1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trên sa mạc và trong rừng thẳm - henrik Sienkievich

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi pathetique, 29/11/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 27​
    Trong cây gỗ có hai lỗ: một lỗ rộng rãi cách mặt đất chừng nửa mét, lỗ thứ hai nhỏ hơn, nằm ở chiều cao của tầng hai các ngôi nhà thành phố. Mêa vừa ném vào lỗ phía dưới mấy cành cây đang cháy tỏa khói mù mịt thì từ lỗ phía trên liền bay vọt ra những chú dơi to tướng. Bị quáng mắt vì ánh sáng mặt trời, chúng kêu rít lên, bay như điên dại chung quanh thân cây. Lát sau từ lỗ phía dưới vị chủ nhà chính lao ra như một tia chớp, đó là một con trăn khổng lồ. Hình như trong trạng thái nửa thức nửa ngủ nó đang tiêu hóa nốt bữa tiệc vừa xơi thì bị khói xộc vào mũi nên choàng tỉnh dậy và tìm cách tháo thân. Thấy cái thân hình rắn như sắt tựa một thanh lò xo khổng lồ lao vọt ra từ cái hốc cây nghi ngút khói, Xtas liền bế thốc Nen trên tay chạy thục mạng về phía cửa rừng.
    Nhưng chính con bò sát ấy cũng kinh hoàng không kém. Chẳng nghĩ tới chuyện đuổi theo lũ trẻ, nó quằn mình trong cỏ và những gói đồ đạc đang mở tung, lao nhanh như chớp về phía khe núi, hẳn là muốn náu mình trong các tảng đá và khe nứt. Bọn trẻ hoàn hồn lại. Xtas đặt Nen xuống đất vọt tới lấy súng chạy theo sau con trăn về phía khe, còn Nen cũng chạy theo sau. Nhưng chỉ được hơn chục bước chân, chúng nhìn thấy một cảnh tượng khiến chúng đứng sững như trời trồng.
    Trong chớp mắt thân hình con trăn hiện ra rất cao trên vùng khe, vạch lên một đường loằng ngoằng trong không gian rồi rơi xuống phía dưới. Lát sau nó lại xuất hiện lần thứ hai rồi lại rơi xuống. Bọn trẻ lao tới bờ vực và kinh ngạc nhìn thấy người bạn mới của chúng - con voi nọ - đang bỡn với trăn, và sau khi đã tung cho ông bạn trăn thực hiện hai chuyế n du hành trong không trung, giờ đây đang dùng bàn chân to như thớt đá giẫm nát đầu con trăn. Xong việc, nó lại dùng vòi nhấc cái thân hình hãy còn run rẩy lên, ném đi một lần nữa, nhưng lần này không lên cao mà lại ném thẳng xuống thác. Sau đó, gật gù đầu về hai phía, vẫy vẫy đôi tai, nó nhìn thẳng vào Nen rồi đưa vòi về phía cô bé dường như đòi lĩnh phần thưởng sau cái hành động vừa anh hùng vừa thận trọng kia của mình.
    Nen lập tức lao về lều và quay trở lại với một bọc đầy quả vả dại, cô bé bắt đầu ném từng vài quả một cho voi, còn nó dùng vòi tìm thật hết những quả rơi trong cỏ cho từng quả vào mồm. Những quả bị rơi xuống các khe sâu hơn, nó thổi bật lên với một sức mạnh khiến cho cả những cục đá to bằng nắm tay người cũng bay lên cùng với quả. Bọn trẻ vỗ tay hoan hô reo cười khen ngợi trò biểu diễn này. Nen mấy lần chạy về lấy thêm thức ăn và cứ mỗi quả vả ném đi cô bé lạ i không quên nhắc lại rằng con voi đã hoàn toàn thuần và ngay lúc này, bọn trẻ cũng đã có thể xuống với nó.
    - Anh thấy chưa, anh Xtas, thế là chú ng mình sẽ có một người hộ vệ!... Nó chẳng sợ con gì trong sa mạc hết: cả sư tử, rắn rết lẫn cá sấu. Nó lại rất tốt bụng và chắc chắn là rất yêu mến chúng mình.
    - Nếu như nó thuần được - Xtas nói, - và nếu như anh có thể để em lại cho nó trông nom thì quả thực anh hoàn toàn yên tâm đi săn bắn, vì trong cả châu Phi này không thể tìm đâu ra cho em một hộ sĩ tốt hơn nó nữa.
    Rồi lát sau cậu bé nói thêm:
    - Voi ở đây nói chung hoang dã hơn, nhưng anh đã từng đọc thấy rằng voi Á châu rất mềm yếu, mềm yếu một các kì lạ đối với trẻ con. Tại Ấn Độ chưa từng có trường hợp nào voi làm hại trẻ con, và nếu như voi phát khùng, thì những người quản tượng bản xứ thường làm chúng nguôi đi bằng cách mang trẻ con tới.
    - Đấy, anh thấy chưa, anh thấy chưa nào?
    - Dù sao đi nữa, em cũng hành động đúng khi không cho anh giết chết nó.
    Đôi đồng tử của Nen bừng lên ánh vui sướng, giống hệt hai ngọn lửa màu xanh lục. Đứng nhón trên các đầu ngón chân, cô bé đặt cả hai tay lên vai Xtas rồi ngả người ra phía sau cô bé nhìn thẳng vào mắt cậu:
    - Thế em đã hành động như người bao nhiêu tuổi? Nào, nói đi anh, như em bao nhiêu tuổi nào? Cậu bé đáp:
    - Ít nhất cũng bảy mươi.
    - Anh thì lúc nào cũng đùa được.
    - Giận đi, cứ giận đi. Thế ai sẽ giải phóng cho con voi nào?
    Nghe thấy thế, Nen lập tức trở lại hiền dịu như một con mèo con.
    - Anh chứ ai, và em sẽ rất yêu anh, cả con voi cũng thế.
    - Anh đang nghĩ cách, - Xtas nói, - nhưng đó là một việc rất khó, anh sẽ không làm ngay bây giờ, mà sẽ làm lúc chúng mình sắp lên đường đi tiếp.
    - Sao thế anh?
    - Vì rằng, nếu anh giải thoát cho nó trước khi nó thuần và hoàn toàn gắn bó với chúng ta thì nó sẽ bỏ đi mất.
    - Ồ, nó sẽ không bỏ em mà đi đâu!- Em nghĩ như thể nó là anh không bằng ấy! -Xtas đáp vẻ hơi bẳn.
    Cuộc trò chuyện bị Cali làm gián đoạn, cậu bé da đen quay trở về mang theo con ngựa vằn cái săn được và con ngựa con bị Xaba gặm một ít. Thật là may cho con chó, vì chạy theo Cali, nó không có mặt trong khi giải quyết con trăn, chứ nếu không nó đã lao theo con trăn và chắc sẽ chết trong những vòng cuộn siết của thân mình con vật trước khi Xtas kịp tới cứu. Vì chuyện gặm con ngựa vằn con, nó bị Nen bẹo tai, nhưng thực ra nó cũng chẳng để tâm gì lắm tới hình phạt đó, thậm chí nó cũng không rụt cái lưỡi đang thè ra khi đi săn về nữa.
    Xtas nói lại cho Cali rằng cậu muốn làm nhà trong thân cây và thuật lại cho nó nghe chuyện đã xảy ra khi dùng khói hun bộng cây, cũng như chuyện con voi đã đối xử với con trăn như thế nào.
    Cậu bé da đen rất thích sáng kiến vào ở trong cây bao báp, cái cây không chỉ che mưa mà còn có thể che chở cho bọn trẻ khỏi các loài dã thú, song hành động của con voi lại không được nó tán đồng chút nào. Nó bảo:
    - Voi thật ngu ngốc, nên mới vứt con rắn vào cái nước gầm còn Cali thì biết rằng con rắn tốt ăn, nên Cali sẽ đi tới cái nước gầm để tìm lại, rồi nướng nó lên vì Cali thông minh và là donkey.
    - Cậu là donkey, đồng ý! - Xtas đáp. - Nhưng cậu sẽ không ăn thịt con rắn chứ hả?
    - Con rắn tốt ăn! - Cali nhắc lại:Và chỉ vào con ngựa vằn bị giết, nó nói thêm:
    - Tốt ăn hơn cái thịt này.
    Sau đó cả hai tới bên cây bao báp để bắt tay vào việc sửa soạn chỗ ở. Cali tìm bên sông một phiến đá phẳng to bằng mặt sàng lớn đặt vào trong bộng cây, đặt những cục than đang cháy lên trên đó, chú ý sao cho những lớp gỗ mục trong lòng cây không bị bén gây cháy cả cây. Nó nói rằng làm thế nào cho ?okhỏi có con gì cắn ông lớn và cô bé?. Hóa ra, đó hoàn toàn không phải là một chuyện cẩn thận quá đáng, vì khi khí than tràn ngập trong thân cây thì từ các chỗ nứt nẻ của vỏ cây bắt đầu trườn ra đủ mọi thứ sinh vật khác nhau: những con bọ sừng màu đen tuyền và màu nâu chín, những chú nhện lông lá to như quả mận chín, những con sâu mình đầy gai to bằng ngón tay, và cả những con rết độc kinh tởm và vết cắn có thể làm chết người. Và căn cứ vào nhữ ng gì diễn ra phía bên ngoài thân cây, đễ dàng có thể đoán được có biết bao nhiêu loài sinh vật tương tự đã chết ngạt bởi hơi than bên trong ruột cây. Cali dùng đá nghiền nát không thương tiếc tất cả những con vật từ vỏ cây và từ những cành thấp rơi ra cỏ, vừa làm nó vừa dòm chừng vào cái hốc dưới và hốc trên dường như e sợ một con gì đó sẽ bất ngờ lao ra.
    - Sao cậu cứ dòm chừng thế? - Xtas hỏi - cậunghĩ rằng một con trăn thứ hai còn đang ẩn náu trong thân cây chăng?
    - Không đâu, - Cali sợ Mdimu.
    - Mdimu là cái gì?
    - Cái ma.
    - Cậu đã trông thấy cái ma bao giờ chưa đã?
    - Chưa, nhưng Cali đã nghe thấy những tiếng kêu kinh khủng của cái ma trong nhà của thầy phù thủy.
    - Thế các thầy phù thủy của các cậu không sợ cái ma hay sao?
    - Các thầy phù thủy biết cách niệm chú gọi cái ma, rồi đi tới các lều nói rằng cái ma nổi giận, thế là người da đen mang tới cho họ nào chuối, nào mật ong, nào rượu pomba, nào trứng, nào thịt để họ cầu xin cái ma cho.
    Xtas nhún vai.
    - Rõ ràng làm nghề phù thủy ở chỗ các cậu sướng thật đấy.
    Nhưng cũng có thể con trăn vừa rồi là cái ma chăng?
    Cali lắc đầu quầy quậy.
    - Nếu thế thì không phải voi giết chết cái ma mà cái ma giết chết voi ngay. Cái ma là cái chết đấy...
    Bỗng nhiên có tiếng động rầm rầm và tiếng ồn ào trong lòng cây gỗ làm gián đoạn lời thằng bé. Từ cái hốc cây phía dưới bùng lên một đám bụi lạ màu hung đỏ, tiếp đó lại vang lên tiếng rầm rầm còn dữ dội hơn lần trước.
    Trong nháy mắt, Cali quỳ sụp xuố ng đất và bắt đầu kêu thét lên kinh hoàng:
    - Aka! Mdi-mu! Aka! Aka! Aka!
    Thoạt tiên, Xtas cũng tự nhiên thụt lùi, nhưng em nhanh chóng định thần lại, và khi Nen cùng Mêa chạy tới, em bắt đầu giải thích chuyện gì đã xảy ra.
    - Có thể là - em nói - những thớ mục trong thân cây bị nóng đã đổ sụp xuống phía dưới, phủ lên than. Thế mà nó lại nghĩ đó là Mdimu. Tuy nhiên Mêa hãy vẩy nước vài lần vào hốc cây đi, nếu không than thiếu không khí sẽ không tắt mà cứ cháy ngú n trong đó rồi lại bùng lên đấy.
    Rồi trông thấy Cali vẫn đang phủ phục, không ngừng lắp bắp kinh hoàng: ?oAka! Aka!?, em bèn với lấy khẩu sú ng kíp vẫn dùng để săn chim pentacca bắn một phát vào gốc cây và vừa nói vừa dùng báng súng lay thằng bé dậy:
    - Này, cái ma của cậu đã bị giết chết rồi! Đừng sợ nữa! Cali nhổm dậy nhưng vẫn ở tư thế quỳ:
    - Ôi, ông lớn, ông lớn... Ông không sợ cả cái ma hay sao?
    - Aka! Aka! - Xtas kêu lên nhại theo giọng cậu bé da đen.
    Và nó bật cười.
    Một lát sau Cali bình tĩnh lại hoàn toàn và khi ngồi vào ăn những thức mà Mêa đã sửa soạn thì dường như cơn sợ hãi trong chốc lát hoàn toàn không khiến nó mất ngon miệng chút nào, vì ngoài suất thịt khô nó còn chén hết cả một lá gan tươi của con ngựa vằn con, chưa kể tới những quả dại mà cây sung Ai Cập mọc gần đấy cung cấp với số lượng dồi dào. Sau đó, cùng với Xtas, nó quay trở lại chỗ cây bao báp vì ở đó hãy còn vô khối công việc. Việc vứt bỏ những thớ gỗ mục ruỗng, than củi, hàng trăm con bọ sừng chết thui, những con bọ đất to tướng cùng với hơn chục con dơi bị nướng chín khiến chúng phải mất hơn hai tiếng đồng hồ. Xtas ngạc nhiên tại sao lũ dơi lại có thể sống chung với con trăn, nhưng sau em nghĩ ra rằng hoặc là con trăn khổng lồ không màng tới những miếng mồi quá nhỏ bé này, hoặc là trong bộng cây, không có cái gì tựa để cuộn mình nên nó không thể với tới được lũ dơi.
    Hơi nóng của lửa than làm những lớp gỗ mục ruỗng đổ sụp xuống đã khiến cho bên trong thân cây rất sạch sẽ; trông thấy thế, Xtas vô cùng vui sướng, vì bên trong rộng như một căn phòng lớn, có thể làm nơi nương thân không phải chỉ cho bốn mà đủ chỗ cho cả chục người. Cái hốc phía dưới trở thành cửa ra vào, hốc phía trên là cửa sổ, nhờ thế trong ruột cái cây khổng lồ không hề tối tăm hay ngột thở. Xtas nghĩ tới việc dùng vải lều chia toàn bộ bên trong ra làm hai phòng, một dành cho Nen và Mêa, một cho mình, Cali và con Xaba. Cây gỗ không bị ruỗng đến tận ngọn nên nước mưa không thể chảy vào bên trong và không cần phải che mưa, chỉ cần lấy vỏ cây chắn bên trên hai cái lỗ làm thành mái che mưa là đủ.
    Bọn trẻ quyết định sẽ dùng cát nóng ở bờ sông mang về rải bên trong, còn trên mặt cát thì trải rêu khô.
    Công việc quả là nặng nhọc vô cùng, nhất là đối với Cali, vì ngoài việc đó ra, nó còn phải sấy thịt, cho ngựa uống nước và lo lương thực cho con voi, chú voi luôn luôn rống lên đòi ăn. Song, cậu bé da đen rất nhiệt tình lao vào việc tạo dựng chỗ ở mới, lí do của sự nhiệt tình này cậu bé đã tuyên bố với Xtas ngay trong ngày hôm đó như sau:
    - Nếu ông lớn và cô vào ở trong lòng cây gỗ - nó vừa nói vừa khoanh tay quanh bụng, - thì Cali sẽ không phải đêm nào cũng dựng hàng rào lớn và chiều chiều có thể ngồi chơi không.
    - Thế cậu muốn ngồi chơi lắm à? - Xtas hỏi.
    - Cali là đàn ông mà, Cali thích ngồi chơi, chỉ có đàn bà là phải làm việc thôi.
    - Thế mà cậu thấy đấy, tớ vẫn làm việc phục vụ cho cô bé đấy thôi.
    - Thế nhưng khi cô bé lớn lên, sẽ phải làm việc cho ông lớ n, nếu như cô bé không muốn làm, thì chắc chắn ông lớn sẽ đánh cô bé ngay.
    Nhưng chỉ riêng cái ý nghĩ đánh cô bé đã khiến Xtas nhảy lên như phải bỏng, cậu kêu lên đầy giận dữ:
    - Đồ ngốc, cậu có biết cô bé là ai không đã?
    - Không biết ạ - cậu bé da đen sợ hãi đáp.
    - Cô bé là... là... Mdimu Tốt đấy!
    Cali sụp xuống đất.
    Sau khi công việc xong xuôi, nó rụt rè tiến đến bên Nen, quỳ sụp xuống đất, lặp đi lặp lại với giọng không phải sợ hãi nữa mà là cầu xin:
    - Aka! Aka! Aka!...
    Nhưng cái cô ?oMdimu Tốt? này tròn mắt nhìn nó, đôi mắt tuyệt đẹp, có màu lam của nước biển, hoàn toàn không hiểu chuyện gì xảy ra và chàng Cali nọ muốn gì?
  2. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 28​
    Nơi ở mới, mà Xtas đặt tên là ?oCracốp?(1), được hình thành trong vòng ba ngày. Nhưng trước đó, bọn trẻ đã đặt những gói đồ đạc chính vào ?ophòng con trai?, và trong những lúc trời đổ mưa lớn, bộ tứ đã tìm được trong cái thân khổng lồ một chỗ ẩn náu thật tuyệt vời, ngay trước khi hoàn thành nơi ở mới. Mùa mưa đã thật sự bắt đầu, nhưng đó hoàn toàn không giống như những ngày mưa thu dài dằng dặc của chúng ta, khi bầu trời đầy mây đen u ám và những làn mưa buồn tẻ nặng nề kéo dài hàng tuần liền. Còn ở nơi đây, hơn chục lần trong một ngày, gió mang qua bầu trời những đám mây nặng trĩu, tưới nước ào ạt xuống mặt đất, nhưng sau đó mặt trời lại bừng lên rực rỡ, dường như vừa mới được tắm gội tinh tươm và rót ánh vàng xuống những vách đá, dòng sông, cây cối và toàn bộ khu rừng. Cỏ mọc nhanh gần như trông thấy. Cây cối ra lá dày hơn và trước khi những quả già rụng xuống thì những mầm quả non mới đã hình thành. Do có chứa nước nên không khí trở nên trong suốt đến nỗi những vật ở rất xa cũng hiện ra hoàn toàn rõ nét, và tầm mắt có thể vươn xa đến một vùng rộng lớn. Trên bầu trời vắt vẻo những chiếc cầu vồ ng bảy sắc tuyệt đẹp, còn thác nước thì gần như lúc nào cũng lộ ng lẫy ánh hào quang của những chiếc cầu vồng được tạo thành. Ráng sáng và ráng chiều ngắn ngủ i gieo lung linh ngàn thứ sắc màu, đến nỗi ngay cả hồi ở sa mạc Libi bọn trẻ cũng chưa từng được trông thấy phong cảnh kì thú như thế bao giờ. Những đám mây thấp gần mặt đất nhất có màu anh đào, những đám mây phía trên được chiếu sáng nhiều hơn thì tràn ngập ra thành một mặt hồ đẫm sắc đỏ rực và vàng kim, còn những gợn sóng mây nhỏ nhỏ như tơ thì đổi sắc như hồng ngọc, thạch ngọc và bạch ngọc. Ban đêm, khoảng giữa hai làn mưa, mặt trăng biến những giọt nước sương treo trên lá cây xiêm và trinh nữ thành những viên kim cương lóng lánh, và ánh sáng hoàng đạo tỏa sáng rực rỡ hơn bất kì mùa nào khác trong bầu không khí vừa được tẩy cho trong lành.
