1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trên sa mạc và trong rừng thẳm - henrik Sienkievich

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi pathetique, 29/11/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 41 ​
    Nhưng Xtas chỉ nghỉ một chốc bên những bờ thành của Luela rồi liền dẫn Cali cùng ba trăm chiến sĩ đi về phía cái bôma của ông Phumba ngay trước khi mặt trời lặn, vì nó muốn đánh quân Xamburu ngay trong đêm. Nó tính rằng, ban đêm, ?onhững con rắn lửa? sẽ gây tác dụng lớn hơn nhiều. Kể cả những chỗ nghỉ, từ Luela tới núi Bôcô, nơi ông Phumba đương chống giữ, mất chín giờ đồng hồ đi đường, cho nên mãi tới ba giờ sáng họ mới đến được dưới chân thành. Xtas bảo các chiến sĩ dừng lại và ra lệnh giữ im lặng tuyệt đối cho tới giờ hànhđộng, rồi em bắt đầu quan sát địa thế. Đỉnh núi, nơi những người cố thủ đương náu mình, hoàn toàn tối, còn quân Xamburu thì lại đốt lên rất nhiềuđống lửa. Ánh lửa chiếu sáng những vách đá dốc và những cây khổng lồ mọc sát chân núi. Từ xa vẳng về tiếng trống trầm trầm cùng những tiếng kêu và tiếng hát của các chiến sĩ: hẳn là họ đang nốc bia pômba để mừng thắng lợi cuối cùng đã gần kề. Dẫn đầu toán quân của mình, Xtas tiến sát thêm nữa, chỉ cách những đống lửa gần nhất không quá một trăm bước chân. Không hề thấy quân canh trại đâu cả, đêm lại không có trăng, nên những người dân hoang sơ kia không trông thấy được con King; thêm nữa nó lại được cây cối che khuất. Ngồi trên đầu voi, Xtas ra những mệnh lệnh cuối cùng, rồi ra hiệu cho Cali bắn một phát pháo hiệu đã chuẩn bị sẵn. Vừa kêu rít lên, dải lửa màu đỏ vừa bay vút lên bầu trời tối đen, rồi nó bùng nổ, tỏa thành những chùm sao đỏ, xanh và vàng rực. Mọi thứ tiếng động đều im bặt, nhường chỗ cho một sự im lặ ng chết chóc bao trùm.
    Vài giây sau, hai con rắn lửa nữa bay vọt đi như réo lên tiếng cười kinh rợn, nhưng lần này chúng bay ngang, hướng thẳng về phía trại quân Xamburu, đồng thời dậy lên tiếng rống của King và tiếng reo hò vang động của ba trăm người Vahima.Được vũ trang bằng những chiếc giáo axagaie, khiên và dao, họ lao thẳng về phía trước. Cuộc chiến đấu nổ ra, cuộc chiến đấu càng trở nên kinh khủng vì nó diễn ra trong bóng tối, bởi trong cảnh lộn xộn, tất cả các đống lửa đều bị dập tắt ngóm. Song ngay từ đầu, những con rắn lửa đã khiến cho quân Xamburu sợ hết hồn. Những gì đang diễn ra vượt quá sự hiểu biết của họ. Họ chỉ biết rằng có những loài vật gì đó rất kinh khủng tấn công họ, rằng họ đang bị đe dọa bởi cái chết kinh người, không chốnglạ i nổi. Đa số quân Xamburu chạy tháo thân, trước khi những cái giáo và gậy của người Vahima kịp động tới da họ. Hơm trăm chiến sĩ mà vua Mamba kịp tụ tập chung quanh mình chiến đấu dữ dội để tự vệ, song đến khi trong những ánh chớp đạn, họ trông thấy con vật khổng lồ, trên lưng nó là một người mặ c đồ trắng, khi tai họ nghe tiếng súng mà Cali cứ chốc chốc lại nổ một phát, thì tim họ rụngrời. Ở trên núi, khi nhìn thấy phát pháo hiệu đầu tiên nở tung ra trên không trung, thì cả vua Phumba cũng ngã xệp xuống đất và nằm như chết mấy phút liền vì hoảng sợ. Nhưng sau khi định thần lại, nghe thấy tiếng kêu hú tuyệt vọng của các chiến sĩ, ông hiểu được một điều là có những vị thần nào đó đang đánh tan quân Xamburu dưới kia. Khi ấy trong đầu óc ông chợt lóe ra một ý nghĩ nếu như không nhanh chân đến trợ sức cho những vị thần kia, thì cơn giậ n dữ của họ có thể sẽ quay lạ i chống ông ta cũng nên. Và vì sự tiêu diệt người Xamburu cũng là sự giải thoát cho ông, nên ông bèn tụ tập những chiến sĩ của mình, theo đường bên khuất kín ra khỏi bôma cắt đường rút lui của đại bộ phận những kẻ bỏ chạy. Lúc này trận đánh đã biến thành một cuộc tàn sát. Những cái trống của người Xamburu ngừng kêu. Trong ánh sáng nhập nhoạng và những ánh lửa lóe ra từ họng súng của Cali, rú lên tiếng kêu thét của những kẻ bị giết, tiếng rên rỉ của những kẻ bị thương. Không có ai kêu van cả vì người da đen không hề biết đến điều đó. Sợ rằng trong bóng tối và sự hỗn độn sẽ bắn phải người của mình, nên Cali thôi không dùng súng nữa; và nắm chặt thanh kiếm của Ghebơrơ, nó lao vào giữa đám quân địch. Lúc này, người Xamburu chỉ có thể chạy trốn từ trên núi về phía biên giới của họ bằng một khe núi rộng độc nhất, nhưng khe núi này đã bị Phumba cùng các chiến sĩ của ông chặn ngang, nên cả đoàn quân chỉ còn lại những kẻ nằm mọp xuống đất chờ người ta bắt là còn sống sót, mặc dù chúng biết rõ ràng một cuộc sống nô lệ nặng nề và kinh khủng hoặc một cái chết ngay lập tức từ tay những kẻ chiến thắng đang chờ đợi chúng.
