rằng lần này sẽ đi lâu hơn, và có lẽ sẽ tới tận Beni Xuép, từ đó tới En Phakhen, nơi bắt đầu con kênh đào cùng tên rồi đi mãi về phía Nam dọc theo sông Nin.
    Vì vậy, bọn trẻ con vô cùng ngạc nhiên, khi vào hôm thứ ba, quãng chừng mười một giờ trưa, chúng thấy Khamix xuất hiện tại Mêđinét. Xtas là người đầu tiên gặp anh ta khi em đi tới bãi chăn nuôi ngắm lạc đà. Khamix đang nói chuyện với Iđrix và chỉ nói vắn tắt với Xtas rằng anh ta về để đón em và Nen, rằng anh ta sẽ tới ngay khu lều để báo rõ địa điểm mà các ông chủ bảo bọn trẻ phải đến. Cậu bé lập tức lao đi, mang tin vui về cho Nen, và gặp Nen đang đùa nghịch với Xaba trước lều.
    - Em biết không? Khamix tới rồi! - Ngay từ xa cậu bé đã kêu lên.
    Thế là Nen bắt đầu nhảy cẫng cả hai chân lên, như kiểu bọn con gái thường nhảy dây.
    - Ta đi đi! Ta đi đi!
    - Phải, chúng ta sẽ lên đường, và đi xa đấy.
    - Đi đâu hả anh? - Cô bé hỏi, lấy hai tay gạt mớ tóc xoã vào mắt.
    - Không biết. Khamix bảo rằng lát nữa sẽ tới báo.
    - Sao anh biết là đi xa?
    - Anh nghe Iđrix nói rằng, ông ta và Ghebơrơ sẽ cùng đoàn lạc đà lên đường ngay lập tức. Thế có nghĩa là chúng ta sẽ đi tàu lửa và sẽ gặp lạc đà tại nơi hai ba đón chú ng ta, rồi từ đó chắc chúng ta sẽ đi tham quan ở một nơi nào khác.
    Cô bé nhảy liên tục, những sợi tóc xoà xuống không những che riêng mắt mà cả mặt cô bé, còn đôi chân thì nẩy bật trên mặt đất như bằng cao su vậy.
    Mười lăm phút sau, Khamix tới, cúi chào hai trẻ:
    - Thưa cậu chủ, - y nói với Xtas, - ba giờ nữa chúng ta sẽ đi chuyến tàu đầu tiên.
    - Tới đâu?
    - Tới En Garắc Xuntani, rồi từ đó, cùng với các ông chủ đi lạc đà tới Vađi Raian.
    Trái tim Xtas rộn lên vì vui sướng, song đồng thời những lời của Khamix cũng khiến em ngạc nhiên. Em biết rằng, Vađi Raian là một vành đai rộng lớn của các quả đồi cát nổi lên trên sa mạc Libi, về phía Nam và Tây Nam Mêđinét, trong khi đó ông Tarcôpxki và ông Rôlixơn khi ra đi lại nói rằng họ đi theo hướng hoàn toàn ngược hẳn lại, tức là về phía sông Nin.
    - Có chuyện gì xảy ra vậy? - Xtas hỏi. - Thế cha tôi và bác Rôlixơn không phải đang ở Beni Xuép mà lại ở En Garắc ư?
    - Sự tình lại diễn ra thế đấy ạ! - Khamix đáp.
    - Thế sao cha tôi lại bảo viết thư cho Người thì gửi về En Phakhen?
    - Các ông chủ viết cả trong bức thư này lí do tại sao lại đang ở En Garắc. Y tìm trong người bức thư một lúc, rồi kêu lên:
    - Ôi, Đấng tiên tri! Tôi để quên bức thư trong cái túi ở chỗ những tay quản lạc đà rồi. Tôi phải đi ngay kẻo Iđrix và Ghebơrơ đi mất thì hỏng.
    Và y chạy ngay tới chỗ những người chủ lạc đà, trong khi đó, bọn trẻ cùng với bà Đina chuẩn bị lên đường. Vì có lẽ sẽ là một chuyến đi chơi dài, nên bà Đina gói ghém vài chiếc áo dài, một ít đồ lót và mang một bộ quần áo ấm hơn cho Nen. Xtas cũng sửa soạn cho mình, em không quên mang theo khẩu súng và đạn dược, vì hi vọng rằng sẽ đụng độ với lũ chó sói và linh cẩu tại những gò cát Vađi Raian.
    Mãi một tiếng đồng hồ sau, Khamix mới quay lại, người đẫm mồ hôi, thở hổn hà hổn hển, đến nỗi một lúc lâu không nói được nên lời.
    - Tôi không tìm thấy những người chủ lạc đà nữa, - y nói, - tôi chạy đuổi theo họ, nhưng chẳng được ích gì. Song cũng chẳng sao, đến En Garắc chúng ta sẽ tìm được cả thư lẫn các ông chủ thôi mà. Liệu bà Đina có cần phải đi với chúng ta không ạ? Có thể tốt hơn là bà ấy ở lại nhà. Các ông chủ có nói gì tới bà ta đâu?
    - Nhưng khi ra đi ông chủ bảo rằng lúc nào bà Đina cũng phải đi cùng với cô chủ, vậy thì bây giờ bà ấy cũng sẽ đi cùng.
    Khamix khom người xuống, đặt tay lên trái tim và nói:
    - Chúng ta phải mau lên, thưa ông chủ, nế u không tầu hoả sẽ chạy mất.
    Đồ đạc sẵn sàng nên cả bọn tới ga vừa kịp giờ. Khoảng cách từ Mêđinét tới Garắc không vượt quá ba mươi cây số, nhưng tầu hoả trên con đường nhánh nối hai địa điểm đó chạy rất chậm và lại đỗ rất nhiều lần. Giá như có một mình, thì hẳn là Xtas đã chọn cách đi lạc dà chứ không đời nào chịu ngồi tầu, vì em tính rằng, Iđrix và Ghebơrơ, xuất phát trước tầu hoả hai tiếng đồng hồ, hẳn sẽ đến En Garắc trước chú ng. Song, đối với Nen, con đường đó quá dài, nên anh chàng đỡ đầu trẻ tuổi, người đã ghi tâm khắ c cốt những lời căn dặn của hai ông bố, không muốn làm cô bé bị mệt.
    Và nói cho cùng, thời gian trôi qua đối với hai đứa cũng nhanh đến nỗi, ngoảnh đi ngoảnh lại, chú ng đã tới Garắc rồi.
    Cái ga xép, mà những người Anh thường dùng làm nơi xuất phát đi thăm Vađi Raian, vắng tanh vắng ngắt. Bọn trẻ chỉ gặp có vài người đàn bà mang những giỏ quýt, hai người đàn ông Bêđuin,những chủ lạc đà không quen biết, cùng Iđrix và Ghebơrơ với bảy con lạc đà, trong đó một con thồ nặng hàng. Còn chẳng thấy bóng dáng ông Tarcôpxki và ông Rôlixơn đâu cả.
    Nhưng Iđrix giải thích sự vắng mặt của họ như sau:
    - Hai ông chủ đi vào sa mạc để dựng lều mà người ta đã chở từ Etxa tới, các ông chủ ra lệnh bảo chúng ta đi sau.
    - Làm sao ta có thể tìm được họ trong vù ng đồi núi này? - Xtas hỏi.
    - Các ông chủ đã phái tới đây những người dẫn đường để đưa chúng ta đi.
    Vừa nói thế hắn vừa trỏ hai người Bêđuin. Người già hơn trong hai người đó cúi chào, đưa tay lau con mắt độc nhỡn, và nói:
    - Lạc đà của chúng tôi không béo bằng lạc đà của các ông, nhưng chạy chẳng kém đâu. Chỉ một giờ đồng hồ là chúng ta tới nơi thôi.