    Từ phía những vùng nước do dòng sông hình thành ở bên dưới thác, vọng về tiếng kêu đầy lo lắng của ếch nhái và tiếng cóc buồn thảm, những chàng đom đóm trông như những vì sao xanh to lớn lang thang cứ bay từ bờ này sang bờ kia, giữa những lùm tre và những bụi cây chân bê.
    Song những khi mây đen che kín bầu trời sao và mưa bắt đầu rơi thì trời lại đen sầm, trong ruột cây bao báp cứ tối như dưới hầm vậy. Muốn tránh tình cảnh đó, Xtas bảo Mêa rán mỡ của những con thú săn được, lấy vỏ đồ hộp làm một chiếc đèn treo dưới cái lỗ thông ở phía trên, vẫn được bọn trẻ gọi là cửa sổ. Trong bóng đêm, ánh sáng rọi từ chiếc cửa sổ này có thể trông thấy được từ rất xa, xua đuổi bớt các loài dã thú, nhưng lại thu hút lũ dơi và cả những con chim, đến nỗi cuối cùng Cali phải làm ở đó một tấm rèm gai, giống như cái hàng rào mà đêm đêm nó dùng để bịt kín lỗ thông phía dưới.
    Còn ban ngày, trong những phút đẹp trời, bọn trẻ rời ?oCracốp? tỏa đi khắp mũi đất, Xtas thì đi săn linh dương arien và đà điểu (giống chim này xuất hiện từng đàn lớn ở phía hạ lưu dòng sông), Nen tới với chàng voi của mình. Ban đầu con vật chỉ rống lên đòi ăn, nhưng về sau nó bắt đầu rống lên cả khi thấy thiếu vắng cô bạn bé nhỏ nữa. Và lúc nào nó cũng chào đón cô bé với một niềm sung sướng rõ rệt, thoạt nghe thấy giọng nói hoặ c tiếng bước chân của cô bé ở xa xa là nó đã dỏng ngay tai lên rồi.
    Một lần, khi Xtas đang đi săn bắ n, Cali đang câu cá dưới thác, Nen quyết định tới cái khối đá đang bít kín khe núi để xem thử Xtas đã làm đượcgì với nó hay chưa. Đang bận lo chuẩn bị bữa trưa, Mêa không để ý đến việc cô bé bỏ đi, còn Nen thì hái trên đường đi những đóa thu hải đường kì lạ mọc đầy trong các rạn đá và tiến lại phía sườn dốc mà dạo trước cả bọn đã đi theo để leo lên bờ khe. Sau khi tụt xuống, Nen đến được chân phiến đá. Phiến đá khổng lồ tách ra từ vách đá mẹ vẫn bịt kín họng khe núi như lúc trước. Song, Nen để ý thấy giữa nó và vách đá có một cái khe rộng đến độ người lớn cũng có thể trườn qua được. Cô bé ngần ngừ một lúc rồi lần sang phía bên kia. Phía đó còn có một chỗ ngoặt nữa mà cô bé phải đi qua trước khi tới đượ c chỗ thoát của khe núi bị thác nước chắn ngang. Nen bắt đầu cân nhắc: ?oMình chỉ đi thêm một chút xíu nữa thôi, nấp sau tảng đá mình chỉ ngó con voi một lần thôi, nó không thể trông thấy mình được, rồi mình sẽ quay về ngay?. Nghĩ thế, cô bé hết bước này đến bước khác tiến xa hơn, mãi đến chỗ khe núi đột nhiên phình rộng thành một lòng thung nho nhỏ, thì nhìn thấy con voi. Nó đang đứng quay đuôi về phía cô bé, vòi nhúngxuống nước và đang uống nước. Điều đó khiến cô bé thêm bạo dạn. Nen dán mình vào vách đá, cô bé tiến thêm mấy bước chân nữa, mấy bước nữa, và khi con voi muốn phun nước lên sườn - nó quay đầu lại và trông thấy cô bé, vừa trông thấy nó liền lao tới phía Nen.
    Nen sợ lắm, nhưng không kịp quay trở lại nữa, nên áp sát hai đầu gối vào nhau, cô bé nhún mình chào con voi, rồi chìa tay đang cầm những đóa thu hải đường ra cô bé cất tiếng thanh thanh hơi run run nói:
    - Xin chào voi, voi thân yêu! Tôi biết là voi không làm gì hại tôi nên tôi đến để chào voi... tôi cũng chỉ có mấy bông hoa này thôi...
    Con vật khổng lồ tiến lại gần, vươn vòi ra túm lấy chùm thu hải đường trong tay Nen, nhưng vừa cho vào miệng nó lại thả rơi ngay xuố ng đất, rõ ràng là những cái lá nhám xì lẫn những bông hoa đều không ngon miệng nó tí nào. Nen trông thấy ngay trước mặt mình cái vòi có hình một con rắn khổng lồ màu đen, cứ cuộn vào rồi lại duỗi ra, chạm vào tay này rồi tay kia của cô bé, chạm vào hai vai, rồi sau rốt nó hạ xuống, bắt đầu ve vẩy nhè nhẹ sang hai bên.
    - Tôi biết là voi không làm gì hại tôi, - cô bé nhắc lại, dẫu nỗi sợ hãi vẫn chưa rời cô.
    Còn voi thì lật hai cái tai to như trong chuyện cổ tích ra phía sau, cuộn và mở vòi, đồng thời kêu lên những tiếng kêu khe khẽ đầy sung sướng như vẫn kêu mọi lần khi cô bé lại gần mép khe núi.
    Và cũng như cái lần Xtas đứng đối diện với sư tử, lúc này cả hai lại đứng đối diện với nhau - con voi thì khổng lồ, to như một căn nhà hay một tảng đá, còn cô bé thì chỉ là một cái mẩu nhỏ nhoi mà nó có thể giẫm bẹp bằng một cử động, thậm chí chỉ một cử động do vô ý chứ cũng không phải vì thù địch gì cả.
    Nhưng con vật tốt bụng và tinh khôn không hề làm một cử động nào giận dữ hay vô tình, và rõ ràng là nó vui sướng và hạnh phúc trước cuộc viếng thăm của vị khách nhỏ bé này.
    Nen dần dần bạo dạn hơn, cô ngước mắt như nhìn lên mái nhà cao, vừa hỏi vừa rụt rè chìa tay ra:
    - Tôi có thể vuốt vòi voi được chứ?
    Thực ra con voi không biết tiếng Anh, nhưng do cử chỉ của bàn tay cô, nó cũng đoán ra được, và nó bèn chìa cái mũi dài hai mét của mình lại gần bàn tay cô bé.
    Nen bắt đầu vuốt ve vòi con voi, ban đầu chỉ một tay và thận trọng, sau thì cô bé ôm cả hai tay và áp cả ngườ i vào đó bằng sự tin cẩn của trẻ thơ.
    Con voi nhấc nhổm chân này tiếp chân khác và vẫn tiếp tục kêu lên khe khẽ vì sung sướng.
    Rồi lát sau, nó dùng vòi cuộn lấy thân hình nhỏ bé của Nen nhấc lên cao và bắt đầu đánh đu nhẹ nhàng sang bên trái rồi bên phải.
    - Nữa nào, nữa nào! - Nen thích thú kêu lên.
    Trò chơi kéo dài thật lâu, rồi sau khi đã hoàn toàn bạo dạn, cô bé cố tìm cách leo theo chân trước của con voi như theo một thân cây, hoặc nấp dưới người nó và hỏi xem nó có tìm được không.
    Nhưng trong khi đang chơi những trò nghịch ngợm tinh quái như thế, cô bé phát hiện ra rằng ở chân trước và nhất là chân sau voi có nhiều gai cắm vào mà con voi không làm sao rứt ra được, trước hết vì vòi nó không thể thoải mái chạm tới chân sau, và sau nữa, hình như nó sợ làm bị thương cái chỏm vòi, thiếu cái đó thì vòi mất đi hoàn toàn sự khéo léo và lanh lẹ của mình. Nen hoàn toàn không biết rằng những chiếc gai như thế quả thật là tai họa đối với voi Ấn Độ và đặc biệt là voi rừng Phi châu, vì những khu rừng này gồm phần lớn là các loài cây nhiều gai. Nhưng cô bé thương con vật khổng lồ tốt bụng, nên không cần suy nghĩ lâu la gì, đã ngồi xệp ngay xuống gần chân nó và bắt đầu nhẹ nhàng nhổ những chiếc gai ra, đầu tiên là những chiếc gai lớn, sau đó là những cái dằm nhỏ hơn, đồng thời miệng cô bé không ngừng liến thoắng cam đoan với voi là sẽ không để sót một chiếc gai nào. Con vật hiểu rất rõ sự việc, nó khuỵu đầu gối xuống như muốn trỏ rằng trong gan bàn chân, giữa các móng chân cũng có gai cắm vào và chính những chiếc gai này khiến nó đau đớn hơn cả.
    Chính vào lúc đó, Xtas đi săn trở về và hỏi Mêaxem cô chủ đâu. Được trả lời rằng hẳn là cô chủ ở trong bộng cây, em đã định nhìn vào thì vừa lúc ấy hình như em thoáng nghe tiếng cô bé dưới lòng khe núi. Không tin vào tai, em nhảy vội tới mép vực nhìn xuống và sững người ra. Cô bé đang ngồi dưới chân con vật khổng lồ, còn con vật cứ đứng như thế, thật bình thản, không hề cử động cả tai lẫn vòi, đến nỗi ta có thể nghĩ rằng nó được tạc bằng đá vậy.
    - Nen! - Xtas kêu lên.
    Bận bịu vì công việc của mình, cô bé vui vẻ đáp lại:
    - Khoan đã, khoan đã!
    Nghe thấy thế, vốn không quen ngần ngừ khi có hiểm nguy, cậu bé liền dùng một tay giơ khẩu súng lên cao, một tay túm lấy thân dây leo khô đã bị tước trụi, quặp cả hai chân và o đó, và trong nháy mắ t đã tụt xuống lòng khe.
    Con voi lo lắng động đậy hai tai, nhưng chính lúc đó Nen đã đứng dậy ôm lấy vòi nó vội vã kêu lên:
    - Đừng sợ nào voi, đó là Xtas đấy!
  3. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Xtas nhận ra ngay không hề có mối nguy hiểm nào đe dọa cô bé, nhưng chân em như muốn khuỵu xuống, tim đập gấp, và trước khi kịp bình tâm lại vì ấn tượng vừa qua, em thốt lên bằng giọng nói nghẹ n ngào, đầy hờn giận:
    - Nen, Nen, sao em lại làm thế?!...
    Còn cô bé cố giải thích rằng có làm chuyện gì nên tội, vì con voi tốt bụng và hoàn toàn đã thuần rồi, rằng cô bé chỉ muốn nhìn nó một chút rồi sẽ quay lại ngay, nhưng nó cứ giữ cô bé lại để cùng chơi, rằng nó đã đu đưa cô bé rất thận trọng, và rằng nếu như Xtas muốn thì voi cũng sẽ đu cả Xtas nữa.
    Nói thế, cô bé dùng một bàn tay cầm lấy chỏm vòi voi kéo lại phía Xtas, còn tay kia vung vẩy bên trái bên phải mấy lần liền và nói với con voi:
    - Voi ơi, hãy đu đưa cả Xtas đi nào!
    Con vật thông minh đoán ra được qua những cử chỉ của cô bé điều mà cô bé muốn ở nó, và thế là Xtas - bị tóm ngang thắt lưng quần đùi - một giây sau đã lơ lửng trong không trung. Thật là mâu thuẫn giữa nét mặt hãy còn hậm hực của thằng bé và cái trò đung đưa lơ lửng trên mặt đất, nên cô Mdimu nhỏ bé cười đến chảy nước mắt, vừa cười vừa vỗ tay, và kêu lên như lần trước:
    - Nữa đi, nữa đi!
    Khi người ta đang bị lơ lửng trong không khí trên một cái vòi voi và thực hiện chuyển động tương tự như dao động của con lắc dù muốn hay không, thì thực khó mà giữ vẻ mặt nghiêm nghị để lên lớp giáo huấn về đạo đức, thế nên cậu bé rốt cuộc cũng phải bật cười. Nhưng chỉ một lát sau em cảm thấy chuyển động của cái vòi chậm dần lại và rằng con voi muốn đặt em xuống đất, em chợt nảy ra một ý mới: nhân lúc ở gần cái tai to tướng của con voi, em bèn dùng hai tay túm chặt lấy tai và trong chớp mắt đã ngồi chễm chệ trên đầu voi.
    - Ha ha! - Cậu bé từ trên cao gọi xuống với Nen.
    - Hãy để cho nó hiểu rằng nó phải vâng lời anh.
    Em vỗ vỗ tay lên đầu voi với vẻ mặt của một ông chủ và người chỉ huy.
    - Hay lắm, - Nen đứng dưới kêu lên, - nhưng bây giờ anh làm thế nào để xuống?
    - Chẳng có gì là khó, - Xtas đáp.
    Và thõng hai chân xuống trước trán voi, em dùng hai tay ôm lấy cái vòi tụt theo vòi xuống đất như tụt theo cây gỗ vậy.
    - Thế, thế là anh xuống!...
    Rồi cả hai đứa lại tiếp tục việc nhổ những chiếc gai còn lại ra khỏi chân voi, con vật tỏ ra rất giàu tính chịu đựng trong cuộc ?ophẫu thuật? này.
    Lúc đó, những giọt mưa đầ u tiên bắt đầu rơi, Xtas bèn quyết định phải đưa ngay Nen trở về ?oCracốp?, nhưng đến lúc này mới nảy ra một trở ngại không ngờ. Con voi không muốn chia tay với Nen bằng bất kì giá nào, và cứ hễ cô bé bước ra xa là nó lại vươn vòi ra kéo lại. Tình thế trở nên nặng nề, trò chơi vui vẻ có thể kết thúc không lành vì sự ương bướng của con vật. Cậu bé không biết nên làm gì vì mưa mỗi lúc một dày hơn và trời có vẻ sắp đổ mưa rào. Cả hai cũng lùi được một tí về phía lối thoát ra, nhưng vẫn chưa được bao nhiêu, còn con voi cũng đi theo sau chúng.
    Cuối cùng, Xtas đứng chắn giữa Nen và con voi, nhìn thẳng vào cặp mắt của nó, đồng thời hạ giọng thì thầm bảo Nen:
    - Đừng chạy, nhưng cứ lùi dần dần đến chỗ khe hẹp đi.
    - Thế còn anh, anh Xtas? - Cô bé hỏi lại.
    - Lùi đi, - cậu bé nhấn mạnh đáp lại, - nếu không anh buộc phải bắn chết con voi.
    Dưới tác dụng của lời đe dọa này, cô bé đành tuân lệnh, hơn nữa cô bé đã vô cùng tin vào con voi và chắc chắn rằng trong bất kì trường hợp nào nó cũng sẽ không làm điều gì hại tới Xtas cả.
    Còn cậu bé đứng cách con vật khổng lồ bốn thước, không rời mắt khỏi nó.
    Mấy phút trôi qua. Im lặng đầy đe dọa. Hai tai của con voi ve vẩy vài lần, cặp mắt nhỏ bé sáng lên những ánh lạ và cái vòi bỗng vung lên không trung.
    Xtas tái người đi.
    ?oChết này!? - Em nghĩ thầm.
    Nhưng đột nhiên con voi quay trở lại về phía bờ khe núi, nơi nó vẫn thường trông thấy Nen và bắt đầu rống lên thê thảm hơn lúc trước rất nhiều.
    Còn Xtas bình tĩnh bước về phía khe hẹp và tìm thấy Nen phía bên kia khối đá, cô bé không muốn đi về nhà khi chưa thấy cậu ra.
    Cậu bé muốn nói với Nen - một ý muốn gần như không kìm hãm nổi: ?oĐấy, em xem, em đã gây nên chuyện gì. Vì em mà một chút nữa anh bỏ mạng?. Nhưng không còn thời giờ để ?olên lớp? nữa, bởi cơn mưa đã chuyển thành mưa rào và phải quay về nhà càng nhanh càng tốt. Nen ướt như chuột lột, mặc dù Xtas đã quấn cô bé trong bộ quần áo của mình.
    Vào trong cây bao báp, Xtas bảo Mêa thay quần áo cho Nen, còn em sang phòng con trai cởi dây cho con chó Xaba (trước đó con chó bị buộc dây để đề phòng nó sẽ theo vết Xtas đi săn thú), rồi lục lọi trong đám quần áo và đồ đạc, cố tìm xem với hi vọng rằng có thể sẽ còn lại một chút kí ninh nào để quên ở đâu đó chăng.
    Nhưng em không tìm thấy gì cả. Chỉ ở đáy cái lọ mà nhà truyền giáo đưa cho ở Kháctum là còn một ít bột trắng đọng trong kẽ lọ, nhưng ít đến nỗi có lẽ chỉ đủ để làm trắng đầu ngón tay mà thôi. Dù sao, em cũng quyết định sẽ đổ nướ c sôi vào tráng lọ và đưa cho Nen uống thứ nước vét này.
