1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trên sa mạc và trong rừng thẳm - henrik Sienkievich

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi pathetique, 29/11/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 16​
    Họ dừng lại ở rìa thành phố, trong căn nhà trước kia vốn thuộc về một thương nhân Italia giàu có. Nhưng sau khi ông ta bị giết trong trận công thành thì Tathin thu được ngôi nhà trong khi chia những của cải cướp được. Các bà vợ của viên êmia tiếp đón khá nhân hậu cô bé Nen sống dở chết dở vì quá mệt nhọc, và mặc dù toàn thành Kháctum đang cảm thấy thiếu lương thực, họ vẫn tìm được cho cô jan(1) nhỏ bé một ít chà là khô và một ít cơm chan mật, sau đó đưa cô bé lên tầng trên và đặt cô vào giường. Ngủ qua đêm giữa đám lạc đà và ngựa trên sân, Xtas phải tạm hài lòng với một chiếc bánh khô độc nhất, ngược lại, nước uống thì em không thiếu vì cái đài nước phun trong vườn, không hiểu vì một sự may mắn nào đó, đã không bị phá hoại. Mặc dù rất mệt mỏi, rất lâu em không thể chớp mắt được, trước hết là đang nằm, sau nữa, vì sự bất an vô cùng do việc em bị tách khỏi Nen và không thể trực tiếp chăm lo cô bé. Rõ ràng cả Xaba cũng chia sẻ nỗi lo lắng này, con chó cứ đánh hơi chung quanh, thỉnh thoảng lại tru lên, khiến cho bọn lính tức giận. Xtas cố gắng yên ủi nó vì lo bọn lính sẽ trị con chó. May thay, con chó ngao khổng lồ này đã khiến cho cả viên êmia lẫn bọn lính kinh ngạc đến nỗi không một tên nào dám vung tay lên hành hạ nó.
    Cả gã Iđrix cũng không ngủ. Từ hôm qua hắn đã cảm thấy người không được khoẻ, thêm nữa, sau cuộc nói chuyện với Nurơ En Tathin, hắn bị tan vỡ khá nhiều ảo tưởng, và hắn nhìn về tương lai cứ như qua một tấm màn chắn dày. Hắn mừng vì sáng ngày mai bọn chúng sẽ vượt sang Omđuaman, thành phố chỉ cách một dòng sông Nin trắng mà thôi, hắn hi vọng rằng, tại đó hắn sẽ tìm thấy Xmainơ, nhưng rồi sao nữa? Trong khi đi đường, mọi chuyện đối với hắn rõ ràng và tuyệt diệu hơn rất nhiều. Hắn đã tin tưởng một cách chân thành vào Đấng tiên tri, trái tim hắn càng lôi kéo hắn đến với Người hơn còn vì lẽ cả hai cùng xuất thân từ cùng một bộ tộc. Songcũng như mọi người Ả Rập khác, hắn vốn tham lam và kiêu ngạo. Hắn mơ tưởng rằng người ta sẽ rắc vàng lên người hắn và sẽ phong hắn ít nhất cũng là tước êmia, hắn mơ tưởng đến những cuộc chinh chiến chống lại bọn ?oThổ?, đến những thành phố sẽ chiếm và những của cải cướp được. Giờ đây, sau những điều được nghe Tathin nói, hắn bắt đầu lo lắng không hiểu liệu tất cả nhữ ng điều hắn làm có phải cũng nhỏ nhoi như một giọt nước mưa chìm trong biển lớn so với những sự kiện vĩ đại hơn nhiều hay chăng. Cũng có thể - hắn chua xót nghĩ - chẳng một ai quan tâm đến những gì ta đã thực hiện, thậm chí cả Xmainơ cũng sẽ không chút vui mừng về việc ta mang nhữ ng đứa trẻ này tới cho ông ta. Hắn bị dằn vặt bởi ý nghĩ đó. Ngày mai sẽ xua tan hoặc sẽ khẳng định nỗi lo sợ của hắn, vì thế hắn vô cùng nóng ruột chờ đợi ngày mai.
    Sáu giờ sáng, mặt trời lên, đội ngũ quân lính bắt đầu náo nhiệt. Chẳng bao lâu sau Tathin xuất hiện và ra lệnh cho chúng chuẩn bị lên đườ ng. Hắn báo trước rằng cả bọn sẽ đi bộ tới bến theo ngựa của hắn. Xtas vui mừng khôn xiết khi bà Đina đưa Nen từ tầng trên xuống, rồi cả đoàn lên đường đi theo bờ thành suốt dọc thành phố tới chỗ bến đò ngang. Tathin cưỡi ngựa đi phía trước, Xtas cầm tay Nen,theo sau là Iđrix, Ghebơrơ và Khamix cùng bà Đina, và Xaba, với ba mươi tên lính của viên êmia. Những người khác ở lại Kháctum.
    Xtas nhìn quanh, không thể hiểu vì sao cái thành phố có tường thành bao bọc vững chắc chung quanh như thế này, hơn nữa lại nằm ở chỗ hội lưu của sông Nin Trắng và Xanh - nghĩa là có nước bao bọc cả ba phía, trừ phía Nam là có thể vào được mà lại bị thất thủ. Mãi về sau này, em mới được các nô lệ là tín đồ Thiên Chúa cho biết rằng, khi ấy, nước sông rất cạn, những bãi cát rộng nhô ra, khiến cho người ta có thể dễ dàng tiếp cận các tường thành. Quân binh trong thành mất hi vọng về đạo viện binh giải vây và bị cái đói làm cho mòn mỏi, đã không thể đánh lui nổi cuộc tấn công của nhữ ng kẻ hoang dã đang hăng máu, và thế là thành phố bị thất thủ, rồi sau đó diễn ra cuộc tàn sát những cư dân trong thành. Mặc dù cuộc công thành đã xảy ra được chừng một tháng, những dấu vết của cuộc chiến đấu vẫn còn rõ nét dọc theo tường thành, trong thành ngổn ngang những đống đổ nát của các ngôi nhà bị phá sập, vốn là đối tượng của cơn cuồng nộ đầu tiên của những kẻ chiếm được thành, còn trong đường hào bên ngoài thành đầy xác người chết, những xác chết mà không có ai nghĩ tới chuyện chôn cất. Trước khi ra tới bến đò, Xtas tính được chừng hơn bốn trăm xác người. Tuy nhiên nhữ ng xác chết đó không làm cho bầu không khí ở đây bị ô uế, bởi lẽ mặt trời vùng Xuđan đã sấy chúng thành xác khô. Tấ t cả các xác chết đều có mà u giấy da cừu xám xịt và giống nhau đến nỗi không thể nào phân biệt nổi người Âu, người Ai Cập với ngườ i da đen. Giữa đám xác người có rất nhiều thằn lằn nhỏ bé, nhanh nhẹn ẩn dưới những mảnh thây khi có người đi tới gần, thông thường là lẩn vào miệng hay vào giữa những cái xương sườn đã khô cong của các xác chết.
    Xtas dắt Nen, gắng che đi cái cảnh kinh khủng đó, em bảo cô bé nhìn sang phía khác, phía thành phố. Song về phía thành phố lại diễn ra những chuyện khiến đôi mắt và tâm hồn cô bé đầy nỗi kinh hoàng. Cảnh bọn trẻ con ?ongười Anh? bị bắt làm nô lệ và con chó Xaba bị Khamix cầm cổ dề dắt đi thu hút theo những đám đông, và đoàn người càng đi tới gần bến đò thì những đám đông ấy mỗi lúc càng thêm lớn. Đám người tụ tập đông đến nỗi họ phải dừng lại. Khắp nơi vang dội những tiếng kêu thét dữ tợn. Những bộ mặt xăm chàm dữ dằn nhòm chòng chọc xuống Xtas và Nen.
    Một số kẻ trong những người hoang dã này bật lên tiếng cười sằng sặc và sung sướng vỗ tay vào đùi khi nhìn thấy hai trẻ, những kẻ khác chửi mắng chúng, một số bọn lại rống lên như dã thú, nhe ra những hàm răng trắng nhởn và đảo đảo hai tròng mắt, cuối cùng, người ta bắt đầu đe doạ chúng, chĩa dao vào chúng. Nửa tỉnh nửa mê trong cơn sợ hãi, Nen cứ bám chặt vào Xtas, cậu bé cố hết sức che chở cho cô bé và nghĩ rằng giờ tận số của cả hai đứa đã đến.
    May thay, sức cản của đám người say máu này khiến cho cả gã Tathin cũng phải phật ý. Theo lệnh của hắn, hơn chục tên lính liền vây quanh hai trẻ, nhữ ng tên khác bắt đầu vung roi quật không thương tiếc vào đám người đang hú hét. Phía trước, người chạy toán loạn, rồi lại tụ tập kéo nhau sau toán lính và đưa họ xuống tận thuyền trong tiếng huyên náo hoang dã.
    Bọn trẻ thở phào nhẹ nhõm trong khi đi thuyền vượt sông.
    Xtas an ủi Nen rằng khi đám tín đồ này quen dần với chúng, họ sẽ thôi không đe doạ chú ng nữa, và em cam đoan rằng, gã Xmainơ sẽ che chở và bảo vệ cho cả hai, đặc biệt là đối với Nen, vì nếu có chuyện gì không hay xảy ra cho chúng, thì gã sẽ không còn có ai để đánh đổi lấy con gã. Đó là sự thật, nhưng cô bé quá khiếp sợ trước đợt tấn công vừa rồi đến nỗi nắm chặt tay Xtas, không muốn rời ra một giây nào hết và lặp đi lặp lại như trong cơn mê sảng: ?oEm sợ!
    Em sợ!?. Còn Xtas, em hết lòng mong sao lọt vào tay gã Xmainơ thật nhanh, gã biết bọn trẻ từ lâu, và trong thời gian ở Port Xaiđơ, gã đã tỏ ra - hoặc ít nhất cũng giả vờ - rất thân thiết với bọn trẻ.
    Dù sao đi nữa, gã cũng không phải là kẻ quá ư hoang dại như những người Dangan, Xuđan khác, và kiếp sống nô lệ trong nhà gã hẳn là dễ thở hơn...
    Vấn đề là làm sao tìm được gã trong thành Omđuaman. Cả Iđrix cũng trò chuyện với Nurơ En Tathin về chuyện ấy; khi đó tên này mã i sau mới chợt nhớ ra rằng, một năm trước đây, khi y đang ở Coócđôphan, một nơi cách xa Kháctum, theo lệnh của thủ lĩnh Ápđulahi, y đã từng nghe nói tới một tay Xmainơ nào đó, kẻ đã dạy quân lính bắn các loại súng đại bác thu được từ tay quân Ai Cập, rồi sau đó đã trở thành một tay trùm trong nghề săn nô lệ.
    Nurơ bày cho Iđrix cách sau đây để tìm viên êmia nọ:
    - Khi nào anh nghe thấy tiếng tù và umbai(2) về buổi chiều, anh hãy cùng với lũ trẻ đi tới quảng trườ ng cầu nguyện, nơi Đấng tiên tri ngày nào cũng tới để nêu gương sáng cho các tín đồ về lòng sùng đạo và kiên tín cho họ. Tại đó, ngoài Đức Mahơđi thánh thiện, anh sẽ thấy mặt tất cả những người ?otôn quý? khác, cùng với ba vị thủ lĩnh, các vị pasa và êmia, trong số đó anh có thể sẽ tìm thấy ông Xmainơ.
    - Tôi biết làm gì và ở đâu cho tới buổi nguyện chiều cơ chứ?
    - Anh sẽ ở lại với đám lính của tôi.
    - Còn ông, thưa Nurơ En Tathin, ông rời bỏ chúng tôi sao?
    - Tôi phải tới gặp ngài thủ lĩnh Ápđulahi theo lệnh.
    - Có phải đó là vị thủ lĩnh lớn nhất hay chăng? Tôi từ xa tới, nên mặc dù tên tuổi các vị thủ lĩnh đã vang dội đến tai tôi, nhưng phải đến ông mới có thể chỉ bảo cho tôi biết rõ hơn về họ.
    - Ngài Ápđulahi, thủ lĩnh của tôi, là thanh kiếm của đức Mahơđi đấy.
    - Cầu đức Ala khiến cho ngài ấy trở thành con trai của thần chiến thắng.
  2. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Suốt một hồi lâu những con thuyền trôi trong im lặng. Chỉ nghe thấy tiếng kẽo kẹt của những mái chèo nghiến vào mạn thuyền, và thảng hoặc có tiếng đuôi cá sấu quẫy nước. Rất nhiều con bò sát kinh khủng loại này kéo hàng đàn hàng lũ từ phương Nam tới Kháctum, nơi có thừa mứa thức ăn, vì dòng sông đầy những xác chết; không phải chỉ vì riêng những người chết vì các bệnh dịch đang hoành hành trong đội quân của Mahơđi, đặc biệt là trong đám nô lệ. Các vị thủ lĩnh đã ra nhiều mệnh lệ nh cấm việc ?olàm ô uế nước? nhưng chẳng ai chú ý đến các lệnh ấy, và thế là những xác chết mà lũ cá sấu chưa kịp nuốt cứ sấp mặt trôi đi lừng lững theo dòng nước đến tận cái thác thứ sáu hoặc xa hơn nữa, đến tận xứ Bécberơ.
    Song lúc này gã Iđrix đang suy nghĩ về chuyện khác, nên một lúc lâu sau gã lên tiếng hỏi:
    - Sáng nay chúng tôi không có chút gì vào bụng, khó lòng chịu đựng nổi cái đói cho tới giờ nguyện buổi chiều, và rồi sau đó ai cho chúng tôi ăn uống chứ?
    - Anh không phải là một thằng nô lệ, -Tathin đáp, - anh có thể ra chợ, nơi bọn lái buôn này bán những hàng chúng dự trữ được. Ở đó anh có thể mua được thịt khô, đôi khi cả đốcnu (hạt kê) nữa, nhưng phải tốn nhiều tiền đấy, vì như tôi đã nói với anh, nạn đói đang ngự trị tại Omđuaman.
    - Thế thì những kẻ hung dữ sẽ bắt hoặc giết mất lũ trẻ của tôi.
    - Bọn lính sẽ bảo vệ chúng nó, còn nếu không, anh có thể đưa tiền cho một thằng nào đó, chắc hắ n sẽ vui lòng đi mua cái ăn cho anh thôi.
    Vốn là kẻ muốn lấy tiền của người khác hơn là đưa tiền cho họ, Iđrix không khoái lắm với lời khuyên này, nhưng trước khi y kịp đáp lại thì thuyền đã cập bờ.
    Đối với bọn trẻ, Omđuaman có vẻ khác hẳn với thành Kháctum. Thành phố kia có những ngôi nhà xây nhiều tầng, có quảng trường mudira, tức là quảng trường thống đốc, tại đó tướng Goócđôn anh dũng đã hi sinh, có nhà thờ, bệnh việ n, nhà truyền đạo, kho quân giới, những trại lính lớn, các khu vườn lớn và nhỏ với đủ mọi loại cây cỏ tuyệt vời của vùng nhiệt đới. Còn Omđuaman thì có vẻ giống một thứ trại khổng lồ của những người hoang dã hơn. Tường thành, vốn được xây dựng về phía Bắc của nơi này, đã bị triệt phá theo lệnh tướng Goócđôn. Còn hiện nay, nhìn hút tầm mắt, thành phố chỉ gồm những mái lều hình nón lợp bằng các cuộng kê đánh lại mà thôi.