    Xtas rất vui thích vì sẽ được ngủ đêm giữa sa mạc, nhưng Nen cảm thấy hơi thất vọng, vì trước đó cô bé cứ đinh ninh rằng sẽ được gặp cha ở Garắc.
    Lúc đó, viên trưởng ga, một người Ai Cập ngái ngủ, đội mũ phêđơ màu đỏ và mang kính đen, tiến lại gầ n, và vì chẳng có việc gì làm, ông ta bắt đầu ngắm nghía bọn trẻ người Âu.
    - Đây là con của các người Anh mà sáng hôm nay đã mang súng săn đi trước vào sa mạc. - Iđrix vừa nói vừa đặt Nen lên yên.
    Đưa khẩ u súng cho Khamix cầm, Xtas leo lên ngồi bên Nen, vì cái yên rộng rãi, có dáng một cái bành, có điều là không có mái che. Bà Đina ngồi sau lưng Khamix, những người khác cũng leo lên lạc đà và tất cả lên đường.
    Giá như viên trưởng ga dõi theo họ lâu hơn một chút, hắn là ông ta sẽ thấy ngạc nhiên, vì những người Anh mà Iđrix vừa nói tới đã đi thẳng về phía di tích cổ, tức là về phía Nam, còn họ lại hướng về phía Talea, nghĩa là về phía ngược lại. Song trước đó, viên trưởng ga đã quay về nhà rồi, vì hôm đó không còn đoàn tàu nào tới Garắc nữa.
    Đã năm giờ chiều. Thời tiết thật là tuyệt diệu. Mặt trời đã ngả sang bên kia sông Nin và xuống thấp trên sa mạc, chìm vào trong những ráng chiều màu vàng và đỏ rực đang cháy lên ở phía trời Tây. Không khí dường như chứa chan những ánh hồng, khiến mắt người phải nheo lại vì ánh sáng quá thừa thãi. Đồng ruộng nhuốm màu tim tím, còn những rặng núi xa xa, nổi bật trên nền ráng chiều, lại có màu thạch anh tím ngắt. Thế giới mất đi những đường nét thực và dường như chỉ còn là một trò đùa của những ánh sáng từ thiên giới mà thôi.
    Khi họ còn đi qua những vùng đồng ruộng xanh tươi có trồng cây thì những người Bêđuin dẫn đường cho đoàn lạc đà đi những bước khoan thai, nhưng ngay khi dưới gót chân lạc đà bắt đầu rin rít tiếng cát cứng thì mọi thứ đều thay đổi ngay lập tức.
    - Yalla! Yalla!1 - Những tiếng kêu man rợ bỗng rú lên. Đồng thời nghe thấy tiếng rít của những chiếc roi vụt xuống, và đàn lạc đà, chuyển từ nước kiệu sang nước đại, bắt đầu lao đi như một cơn lốc, vó chúng làm bắn tung cát và sỏi sa mạc.
    - Yalla! Yalla!
    Nước kiệu của lạc đà xóc hơn, còn nước đại bước chạy mà chúng ít khi dùng - lại lắc lư nhiều hơn, nên ban đầu lũ trẻ thích chí với cuộc chạy điên cuồng này. Nhưng sự tròng trành quá nhanh, ngay cả khi chơi đu, cũng dễ khiến cho người ta chóng mặt.
    Vì vậy, một lát sau, khi nhịp chạy không hề giảm bớt đi, cô bé Nen bắt đầu thấy quay cuồng trong đầu và hoa mắt.
    - Anh Xtas này, tại sao ta lại phóng ác thế anh?
    - Cô bé vừa kêu lên vừa quay lại phía người bạn của mình.
    - Anh nghĩ rằng bọn họ đã thúc lũ lạc đà chạy quá nhanh, bây giờ không thể hãm bớt chúng lại được. - Xtas đáp.
    Song nhận thấy rằng, giờ đây, nét mặt của cô bé hơi tái đi, Xtas bắt đầu gọi những người Bêđuin đang phóng như bay phía trước để bảo họ chậm bớt lại. Song tiếng gọi của em chỉ mang lại mỗi một kết quả duy nhất la khiến cho tiếng kêu: Yalla lại vang lên, và đàn súc vật càng tăng thêm tốc độ.
    Lúc đầu, cậu bé ngỡ rằng những người Bêđuin không nghe thấy tiếng gọi của em, song khi tiếng gọi lần sau cũng không được một lời đáp lại, còn gã Ghebơrơ phi sau em vẫn không ngừng quất roi vào con lạc đà mà em và Nen đang cưỡi, thì em lại nghĩ rằng, có lẽ không phải do lạc đà hăng máu, mà rõ ràng là do bọn người này đang rất vội vã, vì một nguyên do nào đó không rõ.
    Em thoáng nghĩ rằng, có thể do họ đi lạc đường, bây giờ họ muốn rút bớt thời gian đã mất nên họ mới phóng nhanh như thế, vì sợ rằng các ông chủ sẽ quở phạt họ về quá muộn. Song chỉ lát sau em hiểu rằ ng, điều đó không đúng, bởi lẽ, hẳn là ông Rôlixơn sẽ giận hơn nhiều nếu bọn họ làm Nen bị mệt. Vậy thì chuyện này là nghĩa lí gì? Tại sao họ không tuân theo lệ nh của em. Trái tim cậu bé bắt đầu nổi lên cơn giận và nỗ i lo lắng cho Nen.
    - Dừng lại! - Em lấy hết sức thét lên, quay người lại phía Ghebơrơ.
    - Ouxkout (câm mồm)! - Tên Xuđan quát lên đáp lại. Và chúng tiếp tục phóng đi.
    Ở Ai Cập, đêm buông xuống vào khoảng sáu giờ, ráng chiều tắt dần, rồi lát sau trên bầu trời hiện lên vầng trăng to tướng, đỏ bầm vì nhuốm sắc ráng chiều, trải xuống sa mạc làn ánh sáng dìu dịu.
    Trong tĩnh mịch, chỉ nghe thấy tiếng thở hồng hộc của lũ lạc đà, tiếng móng chân chúng nện gấp gáp và câm lặng xuống mặt cát, thỉnh thoảng tiếng roi vút. Nen mệt đến nỗi Xtas phải giữ em trên yên. Cứ chốc chốc cô bé lại hỏi đã sắp tới chưa, rõ ràng, em chỉ ước mong làm sao chóng được gặp cha. Nhưng chúng chỉ hoài công dõi nhìn bốn chung quanh. Một giờ trôi qua, rồi giờ nữa, không hề thấy bóng lều trại và đống lửa nào cả.
    Lúc ấy, Xtas bất chợt ?odựng đứng? tóc trên đầu; em hiểu ra rằng bọn em đã bị bắt cóc.
    ----------------------
    1 Yalla - tiếng kêu thúc giục lạc đà của người Ả Rập.


    Được Pathetique sửa chữa / chuyển vào 06:52 ngày 06/12/2004
  8. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 6​
    Quả thực, ông Rôlixơn và Tarcôpxki đang trông chờ bọn trẻ, nhưng không phải giữa những đồi cát Vađi Raian, nơi mà họ hoàn toàn không cần và cũng không hề muốn tới làm gì, mà tại một phía khác hẳn, tại thành phố En Phakhen, trên con kênh cùng tên, nơi họ đang theo dõi những công việc được tiến hành trong những ngày cuối năm. Tính theo đường thẳng, khoảng cách giữa En Phakhen và Mêđinét vào khoảng bốn mươi lăm cây số. Song do không có đường nối trực tiếp, mà cần phải đi tới En Vaxta, khiến đường xa gấp đôi, nên khi xem xét cuốn hướng dẫn về đường sắt, ông Rôlixơn đã tính toán như sau:
    - Khamix ra đi vào buổi chiều, - ông nói với ông Tarcôpxki, - ở En Vaxta, anh ta sẽ đi chuyến tầu chạy từ Cairô tới, nghĩa là sáng nay anh ta sẽ tới Mêđinét. Bọn trẻ sẽ gói ghém hành trang chừng một tiếng đồng hồ. Ra đi từ trưa, hẳn chúng sẽ phải đợi chuyến tầu đêm đi dọc sông Nin, nhưng vì tôi không cho phép Nen đi đêm, nên chắc sáng nay chúng nó mới lên đường, và sẽ tới đây một lúc sau khi mặt trời lặn.