    Mamba anh dũng chống cự cho tới khi một cái matruga đập cho y vỡ sọ. Con trai của y là Pharu rơi vào tay ông Phumba, ông bèn ra lệnh trói hắn lại để làm vật tế thần sau này, những vị thần đã tới trợ giúp ông ta.
    Xtas không thúc con King vào trận, em chỉ cho phép con vật rống lên để làm tăng thêm nỗi kinh hoàng cho quân địch mà thôi.
    Em cũng không nổ một phát súng nào vào quân Xamburu, vì trước hết, khi rời Luela em đã hứa với bé Nen là sẽ không giết chết thêm một ai nữa, sau nữa, quả tình em không hề có ý muốn giết người, những người không làm gì hại em và Nen. Chỉ cần làm sao bảo đảm thắng lợi cho quân Vahima và giải vây được cho ông Phumba đang bị khốn đốn trong cái bôma lớn là đủ. Cho nên ngay sau khi Cali chạy đến báo tin đã hoàn toàn thắng trận, em ra lệnh cho cậu bé chấm dứt ngay trận đánh đang diễn ra trong những lùm cây, hẽm đá do sự hăng máu của ông Phumba khiến cho kéo dài.
    Tuy nhiên, trước khi Cali kịp ngưng chiến trận thì trời đã sáng. Nhưng thường thường ở vùng nhiệt đới, mặt trời nhô lên rất nhanh từ phía sau những ngọn núi và chiếu ánh nắng rực rỡ xuống chiến trường, nơi hơn hai trăm xác chết quân Xamburu nằm ngổn ngang, bị giáo đâm hoặc matruga đánh.
    Một lúc lâu, sau khi cuộc đánh nhau đã tàn hẳn, chỉ có tiếng hú vui mừng của người Vahima khuấy động bầu không khí yên tĩnh buổi sáng, Cali lại xuất hiện, nhưng nét mặt nó buồn thảm đến nỗi ngay từ xa cũng đã có thể thấy rằng nó gặp phải một điều bất hạnh nào đó.
    Đứng trước mặt Xtas nó đấm tay vào đầu kêu lên một cách thảm thiết:
    - Ôi ông lớn ơi, Phumba kupha (bị giết) rồi!
    - Bị giết rồi à? - Xtas hỏi lại.
    Cali kể lại mọi chuyện, qua lời nó, có thể hiểu rằng nguyên nhân chỉ là do sự hăng máu của ông Phumba mà thôi, vì khi trận đánh đã kết thúc rồi, ông còn muốn hạ thêm hai người Xamburu nữa, một trong hai người này đã đâm ông một mũi giáo.
    Trong chớp mắt cái tin đó lan tới khắp tất cả những người Vahima và họ bắt đầu tụ tập chung quanh Cali. Lát sau, sáu chiến sĩ cáng xác vị vua già tới trên thân giáo, ông chưa chết nhưng bị thương nặng, và trước khi chết ông còn muốn được nhìn thấy vị chủ hùng mạnh ngồi trên đầu voi, con người đã chiến thắng quân Xamburu.
    Nỗi kinh ngạc khôn cùng còn giằng co trong mắt ông với bóng tối của cái chết đang che mờ, đôi môi đã nhợt nhạt có cái vòng pêlêlê xuyên qua còn khe khẽ thì thào:
    - Yancig! Yancig!... Nhưng ngay lập tức, đầu ông ngật ra đằng sau, mồm ông há hốc ra và ông qua đời.