    Nhữ ng hàng rào gai góc mỏng mảnh ngăn các căn lều đó với nhau và với đường phố. Đây đó cũng có cả những căn lều hẳn là thu được từ tay người Ai Cập. Còn ở nơi khác, chỉ vài tấm chiếu cọ trải dưới một mảnh vải bẩn thỉu căng trên mấy chiếc cọc tre đã là toàn bộ ngôi nhà cho một gia đình. Dân chúng chỉ trốn dưới mái nhà trong khi mưa, hoặc trong nhữ ng giờ quá nắng, còn ngoài ra họ ở ngoài lều, đốt lửa, nấu ăn, sống và chết ngoài trời. Vì vậy mà phố xá đông đúc đến nỗi nhiều chỗ toán quân khó nhọc len qua các đám đông. Trước kia, Omđuaman vốn chỉ là một cái làng nghèo nàn, còn bây giờ, nếu tính cả số nô lệ, tại đây tụ tập những hơn hai trăm nghìn người. Thậm chí, bản thân Mahơđi cũng như các vị thủ lĩnh của ông ta cũng thấy lo ngại về sự tụ tập này, sự tụ tập đe doạ mang tới cái đói và bệnh hoạn. Vì vậy, người ta liên tục phái những toán quân đi về phía Bắc để đánh chiếm các khu vực và những thành phố hãy còn đang trung thành với chính phủ Ai Cập.
    Thấy bọn trẻ da trắng, ở đây cũng lập tức dậy lên những tiếng kêu thét đầy hằn thù, song dù sao thì dám đông cũng chưa đe doạ đến tính mạng của các em. Có thể dân chúng không dám làm điều đó ngay sát nách Mahơđi, cũng có thể họ đã quen với các tù binh, những người sau khi Kháctum bị chiếm đã bị chuyển ngay sang Omđuaman.
    Xtas và Nen trông thấy cảnh một địa ngục trần gian. Chúngtrông thấy những người Âu và người Ai Cập bị roi quật đến toé máu, những người bị đói khát, còng lưng dưới gánh nặng hoặc những thùng nước lớn mà người ta bắt họ phải mang. Chúng trông thấy những phụ nữ và trẻ con ngườ i Âu, trước kia vốn sống sung túc, giờ đây đang phải kéo đi ăn mày, xin một nắm ngô hoặc một rẻo thịt khô, những người đùm trong những mảnh vải rách nát, gầy guộc, giống như những hồn ma với những bộ mặt bị cảnh đói nghèo khiến cho vêu vao và những cặp mắt lạc thần, trong đó nỗi kinh hoàng và sự tuyệt vọng đã đông cứng lại. Chúng nhìn thấy cảnh bọn người dã man rũ lên cười khi trông thấy họ, cảnh chúng xô đẩy và đánh đập họ ra sao. Trên khắp mọi đường phố lớn và nhỏ không thiếu gì những cảnh khiến người ta phải quay mặt đi vì khiếp hãi và kinh tởm.Ở Omđuaman hiện đang lan tràn một cách khủng khiếp bệnh dịch kiết lị và thương hàn, và trước hết là bệnh đậu mùa. Những người bệnh với những nốt đậu phủ đầy người nằm ngổn ngang cạnh lối vào các lều, khiến cho không khí bị nhiễm bẩn. Tù binh khiêng những thây người vừa mới chết quấn trong những tấm vải bố dầy ra chôn xuống cát bên ngoài thành phố, nơi mà lũ linh cẩu sẽ làm tiếp theo cái công việc chôn cất thật sự cho họ. Bên trên thành phố quần đảo hàng đàn diều hâu, những đôi cánh của chúng in xuống mặt cát thành những cá i bóng đen tang tóc. Nhìn thấy tất cả những cái đó, Xtas nghĩ rằng, đối với em cũng như đối với Nen, tốt nhất là làm sao sớm được chết cho xong.
    Tuy nhiên, trong cái biển cả bần hàn và đầy thù hằn con người này thỉnh thoảng vẫn nở bừng những biểu hiện của lòng từ thiện, giống như một đoá hoa nhợt nhạt xoè nở trong vũng lầy tanh hôi. Ở Omđuaman vốn có một nhúm người Hy Lạp và Coptơ mà Mahơđi đã để cho sống sót vì y cần đến họ. Không những họ được tự do đi lại mà còn tiến hành buôn bán và làm những công việc khác, và một số người, nhất là những kẻ giả vờ thay đổi tín ngưỡng, còn trở thành những thuộc hạ của Đấng tiên tri, điều đó khiến cho họ có một vị trí quan trọng trong số những tín đồ man dã. Một trong những người Hy Lạp nọ giữ toán lính lại và bắt đầu hỏi bọn trẻ từ đâu lạc loài tới đây. Ngạc nhiên khi được biết rằng các em vừa mới đặt chân tới, rằng chúng bị bắt cóc từ mãi tận Phaium, ông ta liền hứa sẽ nói cho Mahơđi biết chuyện và sẽ tới thăm chúng trong tương lai. Ông thương xót gật gật đầu với Nen và cho mỗi đứa một vốc to quả vả dại sấy khô cùng một đồng tale bạc có khắc hình Maria Terexa. Sau đó ông ta ra lệnh cho bọn lính không được xúc phạm tới cô bé rồi bước đi, mồm lặp đi lặp lại bằng tiếng Anh: ?oPoor little bird!? (Một con chim nhỏ tội nghiệp).
    --------------------.
    1 Jan: ?ocon cừu non? - tiếng gọi thân mật.
    2 Umbai: một loại tù và lớn làm bằng ngà voi
  3. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 17​
    Qua những phố nhỏ ngoằn ngoèo, mãi rồi họ cũng tới được bãi chợ ở trung tâm thành phố. Dọc đường họ trông thấy nhiều người bị chặt cụt một tay hoặc một chân. Đó là những tội phạm đã từng cất giấu các của cải cướp được, hoặc bọn ăn trộm. Những hình phạt mà các thống lĩnh hoặc êmia dành cho những kẻ không tuân lệnh hoặc những kẻ dám phạm vào những luật lệ mà Đấng tiên tri đã ban hành thật vô cùng thảm khốc, thậm chí chỉ vì một lỗi lầm nhỏ nhặt nào đó, thí dụ như hút thuốc lá chẳng hạn, người ta cũng sẽ bị đánh bằng roi ngựa đến bật máu tươi. Song chính các viên thống lĩnh lại chỉ chấp hành luật lệ một cách hình thức mà thôi, còn ở nhà thì họ tự cho phép mình được làm tất cả mọi thứ, nghĩa là hình phạt chỉ rơi xuống đầu người nghèo, những người bị cướp sạch sành sanh tài sản trong mỗi vụ ra tay của kẻ cầm quyền. Họ chẳng còn đường nào khác ngoài việc đi ăn mày, và vì rằng ở Omđuaman không có lương thực dự trữ, nên họ chết dần chết mòn vì đói.
    Cạnh các quầy bán lương thực nhung nhúc người ăn mày.
    Tuy nhiên, vật đầu tiên khiến bọn trẻ phải chú ý tới là một cái đầu người bị cắm vào một cọc tre cao, chôn chính giữa chợ. Mặt của cái đầu này đã khô quắt lại và gần như có màu đen, còn tóc và râu cằm thì lại trắng như cước. Một tên lính giải thích cho Iđrix rằng đó là đầu của tướng Goócđôn. Nghe thấy thế, Xtas thấy lòng tràn ngập một nỗi tiếc thương vô hạn, một sự phẫn nộ và ý muốn khao khát được báo thù, đồng thời một nỗi hãi hùng cũng khiến cho máu trong huyết quản của em dường như đông lại. Thế ra vị anh hùng ấy, người hiệp sĩ không hề biết sợ hãi và không một tí tì vết ấy, con người công minh và đôn hậu được yêu mến ngay ở Xuđan ấy, đã phải chết như vậy. Thế mà người Anh đã không kịp thời đến ứng cứu cho ông, rồi sau đó lại rút lui, để thi thể ông bị bêu nhục nhã, không được chôn cất theo nghi lễ Thiên Chúa giáo. Lúc này đây, Xtas mất hoàn toàn lòng tin vào người Anh. Cho tới nay, em vẫn tin tưởng một cách ngây thơ rằng, Anh quốc sẵn sàng đánh nhau với toàn thế giới nếu như bất kì một công dân nào của nước Anh bị xúc phạm, dù chỉ là điều xúc phạm nhỏ nhặt nhất. Tận đáy lòng em vẫn còn le lói chút hi vọng rằng sau cuộc truy đuổi không thành công để cứu con gái của ông Rôlixơn, hẳn là những đơn vị hùng hậu của người Anh sẽ lên đường, tiến đến tận Kháctum hoặc xa hơn nữa. Thế mà giờ đây em hiểu ra rằng, cả Kháctum cùng toàn bộ đất nước này đã lọt vào tay Mahơđi, trong khi chính phủ Ai Cập cũng như Anh quốc có lẽ chỉ nghĩ tới việc làm sao bảo vệ cho Ai Cập tránh khỏi những cuộc chia cắt tiếp tục, chứ chẳng nghĩ tới việc cứu các tù binh người Âu ra khỏi cảnh nô lệ.
    Xtas hiểu được rằng em và Nen đã rơi vào một vực thẳ m không lối thoát. Những ý nghĩ đó cộng với những thực tế đầy kinh khủng mà em trông thấy trên các đường phố Omđuaman đã khiến em thất vọng đến cùng cực. Cái nghị lực mà em thường có giờ đây tạm thời nhường chỗ cho một sự cam chịu thuận theo số mệnh và sự hãi hùng khi nghĩ tới tương lai. Gần như vô vọng, em đưa mắt nhìn ngó khắp bãi chợ và các dẫy quầy hàng, nơi gã Iđrix đang mặc cả mua thực phẩm. Những kẻ buôn thúng bán bưng, chủ yếu là các phụ nữ Xuđan và đàn bà da đen, đang bày bán ở đây áo duba (tức là áo mộc làm bằng vải trắng có may thêm các mảnh vải nhiều mầu), nhự a gôm, những quả bầu đã khoét thủng, chuỗi hạt cườm thuỷ tinh, lưu hoàng và đủ mọi thảm chiếu khác nhau. Rất ít quầy bán thực phẩm và chung quanh mỗi quầy đều có đám đông vây chặt. Các tín đồ của Mahơđi mua mọi thứ, trước hết là những súc thịt trâu bò khô, thịt linh dương và hươu cao cổ, với giá cao kinh khủng. Hoàn toàn không thấy có chà là, vả, sắn và ngô. Chỉ thảng hoặc mới có người bán nước pha mật ong hoang và hạt kê ngâm trong nước cất quả tamarin1. Gã Iđrix hoàn toàn tuyệt vọng, vì hoá ra, cứ theo giá chợ hiện nay, thì chẳng mấy chốc gã sẽ tiêu sạch số tiền do mụ Phátma đưa cho để sinh sống, sau đó có lẽ chỉ còn có cách đi ăn mày mà thôi. Giờ thì gã chỉ còn hi vọng vào Xmainơ, và đó cũng là chuyện lạ, bởi vì chính Xtas cũng chỉ còn tính đến sự trợ giúp của Xmainơ mà thôi.
    Một giờ sau, Nurơ En Tathin từ chỗ thống lĩnh Ápđulahi quay trở lại. Hẳn là ở đó hắn đã gặp chuyện gì đó không thật dễ chịu nên rất bực bội. Khi Iđrix hỏi xem hắn có tìm biết được thêm điều gì về Xmainơ chăng, hắn liền vặc lại ngay:
    - Đồ ngốc, mày nghĩ rằng ngài thống lĩnh và tao không còn việc gì khác ngoài việc tìm Xmainơ cho mày hay sao?
    - Thế bây giờ ông sẽ làm gì được cho tôi đây?
    - Mày làm gì tuỳ ý mày. Tao đã cho mày ngủ đêm ở nhà tao, đã cho mày những lời khuyên quý báu, bây giờ tao không muốn thấy mặt mày nữa.
    - Được thôi, nhưng tôi biết trú đêm vào đâu bây giờ?
    - Tao không thèm biết.
    Nói xong, hắn liền tập hợp bọn lính và bỏ đi. Iđrix chỉ còn kịp van hắn để hắn gửi số lạc đà và phần còn lại của cả đoàn, kể cả những người Ả Rậpđã nhập vào đoàn trong vùng giữa Átxuan và Vađi Hanpha, đến bãi chợ mà thôi. Mãi tới trưa những người này mới tới nơi và chẳng một ai biết là phải làm gì bây giờ. Hai tên Bêđuin bắt đầu vặc nhau với Iđrix và Ghebơrơ, bảo rằng hai tên này đã hứa với chúng một cuộc tiếp đón khác thế này, và rằng hai tên này đã đánh lừa bọn chúng. Sau một hồi lâu cãi cọ lời qua tiếng lại, bọn chúng quyết định dựng lều bằng cánh tay và cuộng kê ở cuối thành phố để có chỗ trú đêm đã, còn lại thì cứ trông cậy vào ý muốn của Đấng cứu thế và hãy chờ đợi.
    Sau khi đã dựng xong lều - việc này chẳ ng mất mấy chút thì giờ đối với bọn Xuđan và da đen - tất cả bọn chúng - trừ Khamix phải ở nhà chuẩ n bị bữa ăn tối - kéo tới chỗ cầu nguyện công cộng.
    Chẳng khó khăn gì không tìm ra chỗ đó, bởi hàng đoàn hàng đoàn người từ khắp thành Omđuaman cũ ng đang tấp nập kéo về ấy. Bãi đất rộng, chung quanh có hàng rào gai và một phần hàng rào bằng đất sét được đắp lên cách đấy không lâu. Giữa bãi là một bục gỗ.Đấng tiên tri sẽ bước lên bục khi muốn răn bảo mọi người điều gì. Ngay trước bục người ta đã trải những tấm da cừu ngay trên mặt đất làm chỗ dành cho Mahơđi, các vị thống lĩnh và tù trưởng danh tiếng. Hai bên cắm cờ hiệu của các viên êmia, những lá cờ phấp phới trong gió, lộng lẫy đủ màu sắc, loè loẹt như những bông hoa lớn. Bốn phía quảng trường là đội ngũ dày đặc các tín đồ.
    Chung quanh là cả một rừng giáo không tính xuể, thứ vũ khí mà gần như tất cả mọi chiến sĩ đều mang bên mình.
    May mắn cho Iđrix, Ghebơrơ và những người trong đoàn là họ được xem như tuỳ tùng của một vị êmia nào đó, nên có thể tiến lên hàng đầu của đám đông. Sự xuất hiện của Mahơđi được báo trước bằng những thanh âm trang trọng và trầm bổng thúc ầm ầm, tiếng lộc cộc của đá đựng trong các quả bầu khô bị lắc lên, và tiếng rú rít của còi ngà voi, tất cả trộn lẫn vào nhau thành một thứ tiếng ồn kinh khủng. Đám người bị chế ngự bởi một nỗi cuồng nhiệt khôn tả. Kẻ thì quỳ sụp xuống, kẻ thì cố hết sức hét lên: ?oÔi!
    Sứ giả của Thượng đế! Ôi, người chiến thắng! Ôi, người từ thiện!
    Ôi, người rộng lượng!?. Cảnh đó kéo dài cho tới khi Mahơđi bước lên bụ c thuyết giáo. Khi đó chợt bao trùm một bầu không khí im lặng chết chóc, còn y đưa hai bàn tay to lớn lên ngang tai và bắt đầu cầu nguyện một hồi lâu.