    - Phải! - Ông Tarcôpxki nói. - Khamix phải nghỉ ngơi tí chút, thằng Xtas dẫu bao giờ cũng sốt sồn sột, nhưng nếu nói về cháu Nen, thì có thể tin ở thằng bé được anh ạ. Thêm nữa, tôi cũng đã gửi cho nó mẩu giấy dặn nó không được đi đêm.
    - Thằng bé khá lắm, tôi hoàn toàn tin tưởng ở cháu. - Ông Rôlixơn đáp.
    - Nói thật tình, tôi cũng vậy anh ạ. Tuy có nhiều nhược điểm, song Xtas có tính cách và không bao giờ nói dối, bởi cháu vốn dũng cảm, mà chỉ có bọn hèn nhát mới dối trá mà thôi. Cháu cũng không thiếu nghị lực, và nếu như thỉnh thoảng cháu biết cân nhắc chín chắn, thì tôi nghĩ rằ ng nó sẽ tự lập được trong cuộc sống.
    - Chắc chắn là như vậy rồi. Còn nếu nói chuyện suy nghĩ chín chắn, thì hồi ở tuổi nó anh có chín chắn không?
    - Phải thừa nhận là không, - ông Tarcôpxki vừa cười vừa đáp.
    - Song, có thể, tôi không quá tự tin như nó.
    - Rồi chuyện đó cũng qua thôi. Anh có thể lấy làm hạnh phúc vì có đứa con trai như thế.
    - Còn anh thì vì có được một sinh linh dịu ngọt và đáng yêu như Nen.
    - Cầu Chúa ban phước lành cho con bé! - ÔngRôlixơn xúc động đáp.
    Hai người bạn thân siết chặt tay nhau, rồi họ cùng ngồi xem xét lại kế hoạch và bản hạch toán công việc. Công việc đó kéo dài mãi tới chiều.
    Sáu giờ tối, lúc màn đêm đã buông xuống, họ có mặt trên sân ga, và vừa đi tản bộ dọc theo đường ke vừa nói tiếp chuyện bọn trẻ.
    - Thời tiết tuyệt thật, nhưng hơi lạnh. - Ông Rôlixơn cất tiếng. - Không hiểu Nen có mang theo quần áo ấm hay không?
    - Xtas hẳn sẽ nhớ điều đó, cả bà Đina cũng vậy.
    - Tôi tiếc là đã không đi Mêđinét mà lại đưa chúng tới đây.
    - Anh có nhớ là chính tôi đã khuyên thế không nào?
    - Nhớ chứ. Nhưng giá như từ đây chúng ta không tiếp tục đi xuống phía Nam thì hẳn là tôi đã đồng ý với anh. Tôi tính rằng, việc đi đường sẽ làm chúng ta mất nhiều thời gian, khiến chú ng ta ở với bọn trẻ được ít hơn. Cũng xin thú thực với anh là chính Khamix đã gợi ý cho tôi nên đưa bọn trẻ tới đây. Anh ta nói với tôi rằng anh ta rất nhớ bọn trẻ và sẽ rất sung sướng nếu được tôi phái đi đón chúng. Thật cũng dễ hiểu vì sao anh ta lại gắn bó với bọn trẻ...
    Câu chuyện bị gián đoạn bởi những tín hiệu báo rằng đoàn tàu đang tới gần. Lát sau, trong màn đêm hiện ra cặp mắt màu lửa của đầu máy, đồng thời nghe rõ tiếng còi cùng tiếng thở gấp gáp của nó.
    Dẫy toa sáng ánh đèn trườn dọc theo đường ke, rùng rùng rồi dừng lại.
    - Tôi chẳng thấy chúng ở cửa sổ nào hết. - Ông Rôlixơn nói.
    - Có thể chúng nó ngồi phía trong và chắc chúng sẽ ra ngay bây giờ.
    Hành khách bắt đầu xuống tầu, nhưng chủ yếu là người Ả Rập, vì ngoài các vườn cọ và xiêm gai ra, En Phakhen không có gì đáng để tham quan cả. Không thấy bọn trẻ xuống tầu.
    - Hoặc là Khamix không đi kịp tầu ở En Vaxta, - ông Tarcôpxki cất tiếng với vẻ hơi bự c mình, - hoặc là sau chuyến đi đêm hắn ta ngủ bù, và cả bọn ngày mai mới tới.
    - Có thể, - ông Rôlixơn đáp với vẻ lo lắng, nhưng cũng có thể là có đứa nào đó bị ốm chăng?
    - Nếu thế thì hẳn là Xtas đã đánh điện.
    - Biết đâu chúng mình lại sẽ nhận được điện ở khách sạn thì sao.
    - Ta đi đi.Nhưng tại khách sạn không hề có tin tức nào đang đợi họ cả. Ông Rôlixơn mỗi lúc một thêm lo lắng.
    - Anh biết còn có thể thế nào nữa không? - Ông Tarcôpxki nói, - Có thể là, nếu như Khamix ngủ quên, y sẽ không thừa nhận với bọn trẻ chuyện đó, mà mãi ngày hôm nay mới đến chỗ chúng bảo rằng ngày mai chúng lên đường. Trước mặt chúng ta chắc y sẽ bào chữa là y không hiểu kĩ mệnh lệnh của chúng ta. Dù sao tôi cũng phải điện cho Xtas đây.
    - Còn tôi sẽ điện cho ngài thống đốc của Phaium.
    Lát sau, cả hai bức điện được gửi đi. Tuy vẫn chưa có lí do gì để phải lo lắng, song trong khi chờ trả lời, cả hai kĩ sư đêm đó ngủ không ngon giấc và tờ mờ sáng hôm sau họ đã bật dậy.
    Mãi gần mười giờ sáng mới có điện trả lời của ông thống đốc với nội dung như sau:
    ?oĐã kiểm tra ở ga. Bọn trẻ đã đi Garắc En Xuntani ngày hôm qua?.
    Để đoán được cái tin tức này đã khiến hai ông bố kinh ngạc và giận dữ biết chừng nào. Họ nhìn nhau một lúc lâu dường như không hiểu được lời lẽ của bức điện, sau đó ông Tarcôpxki, vốn là người nó ng nẩy, đập tay xuống bàn nói:
    - Đây hẳn là sáng kiến của thằng Xtas thôi, nhưng tôi sẽ dạy cho nó phải từ bỏ những sáng kiến kiểu này đi!
    - Tôi không ngờ nó lại làm việc đó. - Ông bố của Nen nói. Rồi lát sau ông hỏi:
    - Thế còn Khamix thì sao?
    - Hoặc là hắn không gặp bọn trẻ và không biết nên làm thế nào, hoặc là hắn cũng cùng đi với chúng.
    - Tôi cũng nghĩ thế.
    Một giờ sau, họ lên đường đi Mêđinét. Tại khu lều trại, họ được biết rằng cả bọn chủ lạc đà cũng không có mặt, còn tại ga người ta khẳng định rằng Khamix cùng đi với bọn trẻ tới En Garắc.
    Mãi đến ga này, cái sự thật kinh khủng mới bắt đầu lộ ra.