    Sau đó, khi cơn mưa tạnh, mặt trời lại chiếu sáng, em bước ra khỏi cây gỗ để xem những con cá Cali mang về. Cậu bé da đen câu được hơn chục con bằng lưỡi câu làm bằng dây thép nhỏ. Phần lớn là cá bé nhưng cũng có ba con dài chừng một bộ, vẩy bạc, nhẹ một cách lạ lùng. Mêa, vốn sinh trưởng ở vùng sông Nin Xanh và hiểu nhiều về các thứ cá, bảo rằng cá này ăn rất ngon, và rằng cứ chiều chiều chúng lại nhảy lên khỏi mặt nước. Khi mổ cá mới thấy rằng sở dĩ chúng nó nhẹ như thế là vì trong bụng chúng có những chiếc bong bóng to tướng. Xtas cầm lấy một chiếc - to bằng một quả táo lớn mang về cho Nen xem:
    - Trông này, - em bảo, - cái này ở trong bụng cá.Có độ mươi cái bong bóng thế này chúng mình có thể làm kính che cửa sổ đấy.
    Và em trỏ lên cái lỗ thông phía trên cây. Song nghĩ ngợi một lát em nói thêm:
    - Và còn hơn nữa kia.
    - Gì nữa kia anh? - Nen thích thú hỏi.
    - Làm cả diều nữa.
    - Những cái diều như hồi trước anh thả ở Port Xaiđơ ấy à? ôi, hay quá, làm ngay đi anh!
    - Anh sẽ làm. Khung anh sẽ làm bằng những thanh tre mỏng, còn bong bóng này anh sẽ dùng thay cho giấy. Thứ này còn tốt hơn giấy kia, vì nhẹ hơn và không bị ngấm nước mưa. Diều này thì có thể lên cao lắm, và gió mạnh có thể đưa nó đi chưa biết đến đâu...
    Nói tới đây, nó đập tay vào trán.
    - Anh nghĩ ra một ý hay rồi đây.
    - Ý gì, anh?
    - Em sẽ thấy. Khi nào anh nghĩ thật kĩ anh sẽ bảo em. Còn bây giờ cái con voi này nó gào đến nỗi không thể nào nói chuyện nổi nữa...
    Quả thực, vì nhớ Nen, mà cũng có thể là nhớ cả hai đứa, con voi đang rống lên đến nỗi cả khe núi cùng những cây cối xung quanh đều rung động.
    - Phải ra cho nó trông thấy thôi, - Nen bảo, - nó sẽ yên ngay.
    Bọn trẻ đi ra khe. Nhưng đang tiếp tục dòng suy nghĩ của mình, Xtas bắt đầu tự nói lẩm nhẩ m:
    - ?oNenly Rôlixơn và Xtanixoáp Tarơcốpki ở PortXaiđơ, chạy trốn từ Phasôđa khỏi tay bọn phiến loạn, hiện đang ở tại...? Và đột nhiên em dừng lại hỏi:
    - Làm sao để nói là chúng mình đang ở đâu?...
    - Gì cơ, anh Xtas?
    - À không, không có gì. Anh biết rồi: ?oĐang ở cách sông Nin Trắng một tháng đường về phía Đông - và yêu cầu nhanh chóng được ứng cứu?... Khi nào gióthổi về phía Bắc hoặc phía Đông, anh sẽ thả những chiếc diều như thế này, hai mươi chiếc, năm mươi chiếc, một trăm chiếc, còn em, Nen, em sẽ giúp anh dán diều.
    - Diều ư anh?
    - Phải, anh chỉ nói với em rằng những cái diều này có thể sẽ giúp chúng mình nhiều hơn cả chục con voi đấy.
    Lúc này, bọn trẻ đã ra tới bờ khe. Con vật khổng lồ bắt đầu nhấp nhổm đổi chân, gật gật đầu, vẫy vẫy tai, kêu khe khẽ rồi lại rống váng lên não nuột khi Nen định bỏ đi. Rốt cuộc Nen phải giải thíchcho ?ovoi thân yêu? là không thể ngồi mãi bên cạnh nó được, vì còn phải ăn, ngủ, làm việc và bày biện ở ?oCracốp?. Nhưng con voi chỉ chịu yên sau khi cô bé đã đẩy xuống cho nó những thứ thức ăn mà Cali đã chuẩn bị; ấy thế nhưng đến đêm nó lại bắt đầurống lên.
    Từ chiều hôm đó, bọn trẻ bắt đầu gọi nó là ?oKing?(2) vì Nen cam đoan rằng trước khi bị hãmvào khe núi chắc chắn nó phải là vua của loài voi trên toàn Phi châu.
    ---------
    1 Cracốp là thủ đô cũ của Ba Lan.
    2 King - tiếng Anh có nghĩa là ?ovua?.
  4. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 29​
    Mấy ngày liền, Nen dành tất cả những giờ trời không mưa để ở bên cạnh King, con voi không còn cản trở cô bé ra về vì hiể u được rằng cô bé sẽ còn quay trở lại vài lần nữa trong ngày. Cali, nói chung vốn sợ voi, nên nhìn chuyện đó với vẻ kinh ngạc, và cuối cùng cậu bé đi đến chỗ tin rằng cái ma tốt hùng mạnh nọ đã bùa chài được con vật khổng lồ, nên cũng bắt đầu đến thăm con voi.
    King đối xử với nó cũng như đối với Mêa rất tốt bụng, nhưng chỉ riêng mình Nen là có thể làm tất cả những điều gì cô bé muốn đối với con voi, đến nỗi một tuần sau cô bé đãdám dẫn cả Xaba tới chơi với nó. Đối với Xtas, đây là chuyện rất nhẹ người, vì em có thể hoàn toàn yên tâm để Nen ở lại dưới sự coi giữ của con voi - mà như em diễn đạt: dưới vòi voi - và không hề lo lắng gì cả. Giờ đây em tin rằng, con vật tốt bụng sẽ không khi nào rời bỏ cả bọn và bắt đầu nghĩ cách làm thế nào để giải thoát cho nó ra khỏi chỗ giam cầm.
    Nói cho đúng thì em đã tìm ra phương sách từ lâu chỉ có điều cái phương sách ấy đòi hỏi phải hi sinh quá nhiều nên em cứ đấu tranh mãi, không hiểu có nên sử dụng cách đó hay không, và cứ lần lữa từ ngày này sang ngày khác.
    Vì không có ai để giãi bày, nên cuối cùng em quyết định sẽ thổ lộ những ý định của mình với Nen, dù vẫn coi Nen chỉ là một đứa trẻ.
    - Có thể dùng thuốc súng để phá vỡ tảng đá, em nói, nhưng muốn thế phải tiêu tốn rất nhiều thuốc đạn, nghĩa là phải tháo chúng ra khỏi vỏ đạn và gói lại thành một khối lớn. Cái khối đó đẩy thật sâu vào khe hở đang có sẵn ở chính giữa, rồi lèn kín lại và đốt ngòi. Khi ấy, tảng đá sẽ vỡ ra thành vài hay vài chục mảnh nhỏ, King có thể ra được.
    - Nhưng nếu như có tiếng nổ thật to thì nó sơ ålắm.
    - Cứ mặc cho nó sợ chứ sao! - Xtas đáp lại ngay. -Anh chẳng phải lo đến chuyện đó. Thật chẳng đáng nói chuyện nghiêm túc với em làm gì.
    Song em vẫn nói tiếp, hay đúng hơn là tiếp tục suy nghĩ thành tiếng:
    - Nhưng nếu như dùng quá ít thuốc thì khối đá không vỡ và thế là lãng phí mà chẳng được gì, còn nếu như dùng thuốc cho đủ, thì chúng mình sẽ chẳng còn lại được bao nhiêu đạn. Và nếu như cuối chặng đường mà thiếu thuốc súng thì chúng mình bị chết mất. Anh sẽ dùng cái gì để đi săn hoặc để tự vệ trong trường hợp chúng mình bị tấn công? Chính em cũng biết rõ là nếu như không có khẩu súng này, không có những viên đạn này thì chúng mình đã chết từ lâu, nếu không phải chết vì tay tên Ghebơrơ thì cũng vì đói. Mà cũng thật may là chúng mình còn có ngựa chứ nếu không cũng chẳng mang nổi đồ đạc và thuốc súng.
    Nghe thấy thế, Nen đưa một ngón tay lên trời và nói với vẻ rất tin tưởng:
    - Nếu như em bảo King thì King sẽ mang cho chúng mình tất cả mọi thứ.
    - Nó sẽ mang thứ gì nếu như thuốc súng chẳng còn lại bao nhiêu?
    - Thế thì nó sẽ bảo vệ chúng mình...
    - Nhưng nó đâu có thể dùng vòi để bắn vào lũ thú như anh bắn súng.
    - Thế thì chúng mình sẽ ăn sung ăn vả và những quả dưa bở mọc trên cây, còn Cali thì thế nào chẳng kiếm ra cá.
    - Chỉ khi nào chúng mình còn ở gần sông mà thôi. Cần phải chờ ở đây cho qua mùa mưa; vì những cơn mưa này sẽ mang tới cho em bệnh sốt rét dễ như chơi. Nhưng cần nhớ rằng sau đó chúng mình sẽ đi tiếp, và chúng mình rất có thể sẽ lại rơi và o sa mạc nữa.
    - Sa mạc như Xahara à? - Nen hỏi, vẻ lo sợ.
    - Không, nhưng có thể gặp sa mạc, trên đó không hề có cây cối hay sông suối gì hết, mà chỉ toàn một loài xiêm gai lùn tè và cây trinh nữ thôi. Trên một sa mạc như thế chúng mình chỉ có sống bằng những thứ mà anh săn bắn được. Con King sẽ tìm được cỏ, cò n anh thì săn linh dương, nhưng nếu như anh không còn gì để bắn hạ chúng thì con King cũng không tài nào tóm được chúng đâu.
    Quả thực Xtas có nhiều chuyện phải lo lắng, vì hiện nay, khi con voi đã thuần và thân thiết với lũ trẻ, thật khó có thể bỏ mặc nó phải chết đói, cò n giải thoát cho nó thì có nghĩa là phải tiêu phí phần lớn đạn dược và đưa bản thân mình vào chỗ chết không lối thoát.
    Chính vì thế Xtas trì hoãn việc đó từ ngày này sang ngày khác, cứ tối tối em lại tự nhủ: ?oCó thể ngày mai mình sẽ tìm ra được cách gì chăng??. Trong khi đó, thêm vào nỗi lo này là những điều lo lắng khác. Trước hết, Cali bị ong dại ở phía hạ lưu dòng sông đốt cho tệ hại. Nó được một con chim nhỏ màu xám xanh nổi tiếng ở Phi châu được gọi là chim ăn ong dẫn tới với đàn ong. Cậu bé da đen vốn lười không hun khói tổ ong thật kĩ, nên mặc dù mang được mật về nhưng bị ong đốt sưng vù mặt mũi đến nỗi bị ngất đi sau chừng một tiếng đồng hồ. Cô Mdimu Tốt, với sự giúp đỡ của Mêa phải rút từ người nó ra những chiếc vòi ong cho tới tận chiều, rồi sau đó dùng đất nhào nước do Xtas chuẩn bị sẵn đắp lên người nó. Tuy thế, đến gần sáng cậu bé da đen cứ ngỡ như chết đến nơi. May thay, sự chăm sóc tận tình và cơ thể cường tráng của nó đã chiến thắng nỗi nguy, song cũng phải sau mươi ngày trời nó mới lại sức.
    Chuyện thứ hai là chuyện lũ ngựa. Trong thời gian Cali bị ốm, Xtas phải chăn và đưa ngựa đi uống nước, em để ý thấy chúng bị gầy sụt đi nhanh chóng. Không thể nào giải thích là do thiếu thức ăn, vì có mưa nên cỏ mọc lên rất cao, chung quanh thừa mứa các loại cỏ ngon lành. Vậy mà lũ ngựa cứ héo hon đi. Vài ngày sau, lông chúng rụng, mắt mờ hẳn, từ mồm chúng dãi dớt chảy ra. Cuối cùng chúng bỏ ăn, chỉ uống rất nhiều nước, dường như bị sốt vậy.
    Khi Cali khỏe lại, chúng chỉ còn là hai bộ xương. Thằng bé chỉ cần nhìn chúng đã hiểu ngay có chuyện gì xảy ra.
    - Ruồi tse tse! - Nó bảo Xtas - Chúng sẽ chết thôi.
    Xtas cũng hiểu, vì ngay từ hồi ở Port Xaiđơ em đã nhiều lần nghe nói tới giống ruồi Phi châu được gọi là tse tse, giống ruồi là thảm họa cho những vùng mà chúng sinh sôi nảy nở vĩnh viễn.
    Người da đen vẫn không nuôi súc vật có sừng, nhưng ở những nơi nào bọn trâu bò phát triển tự nhiên do những điều kiện ngoại cảnh thuận lợi thì chúng lại bị chết. Bị ruồi tse tse đốt, ngựa, lừa hay bò gầy sụt đi và bị chết trong vòng chục ngày, đôi khi chỉ trong vài ngày. Bọn súc vật trong vùng cũng hiểu được nỗi nguy hiểm đang đe dọa chúng, vì thường thường cả đàn trâu đang ở chỗ uống nước hoảng sợ ***g lên chạy tứ tán khi nghe thấy tiếng kêu vù vù của loài ruồi này.
    Lũ ngựa của Xtas đã bị ruồi đốt. Giờ đây ngày ngày Cali xát vào mình chúng và vào mình con lừa một thứ cỏ có mùi đặc biệt giống như mùi hành mà nó tìm trong rừng. Nó nói rằng mùi cỏ này sẽ xua đuổi ruồi tse tse, song mặc dù có thứ thuốc đó, lũ ngựa vẫn cứ gầy sụt đi. Xtas lo sợ nghĩ đến những gì sẽ xảy ra khi bọn súc vật này gục ngã. Làm sao có thể mang theo đồ đạc, Nen, cái chăn, cái lều và nồi niêu xoong chảo? Bao nhiêu thứ như thế, họa chăng chỉ có King là đủ sức mang. Nhưng để giải thoát cho King cần phải dùng ít nhất hai phần ba số đạn.
    Càng ngày càng có nhiều nỗi lo lớn hơn đè nặng lên đầu Xtas, giống như những đám mây đen đang không ngừng trút mưa xuống rừng. Và cuối cùng là tai họa lớn nhất là bệnh sốt rét đã đến, bên cạnh nó những thứ khác trở nên nhỏ bé.
  5. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 30​
    Một hôm, trong bữa ăn tối, Nen cầm một miếng thịt đưa lên miệng, đột nhiên đẩy ra dường như kinh tởm rồi nói:
    - Hôm nay em không thể nuốt nổi đâu.
    Được Cali cho biết nơi có tổ ong và hiện ngày nào cũng đi hun khó i để kiếm mật ong, Xtas cho rằng chắc cô bé đã ăn quá nhiều mật ong trong ngày, vì thế em không lưu ý lắm tới việc cô bé không muốn ăn. Song lát sau, cô bé đứng dậy và bắt đầu bước vội vã chung quanh đống lửa thành những vòng mỗi lúc một rộng hơn.
    - Đừng đi xa quá, cậu bé gọi theo, - nếu không nhỡ có con gì nó vồ em đấy.
    Thực ra cậu bé không sợ gì cả, vì sự có mặt con voi - điều mà các loài thú khác cảm thấy được cũng như tiếng rống của nó - tiếng rống vang tới những cặp tai thính nhạy của chúng - sẽ khiế n cho chúng giữ một khoảng cách thích đáng cách chỗnày. Điều đó bảo đảm an toàn cho người cũng như ngựa, vì ngay cả những con thú ăn thịt hung tợn nhất trong rừng như sư tử, báo và beo cũng không muốn đụng độ với voi, và tốt nhất là không đến quá gần cặp ngà và cái vòi voi.
    Tuy nhiên khi cô bé tiếp tục đi vòng vòng mỗi lúc một hấp tấp hơn, Xtas bèn đi theo sau và hỏi:
    - Ê, con thiêu thân nhỏ này, sao cứ bay vòng quanh ngọn lửa thế?
    Em hỏi với giọng hãy còn vui vẻ, nhưng đã lo lo, và nỗi lo của em tăng lên khi Nen trả lời:
    - Em không biết nữa. Hôm nay em không thể ngồi yên một chỗ được.
    - Em làm sao thế?
    - Em cứ thấy khó chịu lạ lạ thế nào ấy...
    Tựa đầu vào ngực anh gần như thú nhận một lỗi lầm, cô bé kêu lên với giọng cam chịu nghèn nghẹn nước mắt.
    - Anh Xtas, có thể em bị ốm mất rồi.
    - Nen!
    Cậu bé đặt tay lên trán Nen, cái trán vừa khô vừa lạnh toát.
    Cậu bồng Nen lên tay và mang lại phía đống lửa.
    - Em có thấy lạnh không? - Dọc đường cậu hỏi.
    - Cả lạnh, cả nóng, nhưng lạnh nhiều hơn...
    Răng cô bé đánh vào nhau lập cập, thân mình rùng rùng những đợt run. Xtas không còn nghi ngờ gì nữa: cô bé đã bị sốt rét.
    Em bèn bảo Mêa ngay tức khắc đưa Nen vào trong hốc cây gỗ, cởi quần áo ngoài và đặt nằm, rồi đắp lên người cô bé tất cả những gì có thể đắp được, vì em đã trông thấy ở Kháctum và Phasôđa những người bị sốt rét đôi khi trùm cả những tấm da cừu lên người cho ra mồ hôi. Em quyết định sẽ thức ngồi bên Nen suốt đêm và cho cô bé uống nước ấm pha mật ong. Nhưng thoạt đầu cô bé không muốn uống nước. Trong á nh sáng cây đèn treo bên trong thân cây, Xtas nhìn thấy đôi đồng tử long lanh của cô bé. Một lát sau cô bé bắt đầu kêu nóng, nhưng lại run bần bật dưới tấm chăn và nệm. Tay và trán Nen vẫn lạnh ngắt, nhưng nếu như Xtas biết được những triệu chứng của bệnh sốt rét, thì qua những cử động rất không yên của cô bé, em có thể đoán ra rằng cô bé bị sốt rất cao. Em kinh hoảng khi nhận thấy rằng hễ Mêa mang nước nóng vào, cô bé nhìn Mêa dường như ngạc nhiên, thậm chí sợ hãi và hình như không nhận ra Mêa nữa. Tuy nhiên Nen vẫn nói chuyện hoàn toàn tỉnh táo với em. Cô bé bảo rằng không thể nằm được và xin em cho phép đứng dậy chạy, lúc thì cô bé lại hỏi xem em có giận cô hay không vì cô đã ốm, và khi em quả quyết rằng không giận, cô bé nhắm nghiền mắt, để tràn ra hai giọt lệ đang tràn ngập trong mắt và nói rằng sáng ngày mai sẽ lại khỏe mạnh thôi.