    Bọn trẻ đứng cách đó không xa và có thể trông thấy y rất rõ.
    Đó là mộ t người vào độ trung tuần, nhưng béo kì lạ, dường như bị nứt trương ra vậy, người gần như da đen. Vốn có cặp mắt rất tinh tường, Xtas nhận thấy mặt y cũng xăm chàm. Một tai y đeo một cái vòng lớn làm bằng ngà voi. Y mặc một cái áo duba màu trắng, đầu đội mũ chỏm trắng, chân đi đất, vì khi bước lên bục y đã tụt đôi hài đỏ ra để cạnh tấm da cừu, chỗ mà sau đó y sẽ cầu nguyện.
    Trong các thứ trang phục của y không có một chút nào phong lưu cả. Chỉ thỉnh thoảng gió mang lại mùi hương khuynh diệp bốc lên từ ngườ i y, thứ mùi được các tín đồ hít lấy hít để và hấp háy mắt ra chiều khoái trá. Nói chung Xtas tưởng tượng hoàn toàn khác về vị tiên tri khủng khiếp này, kẻ cướp bóc và giết chóc ngần ấy ngàn người, nên giờ đây, khi nhìn bộ mặt bự mỡ, với cái nhìn có vẻ hiền lành, với cặp mắt nhoà lệ và nụ cười như được gắn vào miệng của y, em không thể không ngạc nhiên. Em cứ nghĩ rằng một kẻ như thế phải mang trên hai vai một cái đầu linh cẩu hay đầu cá sấu, thế mà giờ đây, em lại thấy trước mắt mình một quả bí ngô béo phị, giống hệt những bức tranh vẽ hình trăng tròn.
  4. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Song vị tiên tri đã bắt đầu rao giảng. Cả hai đều nghe rõ tiếng nói sâu thẳm và lanh lả nh của y, mỗi lời đều vang đến tận tai các tín đồ. Đầu tiên y nói về những hình phạt mà Thượ ng đế dành cho những kẻ không chịu tuân theo các luật lệ của Mahơđi, mà cứ giấu giếm của cải cướp được, cứ uống rượu mêrixa, ăn cắp, hút thuốc, tha thứ cho kẻ thù trong khi chiến đấu. Vì tất cả những tội lỗi ấy, đức Ala đã gửi xuống cho những kẻ phạm tội nạn đói và thứ bệnh dịch khiến cho mặt mũi người trở thành một lát mật rỗ lỗ chỗ. Đời sống trần gian chỉ như một cái bao da thủng đựng nước mà thôi. Tài sản và lạc thú rồi cũng tan biến trong lớp cát sẽ chôn vùi người chết. Chỉ có lòng tin là giống như con bò sữa cấp cho ta dòng sữa ngọt ngào. Nhưng thiên đường chỉ mở cửa cho những người chiến thắng. Ai hi sinh vì lòng tin sẽ được phục sinh vĩnh hằng. Hạnh phúc thay, trăm lần hạnh phúc thay những người đã ngã xuống!
    - Chúng con muốn được chết vì lòng tin! - Đámđông liền đáp lại bằng một tiếng kêu vang động.
    Và tiếng huyên náo lại cồn lên khủng khiếp trong chốc lát.
    Tiếng tù và umbai và tiếng trống lại gầm vang. Các chiến sĩ vung gươm đập vào gươm, giáo đập vào giáo. Nhiệt tình chinh chiến lan nhanh như lửa cháy. Một số kẻ thét lên: ?oLòng tin sẽ chiến thắng!?, một số kẻ khác lại kêu: ?oVượt qua cái chết đến với thiên đường!? Giờ đây Xtas hiểu được vì sao quân đội Ai Cập không thể chống cự nổi những bộ lạc hoang dã này.
    Khi đã yên yên một chút, Đấng tiên tri lại cất lời. Y kể lại những điều y trông thấy và về sứ mạng mà y được Thượng đế giao phó. Chính đức Ala đã giao cho y phải làm cho đức tin trong sáng trở lại và truyền bá nó khắ p thế gian. Kẻ nào không công nhận y là Mahơđi, là người - chuộc - tội, kẻ đó sẽ bị tội trầ m luân. Ngày tận thế đã tới gần, nhưng trước đó, nghĩa vụ của những người kiên tín là phải đánh chiếm được Ai Cập, Mếchca và tất cả những đất nước bên kia biển lớn, nơi bọn ngoại đạo sinh sống.Đó là ý chí của Thượng đế và không gì có thể thay đổi được ý chí đó. Máu sẽ còn tuôn đổ nhiều nữa, nhiều chiến sĩ sẽ không được quay về với vợ con dưới mái lều của mình, song vinh hạnh của những người được ngã xuống thì không ngôn ngữ nào của loài người có thể tả xiết.
    Rồi y vươn tay về phía những người đang tụ tập và kết thúc như sau:
    - Thế nên ta, người - chuộc - tội và đầy tớ của Thượng đế, ta ban phước lành cho cuộ c chiến tranh thầ n thánh và ban phước lành cho các người, hỡi các chiến sĩ. Ta ban phước cho những nỗi nhọc nhằn của các người, nhữ ng vết thương, cái chết, ta ban phước cho chiến thắng và ta khóc cùng với các người như một người cha xiết bao yêu quý các con...
    Y bật lên khóc. Tiếng kêu và tiếng ồn ào lại cồn lên khi y rời khỏi diễn đàn. Tiếng khóc lan ra mọi nơi. Bên dưới đài, hai viên thống lĩnh Ápđulahi và Ali Uled Helu, đỡ lấy tay vị tiên tri dẫn tới tấm da cừu, nơi y quỳ xuống. Trong giây phút ngắn ngủi đó, Iđrix sốt ruột hỏi Xtas xem trong số các vị êmia có mặt Xmainơ hay không.
    - Không! - Cậu bé đáp lại sau khi đã hoài công dõi mắt tìm khuôn mặt quen thuộc. - Tôi không trông thấy ông ta đâu cả. Có lẽ ông ta đã chết trong khi công phá Kháctum rồi cũng nên.
    Lễ cầu nguyện kéo dài rất lâu. Trong khi cầu nguyện lúc thì Mahơđi vung tay vung chân như một con nhện, khi thì lại ngước mắt đầy thành kính nhìn lên trời và thốt lên: ?oNgười đấy! Người đấy!? Mặt trời ngả về Tây khi y đứng dậy bước về nhà. Đến lúc này, bọn trẻ mới có thể thấy hết lòng ngưỡng mộ của các tín đồ dành cho vị tiên tri, hàng đám người cuộn theo gót y, cào cấu mặt đất ở những chỗ gót chân y đặt xuống. Họ cãi nhau và đánh nhau trong khi làm việc đó, vì tin rằng thứ đất đó khiến cho người khoẻ mạnh được an toàn và chữa lành bệnh cho người đau ốm.
    Bãi cầu nguyện dần dần thưa người. Iđrix cũng không biết nên làm gì, y đã định cùng với bọn trẻ và cả đoàn quay về các lều nghỉ đêm với Khamix, thì đột nhiên trước mặt hiện ra ông lão người Hy Lạp, chính cái ông lão mà sáng ấy đã cho Xtas và Nen mỗi đứa một đồng tale và một nắm chà là.
    - Ta đã thưa chuyện với đức Mahơđi về các người, - ông nói bằng tiếng Ả Rập, - và Đấng tiên tri muốn gặp các người.
    - Tạ ơn đức Ala và ngài, thưa quý ngài. - Iđrixbật kêu lên. - Liệu chúng tôi có gặp được ngài Xmainơ bên cạnh đức Mahơđi hay chăng?
    - Xmainơ hiện đang ở Phasôđa. - Ông lão người Hy Lạp đáp. Rồi ông nói với Xtas bằng tiếng Anh:
    - Có thể là Đấng tiên tri muốn bảo trợ cho các cháu, vì ta đã cố gắng khuyên Người việc đó. Ta nói với Người là quang vinh của lòng từ thiện của Người sẽ lan ra khắp các dân tộc da trắng nếu Người làm việc đó. Nơi đây đang xảy ra những chuyện khủng khiếp, thiếu sự bảo trợ của Người thì chắc chắn các cháu sẽ chết đói, chết khổ, chết bệnh hoặc chết vì tay bọn điên khùng này mất thôi. Nhưng các cháu phải chiếm cho được cảm tình của Người, điều đó tuỳ thuộc vào chính cháu đấy.
    - Nhưng cháu sẽ phải làm gì, thưa ngài?
    - Trước hết, khi đứng trước mặt Người, cháu phải quỳ ngay xuống, nếu Người đưa tay cho cháu, thì hãy thành kính hôn tay Người và hãy cầu xin Người cứu mạng các cháu dưới đôi cánh của Người.
    Nói đến đây ông lão người Hy Lạp dừng lại và hỏi:
    - Có ai trong những người này biết tiếng Anhkhông?
    - Không ạ. Khamix ở lại trông lều, Iđrix và Ghebơrơ chỉ hiểu được đôi ba tiếng, còn nhữ ng kẻ khác thì không biết chút gì hết.
    - Thế thì hay lắm. Cháu hãy nghe tiếp đây, vì cần phải dự liệu tất cả mọi chuyện. Mahơđi chắc sẽ hỏi cháu xem cháu có sẵn sàng chấp thuận tín ngưỡng của ông ta hay không. Cháu hãy trả lời ngay lập tức rằng có, và rằng chỉ thoáng gặp Người lần đầu thôi mà đã có một thứ ánh sáng ân phước nào đó rọi chiếu xuống cháu.
    Hãy nhớ lấy: ?oMột thứ ánh sáng ân phước nào đó...? Câu đó sẽ khiến cho ông ta khoái chí và có thể ông ta sẽ lấy cháu vào chân muladem, tức là vào hàng những kẻ thân cận phụ c vụ ông ta. Khi đó chắc chắn các cháu sẽ sống sung túc và đầy đủ mọi thứ tiện nghi, những thứ sẽ tránh cho các cháu khỏi mắc bệnh tật... Nếu như cháu làm khác đi, sẽ nguy hiểm cho bản thân cháu, cho cô bé đáng thương này và có thể cả cho ta, người chỉ muốn điều tốt lành cho các cháu mà thôi. Cháu hiểu chưa?
    Xtas nghiến chặt răng không trả lời gì hết, riêng nét mặt của em chợt sầm lại và đôi mắt tối đi. Nhìn thấy thế ông lão Hy Lạp nói tiếp:
    - Ta biết, cháu bé ạ, đó là một chuyện phiền lòng, nhưng chẳng có cách nào khác đâu. Những người còn sống sót sau cuộc thảm sát ở Kháctum đều phải nhận tôn giáo của Mahơđi. Chỉ có mấy vị cố đạo Thiên Chúa đi truyền giáo và mấy nữ tu sĩ là không thuận, nhưng đó lại là chuyện khác. Kinh Coran ngăn cấm việc giết các tu sĩ, nên mặc dù số phận của họ thật là khủng khiếp, nhưng ít ra họ cũng không bị cá i chết đe doạ. Ngược lại, đối với người thường thì không có cách nào thoát chết cả. Ta nhắc lại cho cháu rõ là tất cả mọi người đều cải đạo sang đạo Hồi, cả ngườ i Đức, người Italia, người Coptơ, người Anh, người Hy Lạp, cả ta cũng...
    Nói đến đây, dù Xtas đã nói chắc với ông ta rằng trong đám người không có ai biết tiếng Anh, song ông ta cũng tự nhiên hạ thấp giọng:
    - Có lẽ ta không cần phải nói với cháu rằng đó không phải là một sự cải đạo, một sự phản bội, hay một tội lỗi nào cả. Trong tâm hồn của mỗi người, họ vẫn là người cũ, Chúa thấy hết... Cần phải nhẫn nhục trước bạo lực, dù chỉ là sự nhẫn nhục hình thứ c... Bổn phận của con người là phải bảo vệ cuộc sống, và sẽ là điều điên rồ, thậm chí sẽ là tội ác, nếu làm cho nó bị đe doạ. Mà để làm gì kia chứ?Để làm một chuyện hình thứ c, vì có mấy lời mà cháu có thể chửi thầm trong bụng ngay khi ấy? Cháu hãy nhớ rằng, cháu đang nắm trong tay không phải chỉ sinh mạng của bản thân cháu mà thôi, mà còn cả mạng sống của cô bạn bé bỏng của cháu đây nữa, mạng sống mà cháu không có quyền tự do định đoạt. Dĩ nhiên là thế!... Ta có thể nói chắc chắn với cháu rằng, nếu như có khi nào đó Chúa giải thoát cho cháu ra khỏi bàn tay những kẻ này, thì cháu sẽ không có điều gì phải hối hận đối với mình, mà cũng không một ai chúng ta trách cứ gì cháu, cũng như trách cứ tất cả chúng ta.
    Nói thế, ông lão người Hy Lạp có thể là đang tự lừa dối lương tâm mình, nhưng sự im lặng của Xtas cũng đánh lừ a ông lão, vì ông lại ngỡ rằng em đang hoảng sợ. Ông lão bèn quyết định cổ vũ cho cậu bé thêm vững lòng. - Nhà của Mahơđi đây rồi. - ông nói. - Người thà sống trong những túp nhà gỗ như thế này ở Omđuaman còn hơn là sống ở Kháctum, mặc dù tại đó Người có thể chiếm toà lâu đài của Goócđôn. Nào, can đảm lên cháu! Chớ có sợ. Hãytrả lời các câu hỏi thật cặn kẽ. Ở đây, người ta rất trọng sự can trường.
    Cũng chớ nghĩ rằng Mahơđi sẽ gầm lên như sư tử đối với cháu.
    Không đâu. Người luôn luôn mỉm cười, thậm chí ngay cả khi Người đang nghĩ đến chuyện chẳng tốt lành chút nào.
    Nói xong, ông bắt đầu bảo đám người đứng tụ tập trước nhà hãy tránh ra nhường đường cho?okhách? của Đấng tiên tri.
    --------------------.
    1 Cây mọc ở vùng nhiệt đới châu Phi, hiện được trồng chủ yếuở Ấn Độ, làm nguyên liệu sản xuất gia vị và làm nước ngọt, đồng thời cho gỗ tốt.

  5. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 18​
    Khi họ bước vào nhà, Mahơđi đang nằm trên một chiếc đi văng mềm giữa đám vợ của y, trong số đó hai người đang phe phẩy những chiếc quạt lông đà điểu to tướng để quạt cho y, còn hai người khác đang khe khẽ gãi gãi gan bàn chân y. Ngoài đám vợ y, chỉ có mặt thêm hai viên thống lĩnh là Ápđulahi và Sêrip, vì vị thống lĩnh thứ ba là Ali Uled Helu đang dẫn quân lên phía Bắc, đến xứ Bécberơ và Abu Hammét, những xứ sở trước đó đã bị quân khởi nghĩa chiếm được. Nhìn thấy những người vào, tiên tri đẩy đám vợ ra, ngồi dậy trên đi văng. Iđrix, Ghebơrơ và hai tên Bêđuin rạp mặt xuống đất, rồi tiếp đó cứ quỳ mọp, hai tay bắt chéo trước ngực. Ông lão Hy Lạp gật đầu với Xtas ra hiệu cho em cũng làm như thế, nhưng cậ u bé giả vờ không thấy, chỉ hơi khom mình và rồi vẫn đứng thẳng người. Mặt em tái đi, nhưng mắt sáng long lanh, từ toàn bộ dáng người, từ cái ngẩng cao kiên nghị và từ đôi môi mím chặt dễ dàng nhận thấy rằng trong người em đã có một cái gì đó vượt cao lên, rằng sự do dự và lo sợ đã qua đi rồi, rằng em đã có một quyết định không khoan nhượng, không gì trên đời này có thể khiến em thay đổi quyết định đó nữa. Rõ ràng ông lão người Hy Lạp cũng nhận thấy điều đó, vì trên nét mặt ông hiện ra một nỗi lo lắng rõ rệt. Mahơđi nhìn lướt qua hai đứa bé, khuôn mặt béo nứt ánh lên nét cười thường có, rồi quay sang phía Iđrix và Ghebơrơ.