    Viên trưởng ga, chính người Ai Cập ngái ngủ mang cặp kính đen và đội mũ phêđơ màu đỏ ấy, trả lời cho họ biết, rằng ông ta trông thấy một đứa bé trai chừng mười bốn tuổi, cùng một em gái chừng tám tuổi và một người đàn bà da đen không còn trẻ nữa đi vào sa mạc. Ông ta không nhớ rõ tổ ng số lạc đà là tám hay chín con, nhưng có một con thồ nặng hàng, dường như chuẩn bị đi xa vậy, còn hai người Bêđuin cũng có hai bọc hàng lớn trên yên. Ông ta còn nhớ được rằng khi ông ta đang đứng quan sát đoàn người và vật nọ, thì một người Xuđan là chủ lạc đà nói rằng, đây là con của những người Anh đã đi Vađi Raian trước đó.
    - Thế những người Anh ấy đã trở về chưa? - Ông Tarcôpxki hỏi.
    - Đã về rồi ạ. Họ trở về ngay ngày hôm qua với hai con chó sói săn được. - Người trưởng ga đáp. -Tôi cũng ngạc nhiên là tại sao họ không về cùng bọn trẻ. Nhưng tôi không hỏi họ lí do, vì chuyện đó không liên quan đến tôi.
    Nói xong, ông ta đi làm công việc của mình.
    Trong khi ông ta kể, mặt ông Rôlixơn trắng nhợt ra như tờ giấy. Đưa cặp mắt không hồn nhìn sang bạn, ông bỏ mũ phớt, đưa bàn tay lên vầng trán đẫm mồ hôi, và lảo đảo như sắp ngã.
    - Anh Rôlixơn, hãy cứng rắn lên nào! - Ông Tarcôpxki kêu lên. - Bọn trẻ của chúng mình bị bắt cóc rồi! Cần phải cứu chúng.
    - Nen! Nen ơi! - Ông bố người Anh bất hạnh cứ lặp đi lặp lại.
    - Nen và Xtas! Đó đâu phải là lỗi Xtas. Chúng nó đã lừa hai đứa tới đây một cách hèn hạ và bắt cóc chúng đi. Ai biết được vì sao cơ chứ?Để tống tiền chăng? Rõ ràng thằng Khamix là đồng loã. Iđrix và Ghebơrơ cũng thế.
    Đến đây, ông chợt nhớ ra điều mụ Phátma nói, rằng cả hai tên Xuđan này đều thuộc về bộ tộc Dangan đã sinh ra Mahơđi.
    Nhớ ra điều đó, tim ông như chết lặng giây lâu trong ***g ngực, vì ông chợt hiểu ra rằng, bọn trẻ có thể không phải bị bắt để tống tiền mà là để đánh đổi với gia đình Xmainơ.
    Nhưng bọn đồng tộc của tên tiên tri tàn ác kia sẽ làm gì bọn trẻ cơ chứ? Chúng không thể ẩn náu trong sa mạc hoặc đâu đó dọc bờ sông Nin, vì trên sa mạc thì tất cả sẽ bị chết đói chết khát, còn dọc sông Nin thì chắc chắn là sẽ bị bắt ngay. Có lẽ, chúng mang theo bọn trẻ chạy đến với Mahơđi rồi.
    Ý nghĩ ấy cũng khiến ông Tarcôpxki kinh hoàng, song người cựu binh đầy nghị lực này nhanh chóng định thần và bắt đầu lược qua tất cả các sự kiện đã diễn ra, đồng thời tìm phương sách ứng cứu.
    ?oMụ Phátma, - ông suy nghĩ, - không có lí do gì để trả thù chúng ta cũng như bọn trẻ con chúng ta, vậy thì nếu chúng nó bị bắt cóc hẳn là để nộp cho Xmainơ. Dù sao chăng nữ a, chúng cũng không bị cái chết đe doạ. Đó quả là cái may trong cái rủi. Song đang có một con đường kinh khủng chờ bọn trẻ, con đường có thể là tử đạo đối với chúng?.
    Ông lập tức chia sẻ với bạn những suy nghĩ của mình rồi nói:
    - Iđrix và Ghebơrơ, vốn là những kẻ hoang dã và ngu ngốc, tưởng rằng những đạo quân của Mahơđi đã ở gần đây, trong khi đó Kháctum, thành phố Mahơđi chưa đến được, còn cách đây những hai nghìn cây số. Chúng nó sẽ phải vượt quãng đường này bằng cách đi dọc sông Nin và không tách xa nó, nếu không, người và lạc đà sẽ chết gục vì khát. Anh hãy đi ngay tới Cairô và yêu cầu phó vương gửi điện tới tất cả các đồn binh, đồng thời truy đuổi ngay bên tả ngạn và hữu ngạn dọc theo dòng sông. Hãy hứa thưởng thật hậu cho các tù trưởng ven sông nếu như bắt được bọn đang chạy trốn. Hãy bắt giữ tất cả những ai đến gần các làng mạc để xin nước. Bằng cách ấy, chắc chắn Iđrix và Ghebơrơ sẽ lọt vào tay chính quyền, còn chúng ta sẽ đoạt lại được bọn trẻ.
    Ông Rôlixơn đã lấy lại được bình tĩnh.
    - Tôi sẽ đi ngay đây, - ông nói. - Lũ đểu cáng này quên rằng quân đội Anh quốc của Vônđơlây đi cứu viện cho tướng Goócđôn đã lên đường và sẽ chặn đường chúng đến với Mahơđi. Chúng không thoát đâu. Chú ng không thể thoát nổi. Tôi sẽ điện ngay cho bộ trưởng của chúng ta rồi sẽ lên đường. Còn anh định sẽ làm gì?
    - Tôi sẽ điện xin nghỉ phép, và không cần chờ phúc đáp, tôi sẽ lên đường ngay theo vết bọn chúng dọc sông Nin đến Nubia để đốc thúc thêm vào việc đuổi bắt.
    - Thế nghĩa là chúng ta nhất định sẽ gặp nhau, vì từ Cairô tôi cũ ng sẽ làm như thế.
    - Được lắm! Bây giờ vào việc thôi.
    - Cầu Chúa phù hộ! - Ông Rôlixơn đáp.

  9. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 7​

    Trong khi đó, đàn lạc đà lao đi như một cơn bão trên mặt cát lấp loáng ánh trăng. Đêm thăm thẳm. Mặt trăng, lúc đầu to như cái đĩa và đỏ bầm, giờ đã nhợt đi và lên cao. Những rặng núi xa xa của sa mạc được bao phủ bởi một làn hơi màu bạc mỏng như voan, màn hơi không che khuất chúng đi mà chỉ biến chúng trở nên huyền ảo như một hiện tượng quang học. Thỉnh thoảng, từ những khối đá nằm rải rác vọng về tiếng tru thê thảm của loài chó núi.
    Lại một giờ nữa trôi qua. Xtas vòng tay ôm lấy Nen, giữ chặt lấy cô bé, cố bằng cách đó giảm bớt phần nào những cú xóc mệt người của nhịp phi như điên dại. Cô bé mỗi lúc một hay hỏi tại sao chúng lại phải đi nhanh như thế, và tại sao mãi không thấy lều trại lẫn cha chúng đâu cả. Mãi sau, Xtas quyết định sẽ nói thật với Nen, sự thật mà chóng hay chầy cô bé cũng sẽ phải biết.
    - Nen, - em nói, - em hãy rút găng tay ra và từ từ thả chúng xuống đất.
    - Sao vậy, anh Xtas?
    Xtas ghì chặt cô bé vào mình và đáp một cách dịu dàng hiếm có ở em:
    - Em hãy làm như anh bảo đi.
    Nen đang phải dùng một tay giữ chặt lấy Xtas không dám buông lơi ra, nhưng cô bé khắc phục chuyện đó bằng cách dùng răng rút từng ngón găng tay một, rồi khi mà găng tay đã rời ra hoàn toàn, cô bé liền thả xuống đất.
    - Lát nữa em thả chiếc thứ hai nhé. - Xtas lại nói - Anh đã thả găng của anh rồi, nhưng găng của em dễ nhận thấy hơn vì có màu sáng.