    Tối hôm đó, nói đúng hơn là đêm hôm đó, con voi dường như cũng không yên một cách kì lạ, nó cứ rống lên liên tục, tiếng rống khiến con Xaba bật lên sủa. Xtas để ý thấy rằng chuyện đó khiến người ốm khó chịu, nên em ra khỏi hốc cây để làm cho hai con vật im tiếng đi. Với Xaba thì dễ, nhưng khó lòng bắt con voi phải im lặng, em bèn mang theo mấy quả mít để ném cho voi, bịt miệng nó một thời gian. Khi quay về, trong ánh sáng ngọn lửa, em trông thấy Cali đang mang một súc thịt khô trên vai đi về phía bờ sông.
    - Cậu làm gì thế, định đi đâu đấy? - Em hỏi thằng bé da đen.
    Thằng bé da đen dừng lại và khi Xtas tiến đến gần, nó nói với vẻ bí mật:
    - Cali đi tới một cây khác để hiến thịt cho Mdimu Ác.
    - Sao thế?
    - Để Mdimu Ác không giết chết Mdimu Tốt.
    Nghe thấy thế, Xtas muốn đáp lại điều gì, song nỗi xúc cảm khiến em nghẹn lời, em nghiến chặt răng và im lặng bước đi.
    Khi em trở vào trong thân cây, Nen đang nằm nhắm nghiền mắt, tay cô bé đặt trên tấm chăn run rẩy rất mạnh, nhưng hình như cô đã thiếp đi. Xtas ngồi xuống bên Nen, sợ Nen thức giấc, em ngồi yên không động đậy một hồi lâu. Mêa ngồi phía bên kia chốc chốc lại sửa miếng ngà voi cài trên tai, để bằng cách đó chống lại cơn buồn ngủ. Tất cả hoàn toàn im lặng, chỉ có từ phía hạ lưu sông vọng về tiếng kêu của ếch nhái và tiếng cóc buồn thảm.
    Thốt nhiên Nen ngồi bật dậy trên tấm đệm:
    - Anh Xtas ơi!
    - Anh đây, Nen.
    Còn cô bé, run rẩy như một chiếc lá nhỏ trước gió, bắt đầu sờ soạng lần tìm bàn tay em và lắp bắp, lắp đi lắp lại:
    - Em sợ, em sợ lắm, anh đưa tay cho em!
    - Đừng sợ, anh ở bên em đây mà!
    Xtas nắm chặt lấy tay Nen, bàn tay lúc này nóng như lửa, em không biết phải làm gì, chỉ hôn mãi hôn mãi lên bàn tay gầy guộc tội nghiệp ấy mà thôi.
    - Đừng sợ em, Nen, em đừng sợ!
    Rồi em cho cô bé uống nước pha mật đã nguội. Lần này Nen uống ừng ực, tay ôm chặt lấy cái cốc khi Xtas muốn cất cốc đi.
    Chất nước mát hình như khiến cho Nen tỉnh lại.
    Im lặng. Nhưng nửa giờ sau, Nen lại ngồi bật dậy, trong đôi mắt mở rộng của cô bé ánh lên một nỗi hãi hùng ghê gớm.
    - Anh Xtas!
    - Sao thế, em?
    - Sao Ghebơrơ và Khamix lại cứ đi vòng quanh cây và nhòm vào chỗ em thế anh? - Cô bé hỏi bằng giọng đứt quãng.
    Trong một thoáng Xtas ngỡ như hàng nghìn con kiến chạy rân rân khắp người.
    - Em nói gì thế? - Cậu bé thốt ra - Ở đây đâu cóai khác. Đó là Cali đang đi vòng quanh cây đấy thôi.
    Song cô bé cứ nhìn vào cái lỗ đen ngòm, răng vừa đánh lập cập vừa kêu lên:
    - Cả bọn Bêđuin nữa! Sao anh lại giết chúng nó?
    Xtas quàng tay ôm lấy Nen ấp vào ngự c mình:
    - Em biết rõ tại sao! Đừng nhìn về phía đó! Đừng nghĩ tới chuyện đó nữa! Chuyện đó lâu quá rồi mà!
    - Vừa hôm nay, vừa hôm nay thôi!
    - Không, Nen, lâu rồi mà!...Chuyện đã lâu rồi, nhưng nay như sóng bị bờ phản hồi, nó lại quay về làm kinh hoàng đầu óc đứa bé.
    Mọi lời yên ủi dường như vô hiệu. Mắt Nen mở trừng trừng mỗi lúc một to hơn. Tim cô bé đập gấp gấp tưởng như chỉ một lát nữa sẽ vỡ tung ra mất. Rồi cô bé bắt đầu vùng vẫy quằn quại như cá bị vứt lên cạn và cứ thế cho tới gần sáng. Mãi đến trước khi trời sáng, sức cô bé mới hoàn toàn bị kiệt quệ, đầu cô ngả xuống gối.
    - Em mệt quá, mệt quá! - Cô lắp bắp. - Anh Xtas, em đang rơi xuống, rơi xuố ng sâu quá.
    Rồi cô bé nhắm nghiền mắt lại.
    Thoạt tiên, Xtas kinh hoảng vì nghĩ rằng Nen đã chết.
    Nhưng đó chỉ là kết thúc cơn sốt đầu tiên của bệnh sốt rét Phi châu khủng khiếp thường được mệnh danh là ?osốt chết người?.
    Bình thường người lớn khỏe mạnh chỉ chịu được hai cơn, cho tới nay chưa ai chịu nổi cơn thứ ba. Khách bộ hành thường kể chuyện đó ở Port Xaiđơ, ở nhà ông Rôlixơn, cònnhững nhà truyền giáo quay trở về châu Âu mà ông Tarcôpxki tiếp ở nhà mình, còn nói đến bệnh này nhiều hơn nữa. Cơn sốt thứ hai sẽ tới sau vài hay mươi ngày, còn nếu cơn sốt thứ ba không quay lại trong vòng hai tuần lễ thì nó sẽ không phải là cơn sốt chết người, vì khi đó nó sẽ được tính thành cơn sốt đầu tiên cho vòng hai của căn bệnh. Xtas biết rằng thứ thuốc duy nhất có thể làm dứt hay đẩy lùi cơn sốt là một liều kí ninh thật cao, nhưng em không còn lấy một chút kí ninh nào trong tay cả.
    Trong lúc này, khi thấy Nen vẫn còn thở được, em tạm yên lòng phần nào và bắt đầu cầu nguyện cho cô bé. Trong khi đó, mặt trời lên từ sau những khối đá của khe núi và một ngày mới bắt đầu. Con voi đã bắt đầu đòi bữa sáng, từ phía đầm nước được con sông tạo nên vang lên tiếng kêu của các loài chim nước. Muốn săn lấy vài con chim pentácca để nấu súp cho Nen, cậu bé cầm lấy khẩu súng bắn đạn chì đi dọc sông về phía những bụi cây cao mà lũ chim hay đỗ để ngủ đêm. Nhưng do thiếu ngủ, đầu óc lại đang vướng bận vì căn bệnh của Nen, nên cả một đàn chim pentácca nối nhau luồn ngang qua mặt em đi về phía máng nước uống mà em hoàn toàn không nhận ra. Thực ra, cũng vì em đang tiếp tục cầu nguyện. Em nghĩ tới việc đã giết chết Ghebơrơ, Khamix và bọn Bêđuin, và vừa ngước mắt lên nhìn trời vừa nói qua cổ họng đã nghẹn đi vì nước mắt: ?oChính con đã làm điều đó vì Nen, lạy Chúa, vì Nen! Vì con không thể giải thoát cho em bằng cách nào khác, nhưng nếu đó là tội lỗi, thì xin Chúa hãy trừng phạt con, xin Chúa hãy cho em được khỏe lại!...?.
    Dọc đường em gặp Cali, thằng bé đi xem thử cái Mdimu Ác đã ăn số thịt mà hôm qua nó hiến chưa. Cậu bé da đen yêu cô bé, cũng cầu nguyện cho cô, nhưng theo một cách thức hoàn toàn khác hẳn. Cậu hứa với cái ma ác rằ ng nếu như cô bé khỏe lại, thì hàng ngày cậu sẽ mang tới cho ma một súc thịt, còn nếu cô bé chết, thì mặc dù sợ cái ma và biết chắc rằng sau đó sẽ phải chết, nhưng trước tiên cậu sẽ lột da cái ma để cho cái ma ác nhớ đời! Cậu bé được cổ vũ rất nhiều, vì miếng thịt hiến tế hôm qua đã biến mất tăm. Cũng có thể một chú lang núi nào đó đã cuỗm đi mất, nhưng cũng có thể là chính cái Mdimu Ác đã lấy đi trong khi đội lốt thành con lang núi cũng nên.
    Cali thông báo cho Xtas biết chuyện tốt lành đó, song cậu bé cứ nhìn nó chòng chọc hình như không hiểu nó nói gì, rồi tiếp tục bước đi. Qua những lùm cây, không thấy lũ chim pentácca đâu, em bèn tiến ra sông. Bờ sông mọc nhiều cây cao, trên cành rủ xuống lòng thòng những chiếc tổ chim dồng dộc giống chim xinh xẻo màu vàng có cặp cánh đen trông như những đóa hoa hồng to lớn, nhưng lại có màu giấy xám. Tại một chỗ, dòng sông hình thành một cái vùng rộng chừng vài mươi bước chân mọc đầy cây cói giấy. Trong đó dầy đặc các loài chimnước. Có cò, giống cò hệt như cò ở châu Âu chúng ta, cùng những con cò có cái mỏ lớn uốn thành hình lưỡi câu, cả những con chim đen tuyền như nhung với cặp chân đỏ như máu, cả chim hồng hạc, cả dang dang, những con bồ các màu trắng có đôi cánh hồng và những cái mỏ trông giống những chiếc muôi, cả loài sếu có lông ngai trên đầu, những con dẽ giun lanh lẹn và xám như chuột chạy đi chạy lại, trông như những bóng ma rừng, trên những đôi chân dài mảnh khảnh như cuộng rơm.
    Xtas bắn được hai con vịt to lông màu nâu tía tuyệt đẹp, và giẫm lên những con **** trắng chết xác phủ đầy bờ sông, em dòm kĩ xem ở những vũng cạn có cá sấu hay không rồi lội qua nhặt lấy những con chim săn được. Dĩ nhiên, tiếng súng khiến lũ chim hoảng sợ bay đi, chỉ còn lại mỗi hai con chim cò già đang đứng trầm mặc trên mặt nước cách đấy chừng mươi bước chân, trông giống như hai cụ già với cái đầu hói nằm thụt giữa hai vai. Hai con chim này hoàn toàn không thèm cử động tí nào. Cậu bé đứ ng nhìn một lúc những túi thịt xấu xí thõng thẹo treo trên ức chúng, rồi khi thấy lũ ong bò vẽ bắt đầu quần mỗi lúc một dày trên đầu, em quay trở về trại.
    Nen hãy còn đang ngủ, nên sau khi giao hai con vịt cho Mêa, Xtas ngả người xuống đệm và ngủ một giấc say sưa. Mãi đến trưa chúng mới tỉnh giấc - em trước, Nen sau. Cô bé cảm thấy mạnh hơn chút ít, và sau khi được nồi xúp chim đặc và khỏe người làm tăng thêm sức, Nen đứng dậy bước ra khỏi thân cây vì muốn được trông thấy King và mặt trời.
    Mãi tới bấy giờ, trong ánh nắng mặt trời mới có thể trông thấy rõ những dấu vết mà một đêm sốt cao đã để lại trên người cô bé. Da Nen vàng nghệ và trong suốt, môi tái xám, mắt thâm quầng, còn nét mặt thì tái đi. Thậm chí đến con người cô bé nom cũng nhợt nhạt hơn thường lệ. Và ngượ c với những lời đoan chắc của cô với Xtas, Nen cảm thấy chưa thật khỏe - mặc dù sau khi thứ c giấc cô bé đã húp hết một cốc xúp thịt to tướng, nhưng khó nhọc lắm mới tự đi tới bên khe núi được, Xtas tuyệt vọng khi nghĩ tới đợt tấn công thứ hai của cơn sốt mà em không còn có tí thuốc nào cũng không có phương tiện nào ngăn chặn được.
    Trong khi đó mưa cứ rơi ướt đất mỗi ngày hàng chục đợt, khiến cho độ ẩm của không khí tăng lên.

  6. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 31​
    Bắt đầu những ngày chờ đợi nặng nề và đầy lo âu. Mãi một tuần sau, cơn sốt thứ hai mới bắt đầu, không dữ dội như cơn trước, nhưng sau đó, Nen lại càng cảm thấy yếu đi nhiều hơn. Cô bé gầy và xanh xao đến nỗi dường như chỉ còn là một cái bóng mà thôi.
    Ngọn lửa sống leo lắt yếu ớt trong cô bé, tưởng chừng như chỉ cần khẽ thổi cũng khiến cho nó tắt đi hoàn toàn. Xtas hiểu rằng tử thần không cần phải chờ tới cơn sốt thứ ba mới có thể bắt Nen mang đi, mà đang chờ đợi từng ngày, từng giờ một.
    Bản thân cậu bé cũng gầy sút đi và tái xanh, vì nỗ i bất hạnh vượt quá sức lực và trí tuệ của cậu. Nhìn khuôn mặt như nặn bằng sáp của Nen, em nhủ thầm hàng ngày: ?oMình đã trông nom con bé như con ngươi trong mắt như thế đó, để giờ đây chôn nó trong rừng?. Và em hoàn toàn không thể hiểu nổi, tại sao mọi sự lại phải như vậy. Chốc chốc em lại tự trách mình đã không chăm nom Nen thật cẩn thận, không đối xử thật hết lòng với cô bé, và trong những lúc như thế, một nỗi ân hận giày vò tim em, khiế n em chỉ muốn cắn xé những ngón tay của mình. Nói cho cùng, có nhiều bất hạnh quá chừng.
    Bây giờ, Nen gần như ngủ thiêm thiếp suốt ngày, và rất có thể chính điều đó đã giữ cho cô bé còn sống thoi thóp. Vài lần một ngày, Xtas phải đánh thức cô bé dậy để bón cho ăn. Vào những lúc đó, nếu trời không mưa, Nen yêu cầu em mang cô ra ngoài trời, vì cô bé không còn tự mình bước đi được nữa. Nhiều khi cô bé thiếp đi trên tay em. Cô bé cũng tự biết rằng mình ốm nặng lắm và rất có thể sẽ chết ngày một ngày hai. Trong những lú c tỉnh táo nhất, cô bé nói với Xtas về chuyện đó, bao giờ cũng khóc nức nở, vì cô sợ chết.
    - Thế là em chẳng còn được về với ba em nữa rồi, - một lần cô bé nói, - nhưng anh phải nói với ba rằng em rất tiếc và bảo ba đi tới đây thăm em nhé...
    - Em sẽ về mà, - Xtas đáp.Nhưng cậu không thể nói gì thêm, bởi chỉ muốn gào lên thật to.
    Còn Nen vẫn nói tiếp với giọng ngái ngủ, phải lắng tai mới nghe thấy:
    - Và thể nào ba cũng đến, còn anh cũng có khi nào đó anh sẽ đến, phải không anh?...
    Ý nghĩ ấy khiến cô bé mỉm một nụ cười, làm rạng ngời khuôn mặt gầy gò, nhưng rồi sau đó cô lại cất tiếng nói còn khẽ hơn nữa:
    - Nhưng em tiếc quá...
    Nói thế xong, cô bé ngả đầu vào vai anh khóc, còn cậu bé cố chế ngự nỗi đau của mình, ghì chặt cô vào ngực và tha thiết đáp:
    - Nen, anh sẽ không trở về nếu thiếu em, và...anh cũng không biết sẽ làm gì trên đời nữa, nếu không có em!
    Im lặng bao trùm, Nen lại ngủ thiế p đi. Xtas mang cô bé vào trong ruột cây, khi em vừa bước ra ngoài thì từ chóp mũi đất Cali chạy lại, vung vẩy hai tay và gọi to, vẻ mặt đầy tức giận và sợ hãi:
    - Ông lớn! Ông lớn ơi!
    - Gì thế? - Xtas hỏi.Cậu bé da đen đưa tay chỉ về phía Nam, nói:
    - Khói!
    Xtas đưa tay che mắt, cố căng mắt nhìn về phía ấy và trông thấy quả thực có một cột khói bay lên trong ánh mặt trời đỏ rực đã xuống thấp, ở giữa rừng, giữa hai rặng núi khá cao phía xa xa.
    Cali run toàn thân vì nó hãy còn nhớ rất rõ kiếp sống nô lệ hãi hùng trong tay bọn phiến loạn, nó tin rằng, nơi đó chính là trại của bọn chúng. Xtas cũng cho rằng đó không phải là ai khác ngoài gã Xmainơ, và thoạt tiên em cũ ng rụng rời tay chân. Chỉ còn thiếu có chuyện đó nữa thôi! Bên cạnh cơn ốm thập tử nhất sinh của Nen lại thêm bọn phiến loạn. Lại nô lệ, lại quay về Phasôđa hay Kháctum dưới bàn tayMahơđi, hay dưới ngọn roi của Ápđulahi!
    Nếu như bọn chúng tóm được lũ trẻ, Nen sẽ chết ngay trong ngày đầu tiên, còn em thì phải làm nô lệ trong những ngày còn lại trên đời. Nếu có lúc nào đó em trốn thoát được đi chăng nữa, thì sống mà làm gì, tự do mà làm gì nếu thiếu Nen? Làm sao có thể nhìn vào mắt cha, hoặc ông Rôlixơn, khi mà bọn phiến loạn ném cô bé sau lúc nhắm mắt cho lũ linh cẩu xé xác, còn em thì không biết nói với mọi người nấm mồ cô bé nằm ở đâu?
    Nhữ ng ý nghĩ ấy vụt qua đầu em như những tia chớp. Bỗng nhiên em cảm thấy có ý muốn không cưỡng lại nổi là được nhìn Nen, và liền đi về phía cái cây. Trên đường đi, em bảo Cali dập tắt lửa và chớ có đốt lên về đêm, rồi bước vào trong ruột cây.