    - Các người từ phương Bắc xa xôi tới đây? - Y nói.Iđrix đập trán xuống đất.
    - Bẩm vâng, thưa Mahơđi. Chúng con thuộc về bộ tộc Dangan, nên chúng con đã rời bỏ nhà cửa ở Phaium để được đến quỳ dưới gót chân đầy ân phước của Người.
    - Ta đã trông thấy các người đi trong sa mạc. Con đường ấy thật là khủng khiếp, nhưng ta đã phái một thiên sứ tới để cảnh giới cho các người và bảo vệ cho các người tránh khỏi cái chết từ tay những kẻ vô đạo. Các người không nhìn thấy thiên sứ đâu, nhưng chính thiên sứ đã che chở cho các người đó.
    - Xin đa tạ Người, thưa Người - chuộc - tội.
    - Và các người đã mang tới cho Xmainơ những đứa trẻ này để ông ta đổi lấy bọn trẻ con của ông ta, những đứa trẻ mà bọn Thổ đang giam giữ cùng cô Phátma ở Port Xaiđơ?
    - Chúng con chỉ muốn được phụng sự Người thôi.
    - Ai phụ ng sự ta cũng là phụ ng sự cho sự cứu rỗi của chính mình, nghĩa là các ngươi đã tự mở đường lên thiên đường đấy.
    Phátma là người có họ với ta... Nhưng ta bảo thật cho các ngươi rõ, khi nào ta chiếm được toàn bộ Ai Cập, thì khi đó cô ta cùng với con cái của cô ta cũng sẽ được tự do thôi mà.
    - Vậy xin Người hãy xử với bọn trẻ này theo ý người, thưa Đấng được ban phước thánh...
    Mahơđi khép hai mi mắt lại, sau đó lại mở ra, mỉm cười thân thiện và gật đầu ra hiệu cho Xtas.
    - Hãy lại gần đây, cháu bé.
    Xtas tiến lên vài bước đầy cương nghị, như nhữ ng bước đi đều của một người lính, cúi chào lần thứ hai, rồi bật thẳng dậy như một sợi dây đàn và nhìn thẳng vào mắt Mahơđi chờ đợi.
    - Các cháu có sung sướng là đã được đến với ta chăng? - Mahơđi hỏi.
    - Không, thưa tiên tri. Chúng tôi đã bị bắt cóc khỏi tay cha chúng tôi, dù hoàn toàn không muốn chút nào.
    Lời đáp thẳng thắn này đã gây ấn tượng, cả cho viên thủ lĩnh vốn quen với sự nịnh nọt, lẫn cho những người có mặt tại đấy.
    Thống lĩnh Ápđulahinhíu mày. Ông lão Hy Lạp nhay nhay ria mép và bắt đầu bẻ đốt ngón tay, riêng Mahơđi vẫn không thôi cười mỉm.
    - Thế nhưng, - y nói, - các cháu đang được ở nơi ngọn nguồn chân lí. Cháu có muốn uống nước từ ngọn nguồn ấy chăng?
    Một giây im lặng, Mahơđi cho rằng cậu bé không hiểu câu hỏi bèn lặp lại rõ ràng hơn:
    - Cháu có muốn tiếp thu khoa học của ta chăng?
    Nghe thấy thế, cánh tay Xtas đang đặt trước ngực chợt phác lên một dấu thánh như một người từ trên một con tầu đắm sắp sửa nhảy xuống nước vậy.
    - Thưa tiên tri, - em đáp, - tôi không biết thứ khoa học của Người, nên nếu tôi có thừa nhận nó thì chẳng qua cũng chỉ là sợ hãi, như một thằng hèn, như một người tồi tệ mà thôi. Liệu Người có muốn những kẻ hèn nhát và đểu cáng thu nhận học thuyết của Người?
    Trong khi nó i thế, em vẫn nhìn thẳng vào mắt Mahơđi. Im lặng đến nỗi nghe rõ tiếng vo ve của đàn ruồi. Đồng thời cũng diễn ra một việc khác thường. Đó là việc Mahơđi bối rối và không tìm được ngay câu trả lời. Nụ cười biến mất trên khuôn mặt đang lộ rõ vẻ lúng túng và khó chịu. Y đưa tay với lấy quả bầu đựng nước pha mật để uống nhưng rõ ràng chỉ là để có thêm thời gian và che giấu bớt sự bối rối của mình.
    Còn cậu bé dũng cảm thuộc dòng dõi những người từng bảo vệ đạo Thiên chúa, giọt máu trung thành của nhữ ng người chiến thắng ở Khôchim và thành Viên1 thì cứ đứng nguyên đấy với cái đầu ngẩng cao chờ lời tuyên án. Gò má gầy gò bị rám bởi những cơn lốc cát sa mạc dậy lên màu hồng, mắt sáng long lanh, toàn thân run lên những cơn rùng mình nhiệt thành. ?oĐó - em nhủ thầm - dù những ngườ i khác có thừa nhận học thuyết của y, nhưng ta, ta sẽ không chịu từ bỏ lòng tin và linh hồn?. Và nỗi lo sợ vì những điều có thể và sẽ phải nổ ra giờ đây ẩn sâu vào tim em, chỉ có niềm sung sướng và tự hào tràn ngập trong lòng.
    Mahơđi đặt quả bầu xuống và hỏi:
    - Nghĩa là người từ chối học thuyết của ta?
    - Tôi là tín đồ Thiên Chúa như cha tôi... - Kẻ nào bịt tai không nghe tiếng nói của Thượng đế, - Mahơđi nói thong thả bằng giọng nói khác hẳn đi, - kẻ đó chỉ là củi đốt mà thôi.
    Nghe thấy thế, thống lĩnh Ápđulahi, kẻ nổi tiếng vì sự dã man và hà khắc, liền nhe bộ răng trắng nhởn như một con thú dữ, cất tiếng:
    - Lời nói của thằng bé này thật là ngỗ ngược, xin Người hãy trừng phạt nó, hoặc hãy cho phép tôi được trị tội.
    ?oBắt đầu rồi đây!? - Xtas nghĩ thầm.
    Song Mahơđi vốn lúc nào cũng muốn cho niềm vinh quang về lòng từ tâm của y được truyền tụng không những chỉ trong số các tín đồ đạo Hồi mà lan ra toàn thế giới, nên y nghĩ rằng, một hình phạt quá hà khắc đối với một đứa trẻ có thể sẽ làm tổn hại đến thanh danh y.
    Y lần tràng hạt một hồi lâu và suy nghĩ, rồi nói:
    - Không! Những đứa trẻ này bị bắt để mang tới cho Xmainơ, nên mặc dù ta không bao giờ thương lượng gì với bọn vô đạo, cần phải gửi chúng tới chỗ Xmainơ. Đó là ý muốn của ta.
    - Sẽ làm theo ý muốn của Người! - Viên thống lĩnh đáp.
    Mahơđi trở tay chỉ Iđrix, Ghebơrơ và bọn Bêđuin.
    - Hỡi Ápđulahi, ngươi hãy nhân danh ta thưởng cho những người này vì họ đã vượt qua một quãng đường dài và nguy hiểm để phụng sự ta và Thượng đế.
    Rồi y gật đầu ra hiệu rằng buổi tiếp đã kết thúc, đồng thời ra lệnh cho ông lão Hy Lạp cũng ra về luôn. Khi đã ra đến chỗ tối trên bãi cầu nguyện, ông lão liền túm lấy tay Xtas lắc lấy lắc để vì tức giận và tuyệt vọng.
    - Đồ khốn nạn! Mày đã giết chết đứa trẻ vô tội này rồi! - Ông vừa nói vừa chỉ Nen. - Mày đã giết cả mày và có thể cả tao nữa đấy!
    - Cháu không thể làm khác được. - Xtas đáp.
    - Mày không thể! Mày hãy nhớ rằng hai đứa chúng mày sẽ bị đày ải tiếp trên một chặng đường thứ hai còn trăm lần tồi tệ hơn chặng đường vừa rồi. Đó là chết - mày hiểu chưa? Ở Phasôđa, chỉ trong vòng một tuần, bệnh sốt rét sẽ giết chúng mày. Mahơđi biết rõ điều đó, vì thế ông ta gửi chúng mày tới chỗ Xmainơ.
    - Ở Omđuaman thì rồi chúng cháu cũng chết.
    - Không đúng! Chúng mày sẽ không chết trong nhà Mahơđi, trong no đủ và tiện nghi đâu! Ông ta đã sẵn sàng đón nhận chúng mày vào che chở dưới cánh. Tao biết là ông ta đã sẵn sàng. Thế là mày đã trả ơn tao hậu hĩ vì chính tao đã bệnh vực chúng mày.
    Thôi, chúng mày muốn làm thế nào thì làm. Một tuần nữa Ápđulahi sẽ gửi một chuyến bưu điện bằng lạ c đà đến Phasôđa, trong tuần tới chúng mày muốn làm gì tuỳ thích. Chúng mà y sẽ không thấy mặt ta nữa đâu!...
    Nói xong ông bỏ đi ngay, nhưng chỉ lát sau ông đã quay trở lại. Như mọi người Hy Lạp khác, ông vốn lắm lời, và phải nói cho thoả. Ông lão muốn trút hết cơn giận đang bừng bừng trong ngườ i lên đầu Xtas. Ông không phải là người tàn bạo và không có một tim hung dữ, tuy vậy ông muốn cậu bé phải thấm thía hơn nữa cái trách nhiệm kinh khủng mà cậu bé buộc vào cho mình khi không chịu nghe lời khuyên cùng những lời ngăn đe của ông.
    - Ai cấm mày là người Thiên Chúa trong lòng, hả?
    - Ông nói. - Mày nghĩ là tao không theo đạo chăng? Nhưng tao không phải là thằng ngốc. Còn mày, mày muốn phô phang cái anh hùng rơm củ a mày kia. Từ trước tới nay tao đã giúp được cho tù binh da trắng bao nhiêu việc, còn từ giờ tao không còn có thể giúp họ được nữa, vì Mahơđi đã giận tao rồi. Tất cả sẽ chết hết! Cả cô bạn tù nhỏ bé của mày cũng vậy thôi.Chính mày đã giết chết con bé. Ở Phasôđa cả đến người lớn cũng chết vì sốt rét như ruồi nữa là trẻ con. Còn nếu như chúng nó bắt bọn mày phải đi bộ theo sau ngựa và lạc đà, thì con bé sẽ gụ c ngay trong ngày đầu tiên.
    Chính mày gây ra chuyện đó. Mày hãy vui sướng đi, cái đồ... Thiên Chúa giáo này!
    Rồi ông bỏ đi, còn họ thì rẽ khỏi bãi cầu nguyện, qua những phố tối tăm, trở về lều. Họ đi rất lâu, vì thành phố trải dài trên một phạm vi khổng lồ. Mệt mỏi vì cố sức, vì đói, vì sợ và vì những ấn tượng kinh khủng suốt cả một ngày trời, chốc chốc Nen lại phải dừng chân. Iđrix và Ghebơrơ thúc cô bé đi nhanh hơn. Song chỉ một lát sau, chân cô bé hoàn toàn mềm nhũn. Xtas bèn bồng cô bé lên tay không chút ngần ngừ và mang đi. Dọc đường, em muốn nói với Nen, muốn thanh minh trước cô bé rằng em không thể hành động khác đi, nhưng những ý nghĩ cứ chết cứng lại trong đầu óc em, khiến em chỉ lặp đi lặp lại: ?oNen! Nen! Nen!?, và siết chặt cô bé vào mình, không thể nói được gì hơn nữa. Sau vài chục bước chân, Nen đã ngủ thiếp đi vì kiệt sức trên tay em, thế là em im lặng bước đi trong sự tĩnh mịch của những phố hẻm đang ngủ yên, sự tĩnh mịch chỉ bị gián đoạn bởi câu chuyện giữa Iđrix và Ghebơrơ.
    Trong tim bọn chúng tràn ngập niềm sung sướng, đó là điều may mắn cho cả Xtas, vì nếu không bọn chúng có thể sẽ trị em về tội dám đối đáp ngỗ ngược với Mahơđi. Song chúng đang bận tâm về những điều vừa được hưởng nên không thể nghĩ chuyện gì khác.
    - Trước, anh cảm thấy ốm đến nơi rồi, - Iđrix nói,-nhưng được nhìn thấy Đức tiên tri anh đã khỏi bệnh hoàn toàn.
    - Người giống như cây cọ trên sa mạc, như dòng nước mát lành giữa ngày nóng nực, lời của Người giống như những quả chà là chín mọng vậy. -Ghebơrơ đáp.
    - Gã Nurơ En Tathin nói dối khi bảo rằng Người không cho chúng mình vào gặp. Người đã cho vào,đã ban phước lại còn ra lệnh cho ngài Ápđulahi phải ban thưởng cho chúng ta nữa chứ.
    - Ngài thống lĩnh sẽ thưởng cho chúng ta rất hậu, vì ý muốn của Mahơđi là thiêng liêng.
    - Tuyệt quá! Mong sao được đúng như lời ông nói, - một trong hai tên Bêđuin lên tiếng.
    Và Ghebơrơ bắt đầu mơ tưởng đến hàng đàn lạc đà, súc vật có sừng, hàng đàn ngựa và hàng túi hàng túi ních đầy những đồng piaxt.
    Gã Iđrix chợt khiến hắn tỉnh cơn mơ màng ấy khi cất tiếng hỏi và chỉ Xtas đang bế Nen đang ngủ say:
    - Ta làm gì với con ruồi trâu và ruồi nhóc này hả?
    - Ha! Ngài Xmainơ sẽ phải thưởng riêng cho chúng ta về chúng nó đấy!
    - Khi mà đấng tiên tri đã nói rằng ngườ i không cho phép bất cứ một cuộc thương thuyết đổi chác nào với bọn vô đạo, thì Xmainơ chẳng dính dáng gì với chúng nó nữa đâu.
    - Thế thì tôi thật tiếc là chúng nó không rơi vào tay ngài thống lĩnh, hẳn ngài ấy sẽ dạy cho ********* con kia biết thế nào là cất tiếng sủa chống lại chân lí và con người mà Thượng đế đã lựa chọn.
    - Mahơđi rất nhân từ. - Iđrix đáp.Hắn cân nhắc một lúc lâu rồi nói:
    - Dù sao, khi có hai đứa trong tay, thì ngài Xmainơ sẽ có thể chắ c chắn rằng cả bọn Thổ lẫn bọn Anh đều không thể giết con ngài và bà Phátma.
    - Thế nghĩa là có thể ông ta sẽ thưởng công cho chúng ta?
    - Phải. Cứ để cho chuyến bưu điện của ngài Ápđulahi mang chúng nó đến Phasôđa. Chúng ta càng thêm nhẹ gánh. Khi nào ngài Xmainơ quay trở lại đây, ta sẽ nhắc ngài về chuyện tiền nong sau.