    Thấy cô bé đang nhìn mình vẻ muốn hỏi, em bèn nói tiếp:
    - Em đừng sợ nhé, Nen... Em thấy đấy... có thể chú ng ta sẽ không gặp ba em lẫn ba anh đâu... có thể là bọn người đáng ghét này đã bắt cóc chúng mình. Nhưng em đừng sợ... Bởi vì nếu đúng như thế, thì sẽ có người đuổi theo chúng ta. Họ sẽ đuổi kịp và chắc chắn sẽ đoạt lại chúng mình. Chính vì thế anh mới bảo em thả găng tay, để cho nhữ ng người đuổi bắt tìm thấy dấu vết. Hiện giờ chúng mình chưa thể làm được điều gì hơn, nhưng sau này anh sẽ nghĩ ra cách gì đó... Chắc chắn là anh sẽ nghĩ ra được cách gì đó, chỉ cần em đừng sợ và hãy tin ở anh...
    Nhưng khi Nen biết rằng có thể sẽ không được gặp cha và hiện các em đang đi sâu vào sa mạc tới một nơi nào đó thì em run lên sợ hãi, bắt đầu khóc, đồng thời nép chặt vào người Xtas, vừa nức nở vừa hỏi tại sao người ta lại bắt cóc các em và sẽ chở chúng đi đâu. Cậu bé an ủi Nen cũng bằng những lời như cha cậu đã dùng để an ủi ông Rôlixơn. Cậ unói rằng hai ông bố sẽ đích thân đuổi theo chúng,rằng họ sẽ báo cho tất cả các đồn dọc sông Nin.Cuối cùng, cậu bé cam đoan rằng, dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, cậu sẽ không bao giờ bỏ Nen và sẽ luôn luôn bảo vệ Nen.
    Song trong lòng cô bé, nỗi đau đớn và niềm nhớ thương cha còn lớn hơn cả sự sợ hãi, nên suốt một hồi lâu em không sao nín khóc được, và cứ thế cả hai đứa trẻ thảm thương ấy bị chở đi vun vút trên mặt cát sa mạc nhợt nhạt, giữa đêm sáng trăng.
    Tim Xtas thắt lại không những chỉ vì nỗi đau đớn và sợ hãi, mà còn vì hổ thẹn nữa. Quả tình em không có lỗi gì trong những chuyện đã xảy ra,nhưng giờ đây em chợt nhớ lại tính ba hoa khoác lác của mình mà cha em thường chê trách. Trước đây em tin chắc rằng, không có tình thế nào mà em không thể khắc phục được, em tự cho mình là một tráng sĩ vô địch nào đó, sẵn sàng thách thức với toàn thế giới. Còn giờ đây, em hiểu ra rằng, em chỉ là một đứa trẻ bé nhỏ, mà bất kì kẻ nào khác muốn làm gì, em cũng phải chịu.
    Và đấy - em đang bị đưa đi trên lưng lạc đà, mặc dù không muốn, chỉ bởi vì rằng con lạc đà đã bị một tên Xuđan bán phần dã man thúc đằng sau. Em cảm thấy nhục nhã vô cùng, nhưng không thấy có cách nào chống lại. Emphải tự thú nhận rằng em đang sợ - sợ những con người ấy, sợ sa mạc, sợ những gì mà em và Nen có thể sẽ phải gặp. Song, em thành tâm hứa không chỉ với cô bé mà với bản thân mình, rằng sẽ chăm sóc và bảo vệ cô bé, dù phải trả giá bằng chính mạng sống của mình đi nữa.
    Mệt mỏi vì khóc lóc và vì tốc độ phi như điên kéo dài tới sáu giờ liền. Nen bắt đầu thiu thiu ngủ, và lát sau đã ngủ say. Hiểu rằng bất cứ ai bị ngã từ lưng lạc đà đang phi nước đại xuống đất cũng có thể bị chết ngay tại chỗ, Xtas bèn dùng một sợi dây mà em tìm được trên yên buộc cô bé vào mình. Một lát sau, em cả m thấy hình như lũ lạc đà phi chậm hơn, tuy chúng vẫn đang đi qua vùng cát bằng phẳng và mềm mại. Xa xa ẩn hiện những ngọn núi, còn trên vùng đồng bằng, bắt đầu hiện ra nhữ ng ảo ảnh thường có về đêm trên sa mạc. Trăng trên trời mỗi lúc một mờ, trước mắt đoàn người chợt hiện ra những đám mây kì lạ màu hồng trườn rất thấp, những đám mây hoàn toàn trong suốt, được thêu dệt nên bởi ánh sáng. Không hiểu vì sao chúng được hình thành, chúng di động về phía trước dường như bị đẩy bởi một hơi gió nhẹ nào đó vậy. Xtas nhìn thấy rõ áo dài của những người Bêđuin và lũ lạc đà bỗng nhiên hồng rực lên khi đi vào khoảng không gian được chiếu sáng đó, rồi sau đó, cả đoàn người bị bao trùm trong một thứ ánh sáng màu hồng dịu dàng.Đôi khi, nhữ ng đám mây lại nhuốm màu xanh lơ, và cứ thế hiện tượng ấy kéo dài cho tới vùng núi.
    Đến vùng núi, bước chạy của lạc đà càng chậm hơn. Bây giờ có thể thấy ở chung quanh, những khối đá nhô lên từ các gò cát, hoặc rải rác giữa các sườn đồi một cách hỗn độn. Nền cát chuyển thành nền đá. Họ đi qua mấy cái khe trải đầy đá trông giống như những lòng sông đã cạn khô. Chốc chốc, con đường lại bị ngắt quãng bởi những khe núi, khiến họ phải vòng tránh. Bọn súc vật, bắt đầu nhún nhảy như đang múa, thận trọng lựa chỗ đặt chân giữa các bụi cây khô cứng gồm toàn loài hồng sa mạc(1) loài cây phủ đầy trên những sườn đồi và các khối đá. Thỉnh thoảng một con lạc đà nào đó lại bị vấp, rõ ràng là đã đến lúc chúng cần phải nghỉ.
    Quả thật, bọn Bêđuin dừng lại trong một khu núi, và nhảy từ yên xuống, chúng bắt đầu tháo các gùi hàng. Iđrix và Ghebơrơ cũng làm theo chúng. Chúng chăm sóc lạc đà, nới các dây cương, cởi bỏ những túi lương thực và tìm chỗ đá phẳng để nhóm lửa.
    Không có củi khô cũng như phân khô mà người Ả Rập thường dùng, nhưng Khamix, con trai của Khađigi, liền bẻ cá c cây hồng sa mạc và xếp thành một đống to rồi châm lửa. Trong lúc bọn Xuđan đang bận bịu với lũ lạc đà, Xtas, Nen và nhũ mẫu của cô bé, bà Đina, được ở một lúc cạnh nhau. Bà Đina còn hoảng sợ hơn cả bọn trẻ, không thể thốt ra được một lời nào. Bà chỉ biết bọc Nen vào một tấm chăn ấm, và ngồi xuống cạnh cô bé trên mặt đất, bà bắt đầu vừa rên rỉ vừa hôn hai tay cô bé. Xtas lập tức hỏi Khamix tất cả chuyện này có nghĩa gì, nhưng hắn chỉ cười phô hàm răng trắng nhởn và bỏ đi, tiếp tục lấy cây hồng sa mạ c. Còn gã Iđrix khi bị hỏi, chỉ trả lời một tiếng cụt lên: ?oRồi mày sẽ thấy?, - rồi giơ một ngón tay ra doạ em. Khi đống củi bằng cây hồng sa mạc cháy sáng lên - thực ra nó ngún âm ỉ nhiều hơn là cháy thành ngọn - tất cả bèn vây chung quanh thành một vòng tròn, trừ gã Ghebơrơ đang còn ở chỗ lạc đà, và bắt đầu ăn bánh ngô với thịt cừu và thịt dê sấy khô. Bị đói suốt dọc đường, bọn trẻ cũng cùng ăn, nhưng Nen vừa ăn mắt vừa dính lại vì buồn ngủ. Bỗng trong ánh sáng bập bùng của ngọn lửa hiện ra gã Ghebơrơ da đen sậm, mắt trắng dã long lanh, giơ lên cao hai chiếc găng tay bé nhỏ màu sáng và hỏi:
    - Của ai đấy?