    Nen đang thức và cảm thấy dễ chịu hơn. Cô bé lập tức chia xẻ với Xtas điều ấy. Xaba nằm bên cạnh cô bé và sưởi ấm cô bằng tấm thân to lớn của mình, còn cô bé thì vuốt nhẹ đầu con chó và mỉm cười khi nó há mồm đớp những cái bụi vỏ cây mục bay lượn trong chùm ánh sáng của những tia nắng mặt trời cuối cùng ban chiều rọi vào trong cây. Hẳn là cô bé thanh thản hơn, vì lát sau cô quay sang hỏi Xtas với nét mặt khá tỉnh táo:
    - Mà cũng có thể em sẽ không chết đâu, anh nhỉ?
    - Chắc chắn là em sẽ không chết. - Xtas đáp. - Sau cơn sốt thứ hai mà em cảm thấy khỏe hơn thì cơn thứ ba sẽ không tới nữa đâu.
    Cô bé hấp háy mi mắt dường như đang suy nghĩ điề u gì rồi nói:
    - Giá như em có cái thứ thuốc đắng, thứ thuốc đã làm em dễ chịu đến thế sau cái đêm gặp bọn sư tử ấy - anh nhớ không? Thì chắc chắn em sẽ không nghĩ gì tới cái chết đâu, không nghĩ một tí ti nào bằng ngần này nữa anh này!
    Và cô bé bấm trên đầu ngón tay nhỏ bé để chỉ rõ khi ấy mình sẽ sẵn sàng bao nhiêu để chết.
    - Ôi! - Xtas bật lên. - Anh sẵn sàng đổi hết để lấy một chút kí ninh.
    Em nghĩ rằng, giá như có nhiều thuốc, thì em sẽ cho Nen uống ngay hai viên một lúc, rồi sau đó dù ng tấm chăn bọc Nen vào, đặt lên lưng ngựa, trước mặt em, rồi lao thẳng về phía ngược hướng với trại của bọn phiến loạn.
    Mặt trời lặn xuống, khu rừng bỗng chìm vào bóng tối.
    Cô bé trò chuyện chừng nửa giờ nữa rồi ngủ thiếp đi, còn Xtas tiếp tục suy nghĩ về bọn phiến loạn và thuốc kí ninh. Cái đầu đang lo lắng nhưng rất tháo vát của em bắt đầu làm việc và vạch ra những kế hoạch khác nhau, cái sau bạo dạn và liều lĩnh hơn cá i trước. Đầu tiên em cân nhắc xem làn khói phía Nam có nhất thiết phải bốc lên từ trại của gã Xmainơ hay không. Rất có thể đó chính là bọn phiến loạn, nhưng cũng có thể đó là những người Ả Rập xứ duyên hải, những người đi sâu vào lục địa để lùng ngà voi hoặc săn nô lệ. Bọn họ không dính dáng tới bọn phiến loạn, vì chúng khiến cho việc buôn bán của họ bị cản trở. Cũng có thể đó lại trại của những người Abixinia hoặc một làng dân da đen sơn cước nào đó mà bọ n săn người chưa sục tới. Liệu có nên tự mình đi thám thính xem cho chắc chắn hay không?
    Người Ả Rập ở Dandiba, từ vùng lân cận Bagamôiô, từ Vit hay từ Mombaxa, và nói chung từ vùng duyên hải đến, là những người luôn tiếp xú c với người da trắng, nên biết đâu họ sẽ chẳng đưa cả hai đứa tới một cái cảng nào đó gần đó nhất để đổi lấy một phần thưởng lớ n? Xtas biết rõ rằng em có thể hứa một phần thưởng thật to và người ta sẽ tin vào lời hứa của em. Cũng có một ý nghĩ kháclàm cậu xúc động sâu sắc. Ở Kháctum em đã trông thấy nhữ ng tín đồ Hồi giáo nhất là những người vùng Nubia cũng bị sốt rét gần như những người da trắng - và họ chữa bệnh bằng kí ninh mà họ tướcđoạt được của dân châu Âu, hoặc đã mua với giá cắt cổ nếu thuốc này được giấu giếm trong tay những kẻ bội giáo người Hy Lạp hay Coptơ. Vì vậy, có thể hi vọng rằng, những người Ả Rập vùng duyên hải chắc chắn có kí ninh.
    ?oMình sẽ đi, - em tự nhủ, - mình sẽ đi vì Nen!?.
    Càng cân nhắc kĩ tình thế hiện tại, em lại càng tin tưởng rằng cho dù đó là toán quân của gã Xmainơ đi chăng nữa, thì cũng nên tới đó. Em nhớ lại rằng, vì quan hệ giữa Ai Cập và Xuđan cắt đứt hoàn toàn, nên có lẽ Xmainơ không hay biết gì về chuyện bắt cóc bọn trẻ từ Phaium. Mụ Phátma không thể liên hệ được với gã, chuyện bắt cóc chỉ là ý đồ của mụ ta, được thực hiện với sự trợ sức của Khamix, con trai Khađigi, cùng với Ghebơrơ và hai tên Bêđuin. Những kẻ này không dính dáng gì tới Xmainơ vì cái lí do đơn giản là gã chỉ biết có mỗi một mình Khamix mà thôi, những tên kia thì gã chưa từng gặp bao giờ. Gã chỉ quan tâm tới những đứa con của gã và mụ Phátma thôi. Mà cũng có thể gã đang nhớ chúng và sẽ vui sướng được quay trở lại với vợ con nếu như việc phục vụ dưới trướng Mahơđi đã khiến gã chán ngán. Dưới trướng Mahơđi rõ ràng gã đã chẳng làm nên trò trống gì to tát, bởi lẽ thay vì được thống lĩnh những đội quân hùng hậu hoặc được giao cho trị vì một vùng đất rộng lớn nào đó thì gã lại phải đi săn bắt nô lệ ở mãi một chốn thâm sơn cùng cốc tận bên dưới Phasôđa. ?oMình sẽ nói với gã? - Xtas nghĩ thầm: ?oNếu như ông đưa chúng tôi tới được một cái cảngnào đó trên bờ biển Ấn Độ Dương, hoặc nếu ông cùng chúng tôi quay trở về Ai Cập, chính phủ sẽ tha thứ cho ông mọi lỗi lầm, ông sẽ được sum họp với bà Phátma và bọn trẻ, ngoài ra, ngài Rôlixơn sẽ làm cho ông trở nên giàu có, còn nếu không, ông sẽ không bao giờ còn được trông thấy Phátma và bọn trẻ nữa đâu!?.
    Và Xtas tin rằng, gã Xmainơ sẽ phải suy nghĩ kĩ trước khi từ chối một hiệp ước như thế.
  7. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Tất nhiên, tất cả những chuyện đó không phải đều an toàn, thậm chí có thể mất mạng nữa, nhưng cũng có thể trở thành cái phao cứu mạng trong vực thẳm muôn trùng này của Phi châu. Rốt cuộc, Xtas đâm ra ngạc nhiên vì sao lú c đầ u khả năng chạm trán với gã Xmainơ lại có thể khiến cho em kinh hoàng đến thế - và vì muốn cứu Nen cấp tốc, em quyết dịnh ngay trong đêm nay sẽ lên đường.
    Song nghĩ thì dễ hơn thực hiện. Ngồi bên đống lửa rừng rực, sau hàng rào gai giữa rừng đêm là một chuyện, còn lao mình vào trong đêm thẳm, trong đám cỏ cao, nơi đó giờ này lũ sư tử, báo, beo, không kể tới linh cẩu và lang núi đang săn mồi lại là một chuyện khác hẳn. Tuy nhiên em chợt nhớ lại lời của thằng bé da đen trong cái đêm nó bỏ đi tìm con Xaba, lúc trở lại đã nói với Xtas: ?oCali sợ, nhưng vẫn đi!?. Và em cũng lặp lại y như thế:
    ?oMình sợ, nhưng mình sẽ đi!?.
    Tuy vậy, nó cũng chờ cho đến khi trăng mọc, vì đêm hôm ấy rất tối, và khi rừng bàng bạc ánh trăng, em mới gọi Cali và bảo:
    - Cali, cậu hãy dắt con Xaba vào trong ruột cây, lấy gai rào kín lỗ cửa, rồi cù ng với Mêa, cậu hãytrông nom cô chủ thật cẩn thận, còn tớ sẽ đi xem thử những ai đang ở trong cái trại phía kia.
    - Ông lớn hãy mang theo Cali và khẩu súng để giết bọn thú giữ. Cali không ở nhà đâu.
    - Cậu phải ở nhà! - Xtas nói quả quyết. - Tớ cấm cậu không được đi theo tớ.
    Rồi em im lặng một lát, lúc sau mới cất giọng hơi trầm hơn nói tiếp:
    - Cali, cậu rất trung thành và chín chắn, nên tôi tin rằng cậu sẽ thực hiện được những gì tôi sẽ nói đây. Nếu như tôi không trở lại, mà cô chủ qua đời, thì cậu hãy để cô chủ lại trong lòng cây gỗ, nhưngdựng chung quanh cây một hàng rào cao, còn trên vỏ cây, cậu khắc một cái dấu lớn như thế này.
    Cầm lấy hai thanh tre, em đặt vuông gó c thành chữ thập.
    Rồi em nói tiếp:
    - Còn nếu như cô bé không chết mà tôi không quay trở lại, thì cậu sẽ thành kính và trung thành phục vụ cô chủ. Cậu sẽ đưa cô chủ tới chỗ dân tộc của cậu và nói với các chiến sĩ Vahima để họ cùngcô chủ đi mãi về phía Đông, đến tận Biển Lớn. Ở đó, cậu sẽ gặp những người da trắng, họ sẽ cho các cậu nhiều súng, thuốc đạn, chuỗi hạt cườm, đạn súng săn và vải vóc. Cậu hiểu không?
    Cậu bé da đen quỳ xuống trước mặt Xtas, ôm ghì lấy chân em, lặp đi lặp lại thảm thương:
    - Ô, bvana kubva! Trở lại, trở lại, trở lại!
    Xtas rất cảm động trước tình gắn bó của cậu bé da đen, nên cúi xuống, đặt tay lên đầu nó và bảo:
    - Đi vào trong cây đi, Cali,... Cầu Chúa ban phước lành cho cậu!
    Còn lại một mình, Xtas suy nghĩ một lúc nữa, xem có nên mang theo con lừa hay không. Nếumang đi thì an toàn hơn, vì sư tử châu Phi cũngnhư hổ Ấn Độ, khi gặp người cưỡi ngựa hoặc lừa, bao giờ cũng nhảy vào con vật trước, chứ không phải vào người.
    Nhưng em lại tự hỏi, trong trườnghợp như thế thì ai sẽ chở lều cho Nen, và chính cô bé sẽ cưỡi gì để đi? Sau khi cân nhắc, em từ bỏ ý định mang con lừa theo, và bắt đầu cất bước đi vào rừng thẳm.
    Trăng đã lên cao nên bầu trời sáng hơn. Nhưng những gian khó cũng ập đến ngay lập tức khi cậu bé bắt đầu dấn thân vào trong đám cỏ mọc cao đến nỗi một người cưỡi ngựa cũng có thể dễ dàng ẩn kín trong đó. Thậm chí cả ban ngày cũng không thể trông thấy gì trong ấy cách một bước chân, huống hồ là giữa đêm khuya, khi ánh trăng chỉ soi sáng ngọn cỏ, còn mọi thứ phía dưới đều chìm ngập trong bóng tối dầy đặc. Trong những điều kiện như thế rất dễ lạc đường, thay vì đi thẳng về phía trước rất có thể sẽ đi vòng. Xtas cảm thấy can đảm hơn khi nghĩ rằng, thứ nhất, khu trại mà em đang hướng tới chỉ ở cách mũi đất cùng lắm là ba hay bốn dặm Anh; hai nữa, khói bốc lên giữa hai ngọn đồi cao, nên nếu còn trông thấy những ngọn đồi đó thì không thể lạc đường được.
    Nhưng cỏ, cây trinh nữ và xiêm gai đã che mất tất cả. May thay, cứ chừng vài mươi bước chân lại có một tổ mối nhiều cái cao tới hơn chục bộ. Xtas cẩn thận đặt súng dưới chân những tổ mối ấy rồi trèo lên đỉnh và khi trông thấy những ngọn đồi đen thẫm nổi bật trên nền trời, em lại tụt xuống đi tiếp. Em chỉ sợ khi nghĩ tới chuyện mây che mất vầng trăng và phủ kín bầu trời, khi ấy sẽ không biết ra sao, vì em sẽ như bị lạc xuống dưới âm phủ. Song đó cũng không phải là mối đe dọa duy nhất. Rừng thẳm trong đêm - trong sự tĩnh mịch nghe thấy rõ từng tiếng động, từng tiếng chân chạy, và ngay cả tiếng sột soạt, khi lũ sâu bọ trườn trong cỏ gây nên - quả thật là đáng sợ. Nỗi hãi hùng và sự đe dọa như rình rập trên rừng đêm. Xtas phải để ý đến mọi thứ, phải lắng tai nghe cảnh giác, phải nhìn quanh tứ phía, đầu óc phải căng lên như dây đàn, còn súng thì lúc nào cũng sẵn sàng nhả đạn. Cứ chốc chốc lại cảm thấy như có con gì đó đang tiế n lại gần, đang rình mò theo, đang nấp sẵn. Thỉnh thoảng em nghe thấy tiếng cỏ xao động và tiếng chân bất thần của những con thú đang chạy đi. Em đoán rằng hẳn em đã làm kinh động đến một con linh dương, bọn này mặc dù đã đặt ?olính canh? nhưng vẫn ngủ rất cảnh giá c, vì biết rằng trong bóng tối vào giờ này, không ít những con thú màu hoe hoe vàng đang đi săn mồi. Những cái gì kia to lớn đen thui dưới tán cây xiêm gai hình cái ô? Có thể đó là một tảng đá, mà cũng có thể là một con tê giác hay trâu rừng ngửi thấy hơi ngườiđã tỉnh thức và sắp sủa lao vào hú c. Ở kia, sau lùm cây đen đen có điểm sáng long lanh. Nào! Súng lênvai! Sư tử đấy! Không! Báo động hão rồi! Đó chỉ là hai con đom đóm, vì một đốm sáng bay vụt lên còn một đốm bay xuống cỏ như một ngôi sao rơi xiên. Không phải Xtas leo lên tổ mối chỉ là để nhìn xem mình đi có đúng hướng không, mà còn để lau cái trán đổ mồ hôi lạnh, để thở một chút và đợi cho trái tim bớt nhịp đập dập dồn. Ngoài ra, em cảm thấy mệt rã cả người, khó khăn lắm mới đứ ng vững trên đôi chân.
    Nhưng em vẫn tiến lên phía trước với ý nghĩ cần phải đi để cứu lấy Nen. Sau hai giờ đường, em tới một vùng mặt đất trải đầy những hòn đá nhỏ, nơi cỏ mọc thấp hơn trước và sáng hơn. Hai ngọn đồi vẫn in hình xa xa như trước, nhưng có một lèn đá chạy dài ngang trước mắt đã gần hơn, phía sau là một cái lèn đá nữa cao hơn, cả hai hình như bao quanh một thung lũng hay một khe núi, tương tự như cái khe đang giam giữ King.
    Đột nhiên, ở phía bên phải, cách chừng ba hay bốn trăm mét, Xtas nhìn thấy ánh lửa hồng phản chiếu trên vách đá.
    Em đứng sững lại. Tim đập dồn dập tưởng chừng có thể nghe thấy được giữa cái tĩnh mịch của đêm thanh. Em sẽ trông thấy ai ở dưới kia? Nhữngngười Ả Rập từ vùng biển phía đông chăng? Hay bọn phiến loạn của gã Xmainơ? Hay những người da đen hoang dã rời bỏ làng xóm quê hương đi trốn tránh bọn phiến loạn trong chốn núi thẳm rừng hoang này? Em sẽ gặp cái chết, sự nô lệ hay cứu vãn cho Nen đây?
    Cần phải xác minh điều đó. Em không thể và cũng không muốn thoái lui. Một giây sau em bắt đầu lần mò về phía đống lửa, bước đi thật khẽ, cố nín thở. Bước được chừng trăm bước, em nghe từ phía rừng có tiếng ngựa thở mạnh. Em đứng dừng lại. Trong ánh trăng, em tính được năm con ngựa. Số lượng đó quá ít đối với bọn phiến loạn, nhưng cũng có thể là số ngựa còn lại ẩn ở đâu đó trong đám cỏ cao. Em chỉ ngạc nhiên một điều là bên cạnh ngựa không thấy có người canh, và rằng những người canh nọ không đốt trên cao những đống lửa để xua đuổi các loài dã thú. Nhưng ơn Chúa, vì nhờ đó em có thể tiến lên được mà không bị trông thấy.
    Ánh lửa hồng trên vách đá mỗi lúc một rõ hơn. Chưa đầy mươi lăm phút sau, Xtas đã tới được chỗ đối diện với vách đá được chiếu sáng mạnh nhất, điều chứng tỏ là dưới chân vách đá ấy có đống lửađang cháy.
    Em bèn bò và trườn thật chậm đến rìa vách đá và nhìn xuống phía dưới.
    Vật đầu tiên đập vào mắt em là một cái lều to, trước lều là một cái giường vải dã chiến, trên đómột người mặc quần áo màu trắng kiểu châu Âu đang nằm.
    Một thằng bé da đen chừng mười hai tuổi đang chất thêm cành khô vào đống lửa, ánh lửa đang chiếu sáng vách đá và một đoàn người da đen đangngủ dọc theo vách đá về hai bên cửa lều.
    Trong chớp mắt, Xtas đã tụt theo sườn dốc xuống lòng khe núi
  8. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 32​
    Vì mệt và xúc động cậu bé đứng lặng đi, thở hổn hển, không thốt ra được lời nào trước con người đang nằm trên giường; người đó cũng im lặng nhìn em với vẻ kinh ngạc của một người nửa tỉnh nửa mê.
    Mãi sau ông ta mới gọi:
    - Nasibu, mày có đấy không?
    - Con đây thưa ông chủ! - Cậu bé da đen đáp lại.
    - Mày có trông thấ y ai không, ai đang đứng trước mặt ta đây?
    Trước khi cậu bé da đen kịp trả lời, Xtas đã nói ngay:
    - Thưa ngài, - em nói, tôi là Xtanixoáp Tarcôpxki. Cùng với tiểu thư Rôlixơn, tôi chạy thoát khỏi cảnh nô lệ từ tay bọn phiến loạn và chúng tôi đang náu trong rừng. Nhưng Nen đang ốm nặng, tôi cầu xin ngài hãy giúp đỡ.
    Người lạ mặt hấp háy mắt ngó em một lú c nữa, rồi đưa tay gạt ngang vầng trán.