    Vốn yêu cha, Cali òa lên khóc và ngả người lên ngực ông. Các chiến sĩ, một số người thì đấm tay vào đầu, còn một số khác bắt đầu tung hô Cali là vua và kêu lên những tiếng yancig để mừng nó. Một số người sụp xuống trước mặt vị vua mới. Không có tiếng nói nào chống lạ i, vì quyền kế vị thuộc về Cali, không những chỉ theo luật - nó là con trưởng của vua Phumba - mà vì nó là người chiến thắng.
    Lúc đó, trong nhà của các vị phù thủy trên đỉnh núi, bắt đầu vang lên những tiếng kêu rít dữ tợn của Mdimu Ác, những tiếng kêu mà Xtas đã từng nghe ở cái làng người da đen đầu tiên, nhưng lần này những tiếng gào hú đó không phải nhằm chống lại em mà là đòi trả thù bằng cái chết của cá c tù binh. Trống lại gầm lên. Các chiến sĩ sắp thành một dây dài, ba người một, bắt đầu nhảy điệu vũ chiến thắng chung quanh Xtas, Cali và cái xác của ông Phumba.
    - Oa! Oa! Yah! Yah! - Tất cả mọi người đều lặp đi lặp lại, đầu họ gật gù theo một chuyển động đơn điệu sang trái rồi sang phải, mắt họ đảo lên, và những mũi giáo loang loáng trong ánh mặt trời buổi sáng
  2. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Cali nhổm dậy, quay lại phía Xtas và nói:
    - Ông lớn hãy mang cô bé vào cái bôma lớn, ở nhà của Phumba. Cali là vua của người Vahima, nhưng ông lớn lại là vua của Cali.
    Xtas gật đầu ra dấu đồng ý, nhưng em còn ở lại đó mấy tiếng đồng hồ nữa, vì cả em cùng con King đều cần được nghỉ ngơi.
    Gần chiều em mới ra đi. Trong khi em vắng mặt, thi thể những người Xamburu bị chết được dọn đi và ném xuống một cái vực sâu gần đấy, trên trời hàng đàn diều hâu quay lượn. Các phù thủy bắt đầu chuẩn bị chôn cất ông Phumba, và Cali lên nắm chính quyền, trở thành ông chủ duy nhất quyết định mạng sống và cái chết của những kẻ thuộc hạ.
    - Em có biết Cali là ai không? - Xtas hỏi cô bé Nen trên đường từ Luela quay về. Nen nhìn nó ngạc nhiên.
    - Là bồi của anh.
    - Ha ha! Bồi! Cali bây giờ là vua của tất cả dânVahima rồi.
    Nen rất vui mừng vì cái tin đó. Cô bé thấy thật là buồn cười vì sự biến đổi bất thần, trong đó người nô lệ của tên Ghebơrơ tàn bạo và là người hầu cận ngoan ngoãn của Xtas lại trở thành một vị vua.
    Tuy nhiên, điều lưu ý của ông Linđe cho rằng, người da đen cũng giống như những đứa trẻ, họ không thể nhớ được những gì vừa xảy ra hôm qua, là không đúng nếu áp dụng cho Cali. Vì khi Xtas và Nen vừa tới chân núi Bôcô, thì vị vua trẻ tuổi nọ đã vội vàng chạy ngay ra đón, nó chào cả hai bằng những động tác thông thường biểu thị sự tuân phục và sung sướng, rồi nhắc lại lời nó đã nói hôm qua:
    - Cali là vua của người Vahima, nhưng ông lớnlại là vua của Cali.
    Nó đối xử với cả hai với sự thành kính gần như dành cho các vị thần, đặc biệt trước mặt dân chúng, nó cúi chào Nen, vì qua kinh nghiệm thu được dọc đường, nó biết rằng ông lớn lo lắng cho cô bé còn hơn lo cho bản thân mình.
    Sau khi long trọng dẫn hai trẻ lên đỉnh núi, đến kinh thành, Cali nhường cho bọn trẻ cái nhà của ông Phumba, trông giống như một cái lều được chia thành nhiều buồng, Cali ra lệnh cho những người phụ nữ Vahima cùng đi với bọn trẻ từ Luela về - họ cứ chăm chăm nhìn mãi Mdimu Tốt không chán mắt - xếp đặt trong căn buồng đầu tiên những chiếc bồn gỗ lớn đựng đầy mật ong và sữa chua, và khi nó được biết rằng cô bé đã ngủ thiếp đi vì mệt nhọc trong khi đi đường, nó bèn ra lệnh cho tất cả dân chúng phải giữ im lặng tuyệt đối, ai không tuân lệnh sẽ bị tội cắt lưỡi. Song Cali còn định sẽ tiếp đón bọn trẻ long trọng nữa, nên sau khi Xtas được nghỉ ngơi một chút bước ra khỏi lều, nó bèn tiến lại gần, cúi chào rồi nói:
    - Ngày mai Cali sẽ ra lệnh chôn cất vua Phumbavà chặt đầu tế vua Phumba, và để dâng Cali một số nô lệ bằng số ngón tay của cả hai bàn tay. Còn để dâng cô bé và ông lớn, Cali sẽ ra lệnh chặt đầu Pharu, con trai của Mamba, cùng vengi, vengi thằng Xamburu nữa bị rơi vào tay người Vahima.