    - Của tôi, - Nen đáp bằng giọng mệt mỏi và ngái ngủ.
    - Của mày hả, đồ rắn độc ranh con? - Tên Xuđanrít qua kẽ răng. - Mày đánh dấu đường để thằng ******* biết phải đuổi chúng tao theo hướng nào phải không?
    Vừa nói hắn vừa dùng chiếc roi kinh khủng kiểu Ả Rập - cái roi thậm chí có thể cứa đứt cả da lạc đà đánh Nen, khiến cô bé, mặc dù được bọc trong một tấm chăn dày, phải thét lên vì đau đớn và hãi hùng. Nhưng Ghebơrơ không kịp đánh roi thứ hai, vì ngay lúc ấy, nhanh như một con mèo rừng, Xtas đã nhảy tới, húc đầu vào ngực hắn, rồi chộp lấy cổ hắn.
    Chuyện xảy ra bất ngờ đến nỗi gã Xuđan ngã ngửa ra, Xtas nằm đè lên hắn, và cả hai bắt đầu lăn lộn trên mặt đất. So với tuổi của mình, cậu bé quả là mạnh mẽ khác thường, nhưng Ghebơrơ nhanh chóng át được cậu bé. Trước tiên hắn gỡ hai bàn tay, Xtas đang thít trên cổ hắn, rồi dằn mặt cậu bé xuống đất, hắn vừa ấn cổ cậu xuống vừa quật roi vào lưng cậu.
    Tiếng kêu thét cùng nước mắt của Nen - cô bé túm lấy tay tên hung bạo van xin hãy ?otha? cho Xtas - sẽ không có kết quả gì, nếu như bất ngờ gã Iđrix không cứu cậu bé. Hắn nhiều tuổi hơn Ghebơrơ, khoẻ hơn nhiều, và từ đầu cuộc trốn chạy từ Garắc Xuntani mọi kẻ khác đều tuân theo mệnh lệnh của hắn. Lúc này, hắn giằng roi khỏi tay thằng em vứt ra xa, kêu lên:
    - Xéo đi, đồ ngốc!
    - Tôi phải dần cho thằng bọ cạp này một trận mới được! - Ghebơrơ nghiến răng đáp.
    Nghe thấy thế Iđrix bèn túm lấy ngực áo khoác của hắn, và vừa nhìn thẳng vào mắt hắn vừa nói bằng giọ ng dữ tợn mặc dù rất khẽ:
    - Bà Phátma tôn quý(2) cấm xử tệ với bọn trẻ con này, vì chúng đã đứng ra bênh vực cho bà.
    - Tôi phải dần nó! - Ghebơrơ vẫn lặp lại.
    - Còn tao thì bảo mày rằng mày sẽ không được phép vung roi đánh mộ t đứa nào nữa. Nếu mày đánh một, thì tao sẽ nện trả mày mười roi.
    Rồi lắc người hắn như lắc một nhánh cọ, gã nói tiếp:
    - Bọn trẻ này thuộc về ngài Xmainơ, và nếu như có đứa nào không sống về được tới nơi, vì chính đức Mahơđi (cầu Thượng đế kéo dài tuổi thọ của Người) sẽ ra lệnh treo cổ mày lên. Hiểu chưa hả đồ ngốc?
    Tên của Mahơđi gây ấn tượng rất mãnh liệt đến mọi tín đồ của y, nên Ghebơrơ lập tức cúi đầu xuống và lặp đi lặp lại như kinh hoàng:
    - Allach akbar! Allach akbar!(3) Bị đánh đau, Xtas thở hổn hển, nhỏm dậy, cậu bé cảm thấy rằng, nếu lúc này cha em thấy và nghe được tiếng em, hẳn ông sẽ tự hào, bởi vì em đã không hề suy tính khi nhảy tới cứu Nen, và giờ đây, dù những lằn roi như lửa đang thiêu đốt, nhưng em hoàn toàn không nghĩ tới đau đớn của bản thân, mà bắt đầu an ủi cô bé và hỏi xem cú đánh có làm cô bé đau lắm không.
    Rồi em nói:
    - Anh tuy bị đánh, nhưng hắn sẽ không còn dám đánh em nữa. Ôi, giá như anh có vũ khí!
    Người phụ nữ nhỏ xíu ấy bèn đưa hai tay ôm ghì lấy cổ cậu bé, và vừa tuôn nước mắt ướt đầm gò má cậu, vừa nói rằng mình không bị đau lắm đâu, rằng cô khóc không phải vì đau mà chỉ vì thương cậu. Nghe thấy thế, Xtas bèn kề môi vào tai cô bé thì thầm:
    - Nen, không phải vì hắn đánh anh, mà vì hắn đã quật em, anh thề sẽ không tha hắn.
    Cuộc xô xát kết thúc tại đó. Một lát sau, Ghebơrơ và Iđrix đã lại dàn hoà với nhau, cùng trải áo choàng lên mặt đất và ngả lưng xuống, còn Khamix cũng nhanh chóng làm theo bọn chúng. Bọn người Bêđuin rắc ngô cho lạc đà, sau đó cưỡi hai con lạc đà không thồ hàng đi về phía sông Nin.Nen tựa đầu và o gối của bà Đina ngủ thiếp đi.Đống lửa lụ i dần và lát sau chỉ còn nghe thấy tiếng lắc cắc của ngô bị răng lạc đà nhai vỡ. Trên trời có những đám mây nhỏ kéo qua, thỉnh thoảng lại che khuất mặt trăng, song đêm vẫn sáng. Tiếng tru thảm thiết của bầy chó núi vọng lên từ sau những tảng đá.
    Hai giờ sau bọn Bêđuin trở về cùng lạc đà thồ nặng những túi da đựng nước. Tiếp thêm củi vào đống lửa, bọn chúng ngồi xuống cát và ăn uống. Sự quay về của chúng đánh thức Xtas đang thiu ngủ, cùng với hai tên Xuđan và Khamix, con trai của Khađigi.
    Bên đống lửa diễn ra cuộc nói chuyện sau đây:
    - Ta đi được chưa? - Iđrix hỏi.
    - Chưa, vì chúng tôi phải nghỉ đã - chúng tôi và lạc đà của chúng tôi.
    - Không có ai trông thấy chúng mày chứ?
    - Không. Chúng tôi tới sông ở quãng giữa hai làng. Chỉ có tiếng chó sủa xa xa.
    - Từ nay cần phải đi lấy nước vào lúc nửa đêm và lấy ở những chỗ không có người. Chỉ cần vượt qua cái thác đầu tiên, từ đó trở đi, làng xóm sẽ thưa thớt hơn và ngả theo Đấng tiên tri nhiều hơn. Chắc chắn là chúng sẽ đuổi theo chúng ta.
    Nghe thế, Khamix nằm úp bụng xuống đất, và lấy hai bàn tay kê dưới mặt nói:
    - Các kĩ sư trước tiên sẽ phải chờ lũ trẻ tại En Phakhen suốt đêm cho đến chuyến tầu tiếp đó, rồi sẽ đi Phaium, từ đó tới Garắc.
    Tại đó họ mới hiểu được chuyện gì đã xảy ra. Khi ấy họ sẽ phải quay về Mêđinét để gửi cái lời chạy theo sợi dây đồng đến các thành phố trên sông Nin cũng như các đoàn người cưỡi lạc đà sẽ đuổi theo chúng ta. Tất cả những điều đó sẽ mất ít nhất là ba ngày. Trước đó, không cần phải làm mệt đàn lạc đà của ta, còn chúng ta có thể bình tĩnh ?ouống khói? bằng ống điếu.