    - Ta nghe thấy đây mà, không phải chỉ nhìn thấy không, - ông ta cất tiếng như tự nói với bản thân mình. - Đây không phải là ảo giác. Hả? Giúp đỡ à? Chính ta cũng đang cần giúp đỡ đây. Ta bị thương rồi.
    Bỗng nhiên ông giật mình, dường như vừa thoát khỏi giấc mơ, hoặc cơn bải hoải, nhìn cậu bé với vẻ tỉnh táo hơn, với ánh sung sướng long lanh trong mắt, rồi bảo:
    - Một đứa bé da trắng!... Ta còn được trông thấy một người da trắng đây mà!... Xin chào anh, dù anh là ai. Anh nói đến bệnh tật gì thì phải? Anh muốn gì ở ta?
    Xtas nhắc lại, rằng người ốm là Nen, con gái của ngài Rôlixơn, một trong các vị giám đốc kênh đào, rằng cô bé đã bị hai cơn sốt rét và chắc sẽ chết nếu như không có kí ninh để phòng cơn thứ ba.
    - Hai cơn, gay rồi đấy. - Người lạ đáp - Nhưng kí ninh thì ta có thể cho anh, bao nhiêu tuỳ ý anh. Ta có mấy lọ to, và chúng cũng chẳng giúp gì cho ta nữa.
    Nói thế, ông ra lệnh cho cậu bé Nasibu đưa cho mình một cái hộp sắt tây to tướng, hẳn là tủ thuốckhi đi đường, lấy từ trong đó ra hai lọ lớn đựng đầy một thứ thuốc trắng, đưa cho Xtas.
    - Đây là một nửa số ta có. Ngần này cũng đủ dùng ít ra là một năm...
    Xtas suýt nữa thì reo lên vì mừng rỡ, em cảm ơn ông ta, xúc động như chính em được cứu sống vậy. Người lạ mặt gật gật đầu rồi nói:
    - Được rồi! Ta là Linđe, người Thuỵ Sĩ, quê ở Duyrích... Hai ngày trước đây ta gặp tai nạn: mộtcon lợn rừng nơđiri húc ta bị thương nặng.
    Rồi quay sang phía thằng bé da đen, ông bảo:
    - Nasibu, nhồi cho ta tẩu thuốc.
    Và quay sang Xtas:
    - Về đêm ta bị sốt nhiều hơn và hơi bị choáng váng trong đầu. Nhưng hút một điếu thuốc sẽ làm cho đầu óc minh mẫn hơn.
    Anh bảo là các anh trốn thoát khỏi tay bọn phiến loạn và hiện đang ẩn náutrong rừng, có phải thế không?
    - Vâng, thưa ngài, cháu đã nói thế.
    - Thế các anh định làm gì?
    - Chạy đến Abixinia ạ.
    - Thế thì các anh sẽ rơi vào tay quân lính của Mahơđi mất thôi, hiện nhiều đơn vị quân của yđang tuần phòng suốt dọc biên giới.
    - Nhưng chúng cháu không thể làm gì khác hơn được ạ.
    - Ôi, giá như một tháng trước đây thì ta đã có thể giúp các cháu. Nhưng giờ đây ta chỉ còn lại cómỗi một mình, sống nhờ lượng Chúa và nhờ thằng bé da đen kia mà thôi.
    Xtas nhìn ông với vẻ ngạc nhiên.
    - Thế còn cái trại này ạ?
    - Đó là cái trại của tử thần.
    - Còn những người da đen này?
    - Họ đang ngủ và sẽ không bao giờ tỉnh dậy nữa.
    - Cháu không hiểu...
    - Bọn họ bị bệnh ngủ(1). Đó là những người thuộc vùng Hồ Lớn, nơi cái bệnh khủng khiếp này hoành hành liên tục, và tất cả bọn họ đều mắc phải thứ bệnh quái ác ấy, trừ những kẻ trước đó đã chết vì đậu mùa. Chỉ mỗi mình thằng bé này là còn sống sót với ta thôi...
    Bây giờ Xtas mới chợt nhận ra rằng khi em tuột xuống khe núi, không một người da đen nào nhổm dậy hay động đậy - trong khi họ trò chuyện, tất cả bọn họ đều ngủ: người thì tựa đầu vào vách đá, kẻ lại gục đầu xuống ngực.
    - Họ ngủ và không bao giờ tỉnh dậy nữa ư? - Emhỏi lại, dường như vẫn chưa thật hiểu điều vừa nghe thấy.
    Ông Linđe thốt ra:
    - Ôi, cả Phi châu này là một cái nhà xác!...Những lời tiếp theo của ông bị gián đoạn bởi tiếng vó ngựa, lũ ngựa sợ một cái gì đó trong rừng, nhảy chồm chồm trên hai chân bị buộc vào nhau, lần về phía mép thung lũng, muốn được xích lại gần lửa gần người!
    - Không có gì đâu, lũ ngựa đấy thôi! - người đànông Thuỵ Sĩ nói tiếp - Ta đã lấ y được ngựa của bọn quân lính Mahơđi vài tuần trước, khi ta đánh cho chúng tan tác. Bọn chúng có chừng ba trăm tên, có lẽ hơn thế. Nhưng bọn chúng phần nhiều chỉ có giáo mác, còn người của ta thì lại có súng trường rêmingtơn, số súng đang đặt gần vách đá kia, chúng cũng chẳng còn dùng được vào việc gì nữa rồi. Nếu cháu thiếu súng, hoặc đạn thì cứ lấy, bao nhiêu cũng được. Lấy cả ngựa nữa, cháu sẽ quay về với cô bạn đang ốm của cháu nhanh hơn. Con bé bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?
    - Tám tuổi ạ. - Xtas đáp.
    - Vậy ra hãy còn là một đứa trẻ con. Nasibu sẽ đưa cho cháu chè, gạo, cà phê và rượu vang... Trong số lương thự c cháu muốn thứ gì cứ lấy, và sáng mai hãy tới lấy thêm nữa.
    - Cháu nhất định sẽ quay trở lại để cảm ơn ngài một lần nữa với tất cả tấm lòng, và để đỡ đần cho ngài những gì cháu có thể làm được.
    Ông Linđe nói:
    - Thật dễ chịu dù chỉ được trông thấy một khuôn mặt người Âu. Nếu như sáng mai cháu đến sớm thì ta sẽ tỉnh táo hơn. Bây giờ cơn sốt lại kéo tới hành hạ ta rồi, ta trông thấy cháu thành hai người. Có thật hai người đang đứ ng trước mặt ta không? Không!...
    Ta biết chắc là chỉ có mỗi mình chá u, vàđó chỉ là do cơn sốt thôi...
    Ôi cái châu Phi này!
    Và ông nhắm nghiền mắt lại.
    Mười lăm phút sau, Xtas lên đường quay trở lại, rời cái trại kì lạ của bệnh ngủ và cái chết, lần này thì bằng ngựa. Đêm hãy còn sâu thẳm, nhưng em không còn phải để ý đến những mối nguy hiểm có thể sẽ gặp trong vùng cỏ cao nữa. Tuy vậy, em đi dọc theo gần sông, với dự tính rằng hai cái khe núi đều phải đổ ra sông. Nói cho cùng, quay trở về dễ dàng hơn nhiều, vì trong sự tịch mịch của đêm, tiếng thác nước vang đi rất xa, thêm vào đó, phía Tây bầu trời mây quang hẳn, và bên cạnh vầng trăng còn có ánh sáng hoàng đạo soi khá tỏ. Cậu bédùng mũi bàn chân đạp kiểu Ả Rập rộng bản thúc vào hông ngựa lao đi vun vút, vừa nhủ thầm trong lòng: ?oSư tử và báo gấm mà hề chi! Ta đã có kí ninh cho cô em bé bỏng đây rồi!?. Chốc chốc, em lại đưa tay sờ nắn hai cái lọ, như muốn kiểm tra cho chắc xem quả thực có chúng trong tay không, và tất cả những điều này không phả i chỉ là một giấc mơ. Biết bao ý nghĩ và hình ảnh diễn qua óc em. Em như thấy người đàn ông Thuỵ Sĩ bị thương mà em vô cùng biết ơn, đồng thờ i chân thành hối hận rằng thoạt đầu trong khi nói chuyện, em đã ngỡ ông ta điên, em như thấy thằng bé Nasibu với cái sọ dừa tròn như một quả bóng, cùng những hàng người phu đang ngủ say và những họng súng rêmingtơn tựa vào vách đá, ánh lên trong lửa. Giờ đây em tin chắc rằng cuộc chiến đấu mà ông Linđe nói tới chính là cuộc chiến đấu với toán quân của gã Xmainơ, và đối với em có vẻ thật lạ lùng khi nghĩ rằng chính gã Xmainơ cũng có thể đã chết.
    Nhữ ng hình ảnh ấy hòa trộn không ngừng với những nghĩ suy về Nen. Em tưởng tượng thấy cô bé sẽ ngạc nhiên đến thế nào khi trông thấy cả một lọ thuốc kí ninh đầy, có thể cô bé coi em là phù thủycũng nên. ?oÔi, - em tự nhủ, - giá như ta hè n nhát không dám tự mình đi xem thử làn khói đó bốc lên từ đâu, thì suốt đời ta không bao giờ có thể tha thứ nổi cho mình điều đó!?.
    Không đầy một tiếng đồng hồ sau, tiếng thác nướ c đã vang lên nghe rõ mồn một, và nghe cả tiếng ếch nhái, khiến Xtas đoán ra rằng đã về tới gần khoảng nước rộng nơi hôm trước em từng săn chim nước. Trong ánh trăng em còn nhận rõ những cái cây xa xa mọc trên bờ nước. Giờ thì cần phải thật cảnh giác, vì vùng nước đó đồng thời cũng là nơi uống nước mà mọi loài thú trong vùng đều phải tới, vì tại tất cả những nơi khác, bờ sông đều dốc đứng và khó xuống. Nhưng lúc này đêm đã quá muộn, lũ thú dữ hẳn là ẩn náu trong các hang đá sau những chuyến đi săn đêm. Con ngựa khẽ kêu lên rừ rừ khi ngửi thấy thấy mùi sư tử hay hùm beo hãy còn vương vất quanh đấy, nhưng Xtas đã vượt qua nơi đó không gặp trở ngại gì và một lúc sau em đã trông thấ y hình dáng đen sẫm của ?oCracốp? đứng sừng sững trên mũi đất cao. Lần đầu tiên trong thời gian ở châu Phi, em có cảm giác như về tới nhà.
    Em ngỡ rằng sẽ gặp mọi người đang ngủ say, nhưng quên tính tới con Xaba, con chó cất tiếng sủa đến nỗi cả người chết chắc cũng phải bật dậy. Trong chớp mắt, Cali hiệ n ra trước cái cây và kêu tướng lên:
    - Bvana kubva cưỡi ngựa!
    Trong giọng của cậu bé có nhiều niềm vui hơn là sự ngạc nhiên, bởi nó quá tin tưởng vào sự hùng mạnh của Xtas, nên nếu như Xtas có hóa phép tạo ra voi đi nữa thì cậu bé da đen cũng chẳng ngạc nhiên lắm.
    Nhữ ng niềm vui bao giờ cũng khiến cho người da đen cười, nên thằng bé vừa vỗ đùi bành bạch vừa cười lên như hóa dại.
    - Hãy buộc chân con ngựa này lại, - Xtas bảo, tháo đồ đạc xuống, đốt to lửa lên và nấu nước sôi đi.
    Rồi em bước vào lòng cây gỗ. Nen cũng đã thức dậy và bắt đầu gọi tên em. Xtas khẽ hé bứ c rèm bằng vải nhìn khuôn mặt nhợt nhạt của Nen trong ánh sáng ngọn đèn cù ng đôi bàn tay gầy trắng bệch đặt trên lần chăn đắp trên người cô bé.
    - Em thấy trong người ra sao, cô bé? - Xtas vuivẻ hỏi.
    - Bình thường, em ngủ rất say, cho tới khi con Xaba làm em thức giấc. Thế sao anh không ngủ?
    - Vì anh còn phải đi.
    - Đi đâu, anh?
    - Tới hiệu thuốc, - Tới hiệu thuốc à?
    - Phải, để mua kí ninh mà.
    Vị thuốc kí ninh đắng ngắt không làm cho cô bé thích thú chút nào, nhưng cô bé vốn xem đó là thứ thuốc trị được bách bệnh trên đời nên cô thở dài vào bảo:
    - Em biết anh không còn kí ninh nữa.
    Xtas bèn giơ một trong hai cái lọ lên gần đèn và hỏi vẻ vừa tự hào vừa sung sướng:
    - Thế cái gì đây?
    Nen không muốn tin vào mắt mình nữa, còn cậu bé nói vội vã, cả người như sáng bừng lên:
    - Em sẽ khỏe ngay bây giờ! Lát nữa anh sẽ lấy cho em một liều thuốc thật nhiều bọc trong vỏ quả vả tươi và em phải nuốt chửng, rồi uống thứ gì thì em sẽ biết. Sao em nhìn anh như nhìn con mèo màu xanh thế? Phải anh còn một lọ nữa. Anh được một người đàn ông da trắng cho, trại của ông ta ở cáchđây bốn dặm.
    Anh vừa từ đó quay về đây. Ông ta tên là Linđe và bị thương, nhưng ông ta cho anh vô số thứ ngon. Anh quay về bằng ngựa, nhưng phải đi bộ đến chỗ ông ta đấy. Em nghĩ là đi qua rừng trong đêm dễ chịu lắm à? Brr! Có các vàng anh cũng không đi nữa, trừ phi đi xin thuốc kí ninh!
    Nói thế xong, em rời cô bé đang kinh ngạc, đi sang ?obuồng con trai?, lấy trong số lương thực dự trữ một qủa vả nhỏ nhất, khoét ra và rắc thuốc kíninh vào bên trong, chú ý sao cho liều thuốc khôngnhiều hơn so với những viên thuốc mà em nhận được ở Kháctum. Rồi em bước ra khỏi thân cây, rótnước trà vào cốc nước mang và o cho Nen.
    Trong thời gian ấy cô bé nghĩ tới chuyện vừa xảy ra. Cô bé rất tò mò, không hiểu người da trắng nọ là ai? Làm sao Xtas lại biết ông ta? Liệu ông ta có đến thăm chúng không và liệu có đi cùng chúng? Bây giờ cô bé không hề nghi ngờ gì nữa, khi Xtas đã có được kí ninh thì cô sẽ khỏe lại. Nhưng anh Xtas này... dám đi một mình trong đêm vượt quarừng, cứ như là không ấy thôi! Dù cho cậu bé cóngạc nhiên, nhưng Nen vẫn quen coi tất cả những gì Xtas làm cho cô là những chuyện tất nhiên, cô bé không hề suy nghĩ gì lâu la về điều đó, vì nói cho cùng thì một người anh lớn phải chăm sóc một đứaem gái chứ! Nhưng lần này thì cô bé hiểu được rằngnếu không có sự chăm sóc của Xtas thì chắc chắncô bé đã chết từ lâu, rằng Xtas vô cùng chăm lo tới Nen, rằng cậu chiều chuộng và bảo vệ Nen đến mức không có một đứa con trai nào ở vào tuổi cậu có thểlàm được - và một lòng biết ơn to lớn tràn ngậptrong trái tim nhỏ nhoi của cô bé.
    Cho nên khi Xtas bước vào và cầm thuốc cúi xuống thì Nen liền lập tức vươn hai cánh tay mảnh mai của mình lên ôm choàng lấy cổ Xtas và chân thành ghì chặt lấy:
    - Anh Xtas, anh đối với em thật tốt biết bao. Còn thằng bé đáp:
    - Thì anh còn biết tốt với ai nữa? Tuyệt lắm! Nào, uống thuốc đi em!
    Tuy nhiên, cậu vui sướng vô cùng, mắt cậu long lanh thỏa mãn, và quay lại phía lỗ cửa gọi to, với vẻ thật tự hào và sung sướng:
    - Mêa! Bây giờ đưa trà cho cô bé nào!
    ---------------
    1 Gần đây, người ta tin chắc rằng, bệnh ngủ này do giống ruồi tse tse gây ra khi đốt người (chính giống ruồi tse tse gây cái chết cho đại gia súc). Tuy nhiên, bệnh ngủ chỉ lan tràn trong một số vùng mà thôi. Vào thời khởi nghĩa Mahơđi, nguyên nhân của bệnh này chưa được biết. (Chú thích của tác giả).
  9. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 33​
    Mãi trưa ngày hôm sau, Xtas mới đi thăm ông Linđe được, vì còn phải ngủ bù cho một đêm thức trắng. Dọc đường em bắn hạ hai con chim pentácca vì nghĩ rằng hẳn người ốm đang cần thịt tươi, và quả thật món quà này được nhậ n với lòng biết ơn.Ông Linđe yế u lắm rồi nhưng hoàn toàn tỉnh táo. Ngay sau khi chào hỏi, ông hỏi ngay về Nen, rồi ông dặn Xtas chớ nên xem kí ninh là phương thuốc đủ hiệu nghiệm để chống lại bệnh sốt rét, mà cần phải tránh cho Nen khỏi bị nắng, bị ướt, ban đêm không được ở những chỗ ẩm thấp và không được dùng nước độc. Sau đó Xtas thuật lại cho ông nghe - theo yêu cầu của ông - toàn bộ câu chuyện của em và Nen, từ đầu cho tới khi đến được Kháctum, cuộc tiếp kiến Mahơđi, rồi sau đó, từ Phasôđa tới lúc tự giải thoát khỏi tay Ghebơrơ cùng chuyến đi tiếp tục. Trong khi em kể, người đàn ông Thuỵ Sĩ nhìn em với sự thích thú ngày càng tăng, với sự ngạc nhiên, và khi câu chuyện kết thúc, ông đốt một tẩu thuốc lá, nhìn Xtas một lần nữa từ đầu tới chân rồi nói với vẻ trầm ngâm:
    - Nếu như đất nước của cháu có nhiều thiếu niên như cháu thì chắc hẳn ngoại bang khó lòng khuất phục nổi.
    Rồi sau một giây im lặng, ông nói tiếp:
    - Bằng chứng tốt nhất chứng tỏ những lời cháu nói là thật, là sự kiện cháu đang đứng trước mặt ta. Cháu biết ta muốn nói gì với cháu không? Hoàn cảnh của các cháu quả là kinh khủng, đường đi về ngả nào cũng ghê gớm ngang nhau, nhưng ai biết đâu đấy, một cậu bé như cháu có thể cứu mình cùng đứa trẻ ấy thoát khỏi cái vực thẳm này cũng nên...