    - Anh nói thế có nghĩa là chúng ta sẽ ở lại Omđuaman?
    - Lạy đức Ala! Mày chưa ngán quãng đường từ Phaium tới Kháctum hay sao? Đến lúc chúng ta phải nghỉ ngơi rồi.
    Đám lều trại không còn xa nữa. Tuy nhiên, Xtas cũng đã phải chậm bước chân, vì sức em cũng đã bắt đầu kiệt. Mặc dù Nen vốn nhẹ, nhưng mỗi lúc một thêm nặng trên tay em. Bọn Xuđan, muốn nhanh được ngủ, bèn quát mắng em và bắt đầu đấm vào đầu em. Thậm chí gã Ghebơrơ còn dùng dao thích vào bả vai em đau điếng. Cậu bé chịu đựng tất cả những cái đó trong im lặng, chỉ cố tìm cách che cho cô em bé bỏng của mình, mãi cho tới khi một trong hai tên Bêđuin đẩy em mạnh đến suýt ngã em mới thốt lên với bọn chúng qua hai hàm răng nghiến chặt:
    - Chúng tôi còn phải sống đến được Phasôđa nữa đấy.
    Nhữ ng lời ấy khiến bọn Ả Rập dừng tay, vì chúng e sẽ phạm lệnh Mahơđi. Song điều khiến chúng phải ngừng những hành động ấy lại là vì Iđrix bỗng nhiên bị chóng mặt dữ dội, đến nỗi hắn phải tựa vào vai Ghebơrơ. Lát sau, cơn chóng mặt qua đi, nhưng tên Xuđan hoảng hốt và nói:
    - Lạy đức Ala! Có chuyện không hay xảy ra với tôi rồi. Có thể tôi bị nhiễm bệnh rồi chăng?
    - Anh đã được gặp Mahơđi, anh không thể nào ốm được. - Ghebơrơ đáp.
    Cuối cùng bọn chúng cũng về tới khu lều. Với chút sức cuối cùng, Xtas đưa Nen đang say ngủ vàotay bà Đina. Mặc dù cũng không được khoẻ lắm song bà cũng đã sửa soạn cho cô chủ của mình một chỗ nằm êm ái. Bọn Xuđan và Bêđuin nuốt vội mỗi tên vài rẻo thịt tươi rồi lăn ngay ra chỗ nằm như những súc gỗ. Chúng không cho Xtas chút gì để ăn cả, chỉ có bà Đina dúi vào tay em một vốc ngô ngâm mà bà đã lấy bớt của lũ lạc đà. Song cậu bé chẳng còn lòng nào nghĩ đến chuyện ăn và ngủ cả.
    Bởi lẽ, gánh nặng đang đè trên vai em thật quá nặng nề. Em cảm thấy rằng, khi từ chối thẳng thừng ân huệ của Mahơđi, cái ân huệ phả i đánh đổi bằng việc từ bỏ tín ngưỡng và linh hồn, em đã hành động đúng đắn; em cảm thấy rằng giá cha em biết, ông sẽ có thể tự hào và sung sướng vì hành động của em, song đồng thời em nghĩ rằng chính em đã kết liễu đời Nen, người bạn trong cảnh nô lệ, người em gái nhỏ thân thương, người mà em sẵn sàng hiến dâng cho đến giọt máu cuối cùng.
    Vậy nên, khi tất cả mọi người đã ngủ say, em oà lên khóc nức nở, và nằm lăn trên một tấm nệm, em khóc rất lâu như một đứa trẻ, mà quả thật em cũng hãy còn là một đứa trẻ kia mà.
    ---------------------.
    1 Khôchim hiện nay là một thành phố ở Ucraina, trước đây thuộc Ba Lan. Tại đó, năm 1621 quân Côdắc và Ba Lan, dưới sự chỉ huy của J. K.Khốtkiêvich đã mấy lần thắng quân Thổ đông hơn gấp bội, cũng tại đó, năm 1673, vua Ba Lan J.Xêbiexki cũng đã đánh tan quân Thổ. Năm 1683, quân đội liên minh của Ba Lan và các nước đồng minh đã giải vây cho thành Viên, đánh tan quân Thổ (N.D).
  6. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 19​
    Cuộc bệ kiến Mahơđi và việc trò chuyện với y rõ ràng đã không khiến cho Iđrix khoẻ hơn lên chút nào, đến đêm, hắn bị ốm nặng thêm, và đến sáng thì đã bất tỉnh. Khamix, Ghebơrơ và hai tên Bêđuin được gọi đến chỗ viên thống lĩnh, tên này giữ chúng lại đó vài tiếng đồng hồ, ca ngợi lòng can đảm của chúng. Nhưng khi trở về, chúng lại rất bực bội và tức giận, vì chúng từng tưởng tượng đến những phần thưởng lớn lao khôn cùng, thế mà Ápđulahi chỉ thí cho mỗi tên một đồng bảng Ai Cập và một con ngựa mà thôi.
    Bọn Bêđuin bắt đầu vặc nhau với Ghebơrơ, suýt nữa thì nện nhau với hắn, và cuối cùng, chúng tuyên bố rằng, chúng sẽ đi cùng với chuyến bưu điện bằng lạc đà tới Phasôđa để đòi Xmainơ phải trả tiền. Khamix cũng nhập bọn với chúng, tên này hi vọng rằng sự che chở của Xmainơ sẽ mang lại cho hắn nhiều lợi ích hơn là việc ở lại Omđuaman.
    Đối với bọn trẻ, bắt đầu diễn ra một tuần lễ đói khổ, vì Ghebơrơ không hề nghĩ đến chuyện nuôi chúng ăn. May mắn là Xtas còn có được hai đồng tale có in hình Maria Têrêxa mà em nhận được từ ông cụ người Hy Lạp, em bèn vào phố mua chà là và gạo. Bọn Xuđan không phản đối gì cuộc đi này vì chúng biết rõ rằng em không thể nào trốn thoát khỏi Omđuaman, và dù sao đi nữa, em cũng không bao giờ rời bỏ cô bé. Tuy nhiên chuyến đi không tránh khỏi những chuyện phiền toái, vì chỉ cần trông thấy một thằng bé mặc áo quần kiểu Âu mua thực phẩm ở chợ là hàng đoàn các tín đồ Hồi giáo nửa phần hoang dã đã kéo tới nghênh tiếp bằng những tràng tiếng cười và hú hét. May thay, nhiều kẻ đã trông thấy em ở chỗ Mahơđi hôm qua, bọn này bèn ngăn những kẻ định ?ora tay? đối với em lại. Chỉ có lũ trẻ con ném cát và đá vào người em, nhưng em không thèm để ý gì tới chuyện ấy cả.
    Giá cả ở chợ cao vô cùng. Xtas hoàn toàn không thể mua nổi chà là, còn phần lớn gạo mua được lại bị Ghebơrơ tước mất, ?ođể dùng cho anh hắn đang ốm?. Cậu bé bèn dùng hết sức chống lại việc cướp đoạt ấy, khiến cho mọi sự kết thúc ở chuyện giằng co và đánh nhau, trong đó kẻ yếu hơn dĩ nhiên phải nhận hàng lô những vết thâm tím và u bướu trên mình. Trong chuyện đó cũng thể hiện rõ sự dã man của Khamix. Hắn chỉ gắn bó với con chó Xaba và nuôi nó bằng thịt tươi. Ngược lại, đối với bọn trẻ đang đói khổ mà hắn đã quen biết từ lâu, những đứa trẻ đối với hắn bao giờ cũng tốt bụng, thì hắn lại tỏ ra hoàn toàn dửng dưng, và khi Xtas xin hắn ít nhất cũng hãy chia cho Nen chút ít thức ăn, hắn vừa cười mỉa vừa đáp:
    - Đi mà ăn mày.
    Và cuối cùng, trong mấy ngày sau đó, muốn cứu Nen khỏi chết đói, Xtas đành phải đi ăn xin. Chuyện đó không phải bao giờ cũng không mang lại kết quả. Thỉnh thoảng một cựu sĩ quan hoặc binh sĩ của phó vương Ai Cập đưa cho em vài đồng piaxt hoặc vài quả chà là khô và hứa hôm sau nữa sẽ giúp thêm. Một lần em gặp được một nhà truyền giáo và cô phước. Nghe em kể chuyện họ than khóc cho số phận của hai đứa, và mặc dù bản thân cũng bị cái đói khiến cho mòn mỏi, họ vẫn chia xẻ với em tất cả những gì họ có. Họ còn hứa sẽ đến thăm hai đứa ở lều, và quả thực hôm sau họ đến với hi vọng là có thể mang được bọn trẻ về nhà cho đến khi chuyến bưu điện lên đường. Nhưng Ghebơrơ và Khamix dùng roi ngựa đuổi họ đi. Song hôm sau, Xtas lại được gặp họ và được họ cho một bơ gạo cùng hai viên thuốc kí ninh mà vị cố đạo dặn em phải giữ thật cẩn thận vì thấy trước rằng, chắc chắn bệnh sốt rét đang chờ hai đứa trẻ tại Phasôđa.
    - Bây giờ các con sẽ phải đi dọc theo những vùng ngập nước sông Nin, - ông nói, - nghĩa là dọc theo các xuđa như người ta hay gọi. Dòng sông không thể chảy tự do vì bị chắn bởi những cái đập chắn tự nhiên gồm cỏ rều và lá cây rụng hợp lại, những thứ này trôi theo dòng nước và đọng lại tại những chỗ nông, tạo nên ở đó những vùng lầy rộng lớn đầy bệnh tật, những nơi mà bệnh sốt rét không tha ngay cả những người da đen. Các con hãy chú ý chớ có ngủ đêm không đốt lửa trên đất trần nhé.
    - Chúng con đang muốn được chết đây, thưa cha.
    - Xtas đáp lại như rên rỉ.
    Nghe thấy thế, vị cố đạo bèn ngước khuôn mặt gầy gò của mình lên cầu nguyện một lúc, sau đó từ biệt cậu bé và bảo:
    - Con hãy tin ở nơi Chúa. Con đã không chối Chúa, thì ân phước và sự che chở của Chúa sẽ ở bên con.
    Xtas không những chỉ đi ăn mày mà còn cố tìm việc làm thuê nữa. Một hôm, nhìn thấy một đám người đang làm việc trên bãi cầu nguyện, em bèn nhập bọn và cũng bắt đầu vác đất sét đắp hàng rào vây quanh bãi. Người ta cười mỉa em, xô đẩy em, song đến cuối buổi chiều, viên tù trưởng già coi sóc công việc cũ ng phát cho em mười hai quả chà là. Xtas vô cùng sung sướng với phần trả công này, vì ngoài gạo, chà là là thứ thức ăn duy nhất rất bổ cho Nen, mà ở Omđuaman ngày càng khó kiếm.
    Vì thế em rất tự hào mang chà là về cho cô em gái nhỏ, em đưa cho cô bé tất cả những gì em kiếm được, còn chính em thì chỉ sống cầm hơi suốt tuần nay bằng số ngô lấy trộm bớt của lũ lạc đà mà thôi. Nhìn thấy những quả cây ưa thích, Nen sung sướng vô cùng, nhưng cô bé muốn cả Xtas cũng cùng ăn. Thế là đứng nhón trên đầu ngón chân, đặt tay lên vai Xtas, cô bé ngẩng đầu nhìn vào mắt Xtas và yêu cầu:
    - Anh Xtas, ăn một nửa đi anh, ăn đi anh! Còn cậu bé thì bảo:
    - Anh ăn rồi, anh ăn rồi! Ôi, anh no lắm rồi đây này!
    Và em mỉm cười, nhưng ngay lập tức vội cắn chặt môi để khỏi phải oà lên khóc, vì quả tình em đang đói thắt ruột. Em tự nhủ là hôm sau sẽ lại đi kiếm việc. Song mọi sự đã xảy ra cách khác. Sáng sớm hôm sau, một viên muladem được Ápđulahiphái đến báo rằng, đến đêm chuyến bưu điện bằng lạc đà sẽ khởi hành đi Phasôđa, và theo lệnh của viên thống lĩnh, cả Iđrix, Ghebơrơ và Khamix cùng với hai tên Bêđuin phải chuẩn bị để lên đường ngay cùng với bọn trẻ. Mệnh lệnh này khiến cho Ghebơrơ ngạc nhiên và phẫn nộ, hắn bèn tuyên bố rằng hắn sẽ không đi, vì anh hắn đang ốm không người trông nom, mà nếu anh hắn có khoẻ đi chăng nữa thì cả hai anh em cũng cứ ở lại Omđuaman như thường.
    Viên muladem liền trả lời:
    - Mahơđi chỉ có một ý muốn, và ngài Ápđulahi, vị thống lĩnh của Người, ông chủ của ta, không bao giờ thay đổi mệnh lệnh đã ban. Một tên nô lệ sẽ coi sóc anh ngươi, còn ngươi phải đi Phasôđa ngay.
    - Vậy thì tôi sẽ đến thưa vớ i ngài rằng tôi không đi đâu cả.
    - Chỉ có những kẻ mà chính ngài thống lĩnh muốn gặp là được vào chỗ ngài thôi. Nếu như nhà ngươi cố tình xông vào chỗ ngài khi không được phép thì người ta sẽ điệu nhà ngươi ra, và đưa tới thẳng giá treo cổ đấy.
    - Lạy đức Ala! Thế thì anh cứ nói trắng ra rằng tôi là một thằng nô lệ cho xong chuyệ n.
    - Câm đi và hãy tuân lệnh! - Viên muladem đáp.
    Tên Xuđan đã nhìn thấy ở Omđuaman những giá treo cổ oằn xuống dưới sức nặng của những xác người treo, và ngày ngày, theo lệnh của tên Ápđulahi tàn ác; giá treo cổ lại được thay bằng những thây người mới, nên hắn hoảng sợ. Điều mà viên muladem nói với hắn, rằng Mahơđi chỉ có một ý muốn, còn Ápđulahi chỉ ra lệnh có một lần, được các tín đồ Hồi giáo truyền khẩu cho nhau. Không có cách nào khác là phải đi thôi.
    ?oMình sẽ không còn được gặp lại anh Iđrix nữa đâu!? - Ghebơrơ nghĩ thầm. Và trong trái tim lang sói của hắn vẫn còn tiềm ẩn một sự gắn bó nào đó với người anh ruột, bởi cái ý nghĩ sẽ phải bỏ anh đang bệnh hoạn khiến hắn đau lòng. Mặc dù Khamix và bọn Bêđuin cố sức thuyết phục hắn rằng ở Phasôđa có thể sẽ tốt hơn ở Omđuaman, và rằng Xmainơ có thể sẽ thưởng công chúng hậu hĩ hơn là viên thống lĩnh, song chỉ vô ích. Không có lời nào có thể làm dịu bớt nỗi uất ức và cơn giận dữ của Ghebơrơ, cơn giận đó lại đổ phần lớn xuống đầu Xtas.
    Quả thực đó là một ngày khổ hạnh đối với cậu bé. Em không được phép đi ra chợ, nên không thể kiếm được hoặc xin được gì cả, mà phải lao động cật lực như một tên nô lệ để chất buộc vào gùi hàng mà người ta chuẩn bị đi đường. Công việc này đối với em càng khó khăn hơn, bởi em đã bị yếu sức đi nhiều vì đói và mệt.
    Em chắc rằng dọc đường em sẽ chết, nếu không phải chết dưới làn roi ngựa của Ghebơrơ thì cũng vì quá kiệt sức.