    Vừa nói thế, hắn vừa rút một nhánh cây hồng sa mạc ra khỏi đống lửa và dùng nó châm vào điếu, còn Iđrix, theo phong tục Ả Rập, tắc lưỡi vì hài lòng.
    - Mày nói hay lắm, hỡi con trai của Khađigi! -Hắn nói.- Song ta phải tranh thủ thời gian để trong ba ngày đó đi được xa nhất về phía Nam. Tao chỉ có thể an lòng hơn khi nào chúng ta vượt qua sa mạc quãng giữa sông Nin và Khacgiê (một ốc đảo lớn ở phía Tây sông Nin). Xin Thượng đế hãy cho lạc đà chịu đựng được.
    - Chúng sẽ chịu được. - Một trong hai tên Bêđuinlên tiếng.
    - Người ta cũng còn nói rằng, - Khamix xen vào, - quân đội của đức Mahơđi (cầu Thượng đế kéo dài tuổi thọ của Người) đã tới được Axuan.

  10. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0

    Đến đây, Xtas - vốn không bỏ sót một lời nào trong cuộc trò chuyện này và nhớ cả những điều mà Iđrix vừa nói trước đó với Ghebơrơ - liền nhổm dậy nói:
    - Quân của Mahơđi còn ở mãi dưới Kháctum.
    - La! La (không phải, không phải). - Khamix phản đối.
    - Các ông đừng để ý những điều hắn nói, - Xtasđáp, - vì hắn không những chỉ có nước da đen thủi mà cả bộ óc cũng đen kịt nữa. Dù cho cứ ba ngày một các ông lại thay lạc đà mới và đi nhanh như hôm nay đi nữa, các ông cũng phải mất một tháng mới tới được Kháctum. Thêm nữa, có thể các ông không biết rằng quân đội sẽ chặn đường các ông đi, không phải quân Ai Cập đâu mà là quân đội Anh kia...
    Những lời này đã gây ấn tượng nào đó. Nhận thấy thế, Xtas bèn nói tiếp:
    - Trước khi các ông tới được địa điểm nằm giữa sông Nin và cái ốc đảo lớn thì tất cả mọi con đường trên sa mạc đã bị những đơn vị binh lính canh phòng. Ha! Lời nói chạy theo đường dây đồng còn đi nhanh hơn lạc đà! Làm sao các ông có thể thoát được?
    - Sa mạc rộng lớn vô cùng! - Một trong hai tên Bêđuin đáp.
    - Nhưng các ông sẽ phải bám chặt sông Nin.
    - Chúng tao có thể sẽ vượt sang bờ bên kia, và khi người ta đang săn tìm chúng tao bên này, thì chúng tao lại ở bên kia cơ.
    - Lời nói chạy theo dây đồng sẽ đến các thành phố và làng mạc ở cả hai bên bờ sông.
    - Đức Mahơđi sẽ gửi đến cho chúng ta một vị thiên sứ, thiên sứ sẽ bịt tay vào mắt bọn Anh và Thổ (tức Ai Cập) và dùng đôi cánh che cho chúng tao.
    - Ông Iđrix này, - Xtas nói, - tôi không thèm nói với Khamix, vì đầu hắn trống rỗng như quả bầu, cũng không muốn nói với Ghebơrơ vì hắn chỉ là một con lang bần tiện, mà tôi nói với ông.
    Tôi biết rằng các người muốn mang chúng tôi đến Mahơđi và nộp cho Xmainơ. Song nếu như các ông làm chuyện đó vì tiền, thì ông hãy nhớ rằng, cha của cô bé bé bỏng này còn giàu hơn tất cả những người Xuđan gộp lại.
    - Thế thì sao? - Iđrix ngắt lời.
    - Thế thì sao? Các ông hãy tự mình quay lại đi,và ngài kĩ sư vĩ đại ấy, cũng như cha tôi, sẽ không tiếc tiền đối với các ông đâu.
    - Hoặc sẽ nộp chúng tao cho chính phủ, chính phủ sẽ ra lệnh treo cổ chúng tao lên chứ gì?
    - Không đâu, ông Iđrix. Chắc chắn các ông sẽ bị treo cổ, nhưng chỉ trong trường hợp nếu như các ông bị bắt khi đang trốn chạy. Còn nếu như các ông tự mình quay trở lại thì các ông sẽ không bị một hình phạt nào hết, thêm nữa các ông còn trở thành những người giàu có đến cuối đời. Ông biết đấy, những người da trắng từ châu Âu tới bao giờ cũng giữ lời hứa. Tôi thay mặt hai vị kĩ sư hứa với ông rằng mọi việc sẽ diễn ra đúng như lờ i tôi nói.
    Quả thực Xtas hoàn toàn tin rằng cha em cùng ông Rôlixơn sẽ trăm lần muốn thực hiện những lời em hứa hơn là để cho cả hai, nhất là Nen, sẽ phải chịu đựng một cuộc hành trình khủng khiếp và một cuộc sống còn khủng khiếp hơn nữa giữa các bộ tộc hoang dã và điên loạn của Mahơđi.
    Vì vậy, trái tim em đập gấp gáp trong khi chờ đợi câu trả lời của gã Iđrix, gã này cứ nín lặng, mãi một lúc lâu mới cất tiếng nói:
    - Mày nói rằng cha của cô bé bé nhỏ này và ******* sẽ trả cho chúng tao nhiều tiền?
    - Chính thế.
    - Tuyệt vời! - Cả hai tên Bêđuin cùng Khamix và Ghebơrơ cùng bật thốt lên khi nghe thấy thế.
    - Liệu tất cả tiền của bọn họ có thể mở ra trước mắt chúng tao cánh cửa dẫn tới thiên đường, thiên đường mà chỉ một lời ban phước của Đức Mahơđi thánh thiện cũng đủ mở ra hay không?
    Lập tức, Xtas thấy mất hẳn hi vọng, vì em hiểu rằng, mặc dù người phương Đông rất tham lam và có thể mua chuộc được, song khi một tín đồ Hồi giáo nào đã nhìn một việc gì đó từ khía cạnh lòng tin, thì thế giới này không có một kho báu nào có thể lay chuyển được anh ta.
    Còn Iđrix, được tiếng kêu cổ vũ, y nói tiếp, rõ ràng là không phải để trả lời Xtas mà là để thu được nhiều hơn nữa sự thán phục và ca ngợi của đám bạn:
    - Chúng ta có cái hạnh phúc được thuộc về bộ tộc đã sản sinh ra đấng tiên tri thiêng liêng, còn bà Phátma tôn quý cùng con cái của bà lại là họ hàng với Người. Đức Mahơđi vĩ đại yêu mến họ.
    Nếu chúng ta nộp mày cùng cô bé kia cho Người, thì Người sẽ đánh đổi chúng mày lấy bà Phátma cùng các con trai của bà, còn chúng ta sẽ được Người ban phước. Mày nên biết là cả nước mà mỗi sáng Người dùng để rửa ráy theo quy định của kinh Coran, còn chữa khỏi bệnh tật và tẩy sạch mọi tội lỗi, nói gì tới sự ban phước của Người.
    - Tuyệt vời! - Bọn Xuđan và Bêđuin lại kêu lên. Xtas bèn tóm lấy chút hi vọng cuối cùng và nói:
    - Thế thì các người hãy bắt tôi đem đi, còn để cho bọn Bêđuin cùng với cô bé quay trở lại. Chỉ một mình tôi cũng đủ đánh đổi bà Phátma cùng con cái của bà ta.
    - Cả hai chúng mày thì càng chắc chắn là người ta sẽ đánh đổi hơn.
    Nghe thấy thế, cậu bé bèn quay lại phía Khamix:
    - Cha ngươi sẽ phải chịu trách nhiệm về hành động của ngươi.