    - Chỉ cần em Nen khỏe thôi, cháu sẽ làm tất cả những gì cháu có thể làm được, - Xtas thốt lên.
    - Nhưng cũng phải biết giữ sức cháu ạ, vì nhiệm vụ đang ở trước mặt cháu thật quá sức ngay cả đối với người lớn nữa kia.
    Cháu có biết hiện nay cháu đang ở chỗ nào không đã?
    - Không ạ. Cháu chỉ nhớ rằng, sau khi rời Phasôđa, chúng cháu đi ngang qua một làng lớn, gọilà làng Đeng, rồi một con sông nhỏ nào đó.
    - Sông Xốpbat, - ông Linđe ngắt lời.
    - Ở Đeng có rất nhiều quân phiế n loạn và người da đen.
    Nhưng sau sông Xốpbat, chúng cháu đi vào vùng rừng, và đi suốt cả tuần cho đến khi gặp cái khe núi trong đó hẳn bác đã biết xảy ra chuyện gì...
    - Ta biết rồi. Rồi sau đó, các cháu đi theo cái khe nú i đó đến khi gặp con sông. Cháu hãy nghe ta nói đây: thế có nghĩa là, sau khi vượt qua sông Xốpbat, cùng với bọn Xuđan, các cháu đã quành về phíaĐông Nam, nhưng thiên nhiều về phía Nam hơn. Hiện nay các cháu đang ở trong vù ng mà các nhà thám hiểm cũng như các nhà địa lí hoàn toàn chưa biết tới. Con sông ở cạnh chúng ta đây chảy lên phía Tây Bắc và hình như sẽ đổ vào sông Nin. Ta nói hình như vì bản thân ta cũng không biết thật rõ, mà ta cũng không còn có thể tìm hiểu để khẳng định điều đó nữa, mặc dù chính ta rời khỏi dãy núi Caramôiô là để nghiên cứu ngọn nguồn con sông này. Sau trận đánh vừa rồi, ta được nghe bọn tù binh phiến loạn nói rằng sông này gọi tên là sông Ogêlôguen, nhưng chính bọn chúng cũng không biết chắc lắm, vì thự c ra chúng nhảy vào vùng này chỉ để săn bắt nô lệ mà thôi. Nói chung, trước đây bộ lạc Sinlúc chiếm cứ vùng đất thưa dân cư này, nhưng hiện nay ở đây hoàn toàn là vùng không người, vì một phần dân cư bị chết bởi dịch đậu mùa, một phần bị bọn quân Mahơđi quét sạch, còn mộtphần chạy trốn vào dãy núi Caramôiô. Ở châu Phi, nhiều khi một vùng đất hôm nay còn đang dầy đặc cư dân, ngày mai đã trở thành vùng đất trắng, không một bóng người. Theo nhữ ng tính toán của ta, các cháu đang ở cách Lađô chừng ba trăm kilômét.
    Các cháu có thể chạy trốn về phía Namđến với ông Êmin, nhưng chính ông Êmin cũng đang bị quân phiến loạn vây hãm, nên chuyện này chẳng nên bàn tới làm gì...
    - Thế còn tới Abixinia thì sao ạ? - Xtas hỏi.
    - Cũ ng vào khoảng ba trăm cây số. Tuy vậy cũng cần nhớ rằng, Mahơđi đánh nhau với toàn thế giới, nghĩa là đánh nhau cả với Abixinia nữa. Ta biết được qua bọn tù binh, rằng biên giới phía Tây và phía Nam hiện đang có những bộ tộc lớn nhỏ của quân phiến loạn tuần phòng có nghĩa là các cháu dễ dàng bị lọt vào tay chúng. Abixinia là quốc gia theo đạo Thiên Chúa, nhưng ở vùng phía Nam lại là những bộ lạc dã man, hoặc là ngoại đạo hoặc theo đạo Ixlam - và cũng vì vậy họ ngấm ngầm ủ ng hộ Mahơđi...
    Không, đường đó các cháu không qua được đâu!
    - Thế thì cháu biết làm gì, biết đi đâu với Nenbây giờ? - Xtas hỏi.
    - Ta đã nói rằng tình thế thật gay go mà, - ông Linđe đáp.
    Nói thế xong, ông đặt hai tay lên đầu và nằm im lặng một hồi lâu.
    - Từ đây tới biển, - ông nói, - cách chừng chín trăm kilômét, qua núi, qua những vùng thổ dân hoang dã, thậm chí vượt qua cả sa mạc nữa, vì hình như ở đấy có những vùng rộng lớn hoàn toàn không có nước. Nhưng vùng đất này về danh nghĩa đang thuộc về Anh quố c. Rất có thể sẽ gặp những đoàn vận tải ngà voi đi Kixmai, đi Lamu hay đi Monbaxa, cũng có thể sẽ gặp một đoàn truyền giáo chẳng hạn... Biết rằng do có bọn phiến loạn nên không thể nào nghiên cứu hết con sông này, vì nó quành ra sông Nin, chính ta cũng đã muốn đi vềphía Đông, về phía đại dương...
    - Thế thì chúng ta hãy cùng nhau trở về đi bác!
    - Xtas kêu lên.
    - Ta không về được nữa rồi. Con lợn nơriđi làm nát cả thịt lẫn gân chân ta, chắc ta bị nhiễm trùng máu. Chỉ một nhà phẫu thuật mới có thể cứu được ta bây giờ bằng cách cắt bỏ cái chân đi.
    Bây giờ thì nó đã cứng lại và tê bại đi rồi, chứ hôm đầu thì đau ghê gớm...
    - Chắc chắn là bác sẽ khỏe lại thôi mà.
    - Không đâu, cậu bé can trường của ta, chắc chắn là ta sẽ chết, còn cháu, cháu sẽ lấy đá đắp mồ ta thật kín để lũ linh cẩu khỏi moi xác ta ra. Người chết thì thế nào cũng xong, nhưng lúc đang còn sống mà nghĩ về chuyện đó thì chẳng dễ chịu chút nào...
    Thật nặng nề khi phải chết xa những người thân thuộc...
    Nói tới đây, mắt ông mờ đi như bị một làn sương bao phủ, rồi ông nói tiếp: - Nhưng ta đã thanh toán với ý nghĩ đó rồi, nên tốt nhất chúng ta đừng nói về ta nữa mà về các cháu thì hơn. Ta khuyên cháu một điều: chỉ còn lại một con đường sang phía Đông, đến đại dương. Nhưng các cháu hãy nghỉ ngơi cho khỏe trước khi lên đường, lấy thêm sức lực. Nếu không cô bạn đường nhỏ bé của cháu sẽ chết trong vòng vài tuần mất. Hãy lùi chuyến đi lại tới cuối mùa mưa hay hơn nữa. Những tháng hè đầu tiên, khi mưa ngừng rơi, và nước hãy còn bao phủ các đầm lầy là những tháng lành nhấ t. Nơi chúng ta đang ở đã là vùng cao nguyên, nằm bên trên mựcnước biển chừng bảy trăm mét. Ở độ cao một nghìn ba trăm mét thì hoàn toàn không còn bệnh sốt rét nữa, còn những người bị bệnh này được mang từ vùng thấp lên thì cơn bệnh cũng dịu đi nhiều. Cháu hãy mang cô bạn người Anh lên núi...
    Rõ ràng việc nói chuyện làm ông rất mệt, nên ông dừng lời, và suốt một hồi lâu ông kiên nhẫn đuổi đám nhặng xanh giống hệt như lũ nhặng mà Xtas đã trông thấy trên những vùng đầy tro xám của Phasôđa.
    Sau đó, ông nói tiếp:
    - Cháu hãy chú ý thật kĩ những điều ta nói đây. Cách đây một ngày đường về phía Nam có một ngọn núi riêng lẻ nhô cao lên, nhưng không cao quá tám trăm mét. Trông nó như một cái xoong lật ngược vậy. Sườn núi rất dốc, chỉ có một gờ đá lên được, hẹ p tới nỗi nhiều chỗ chỉ đủ cho hai con ngựa đi kề nhau mà thôi. Trên đỉnh núi bằng phẳng rộng chừng một kilômét hay hơn, vốn có một cái làng dân da đen, nhưng bọn Mabơđi đã giết và bắt sạch dân làng đi rồi. Cũng có thể chính tên Xmainơ bị ta đánh tan đã làm chuyện đó, nhưng ta không lấy lại được số nô lệ của hắn, vì trước đó hắn đã gửi họ đi theo một đoàn lính hộ tống tới vùng sông Nin mất rồi. Các cháu hãyở lại đỉnh núi ấy. Ở đó có một suối nước rất lành; mấy cánh đồng sắn và nhiều chuối lắm. Trong các lều các cháu sẽ tìm thấy nhiều xương người, nhưng đừng sợ bệnh dịch gì lây từ những hà i cốt ấy, vì sau khi bọn phiến loạn đi rồi thì ở đó chỉ còn lũ kiến, chính lũ kiến này đã khiế n đoàn của ta phải rời đó mà đi. Ngoài ra không còn ma nào nữa. Các cháuhãy ở lại làng ấy một hay hai tháng. Ở độ cao ấy không còn sốt rét nữa đâu. Ban đêm thường lạnh. Ở đó cô bạn nhỏ của cháu sẽ lấy được sức khỏe, còn cháu thì cũng sẽ khỏe thêm lên.
    - Nhưng sau đó thì làm gì và đi đâu nữa ạ?
    - Sau đó thì tuỳ ý Chúa. Các cháu hãy cố sức vượt sang Abixinia tới những vùng xa hơn, nơi quânphiến loạn chưa đến được, hoặc đi về phía Đông. Tanghe nói rằng người Ả Rập từ vùng bờ biển lần tới được một cái hồ nào đấy để tìm ngà voi, họ thường mua ngà voi của các bộ tộc Xamburu và Vahima.
    - Vahima à? Cali là người Vahima đấy.Và Xtas bắt đầu kể cho ông Linđe nghe nó đã được thừa hưởng Cali sau cái chết của gã Ghebơrơ ra sao, rằng Cali đã nói cho em biết rằng nó là con trai của vị đầu lĩnh của toàn thể những người Vahima. Song ông Linđe đón nhận cái tin này hờ hững hơn nhiều so Xtas nghĩ.
    - Thế càng hay, - ông nói, - vì thằng bé có thể giúp ích được cho chá u. Trong số dân da đen cũng có những tâm hồn trung thực, mặc dù nói chung không nên chờ đợi ở lòng biết ơn của bọn họ, đó là những đứa trẻ con dễ dàng quên đi những gì diễn ra ngày hôm qua.
    - Nhưng Cali sẽ không quên là cháu đã cứu nó thoát nó khỏi tay Ghebơrơ, cháu tin chắc điều đó.
    - Có thể, - ông Linđe đáp và trỏ tay sang Nasibuông nói thêm, - đây cũng là một đứa trẻ tốt bụng. Sau khi ta chết, cháu hãy cưu mang nó.
    - Xin bác đừng nói và cũng đừng nghĩ tới cái chết nữa.
    - Anh bạn thân mến của ta ơi, - người Thuỵ Sĩ đáp. - Ta đang mong nó tới đây, cốt sao đừng đau đớn quá là được. Hãy nghĩ xem, bây giờ đây ta không chút sức tự vệ, và giá như có một trong những tên Mahơđi nào đó đã bị đánh tan, trong khi lang thang tình cờ tới cái khe núi này, thì một mình hắn cũng có thể thịt ta như thịt một con cừu non vậy.
    Nói tới đây ông trỏ sang những người da đen đang ngủ:
    - Những kẻ kia không bao giờ tỉnh dậy nữa, mà ta nói không đúng lắm - mỗi người chỉ tỉnh dậy một lúc ngay trước khi chết, chạy quá ng quàng vào rừng, rồi không quay lại nữa... Từ hai trăm người chỉ còn lại có sáu mươi. Nhiều kẻ bỏ trốn, nhiều kẻ bị chế t vì bệnh đậu mùa, một số thiếp đi mãi mãi trong những khe núi khác.
    Xtas thương cảm và kinh hoàng nhìn kĩ những người đang ngủ. Da họ có màu tro xám, mà đối với người da đen có nghĩa là xanh xao. Một số người mắt nhắm nghiền, kẻ khác mắt mở he hé, nhưng ngay cả những kẻ này cũng ngủ say, vì đồng tử của họ không hề có phản ứng gì đối với ánh sáng. Một số người đầu gối sưng phù. Tất cả đều gầy guộc một cách kinh khủng, đến nỗi qua làn da có thể đếm trọn số xương sườn của họ. Tay chân họ co giật liên tục và rất nhanh. Những con nhặng xanh bâu dầy đặc lên mắt lên môi họ.
    - Không có cách nào cứu họ nữa ư? - Xtas hỏi.
    - Không có! Ở vùng hồ Vichtoria Nianda bệnh này quét sạch cả làng. Đôi khi nó lan tràn ghê gớm, đôi khi ít hơn. Người ở những vùng bờ sông nhiều lau lách dễ bị bệnh này.
    Mặt trời đã ngả về Tây, nhưng trước khi chiều tới, ông Linđe còn kể cho Xtas nghe câu chuyện đờiông. Ông là con một thương gia ở Duyrích. Bố mẹ ông xuất thân từ vùng Cáclơxruhơ, nhưng từ năm 1848 sang sinh sống ở Thụỵ Sĩ. Cha ông phát tài vì buôn tơ lụa. Cha ông đào tạo ông thành một kĩ sư, nhưng chàng thanh niên Henrich ngay từ thuở thiếu thời đã say mê du lịch. Sau khi tốt nghiệp trường bách nghệ và được thừa hưởng toàn bộ gia sản của cha, ông lên đường làm chuyến thám hiểm đầu tiên đi Ai Cập.
    Đó là từ trước thời kì Mahơđi, nên ông đến được tận Kháctum và đi săn cùng với dân Dangan ở Xuđan. Sau đó, ông dành thì giờ nghiên cứu địa lí châu Phi và trở thành một người rất thông thạo lĩnh vực này, đến nỗi nhiều hội địa lí công nhận ông làm thành viên danh dự của mình.Ông bắt đầu cuộc thám hiểm cuối cùng - cuộc thám hiểm kết thúc thê thảm như thế đối với ông - từ Dandiba, ông đến được vùng Hồ Lớn và định đi dọc theo dãy nú i chưa được nghiên cứu tới là dãy Caramôiô đến tận Abixinia, rồi từ đó, đến bờ đại dương. May thay - hoặc không may thay - là lúc đóđang có chiến tranh giữa Uganđa và Uniôrô. Ông Linđe đã lập được nhiều công trạng đối với nhà vua Uganđa, để thưởng công, nhà vua bèn cho ông hơnhai trăm phu khuân vác đồ đạc. Điều đó khiến cho chuyến đi và việc thám hiểm núi Caramôiô trở nên nhẹ nhàng, nhưng rồi bệnh đậu mùa bắt đầu xuất hiện trong đoàn người, tiếp đó lại đến cái bệnh ngủ khủng khiếp này - và thế là cả đoàn bị tan vỡ.
    Ông Linđe còn có rất nhiều thức ăn dự trữ bằng đồ hộp, nhưng vì lo ngại bệnh scôbút(1) ngày nào ông cũng đi săn để kiếm thịt tươi. Ông là một tay súng thiện xạ nhưng lại là một nhà đi săn không mấy thận trọng. Và thế là xảy ra tai họa, khi mấy ngày trước đây, ông nhẹ dạ đến quá gần một con lợn lòi nơriđi bị thương, con vật chồm dậy và cắn nát chân ông, rồi sau đó lại xéo lên lưng. Chuyện đó xảy ra ngay gần trại ngay trước mắt thằng bé Nasibu, thằng bé xé toạc cái áo của nó làm băng cầm máu cho ông và đưa ông vào lều. Nhưng trong cái chân bị thương có thể có chứng xuất huyế t nội và người bị thương bị bệnh hoại huyết đe dọa.
    Xtas nhất thiết muốn được băng bó cho ông và em nói rằng hằng ngày em sẽ đến với ông, hoặc để khỏi phải để Nen lại một mình dưới sự chăm sóc của hai người bạn da đen - sẽ mang ông trên tấm chăn căng giữa hai con ngựa về mũi đất, về ?oCracốp?.
    Ông Linđe đồng ý để em thay băng giúp, nhưng không đồng ý di chuyển.
    - Ta biết - ông nói và chỉ những người da đen của mình, - rằng những người này nhất định sẽ chết, nhưng khi nào họ còn chưa chết, ta không đành lòng để họ bị lũ linh cẩu xé xác lú c đang sống, bọn này hiện đang bị lửa giữ cho phải ở xa xa về ban đêm.
    Rồi ông nóng nảy lặp đi lặp lại:
    - Ta không thể, không thể, không thể!
    Nhưng lát sau ông bình tĩnh lại và nói bằng giọng vô cùng xúc động:
    - Sáng mai, cháu hãy đến đây... Bác có một yêu cầu đối với cháu. Nếu như cháu hoàn thành được cho bác thì biết đâu Chúa sẽ đưa các cháu thoát khỏi cái vực thẳm Phi châu này, còn bác thì sẽ được chết thanh thản hơn. Bác muốn để đến mai hãy nói điều này, nhưng vì có thể sáng mai bác không tỉnh, nên bác nói hôm nay:
    hãy múc nước vào một cái bình nào đấy, rồi cháu hãy dừng lại bên từng người đáng thương đang ngủ kia, vẩy nước và nói những lời này: ?oTa rửa tội cho người, nhân danh Cha, vàCon, và Đức Chúa Thánh thần!...? Nói đến đây, sự xúc động khiến ông nghẹn ngào, ông ngừng lời.
    - Bác cứ tự trách mình, - một lát sau ông nói tiếp, - rằng đã không vĩnh biệt được như thế với những kẻ đã thiếp đi vĩnh viễn trước đây. Nhưng giờ đây cái chết đang ở trước mặt bác... Bác muốn rằng... ít nhất thì những người còn lại trong đoàn của bác sẽ được cùng đi vào chuyến đi vĩnh hằng cuối cùng kia...
    Và ông chỉ tay lên bầu trời rực nắ ng - hai giọt lệ to lớn chầm chậm lăn trên gò má ông. Xtas òa lên khóc nức nở.
    -----------------
    1 Bệnh hoại thư do thiếu vitamin.
  10. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 34​
    Mặt trời buổi sáng hôm sau soi sáng một cảnh tượng kì lạ.