    May thay, ông lão người Hy Lạp, vốn có trái tim nhân hậu, chiều hôm đó đã đến thăm và từ biệt bọn trẻ, đồng thời cung cấp cho chúng chút gì đó để đi đường. Ông còn mang đến cho chúng vài viên kí ninh, một ít chuỗi hạt cườm bằng thuỷ tinh và chút lương thự c. Tuy nhiên điều quan trọng nhất, sau khi được biết về bệnh tình của Iđrix, ông nói với Ghebơrơ, Khamix và hai tên Bêđuin:
    - Các ngươi hẳn biết là ta đến đây theo lệnh Của Mahơđi. - Ông bảo chúng.
    Nghe thấy thế chúng liền rập trán xuống đất, ông bèn nói tiếp:
    - Dọc đường, cá c ngươi phải cho bọn trẻ con ăn uống và đối xử với chúng thật tử tế. Bọn chú ng sẽ báo cáo lại cho ngài Xmainơ rõ cách đối xử của các ngươi, sau đó ngài Xmainơ sẽ viết cho Đấng tiên tri rõ về chuyện đó. Nếu như có lời phiền nào về các ngươi thì chuyến bưu điện sắp đến sẽ mang tới cho các ngươi bản án tử hình đấy, nghe chưa?
    Một cái lạy nữa là câu trả lời duy nhất đáp lại lời ông, còn Ghebơrơ và Khamix có vẻ mặt như những con chó bị người ta tròng rọ bịt mõm vào vậy.
    Ông lão Hy Lạp ra lệnh cho chúng đi, rồi nói bằng tiếng Anh với bọn trẻ:
    - Ta bịa ra tất cả những chuyện đó, vì bản thân Mahơđi không ra thêm lệnh nào nữa đối với các cháu. Song vì y đã nói là các cháu phải đến Phasôđa, nên cần phải làm sao cho các cháu sống được đến đấy. Ta cũng đồ rằng không tên nào trong bọn còn được gặp Mahơđi hay viên thống lĩnh trước khi lên đường nữa.
    Rồi ông nói với Xtas:
    - Ta đã và đang phật lòng về anh đấy, anh bạn trẻ ạ. Anh có biết là chút nữa thì anh giết cả ta không? Mahơđi giận lây sang cả ta, và để được y tha thứ, ta đã phải dâng cho Ápđulahi phần lớn tài sản của ta, ấy thế nhưng ta cũng vẫn chưa dám chắc liệu có cứu thân ta được lâu dài hay không nữa kia. Dù sao đi nữa, ta cũng không còn có thể cưu mang tù binh như ta đã làm được từ trước đến nay. Nhưng ta thương các cháu, nhất là (ông trỏ Nen) thương con bé... ta cũng có một đứa con gái vào tuổi như nó... mà ta yêu hơn cả mạng sống của bản thân... Vì nó, ta đã làm tất cả mọi chuyện như ta đã làm... Chúa Crixtô sẽ phán xét ta về chuyện đó... Cho tới nay nó vẫn mang trên ngực, giấu dưới làn áo, một cái thánh giá bằng bạc... Nó cũng cùng tên với cháu đấy, cháu bé của bác ạ. Giá như không có nó, ta thà chết, hơn là phải sống trong một cái địa ngục như ở đây.
    Và ông xúc động. Ông nín lặng một lúc lâu, rồi đưa tay lau trán, nói tiếp về chuyện khác.
    - Mahơđi gửi các cháu tới Phasôđa vì tin chắc rằng ở đó các cháu sẽ chết. Như vậy là ông ta có thể trả thù các cháu về sự bướng bỉnh của anh đấy, anh bạn trẻ ạ, sự bướng bỉnh đã xúc phạm sâu sắc tới ông ta. Đồng thời ông ta vẫn không bị mất đi quang vinh của một ?ođấng từ bi?. Ông ta bao giờ cũng thế... Nhưng ai mà biết được cái chết sẽ dành cho kẻ nào trước. Ápđulahi mớm cho ông ta cái ý định nên cử những con chó đã bắt cóc các cháu đi cùng với các cháu. Hắn đã thưởng công cho bọn chúng quá ít ỏi, giờ đây hắn lại sợ là chuyện đó lan rộng ra. Cả hắn ta lẫn tiên tri đều không muốn bọn người này sẽ loan tin rằng ở Ai Cập hãy còn nhiều quân, đại bác, tiền của và người Anh... Đườ ng đi xa xôi và khó khăn lắm đấy. Các cháu sẽ đi qua một vùng đất không người và đầy sơn lam chướng khí, nên các cháu hãy gìn giữ những viên thuốc mà ta đưa cho như giữ gìn con người mắt vậy.
    - Bác ơi, bác hãy ra lệnh thêm lần nữa cho Ghebơrơ để hắn không dám bỏ đói và đánh đập em Nen! - Xtas nói.
    - Các cháu đừng lo. Bác đã gửi gắm các cháu cho một người tù trưởng già, người sẽ đi áp tải chuyến bưu điện này. Đó là một người quen cũ của bác. Bác đã cho ông ta một chiếc đồng hồ, nhờ đó đã cậy ông ta chăm sóc các cháu.
    Nói xong, ông bắt đầu từ biệt. Bế xốc Nen lên tay, ông ghì chặt cô bé vào ngực và lặp đi lặp lại:
    - Cầu Chúa ban phước lành cho con, con của ta...
    Mặt trời đã lặn, đêm đã hiện lên đầy sao. Trong bóng đêm dậy lên tiếng ngựa thở rừ rừ và tiếng bước chân lạc đà thồ nặng hàng.
  7. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 20​
    Viên tù trưởng già Hatim đã giữ lời hứa với ông lão người Hy Lạp và cố gắng chăm sóc bọn trẻ. Con đường lên thượng nguồn sông Nin thật là gian khó.Họ đi qua Kêtaina, Et Đuchim và Cana, sau đó vượt qua Ápba, một hòn đảo giữa sông Nin phủ đầy rừng, trên đó, hồi trước chiến tranh, Mahơđi đã từng sống trong một thân cây rỗng lòng với tư cách một thầy tu - ẩn sĩ. Đoàn người thường phải đi vòng quanh những vù ng nước ngập rộng lớn mọc đầy cây cói giấy, những vùng nước ngập này thường được gọi là các xuda, từ đó, gió mang về hơi độc của các thứ lá mục bị dòng nước cuốn đi. Hồi trước, các kĩ sư người Anh đã từng phá bỏ các đập chắn tự nhiên này(1), nhữ ng con tầu chạy bằng hơi nước có thể chạy từ Kháctum tới tận Phasôđa và xa hơn nữa. Song giờ đây, dòng sông lại bị tắc nghẽn, không thể chảy tự do, nên tràn ra hai bên bờ. Vù ng lân cận bờ tả và hữu ngạn phủ đầy rừng cây cao vút, trong đó nhô lên những chiếc tổ mối và những cây gỗ khổng lồ đứng đơn độc. Nhiều nơi, rừng lan sát tận bờ sông. Những chỗ khô ráo hơn một chút mọc những bụi cây xiêm gai. Trong những tuần lễ đầu tiên, họ thường gặp các làng mạc và thị trấn Ả Rập, gồm những chiếc nhà mái lợp cuộng kê có hình chum khum khum kì lạ, song kể từ sau Ápba trở đi, từ làng Gôdơ Abu Guma, họ đi vào vùng đất của người da đen. Đó là một vùng đất hoàn toàn hoang vắng, vì các tín đồ Hồi giáo đã bắt gần như cạn sạch cư dân da đen trong vùng đem bán tại các chợ ở Kháctum, Omđuaman, Đara, Phaserơ, Em Obaiđơ và những thành phố khác của Xuđan, Đácphua và Coócđôphan. Những thổ dân khác kịp trốn tránh kiếp đời nô lệ trong bụi rậm hay trong rừng sâu, bị chết dần chết mòn bởi cái đói và bệnh đậu mùa, bệnh dịch này đang lan tràn với một sức mạnh chưa từng thấy dọc theo sông Nin Trắng và Nin Xanh.
    Chính các tín đồ Hồi giáo cũng phải nói rằng, hàng ?odân tộc? phải chết rụi vì bệnh dịch này. Những cánh đồng cao lương trước kia, những nương sắn và vườn chuối bị ngập trong rừng. Chỉ có những loài dã thú, không bị ai săn đuổi, là sinh sôi nảy nở rất nhiều.
    Nhiều hôm, trong ráng chiều, bọn trẻ nhìn ở phía xa xa nhữ ng đàn voi, trông giống như nhữ ng khối đá di động, đang chậm rãi bước về phía những nguồn nước quen thuộc đối với chúng. Nhìn thấy chúng, ông Hatim vốn trước là một tay chuyên buôn ngà voi, liền tắc lưỡi, thở dài và tâm sự với Xtas:
    - Trời ơi! Bao nhiêu là của cải ở đây. Nhưng bây giờ có săn bắn cũng chẳng ích gì, vì Mahơđi cấm các thương nhân Ai Cập đi lại Kháctum nên chẳng biết bán ngà cho ai nữa, ngoài việc bán cho các vị êmia làm tù và umbai.
    Ngoài voi, họ cũng gặp cả hươu cao cổ, bọn này khi trông thấy đoàn người liền bỏ chạy bằng một thứ nước kiệu nặng nề, lắc lư những chiếc cổ dài ngoẵng, trông như bị thọt. Từ Gôđơ Abu Guma trở đi, ngày càng xuất hiện nhiều trâu rừng và hàng đàn linh dương. Những người trong đoàn, khi bị thiếu thịt tươi, liền săn chúng, song gần như bao giờ cũng không có kết quả gì, vì những con vật cảnh giác và lanh lẹn này chẳng bao giờ cho phép người ta tiến đến gần hay bao vây chúng.
    Nói chung lương ăn của họ rất ít ỏi, vì vùng đất này không người nên không thể tìm được kê hay chuối cùng các loại cá, thứ sản vật mà ngày trước những cư dân da đen thuộc các bộ lạc Sinlúc và Đinca thường vui lòng đổi cho các khách thương lấy chuỗi hạt thuỷ tinh và những chiếc vòng đồng. Tuy nhiên, ông Hatim không để cho bọn trẻ bị chết đói, hơn nữa, ông còn khống chế Ghebơrơ rất chặt, và một lần, trong mộ t dịp nghỉ đêm, khi tên này đánh Xtas lúc em tháo yên cương lạc đà, ông đã ra lệnh nọc hắn ra đất, nện vào mỗi gót chân ba mươi hèo bằng roi tre. Tên Xuđan hung bạo suốt hai ngày liền chỉ có thể đi nhón trên đầu ngón chân mà nguyền rủa cái giây phút hắn rời khỏi Phaium, đồng thời trút cơn hận lên đầu một người nô lệ trẻ mà người ta tặng cho hắn, tên là Cali.
    Ban đầu Xtas gần như vui sướng vì được thoát khỏi thành Omđuaman ngạt thở và được trông thấy những vùng đất mà từ lâu em hằng mơ ước. Cho đến nay, cơ thể cường tráng của em chịu đựng nổi mọi nỗi nhọc nhằn trên đường, và việc ăn uống được cải thiện hơn đã trả về cho em nguồn nghị lực. Nhiều lần trên đường đi và tại những chỗ dừng chân tạm nghỉ, em thì thầm vào tai cô em gái rằng ở vùng sông Nin Trắng cũng vẫn có thể chạy trốn, và rằng em hoàn toàn không từ bỏ ý định này. Song em lo ngại về sức khoẻ của cô bé. Ba tuần sau khi rời khỏi Omđuaman, tuy Nen vẫn chưa bị bệnh sốt rét, nhưng mặt cô bé gầy hẳn, và thay vì rám nắng, cô bé mỗi lúc một trong suốt đi, đến nỗi hai bàn tay của cô trông cứ như được nặn bằng sáp. Cô bé không thiếu những cố gắng săn sóc, thậm chí cả những tiện nghi mà Xtas và bà Đina - với sự giúp đỡ của ông Hatim có thể tạo ra, nhưng cô bé thiếu đi cái khí trời lành mạnh của vùng sa mạc. Khí hậu ẩm ướt và nóng nực cộng với nỗi nhọc nhằn khi đi đường đã khiến cho sức khoẻ của đứa trẻ vốn yếu ớt thêm mòn mỏi.
    Kể từ Gôdơ Abu Guma trở đi, hàng ngày Xtas cho cô bé uống nửa viên kí ninh, và em rất lo ngại khi nghĩ rằng thứ thuốc này chẳng còn đủ dùng cho em được bao lâu nữa, mà sau đó cũng chẳng biết kiếm thêm ở đâu được. Tuy nhiên, chẳng có cách nào khác, vì trước hết cần phải phòng bệnh sốt rét cái đã. Thỉnh thoảng em lại cảm thấy tuyệt vọng. Em chỉ tự đánh lừa mình bằng hi vọng, rằng Xmainơ, nếu muốn đánh đổi hai đứa trẻ lấy con hắn, sẽ phải tìm cho chúng một địa điểm nào khác có khí hậu khá hơn Phasôđa.
    Song dường như nỗi bất hạnh cố tình đeo đẳng theo để săn đuổi các nạn nhân của nó. Một ngày trước khi tới Phasôđa, trong khi đang tháo cái gói chứa những thứ đồ dùng của Nen mang theo từ Phaium, bà Đina, vốn ngay từ hồi ở Omđuaman đã cả m thấy người rất yếu, bỗng nhiên bị ngất xỉu và ngã từ trên lưng lạ c đà xuống đất. Xtas và Khamix khó khăn lắm mới làm cho bà hồi tỉnh lại. Tuy nhiên, bà vẫn không hoàn toàn tỉnh táo, hay nói cho đúng hơn, chỉ tỉnh lại được một lúc vào chiều tối để ứa lệ từ giã cô chủ thân yêu của bà, rồi tắt nghỉ. Sau khi bà qua đời, Ghebơrơ cứ nằng nặc muốn cắt tai bà để sau này đưa cho Xmainơ làm bằng chứng rằng bà đã bị chết dọc đường, hòng đòi thêm tiền về chuyện đã bắt cóc được bà. Người ta vẫn thường làm như vậy đối với những nô lệ bị chết trong khi đi đường. Song ông Hatim, thể theo lời khẩn cầu của Xtas và Nen, không đồng ý cho hắn làm việc đó. Do vậy, họ chôn cất bà đầy thương tiếc, rồi dùng đá và gai bảo vệ mộ bà khỏi bị lũ linh cẩu phá. Bọn trẻ càng trở nên cô đơn hơn, vì mất bà, chúng mất đi cái tâm hồn gần gũi và gắn bó duy nhất với chúng.
    Đó là một đòn rất tàn khốc đối với Nen, khiến Xtas tuy cố gắng an ủi cô bé suốt đêm hôm ấy và ngày hôm sau nhưng cũng không kết quả.
    Đã qua ngày đi đường thứ sáu. Trưa hôm sau cả đoàn tới Phasôđa, song chỉ thấy một nơi bị đốt trụi. Các tín đồ của Mahơđi sống ngoài trời hay trong những túp lều dựng vội bằng cành cây và cỏ. Ba ngày trước đó cả làng này bị cháy trụi. Chỉ còn lại những bức tường đất sét ám khói của những túp lều hình tròn và một căn lều lớn bằng gỗ dựng sát bờ sông, căn lều từ thời Ai Cập vốn dùng để chứa ngà voi, và hiện là nơi viên thủ lĩnh của đám quân lính của Mahơđi đang ở. Viên thủ lĩnh đó là êmia Xêki Tamala. Đó là một người nổi tiếng trong số quân binh của Mahơđi, một kẻ thù giấu mình của thống lĩnh Ápđulahi, ngược lại, là người bạn thân của ông Hatim. Y đón tiếp nhiệt tình viên tù trưởng già cùng bọn trẻ, song ngay câu mở đầu đã báo cho họ tin chẳng lành.