    - Cha tao đã ở trên sa mạc và đang trên đường đến với Đấng tiên tri rồi. - Khamix đáp.
    - Thế thì người ta sẽ tóm được và sẽ treo cổ ông ta lên.
    Đến đây, Iđrix thấy cần phải cổ vũ thêm cho các bạn bè của hắn. Hắn nói:
    - Lũ diều hâu sẽ rỉa thịt xương cốt chúng ta, có thể hãy còn chưa nở. Chúng ta biết rõ những gì đang đe doạ chúng ta, nhưng chúng ta không phải là trẻ con, còn sa mạc thì chúng ta đã từng quen thuộc từ lâu rồi. Những người này (hắn chỉ bọn Bêđuin) đã nhiều lần tới Bécberơ và biết rõ những con đường chỉ có lũ nai chạy mà thôi. Ở đó, không một kẻ nào có thể tìm thấy chúng ta, không kẻ nào có thể truy đuổi chúng ta. Quả thự c chúng ta phải ra sông Bahơrơ En Duxép, rồi sau này, ra sông Nin, để lấy nước, nhưng chúng ta sẽ làm việc đó về ban đêm. Các anh tưởng rằng dọc sông không có những bạn bè bí mật của đức Mahơđi hay sao?
    Còn ta, ta nói với các anh rằng, càng đi về phía Nam thì họ lại càng nhiều hơn lên. Cả các bộ tộc cũng như các tù trưởng của họ chỉ chờ thời cơ thuận tiện để cầm gươm bảo vệ tín ngưỡng chân chính của mình. Chính những người này sẽ cung cấp nước uống, thứ c ăn, lạc đà, và sẽ đánh lạc hướng bọn đuổi theo. Chúng ta biết rõ rằng con đường đến chỗ đứ c Mahơđi rất xa xôi, nhưng chúng ta cũng biết rõ, cứ một ngày qua đi lại khiến chúng ta được đến gần hơn tấm da cừu, mà trên đó Đấng tiên tri thiêng liêng thường quỳ gối để cầu nguyện.
    - Tuyệt lắm! - Đồng bọn lại kêu lên lần thứ ba.
    Rõ ràng là uy tín của Iđrix trong bọn chúng tăng lên rõ rệt.
    Xtas hiểu rằng đã mất hết hi vọng, song vì muốn tránh cho Nen ít ra khỏi gặp phải sự tàn tệ của bọn Xuđan, nên em nói:
    - Sau có sáu giờ đi đường mà cô bé đã sống dở chết dở. Sao các người lại nghĩ rằng cô bé có thể chịu đựng được con đường ấy cơ chứ? Nếu như Nen chết, thì tôi cũng chết theo, khi ấy các người sẽ mang gì để ra mắt Mahơđi cơ chứ?
    Giờ thì Iđrix không tìm ra câu trả lời, thấy thế. Xtas bèn nói tiếp:
    - ... Và Mahơđi cùng Xmainơ sẽ đón các người ra sao khi biết rằng, vì sự ngu ngốc của các người, mà mụ Phátma cùng con cái của mụ ta phải trả giá bằng tính mạng của họ?
    Song tên Xuđan đã kịp định thần và trả lời:
    - Tao đã thấy mày bóp cổ Ghebơrơ ra sao. Thề có đức Ala, mày quả thật là sư tử con, mày sẽ không chết được đâu, còn con bé...
    Nói tới đây, hắn nhìn mái đầu của Nen đang say ngủ, tựa vào đầu gối của u già Đina, rồi chợt kết thúc bằng một giọng ôn tồn không ngờ:
    - Chúng ta sẽ làm riêng cho cô bé một cái tổ như tổ chim trên bướu lạc đà, để cho cô bé hoàn toàn không cảm thấy mệt và có thể ngủ dọ c đường cũng yên giấc như bây giờ.
    Nói thế xong, hắn bước tới phía con lạc đà, rồi cùng với bọn Bêđuin bắt đầu bố trí chỗ ngồi cho cô bé trên bướu con lạc đà tốt nhất trong số lạc đà một bướu. Chúng nói khá nhiều, tranh cãi nhau tí chút, nhưng cuối cùng, với dây thừng, chăn và các thanh tre, chúng cũng làm được một chỗ ngồi có dạng cái sọt sâu lòng cố định, trong đó Nen có thể ngồi hoặc nằm mà không thể ngã được.
    Chúng còn căng một cái mái bằng vải trên chỗ ngồi đó. Chỗ ngồi ấy rộng đến nỗi bà Đina cũng có thể cùng ngồi trong đó.
    - Mày thấy chưa? - Iđrix nói với Xtas. - Trong cái ổ thế này thì đến trứng cun cút cũng không thể vỡ nổi. Mụ già sẽ đi cùng cô bé để phục vụ cô cả ngày lẫn đêm... Mày sẽ ngồi cùng với tao, mà mày cũng có thể ngồi cù ng với cô bé để chăm sóc nó.
    Xtas vui mừ ng, dù chỉ đạt được từng ấy mà thôi. Suy nghĩ về tình thế hiện tại, em tin rằng, rất có thể người ta sẽ tóm được bọn chúng trước khi chúng kịp vượt qua cái thác đầu tiên, và ý nghĩ này động viên em thêm phần nào. Em thấy rất buồn ngủ, nên tự nhủ rằng sẽ buộc mình bằng một sợi thừ ng vào yên, và vì em sẽ không phải đỡ cho Nen, nên em có thể ngủ vài tiếng đồng hồ.
    Đêm nhạt dần, lũ chó núi đã ngừng tru trong các hẻm núi.
    Nhẽ ra cả đoàn đã lên đường, nhưng bọn Xuđan thấy trời rạng sáng liền đi tới một tảng đá ở cách đó vài bước chân, và ở đó, theo những quy định của kinh Coran, chúng bắt đầu cuộc rửa ráy ban sáng, dùng cát thay cho nước mà chúng muốn tiết kiệm. Rồi sau đó vang lên tiếng đọc kinh Xubơhơgơ, tức là kinh cầu đầu tiên vào buổi sáng.
    Trong sự tĩnh mịch sâu thẳm có thể nghe rõ từng lời nói của bọn chúng: ?oSáng danh đấng Thượng đế đại từ đại bi. Hãy ngợi ca Người, chúa tể của thế giới, Người đại từ đại bi trong ngày phán xét. Chúng con thành kính Người và tuân theo Người, chúng con xin Người cứu giúp chúng con. Xin hãy dẫn dắt chúng con theo con đường của những người, mà đối với họ Người không tiếc của cải và phước lộc, chớ theo đường của nhữ ng kẻ tội lỗi, những kẻ sẽ phải chịu cơn thịnh nộ của Người và sẽ bị lạc loài. Amen!? Còn Xtas, nghe thấy những lời ấy, bèn ngước mắt lên trời, và giữa vùng đất xa xôi này, giữa mặt cát vàng hoe và câm lặng ấy, em bắt đầu cầu nguyện: ?oHỡi Đức Mẹ thiêng liêng của Chúa, chúng con sẽ trốn thoát dưới sự che chở của Mẹ...? ?
    --------------------!
    1 Còn gọi là cây phục sinh. Đây là loại hồng sa mạc, thích hợp với điều kiện sống khô cằn, có thân cây nhỏ, dùng làm thuốc. Chúng gồm hai giống: Anastatica hierochuntica - mọc ở vùng ĐôngĐịa Trung hải và Asteriscus pygmaeus - mọc ở vùng Angiêri và Beluxtan.
    2 Tất cả họ hàng thân thuộc của Mahơđi đều được gọi kèm theo hai tiếng ?otôn quý? (chú thích của tác giả).
    3 Tiếng kêu này vốn có nghĩa là: ?oThượng đế thật vĩ đại?, nhưng người Ả Rập thường thốt ra khi sợ hãi, tỏ ý cầu xin cứu độ (chú thích của tác giả) ?

Chia sẻ trang này