    Xtas đi dọc theo vách đá, dừng lại trước từng người da đen, vẩy nước lên trán họ và đọc lời kinh cầ u nguyện cho họ. Còn họ vẫn cứ ngủ say, taychân co giật, đầu rũ xuống ngực hay ngước lên trời, hãy còn sống đấy mà trông đã giống như nhữ ng xác chết rồi. Và cứ thế, trong ánh mặt trời, trong sự thanh bình ban mai, trong cái câm lặng của sa mạc,lễ rử a tội cho những người đang ngủ diễn ra như thế đó. Ngày hôm đó, trời không mây thanh cao, màu xanh xám như cũng sầu thương.
    Ông Linđe hãy còn tỉnh táo, nhưng mỗi lúc một yếu hơn. Sau khi thay băng, ông giao cho Xtas các thứ giấy tờ đựng trong hộp sắt tây, uỷ nhiệm choem bảo quản và không nói gì thêm. Ông không thể ăn được nữa, nhưng cái khát giày vò ông kinh khủng.
    Trước khi mặt trời lặn ông bắt đầu mê sảng. Ông gọi tên những đứa trẻ nào đó, bảo chúng đừng bơi quá xa ra giữa hồ, cuối cùng giật người lên từng cơn và đưa hai tay ôm lấy đầu.
    Hôm sau nữa, ông hoàn toàn không nhận ra Xtas, và ba ngày sau đó ông qua đời vào chính ngọ, không hề tỉnh lại lần nào.
    Xtas chân thành thương khóc ông, rồi cả hai cùng với Cali mang ông tới một cái hang hẹp lòng gần đấy, lấy đá và gai góc bịt kín cửa hang.
    Xtas mang cậu bé Nasibu về ?oCracốp?, bảo Cali ở lại chỗ đó canh giữ đồ đạc và ban đêm đốt lửa thật to bên cạnh những người đang ngủ. Còn em cứ đi về liên tục giữa hai khe núi, chuyên chở các túi đồ, vũ khí, đặc biệt là đạn cho những khẩu rêmingtơn để tháo lấy thuốc súng làm mìn phá tảng đá đang bịt đường ra của King. May mắn thay, sau những liều thuốc kí ninh dùng hàng ngày, sức khỏe của Nen được cải thiện rõ rệt, và đủ loại thức ăn khiến cô mạnh lên. Tuy nhiên, bao giờ rời Nen, Xtas cũng không muốn, vì lo ngại, và trước khi ra đi em cấm cô bé không được ra khỏi cây, lấy dây xiêm gai bịt kín lỗ cửa ra vào. Song do hàng núi công việc đang đè lên vai, em phải để Nen lại cho Mêa trông nom cùng với Nasibu và Xaba, mà thực ra, em trông cậy nhiều nhất ở con Xaba. Em thà đi hàng chục lần trong ngày sang trại ông Linđe để lấy đồ đạc hơn là để cô bé phải ở một mình quá lâu. Em làm việc kinh người nhưng sức khỏe sắt thép củ a em chịu đựng được hết mọi nỗi khó nhọc. Tuy vậy, mãi mươi ngày sau, các bọc đồ mới được chia làm hai trọn vẹn, những thứ ít cần thiết hơn được chôn giấu trong các hang núi, những thứ cần thiết hơn được mang về ?oCracốp?, lũ ngựa cũng được đem về mũi đất, trên lưng ngựa là phần lớn những khẩu sú ng rêmingtơn mà con King sẽ phải chở đi theo.
    Trong thời gian đó, ở trại của ông Linđe, thỉnh thoảng lại có một người nào trong số những ngườ i đang ngủ trong cơn mê cuồng trước khi chết, vùng dậy chạy trốn vào rừng và không quay trở lại nữa. Cũng có những kẻ chết ngay tại chỗ, một số người khác thì bị đập đầu vào đá chết ngay trong trại hoặc ở gần đó vì chạy trong khi đang ngủ. Những người này được Cali chôn cất. Sau hai tuần, chỉ còn lại có mỗi một người, nhưng người này cũng chết ngay trong khi ngủ do kiệt sức.
    Mãi rồi cũng tới lúc phá tung khối đá để giải phóng cho King.
    Nó đã thuần đến nỗi, theo lệnh của Xtas, nó dùng vòi túm lấy em đặt lên đầu. Nó cũng đã quen với việc chuyên chở những thứ đồ nặng mà Cali kéo theo các thang tre chất lên lưng nó. Nen thì nhất mực bảo rằng bọn trẻ bắt nó mang nặng quá, nhưng thực ra tất cả những thứ đó đối với nó chỉ nhẹ như một con ruồi, và chỉ tới khi có những bọc đồ đạc của ông Linđe nó mới thật sự chở đủ nặng. Nó cũng đã kết thân với con Xaba (ban đầu cứ trông thấy con chó là nó lại mất bình tĩnh) và đã đùa nghịch với con chó bằng cách dùng vòi lật lật con chó trên mặt đất, còn Xaba thì giả vờ cắn cái vòi. Thỉnh thoảng, nó bất thần phun nước vào con chó khiến Xaba cho rằng đó là một thứ đùa nghịch rất khó chịu.
    Bọn trẻ sung sướng nhất bởi con vật thông minh và biết suy nghĩ hầu như hiểu được tất cả những gì mà chúng yêu cầu nó, nó không những chỉ hiểu mọi mệnh lệnh, mọi sự đòi hỏi mà thậm chí cả từng cử chỉ nữa. Về phương diện này thì lũ voi vượt xa mọi thứ thú nuôi khác, cò n King thì vượt hẳn con chó Xaba, con này chỉ biết ve vẩy đuôi khi nghe những lời cảnh cáo của Nen rồi sau đó nó lại làm mọi thứ theo ý mình. Sau vài tuần lễ, King hiểu được rất rõ rằng người cần phải vâng lời nhất là Xtas, người mà mọi người chăm lo nhất là Nen. Vì thế, nó thực hiện nghiêm túc nhất tất cả những mệnh lệnh của Xtas, nhưng lại yêu mến Nen hơn cả. Với Cali thì nó cầm chừng, còn Mêa thì nó hoàn toàn bỏ qua.
    Sau khi làm xong bộc phá, Xtas nhét thật sâu vào khe hở, sau đó dùng đất sét bịt kín hết, chỉ để lại một lỗ nhỏ cho cái ngòi bện bằng sợi cọ khô trộn với thuốc súng. Giờ phút quyết định đã điểm: Xtas tự tay châm sợi dây đã trộn với thuốc súng, rồi cắm đầu chạy thụ c mạng đến cái cây mà trước đó nó đã bắt tất cả mọi người phải nấp vào. Nen lo rằng con King sẽ hoảng sợ quá chăng, nhưng cậu bé nói cho nó yên tâm rằng đã chọn ngày mà đêm trước có mưa dông sấm chớp ầm ầm, hai nữa, nó cam đoan rằng giống voi hoang dã từng nghe nhiều tiếng sấm gầm còn khủng khiếp hơn, khi trời ra oai trổ tài với rừng rú. Tuy vậy, bọn trẻ vẫn ngồi lo lắng, tim đập gấp gáp, tính từng phút một. Một tiếng nổ khủng khiếp rung động cả bầu không khí, mạnh đến nỗi cây bao báp rung chuyển toàn thân, từ gốc tới ngọn, những lớp gỗ mục ruỗng chưa kịp lấy đi hết đổ ụp xuống đầu cả bọn. Xtas nhảy vọt ngay ra khỏi cây, và vượt qua những khú c ngoặt của khe núi, nó lao thẳng tới chỗ họng khe.
    Kết quả vụ nổ thật quá mĩ mãn. Một nửa khối đá vôi vỡ nát thành từng mảnh vụn, nửa kia vỡ ra thành nhiều khối lớn và nhỏ, những mảnh này bị sức nổ ném vung đi khá xa.
    Voi đã được giải phóng!
    Cậu bé sung sướng nhảy lên bờ khe núi, gặp Nen, Cali và Mêa ở đó. Con King hơi hoảng, lùi sát tận bờ khe, đứng giơ vòi về phía phát tiếng sấm khác thường nọ. Tuy nhiên, khi Nen bắt đầu gọi nó, nó liền thôi vẫy tai, và khi cô bé qua chỗ thông vừa bị phá thủng để đến với nó, nó hoàn toàn bình tĩnh lại. Còn lũ ngự a thì hoảng hơn King, hai con dông tuốt vào rừng, Cali phải tìm mãi cho đến lúc trời gần tối mới thấy chúng.
    Ngay trong ngày hôm đó, Nen đưa King ?ora với đời?. Con vật khổng lồ đi theo sau cô bé ngoan ngoãn như một chú cún con, sau đó, nó tắm gội dưới sông và tự lo lấy bữa chiều cho mình bằng cách tựa đầu vào một cây sung Ai Cập to tướng, nó bẻ cây này gãy nhẹ nhàng như một cây lau nhỏ, rồi sau đó xơi hết cả quả cùng lá cây.
    Song đến tối nó bước đến gần cây bao báp và cứ chố c chốc lại thò cái vòi linh động của nó qua lỗ cửa vào tìm Nen một cách nóng nẩy và quấy đến nỗi rốt cuộc Xtas phải phát cho nó một cái rõ đau vào đầu vòi.
    Người sung sướng nhất vì những kết quả của ngày hôm nay đó là Cali vì nó thoát khỏi công việc kiếm thức ăn cho con vật khổng lồ, và đó hoàn toàn không phải là một việc dễ dàng. Vì vậy Xtas và Nen nghe thấy tiếng nó hát một bài ca mới đầy sung sướng trong khi đang nhen lửa làm bữa tối, bài ca gồm những lời sau:
    - Ông lớn giết người và sư tử! Yah, yah! Ông lớn phá vỡ tảng đá yah! Voi tự bẻ cái cây, còn Cali chỉ ngồi chơi và đánh chén - yah, yah!
    Mùa mưa - hay mùa masica như người ta gọi đã gần kết thú c. Hãy còn những ngày trời mưa và đầy mây nhưng đã có cả những ngày hoàn toàn hửng nắng. Xtas quyết định chuyển sang ngọn núi mà ông Linđe đã chỉ và nó thực hiện ý định này ngay sau khi giải phóng cho King. Sức khỏe của Nen không còn đáng lo lắm nữa, cô bé đã cảm thấy mạnh hơn nhiều.
    Thế là, chọn được một buổi sáng đẹp trời, bọn trẻ lên đường đi về phía Nam. Chúng không còn sợ bị lạc đường nữa, vì trong số rất nhiều thứ đồ đạc mà cậu bé được thừa hưởng của ông Linđe, có một cái địa bàn và một cái ống nhòm rất tốt, dùng nó có thể nhìn rõ những vùng xa. Cùng đi với bọn trẻ, ngoài Xaba và con lừa, còn có năm con ngựa thồ hàng và con voi. Trừ những gùi hàng ra, con vật còn chở trên đầu cô bé Nen, cô bé ngồi giữa hai cái tai khổng lồ của nó nom cứ như ngồi trong một chiếc ghế bành vậy. Xtas rời bỏ không hề tiếc mũi đất bên sông và cái cây bao báp, vì chúng gắn liền với những hồi ức về bệnh của Nen. Ngược lại, cô bé lại buồn bã ngắm nhìn những tảng đá, cái cây, thác nước và nói rằng sẽ còn quay trở lại nơi đây khi nào ?oto? hơn.
    Tuy nhiên, cậu bé Nasibu còn buồn bã hơn nhiều, cậu bé yêu mến chân thành ông chủ trướcđây của cậu, và giờ đây, cưỡi trên mình lừa đi cuối đoàn, cứ chốc chốc cậu lại đưa cặp mắt đẫm lệ trông về phía mà ông Linđe tội nghiệp phải ở lại cho đến ngày phán xét vĩ đại.
    Gió thổi từ phương Bắc và ngày hôm ấy mát mẻ lạ lùng. Vì thế bọn trẻ không cần phải chờ cho qua buổi giữa mười giờ trưa với ba giờ chiều - cho qua cơn nóng nhất - mà có thể đi được nhiều đường đất hơn so với những đoàn khách thương khác. Con đường cũng không dài lắm, và mấy tiếng đồng hồ trước khi mặt trời lặn, Xtas đã trông thấy ngọn núi mà chúng đang hướng tới. Phía xa xa một dãy dài các đỉnh núi khác nổi lên trên nền trời, còn ngọn núi này thì đứng riêng biệt và gần hơn giống như một hòn đảo giữa rừng. Khi bọn trẻ đến gần hơn thì té ra là những sườn dốc đứng của núi bị bao bọc bởi một khúc quanh của chính con sông mà trước đóchúng đã dừng chân trên bờ . Đỉnh núi trông như bị chặt ngang, hoàn toàn bằng phẳng, và nhìn từ phía dưới, thì hình như nó được bao phủ bởi cả mộ t khu rừng rậm. Xtas ước tính rằng, nếu như mũi đất có cây bao báp của chúng nằm cao bẩy trăm mét trên mực nước biển, còn ngọn núi này cao tám trăm mét, thì chúng sẽ được ở trên độ cao một nghìn năm trăm mét, nghĩa là chắc khí hậu sẽ không nóng hơnbao nhiêu so với Ai Cập. Ý nghĩ này khiến em thêm phấn chấn và muốn mau chóng chiếm lĩnh cái pháo đài thiên nhiên ấy.
    Bọn trẻ dễ dàng tìm ra cái sống đá duy nhất dẫn lên đến đỉnh, và bắt đầu theo đó leo lên. Sau một tiếng rưỡi đồng hồ, chúng đã đứng trên đỉnh núi. Khu rừng mà chúng trông thấy từ dưới chân núi quả thực là rừng, nhưng lại là rừng chuối. Cảnh tượng đó khiến cho cả bọn - kể cả con King - đều vui sướng, mà người vui sướng nhất lại là Xtas, vì em biết rằng ở châu Phi không có thứ thực phẩm nào bổ, lành, mà lại có khả năng ngừa bệnh tốt hơn bột chuối khô. Mà chuối thì bạt ngàn, ít nhất cũng đủ dùng cho chúng cả năm.
    Giữa những phiến lá chuối to bản ẩn kín những túp lều của người da đen, một số bị cháy trong cuộc tấn công ăn cướp, một số đã sụp đổ, nhưng số khácvẫn còn nguyên vẹn. Ở giữa làng là ngôi nhà lớn nhất, ngày trước là nhà của chúa làng, đượ c đắp rất đẹp bằng đất sét với cái mái rộng làm thành một hàng hiên chung quanh tường. Trước những túp lều, đây đó rải rác những chiếc xương hoặc những bộ xương người trắng như phấn, vì đã được lũ kiến làm cho sạch bóng, lũ kiến mà ông Linđe đã nhắc tới. Từ lúc đó đến nay đã nhiều tuần lễ trôi qua, nhưng trong lều vẫn còn thoáng ngửi thấy mùi hăng của kiến và không sao tìm ra nổi một con gián to màu đen nào vẫn thường có rất nhiều trong những túp lều của người da đen, không có một con nhện, một con bọ cạp hay một loài sâu bọ nào dù nhỏ bé đến đâu chăng nữa. Những con kiến siaphu kinh khủ ng đã quét sạch sành sanh các giống vật đó. Cũng có thể tin chắc rằng, trên toàn bộ đỉnh núi không còn một con rắn nào, vì thậm chí cả loài trăn cũng trở thành nạn nhân của các chiến sĩ tuy nhỏ bé nhưng không gì cản nổi kia.
    Sau khi đưa Nen và Mêa vào lều của chúa làng, Xtas ra lệnh cho Cali và Nasibu dọn sạch các hài cốt. Bọn trẻ da đen thực hiện mệnh lệnh đó bằng cách quẳng hết xương xuống sông, dòng sông mang những hài cốt đó đi xa hơn. Trong khi làm công việc đó chúng nhận thấy rằng ông Linđe đã nhầm khi cam đoan rằng chúng sẽ không gặp trên núi một mạng sống nào. Sự tĩnh mịch bao trùm sau khi bọn phiến loạn đem hết người đi và những cây chuối đã thu hút về đây những đàn tinh tinh đông đảo, chúng dựng lên trên các cây cao những chiếc ô hay những mái nhỏ che mưa. Xtas không muốn giết chúng nhưng muốn xua đuổi chúng đi nơi khác, và thế là em bắn chỉ thiên. Tiếng nổ gây nên một cảnh hỗn loạn chung, cảnh đó càng trở nên hỗn loạn hơn khi tiếng súng được kèm thêm tiếng sủa giọng trầm của con Xaba và nhất là khi King - bị tiếng ồn ào kích động - rống lên vang động. Nhưng bọn tinh tinh để tháo lui không cần phải tìm đến cái gờ đá mà chỉ cần bám lấy những khe đá chúng cũng tuồn xuống tận sông và những cây cối mọc ven sông, nhanh đến nỗi răng con Xaba không kịp chạm tới một con nào cả.
    Mặt trời đã lặn. Cali và Nasibu nhóm lên một đống lửa để làm bữa tối. Sau khi dỡ những thứ đồ đạc cần thiết cho buổi tối, Xtas cũng bước vào nhà của viên chúa làng, nơi Nen đang ở.
    Trong nhà sáng sủa và vui vẻ, vì Mêa đã đốt lên không phải ngọn đèn từng soi sáng lòng cây bao báp mà là cây đèn dầu hỏa to tướng dùng khi đi đường được thừa hưởng của ông Linđe. Nen không cảm thấy mệt nhọ c gì sau một ngày đi đường mát mẻ và đang rất vui, nhất là khi Xtas thông báo với cô bé rằng những xương người làm cô sợ đã được dọn sạch.
    - Ở đây tốt quá, anh Xtas ạ! - Cô bé reo lên. - Anh nhìn này, thậm chí đến nền nhà cũng được rải nhựa cây. Chúng mình sẽ ở đây rất tuyệt.
    - Sáng mai anh mới đi xem xét kĩ toàn bộ khu vực, - Xtas đáp, - nhưng chỉ qua những thứ mà anh thấy hôm nay, thì có thể nói là sinh sống ở đây cả đời được.
    - Giá như có cha của chú ng ta thì có thể sống cả đời cũng được. Nhưng cái trang ấp này của chúng ta sẽ gọi tên là gì, anh?
    - Trong địa lí, ngọ n núi này sẽ mang tên là núi Linđe, còn cái làng này cứ để mang tên em: Nen!
    - Thế là cả em cũng được ghi vào địa lí à anh? Cô bé vô cùng sung sướng hỏi lại.
    - Em sẽ được ghi, chắc chắn như vậy! - Xtasnghiêm trang đáp lại.

Chia sẻ trang này