    Đó là việc họ sẽ không gặp được Xmainơ ở Phasôđa. Hai ngày trước đây y đã lên đường đi săn bắt nô lệ về phía Đông và phía Nam sông Nin, và chẳng biết đến bao giờ y mới trở về, vì những vùng lân cận đã sạch người nên cần phải tìm món hàng sống này ở rất xa. Tuy gần Phasôđa là quốc gia Abixinia, quân Mahơđi hiện đang có chiến cuộc với nước này, nhưng trong tay chỉ có vẻn vẹn ba trăm người, Xmainơ không dám vượt qua biên giới hiện đang bị canh phòng nghiêm ngặt bởi các cư dân thiệ n chiến trong vùng và quân của vua Giăng.
    Vì vậy, Xêki Tamala và Hatim bắt đầu suy nghĩ xem phải làm thế nào đối với bọn trẻ. Cuộc bàn bạc diễn ra chủ yếu trong bữa ăn tối mà viên êmia mời cả Xtas và Nen cùng tham dự.
  8. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chẳng bao lâu nữa, - y nói với Hatim, - tôi cũng sẽ đưa tất cả mọi người lên đường tiến hành một cuộc tiễu phạt chống lại pasa Emin(2), kẻ hiện đang chiếm giữ Lađô, trong tay có cả tầu thuỷ và quân đội. Chính ông đã mang đến cho tôi cái mệnh lệnh ấy đấy, ông bạn Hatim ạ... Ông thì phải quay trở lại Omđuaman, nghĩa là chẳng còn mống nào ở lại Phasôđa nữa cả. Ở đây chẳng biết ở vào đâu, chẳng có gì ăn mà bệnh tật lại đang hoành hành. Tôi cũng biết là người da trắng không mắc bệnh đậu mùa, nhưng bệnh sốt rét thì chắc chắn sẽ giết bọn trẻ trong vòng một tháng.
    - Người ta ra lệnh cho tôi đưa chúng tới Phasôđa, - ông Hatim đáp - tôi đã đưa tới nơi và có thể không cần phải bận tâm về chúng nữa. Nhưng bạn tôi là ông Kaliopuli, người Hy Lạp, gửi gắm chúng cho tôi, nên tôi không muốn hai đứa phải chết.
    - Thế nhưng chuyện đó chắc chắn sẽ xảy ra đấy.
    - Vậy tôi phải làm gì bây giờ?
    - Thay vì để chúng ở lại Phasôđa trống rỗng, ông hãy gửi chúng tới chỗ Xmainơ cùng với bọn người đã đưa chúng tới Omđuaman. Ngài Xmainơ đi về phía núi, tới vùng đất cao và khô ráo hơn, nơi bệnh sốt rét không giết người nhiều như ở vùng sông.
    - Nhưng làm sao tìm được Xmainơ chứ?
    - Cứ theo vết lửa mà tìm. Ông ta sẽ đốt rừng, thứ nhất là để xua thú rừng vào những khu núi đá, nơi có thể dễ dàng bao vây và giết chúng, sau nữ a, để lùa bọn ngoại đạo ra khỏi vùng cây cối rậm rạp, nơi chúng ẩn náu trá nh khỏi bị săn bắt... chẳng khó gì không tìm ra Xmainơ đâu.
    - Nhưng liệu họ có đuổi kịp ông ta không?
    - Thỉnh thoảng ông ta lưu lại các địa phương một tuần liền vì ông ta phải sấy thịt cho khô đi. Cho nên dù hai ba ngày nữa mới lên đường, chắc chắn họ sẽ đuổi kịp ông ta.
    - Nhưng sao họ lại phải đuổi theo ông ta làm gì? Thế nào rồi ông ta chẳng phải quay trở lại Phasôđa.
    - Không đâu. Nếu như việc săn bắt nô lệ thành công, ông ta sẽ đưa chúng ra chợ bán tại các thành phố chứ...
    - Làm gì bây giờ nhỉ?
    - Nên nhớ là khi cả hai chúng ta rời khỏi Phasôđa, thì nếu như bệnh sốt rét không giết bọn trẻ, chúng cũng sẽ chết đói tại đây.
    - Lạy Đấng tiên tri. Quả có thế thật!
    Và quả thực không có cách nào khác ngoài cách đưa bọn trẻ dấn thân vào một cuộc lang bạt mới.Ông Hatim, vốn là người rất tốt bụng, chỉ lo lắng về việc liệu Ghebơrơ, kẻ mà ông đã biết là tàn bạo trong khi đi đường, có hành hạ bọn trẻ hay không. Song Xêki Tamala, người rất hung tợn, khiến cho ngay cả đám lính của y cũng phải kinh sợ, liền cho gọi tên Xuđan đến và ra lệnh cho hắn phải giao bọn trẻ sống nguyên vẹn đến tận tay Xmainơ, đồng thời phải đối xử tốt với chúng, nếu không thì sẽ bị treo cổ. Ông Hatim nhân hậu còn yêu cầu viên êmia cấp thêm cho Nen một nữ nô lệ để phục vụ và chăm sóc cô bé dọc đường cũng như ở trong trại của Xmainơ. Nen rất sung sướng vì món quà này, nhất là khi nô tì lại là một thiếu nữ thuộc bộ tộc Đinca, có nét mặt dễ thương và dáng vẻ ngọt ngào.
    Xtas biết rằng Phasôđa là đất chết, nên em không yêu cầu ông Hatim đừng đưa chúng vào một chuyến đi thứ ba này nữa.
    Tận đáy lòng em còn nghĩ rằng, khi tiến về phía Đông và phía Nam, càng ngày em càng tiến dần tới biên giới phía Nam của Abixinia và có thể sẽ trốn ngay. Em hi vọng rằng, trên những cao nguyên khô ráo, Nen có thể tránh khỏi bệnh sốt rét, và vì tất cả những lí do đó, em vui lòng và nhiệt thành đảm nhiệm việc chuẩn bị lên đường.
    Ghebơrơ, Khamix cùng bọn Bêđuin cũng không chống lại việc đi tiếp, vì chúng tính rằng, bên cạnh Xmainơ, chúng có thể sẽ săn bắt được nhiều nô lệ, rồi đem bán họ với giá hời tại cá c chợ.
    Chúng biết rõ rằng việc buôn bán nô lệ nhiều khi có thể mang lại những tài sản khổng lồ, và dù sao, chúng thà lên đường hơn là ở lại tại đây dưới trướng Hatim và Xêki Tamala.
    Tuy nhiên việc chuẩn bị cũng mất khá nhiều thời gian, nhất là vì bọn trẻ cần phải nghỉ ngơi. Lũ lạ c đà không còn có thể sử dụng làm phương tiện đi đường nữa, nên bọn Ả Rập cùng với Xtas và Nen sẽ đi ngựa, còn Cali - nô lệ của Ghebơrơ - và Mêa - cô hầu mới của Nen, theo tên gọi mà Xtas đề nghị - sẽ đi bộ theo sau ngựa. Ông Hatim còn cố gắng kiếm thêm một con lừa để chở theo cái lều dành cho cô bé Nen và lương ăn cho bọn trẻ trong ba ngày đường. Xêki Tamala không thể chia thêm được gì nữa cho cô bé.
    Người ta làm riêng cho Nen một thứ yên theo kiểu dành cho đàn bà bằng vải chăn, chiếu cọ và các thanh tre.
    Bọn trẻ được nghỉ ngơi ba ngày tại Phasôđa, song hằng hà sa số muỗi kéo từ sông đến khiến cho chuyện sống ở đây trở nên không thể nào chịu đựng nổi. Ban ngày xuất hiện hàng đàn nhặng xanh to tướng, chúng không đốt, nhưng khó chịu vô cùng, chúng chui vào tai, đậu lên mắt và thậm chí đậu vào miệng. Ngay từ hồi còn ở Port Xaiđơ, Xtas đã từng nghe nói rằng muỗi và ruồi truyền bệnh sốt rét và bệnh dịch đau mắt, nên cuối cù ng em yêu cầu Xêki Tamala cho phép được lên đường càng sớm càng tốt, nhất là khi mùa mưa xuân đang tiến lại gần.
    .
    --------------.
    1 Sau khi cuộc khởi loạn bị dẹp, giao thông lại được thông suốt (chú thích của tác giả).
    2 Pasa Emin, vốn là người Do thái gốc Đức, là thống đốc Equatoria, sau khi Ai Cập chiếm vùng đất nằm cạnh hồ AnbeNianda. Quân Mahơđi tấn công ông ta vài lần.
    Ông được Xtanlây cứu thoát cùng với phần lớn quân đội và đưa tới Bagamôiô nằmtrên bờ Ấn Độ dương.
  9. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 21​
    - Anh Xtas này, tại sao chúng ta cứ đi mãi, đi mãi, mà không thấy ông Xmainơ đâu cả?
    - Anh không biết. Chắc là ông ta đi nhanh lên phía trước để mau tới vùng có thể bắt được người da đen. Em muốn chúng mình được nhập ngay vào toán quân của ông ấy hay sao?
    Cô bé gật mái đầu hoe hoe của mình tỏ vẻ rất mong muốn điều đó.
    - Sao em lại muốn thế?
    - Bởi vì có thể là ở cạnh ông Xmainơ thì Ghebơrơsẽ không dám đánh thằng Cali tội nghiệp tàn tệ thế kia đâu.
    - Xmainơ cũng chẳng tốt gì hơn. Tất cả bọn chúng đều không hề biết thương tiếc gì nô lệ đâu em ạ.
    - Thế ư anh? Và hai giọt nước mắt lăn trên gò má đã gầy tọp đi của cô bé.
    Đã là ngày đi đường thứ mười. Thoạt đầu Ghebơrơ - bây giờ là thủ lĩnh của cả đoàn - dễ dàng tìm ra những dấu vết của gã Xmainơ. Nhữ ng vệt rừng cháy và những đống tro lửa trại đầy xương xẩu bị gặm nham nhở cùng với các thứ hài cốt khác chỉ ra con đường y đã đi qua. Nhưng sau năm ngày đi đường, họ gặp phải một khoảng đồng cỏ bị cháy rộng mênh mông, trên đó gió mang ngọn lửa đi khắp mọi hướng. Các dấu vết mờ nhạt đi và rối rắm hơn, vì hẳn là Xmainơ chia toán quân của y ra thành nhiều đội nhỏ hơn để dễ dàng vây cầm thú và kiếm lương ăn. Ghebơrơ không biết phải đi theo lối nào, và nhiều lần hình như là, sau khi đi một vòng tròn lớn, cả đoàn quay trở lại chỗ xuất phát ban đầu. Rồi sau đó, họ gặp phải một khu rừng, sau khi vượt qua rừng, họ tiến vào vùng đá sỏi, nơi mặt đất là những phiến đá lớn hay những cục đá nhỏ trải đầy trên một khoảng không gian to lớn, khiến bọn trẻ nhớ lại những con đường lát đá của thành phố. Ở đây rất ít cây cỏ.
    Thảng hoặc, trong các khe nứt mới có một vài cây xương khô, trinh nữ, và hiếm hoi hơn nữa là một loại cây thân gỗ mảnh mai màu lục nhạt mà Cali gọi theo ngôn ngữ Kixvahili bằng cái tên m''ti, loại cây này lá có thể dùng cho ngựa ăn. Trong vùng hoàn toàn không có khe hoặc suối, nhưng may thay, thỉnh thoảng trời bắt đầu đổ mưa, nên có thể tìm thấy nước trong các hõm đá.
    Những toán quân của Xmainơ đã xua sạch bọn thú rừng, và đoàn người cơ hồ có thể chết đói, nếu như không có hàng lũ chim pentácca, bọn này cứ chốc chốc lại từ dưới chân ngựa bay vụt lên, còn về chiều, chúng đậu kín trên các cây, dầy đến nỗi chỉ cần nổ súng về hướng thích hợp là đã có ngay vài con rụng xuống đất.
    Thêm vào đó, chúng chẳng nhát người chút nào, chúng để cho người ta đến thật gần rồi mới nặng nề và chậm chạp bay lên, đến nỗi con chó Xaba, chạy trước đoàn người, có thể gần như ngày nào cũng tóm được loài chim này.
    Mỗi ngày, Khamix hạ chừng hơn chục con bằng khẩu súng kíp cũ kĩ mà hắn đã lừa lấy được của một trong những tín đồ Hồi giáo dướ i quyền ông Hatim trong chuyến đi từ Omđuaman tới Phasôđa. Tuy nhiên, đạn thì hắn chỉ còn chừng hai chục viên, nên hắn lo ngại không hiểu sẽ ra sao khi số đạn đó bị cạn đi hết. Tuy các loài thú bị bạ t đi, nhưng thỉnh thoảng sau các khối đá cũng vẫn xuất hiện những bầy linh dương arien, giống linh dương tuyệt đẹp rất phổ biến trong toàn miền Trung Phi. Nhưng muốn săn linh dương arien thì phải bắn bằng khẩu súng của Xtas, khẩu súng mà Ghebơrơ không muốn đưa vào tay thằng bé chút nào.
    Tên Xuđan cũng bắt đầu lo ngại về chặng đường quá dài. Đôi khi hắn đã nghĩ tới việc quay trở về Phasôđa, vì nếu như họ vượt qua Xmainơ mà không gặp, thì rất có thể họ sẽ bị lạc lung tung trong những vùng hoàn toàn hoang dã nơi chưa kể tới chuyện đói, mà trước hết là họ sẽ bị đe doạ tấn công bởi các loài dã thú cùng những người dân da đen còn hoang dã hơn nữa, những người đang nghẹn thở vì căm thù những cuộc săn lùng mà người ta đã dành cho họ. Song do không được biết rằng Xêki Tamala đã lên đường đi đánh nhau với pasa Emin, nên hắn vô cùng lo sợ nghĩ đến chuyện quay trở về sẽ phải đứng đối diện với viên emia hùng mạnh, kẻ đã ra lệnh cho hắn phải mang bọn trẻ tới cho Xmainơ, đồng thời còn gửi cho ông ta một bức thư và nói rằng, nếu như hắn không hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ thì sẽ phải lên giá treo cổ. Tất cả những điều đó gộp lại khiến lòng hắn tràn ngập đắng cay và tức tối. Tuy nhiên, hắn không còn dám giận cá chém thớt trút những nỗi hận của mình lên Xtas và Nen nữa, ngược lại, tấm lưng của cậu bé Cali tội nghiệp ngày nào cũng phải toé máu dưới làn roi ngựa của hắn.
    Người nô lệ trẻ tiến lại gần ông chủ của mình bao giờ cũng run rẩy và sợ hãi. Nhưng chỉ vô ích thôi việc cậu ôm chân và hôn tay chủ, chỉ vô ích thôi việc cậu rập đầu trước mặt chủ. Trái tim sắt đá không hề bị rung động bởi sự quỵ luỵ cùng tiếng rên than, và y quất roi ngựa vì bất cứ chuyện gì, thậm chí ngay cả khi hoàn toàn vô duyên cớ, xuống tấm thân của cậu bé bất hạnh. Đêm đêm y dùng gông gỗ khoét lỗ gông chặt hai chân cậu bé để nó khỏi chạy trốn. Ban ngày cậu phải đi theo bên cạnh ngựa của Ghebơrơ, bị dắt bằng sợi dây thừng, chuyện này khiến cho gã Khamix rất khoái trá. Nen nhỏ lệ khóc than cho nỗi bất hạnh của Cali, còn Xtas phẫn nộ trong lòng và đã mấy lần hăng hái bảo vệ nó, nhưng khi nhận thấy rằng điều đó chỉ càng khiến cho Ghebơrơ bị kích thích hơn mà thôi, em đành nghiến chặt răng yên lặng.
    Song cậu bé Cali vẫn hiểu được rằng hai thiếu niên nọ ủng hộ mình, và do thế, cậu yêu thương họ sâu sắc bằng trái tim tội nghiệp đầy đau khổ của cậu.
    Từ hai ngày nay họ đi theo một khe núi đá có hai bờ cao vút dựng đứng. Cứ trông cảnh nhữ ng khối đá bị mang đi và vứt hỗn độn cũng có thể dễ dàng đoán rằng, trong mùa mưa, khe này đầy nước, nhưng hiện nay lòng khe hoàn toàn khô khốc. Dưới chân hai bức vách đá có một ít cỏ mọ c, nhiều cây gai, thảng hoặc đây đó còn có vài cây thân gỗ. Ghebơrơ chọn cái họng đá này vì thấy nó cứ dốc lên mãi, nên hắn đồ rằng có lẽ nó sẽ dẫn lên một vùng cao nguyên nào đó, trên ấy hắn sẽ dễ nhận ra vết khói về ban ngày hoặc ánh lửa về ban đêm từ trại Xmainơ. Nhiều chỗ, khe núi co thắt lại hẹp đến nỗi chỉ vừa đủ cho hai ngựa đi sóng hàng ngang, nhiều chỗ nó lại phình rộng ra thành những lòng thung nho nhỏ hình tròn, dường như được những bức tường đá vây quanh, trên đó những con vượn ngồi đùa nghịch với nhau, vừa kêu léc chéc vừa nhe răng ra với đoàn người.
    Lúc đó là năm giờ chiều. Mặt trời đã gần ngả về Tây.
    Ghebơrơ đã nghĩ tới chỗ trú đêm, tuy nhiên hắn còn muốn đi được tới một lũng núi nào đó để có thể dựng hà ng rào bằng cây trinh nữ gai và xiêm gai vây quanh đoàn người và ngựa để chống lại sự tấn công của lũ dã thú . Con chó Xaba chạy lên phía trước, sủa theo lũ vượn - bọn này trông thấy nó liền nhộn nhạo hoảng loạn - và chốc chốc lại mất hút sau một chỗ ngoặt của khe núi. Tiếng sủa của nó vọng lại to tướng, được dội đi dội lại.
    Bỗng nhiên tiếng nó im bặt, rồi lát sau, nó chạy lao trở lại phía đoàn ngựa, lông cổ dựng ngược cả lên, đuôi cụp sát xuống.
    Bọn Bêđuin và Garắc Ghebơrơ hiểu rằng có cái gì đó đã khiến nó hoảng sợ, nhưng sau khi liếc nhìn nhau và muốn biết xem cái đó là cái gì, chúng vẫn tiến lên. Song vừa vượt qua một chỗ ngoặt nhỏ, chúng vội kìm ngay ngựa lại và đứng sững như bị hoá đá trước cảnh tượng vừa đập vào mắt chúng.
    Trên một phiến đá không lớn lắm nằm ngay chính giữa lòng khe (chỗ này khe khá rộng) là một con sư tử đang nằm.
    Khoảng cách từ chỗ chúng đến con thú nhiều lắm là chừng trăm bước. Nhìn thấy người và ngựa, con thú khổng lồ nhổm dậy trên hai chân trước và bắt đầu đăm đăm nhìn chúng. Mặt trời đã xuống thấp chiếu ánh nắng xuống cái đầu to tướng của nó, xuống vòng ngực xù lông, và trong ráng chiều đỏ rực, trông nó giống như một con nhân sư được dùng để trang trí lối vào các đền đài Ai Cập cổ đại.
    Lũ ngựa khuỵu hai chân sau xuống, quay lùi trở lại. Người cưỡi thì kinh hồn và hoảng hốt, không hiểu cần phải làm gì, miệng họ chỉ thốt ra những tiếng kêu kinh hoàng và bất lực: ?oÔi Ala! Trời ơi! Lạy đức Ala!? Còn vị chúa tể của rừng từ trên cao nhìn xuống, bất động như được đúc bằng đồng.
    Ghebơrơ và Khamix đã từng nghe các khách thương buôn ngà voi và nhựa cây từ Xuđan đến Ai Cập kể rằng, đôi khi sư tử nằm chắn ngang đường người đi, và đoàn người bắt buộc phải đi đường vòng để tránh. Song ở đây chẳng còn biết tránh đi đường nào. Chỉ còn cách thối lui và bỏ chạy, nhưng nếu vậy thì chắc chắn là con vật dữ tợn này sẽ lao đuổi theo họ.
    Vì vậy những câu hỏi cuồng hoảng bật ra:
    - Làm gì?
    - Làm gì bây giờ?
    - Lạy đức Ala! Có thể nó sẽ tránh đường chăng?
    - Nó không tránh đâu.Rồi im lặng lại bao trùm. Chỉ nghe thấy tiếng thở hổ n hển củ a ***g ngực người và tiếng phì phò của ngựa mà thôi.
    - Thả thằng Cali ra! - Khamix bỗng nói với Ghebơrơ. - Chúng ta sẽ chạy trốn bằng ngựa, sư tử sẽ đuổi kịp nó trước tiên và chỉ thịt nó mà thôi.
    - Làm đi! - bọn Bêđuin phụ hoạ:
    Song Ghebơrơ hiểu rằng, nếu làm như thế thì chỉ trong nháy mắt, Cali sẽ trèo ngay lên vách đá, còn sư tử sẽ đuổi theo ngựa, nên trong óc hắn vụt nảy ra một ý định khác, vô cùng tàn bạo. Đó là đâm chết cậu bé rồi quẳng ra trước mặt; khi con thú dữ nhảy tới, nhìn thấy cái thây người đẫm máu, nó sẽ dừng lại để cắn xé đã.
    Hắn bèn kéo sợi thừng lôi Cali lại sát yên và đã vung dao lên, nhưng chính vào giây phút ấy Xtas đã giật ống tay áo rộng thùng thình của hắn lại.
  10. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    - Mày làm gì thế, đồ khốn nạn?
    Ghebơrơ cố giằng ra, và giá như cậu bé túm lấy tay hắn thì hắn đã giằng ra được ngay lập tức, nhưng với ống tay áo thì không dễ như thế, cho nên vừa giằng nhau hắn vừa gầm lên bằng giọng đã ngạt đi vì điên cuồng:
    - Đồ chó, nếu như thằng kia không đủ, thì tao sẽ chọc tiết cả chúng mày nữa! Ôi Ala! Tao sẽ chọc, sẽ chọc!
    Xtas tái người đi, vì nhanh như chớp vụt qua óc em ý nghĩ rằng, sư tử, trước hết đuổi theo ngựa, sẽ có thể bỏ qua cái thây Cali, và nếu vậy thì chắc chắn trăm phần trăm là Ghebơrơ sẽ lần lượt đâm chết ngay cả hai đứa.
    Sức lực như tăng gấp đôi, em vừa kéo mạnh tay áo của tên kia vừa thét to:
    - Đưa cho tôi khẩu súng!... Tôi sẽ giết chết sư tử!
    Bọn Bêđuin kinh ngạc khi nghe những lời này, nhưng Khamix, ngay từ hồi ở Port Xaiđơ đã được biết Xtas bắn như thế nào, liền kêu lên:
    - Đưa súng cho nó! Nó sẽ giết được sư tử!
    Ngay lập tức Ghebơrơ nhớ lại nhữ ng phát súng trên mặt hồ Carôun, và vì mối nguy hiểm chết người hiện tại, hắn nhanh chóng bỏ qua ý phản kháng. Hắn vội vã trao súng cho cậu bé, còn Khamix mở ngay hộp đựng đạn và Xtas vốc đầy một vốc tay.
    Rồi em nhảy xuống ngựa, lắp hai viên đạn vào súng, tiến lên phía trước.
    Trong những bước đầu tiên, em bước đi như bị mê, chỉ nhìn thấy trước mắt cảnh tượng em và Nen với cái cổ bị cắt ngang bởi con dao của Ghebơrơ. Nhưng mối nguy gần hơn và kinh khủng hơn khiến em quên đi những chuyện khác. Trước mặt em là con sư tử.
    Trông thấy con thú, em tối sầm cả mắt lại. Em cảm thấy gò má và mũi lạnh buốt đi, chân nặng trịch như chì và ngực ngột thở. Em sợ. Hồi ở Port Xaiđơ em đã từng được đọc - thậm chí ngay trong giờ học - về những cuộc săn sư tử, nhưng xem tranh trong sách là một chuyện, còn đứng đối diện với con quái vật này lại là chuyện khác hẳn, con vật mà giờ đây đang nhìn em dường như ngạc nhiên, cái trán rộng như một chiếc khiên nhíu lại.
    Bọn Ả Rập nín thở, vì trong đời chúng chưa bao giờ trông thấy một cảnh tượng như thế này. Một bên là một thiếu niên nhỏ bé đứng giữa những khối đá cao vút trông lại càng nhỏ bé hơn, còn bên kia là một con dã thú khổng lồ , vàng rực trong ánh chiều, dữ tợn và đẹp tuyệt vời - ?oông chủ có cái đầu vĩ đại? như dân Xuđan thường gọi.
    Xtas dồn toàn bộ ý chí cưỡng lại sự bất lực của đôi chân để bước tiếp lên phía trước. Tuy vậy có lúc em tưởng như trái tim em vọt lên tận cổ họng, song cảm giác đó chỉ kéo dài cho tới khi em nâng súng lên ngang mặt. Lúc này cần phải nghĩ tới chuyện khác.
    Tiến lại gần hơn nữa hay bắn ngay? Nhằm vào đâu? Khoảng cách càng ngắn thì phá t đạn càng chắc chắn... Vậy thì tiến lên, lên nữa!
    Bốn mươi bước hãy còn xa quá!... ba mươi! - Hai hai mươi! Hơi gió đã phả tới mùi hôi lộn mửa của con thú...
    Cậu bé đứng dừng lại.
    ?oHoặc là đạn trúng giữa hai mắt hoặc là mình rồi đời! - Em nghĩ thầm. - Nhân danh Cha và Con!...? Con sư tử đứng dậy, vươn cổ và hạ thấp đầu xuống. Cặp môi của nó bắt đầu hé mở, đôi lông mày nhíu xuống sát mắt. Cái sinh linh nhỏ nhoi kia dám tiến lại quá gần, nó chuẩn bị cho bước nhảy, khuỵu hai chân sau xuống, bắp đùi run run.
    Song chỉ trong mộ t chớp mắt Xtas thấy đầu ruồi khẩu súng hạ xuống ngang trán con thú, và em kéo cò.
    Tiếng súng vang lên. Con sư tử chồm dậy dựng đứng suốt cả chiều cao thân hình trong một giây rồi đổ vật xuống, bốn chân giơ lên trời.
    Trong cơn giẫy chết cuối cùng, nó lăn khỏi tảng đá rơi xuống đất.
    Xtas còn nhằm thẳng súng vào nó chuẩn bị sẵng sàng nhả đạn thêm mấy phát nữa, nhưng khi thấy những cái giật sững lại và cái thân màu hoe vàng ưỡn ra bất động, em liền mở súng và nạp thêm một viên đạn nữa.
    Vách đá còn vang âm tiếng vọng, Ghebơrơ, Khamix và bọn Bêđuin không thể thấy ngay được chuyện gì đã xảy ra, vì đêm trước trời mưa, không khí còn ẩm khiến khói che mờ cả khe núi hẹp. Mãi tới khi khói tan đi, bọn chúng mới vui sướng kêu lên và muốn lao tới phía cậu bé, nhưng vô hiệu, vì không sức mạnh nào có thể khiến lũ ngựa tiến thêm một bước lên phía trước.
    Còn Xtas quay người lại đưa mắt nhìn bốn tên Ả Rập, rồi chĩa thẳng cái nhìn vào Ghebơrơ.
    - Ôi, đủ rồi! - Cậu rít qua hai hàm răng nghiến chặt. - Mày đã vượt quá mức rồi! Mày sẽ không bao giờ giết nổi Nen, không bao giờ giết thêm một ai nữa!
    Và bỗng nhiên em cảm thấy mũi và gò má lại lạnh toát đi, nhưng là một thứ lạnh khác hẳn, cái lạnh không phải nẩy sinh từ nỗi sợ mà từ một quyết định kinh khủng không gì lay chuyển nổi, với quyết định ấy trái tim trong ***g ngực em hiện thời như biến thành sắt thép.
    Phải! Đây là bọn khốn nạn, bọn đao phủ, lũ giết người, còn Nen thì đang nằm trong tay chúng!...
    - Mày sẽ không thể giết được Nen nữa đâu. - Emnhắc lại. Em tiến lại phía bọn chúng - đứng lại - và đột nhiên, nhanh như chớp, nâng súng lên ngang mặt.
    Hai phát súng nối nhau vang động khe núi: Ghebơrơ nhào xuống đất như bị cát, còn Khamix gục đầu xuống yên, đập trán vào cổ ngựa.
    Hai tên Bêđuin thét lên một tiếng khủng khiếp vì kinh hoàng, chúng nhảy phắt xuống ngựa lao lại phía Xtas. Chỗ ngoặt chỉ cách phía sau chúng không bao xa, và giá như chúng chạy trốn về phía sau - điều mà Xtas thầm mong - thì hẳn là chúng đã có thể tránh được cái chết. Nhưng mù quáng vì hãi hùng và điên giận, chúng tưởng là sẽ tới được chỗ cậu bé trước khi cậu kịp tháo đạn và sẽ dùng dao băm vằm cậu. Bọn ngu xuẩn! Chúng vừa kịp chạy được hơn mười bước chân thì khẩu súng ghê gớm lại khạc đạn, khe núi lại vang âm những tiếng nổ mới, cả hai ngã gục mặt xuống đất, lăn lộn giãy giụa như cá bị vứt lên cạn.
    Một tên - bị bắn không được chính xác lắm trong lúc vội vã - còn cố chống tay nhổm dậy, nhưng ngay lúc đó, Xaba đã cắn ngập răng vào gáy hắn.
    Một sự im lặng đầy chết chóc bao trùm.
    Mãi sau, sự im lặng mới bị gián đoạn bởi tiếng thổn thức của Cali, nó quỳ sụp xuống đất, đưa hai tay ra trước mặt và kêu lên bằng tiếng Kixvahili đứt đoạn:
    -Bvana kubva (ông lớn) giết sư tử, giết người xấu, đừng giết Cali.
    Song Xtas chẳng để ý gì tới tiếng kêu van của nó. Cậu bé đứng lặng một lúc, sững sờ, rồi khi nhìn thấy khuôn mặt trắng nhợt ra của Nen và đôi mắt nửa tỉnh nửa mê mở rộng đầy thảng thốt của cô bé, em liền nhảy vọt tới phía Nen:
    - Nen! Đừng sợ!... Nen! Chúng ta được tự do rồi...
    Quả thực các em đã được tự do, nhưng đang bị lạc trong vùng rừng thẳm hoang vu không một bóng người, trong những vực sâu khôn cùng của ?olục địa đen?.

Chia sẻ trang này