    Xtas nhíu mày, cặp mắt màu thép của em nhìn thẳng vào mắt Cali rồi trả lời:
    - Tớ cấm cậu không được làm chuyện đó.
    - Thưa ông chủ, - cậu bé da đen nói với giọngkhông tự tin lắm, - người Vahima bao giờ cũng chặt đầu nô lệ. Vua già chết - chặt đầu, vua trẻ lên ngôi chặt đầu. Nếu Cali không ra lệnh cho họ chặt đầu thì người Vahima có thể nghĩ rằng Cali không phải là vua.
    Xtas mỗi lúc một nhìn nó vẻ nghiêm khắc hơn.
    - Thế ra, - em hỏi, - cậu chẳng học được gì trênnúi Linđe cả sao? Thế ra cậu không phải là người Thiên Chúa giáo hay sao?
    - Phải chứ, thưa ông lớn.
    - Thế thì cậu hãy nghe đây. Người Vahima có cái não đen, nhưng não của cậu phải màu trắng. Nếu cậu đã là vua của họ, thì cậu phải soi sáng đầu óc họ và phải dạy lại họ những gì cậu đã học được ở tớ và cô bé chứ. Họ đang giống như lang núi, như linh cẩu - cậu hãy làm cho họ trở thành con người. Hãy bảo họ rằng không được chặt đầu tù binh, vì Linh thần Vĩ đại - vị Linh thần mà tớ và cô bé đều cầu nguyện - sẽ trừng phạt khi máu của con người không chút khí giới tự vệ đổ ra. Người da trắng không giết tù binh, còn cậu lại muốn đối xử với họ tồi tệ hơn là tên Ghebơrơ đã đối xử với cậu, trong khi cậu là người Thiên Chúa giáo. Hãy biết xấu hổ chứ, Cali, hãy thay đổi những phong tục cũ xấu xa của người Vahima bằng những phong tục mới. Chúa sẽ ban phước lành cho cậu, còn cô bé thì sẽ không bảo Cali là một tên da đen dã man, ngu ngốc và độc ác.
    Những tiếng rú rít kinh khủng trong lều của các phù thủy át mất lời của em, Xtas khoát tay nói tiếp:
    - Tớ có nghe chứ! Đó là Mdimu Ác của các cậu đang đòi máu và đầu lâu người đấy. Nhưng chính cậu cũng biết rõ tiếng đó là gì, và nó không làm cậu sợ nữa rồi. Tớ nói với cậu thế này: hãy lấy một cái roi tre, đi đến từ ng lều một và hãy nện vào da bọn phù thủy cho tới khi nào chúng bắt đầu kêu to hơn trống của chúng.
    Còn trống thì hãy ném ra giữa bôma để cho tất cả mọi người Vahima đều được trông thấy và hiểu rằng bọn đểu cáng ấy lừa dối họ. Hãy nói cho những người Vahima ngu ngốc của cậu những gì mà cậu đã nói với lũ làng của M''Rua, rằng nơi nào mà Mdimu Tốt đặt chân tới, nơi đó máu người không thể đổ ra nữa.
    Nhữ ng lời của Xtas rõ ràng đã khiến cho vị vua trẻ tin, nên Cali nhìn em mạnh bạo hơn và nói:
    - Cali đánh, a, đánh đuổi bọn phù thủy, ném hết trống và bảo cho người Vahima biết rằng nơi nào có Mdimu Tốt, nơi ấy không được phép giết một ai cả. Nhưng Cali phải làm gì với Pharu và những người Xamburu, những kẻ đã giết chết Phumba?
    Xtas đã sắp đặt mọi thứ trong đầu, em chỉ chờ có câu hỏi đó, nên trả lời ngay lập tức:
    - Cha cậu chết thì cha của anh ta cũng chết, thế là đầu đổi đầu rồi. Hãy cắt máu ăn thề kết nghĩa với Pharu, rồi người Vahima và người Xamburu sẽ sống trong hòa thuận, sẽ yên tâm trồng sắn và đi săn. Cậu hãy kể cho Pharu nghe về vị Linh thần vĩ đại, người cha chung của tất cả những người da trắng và da đen, rồi Pharu sẽ yêu mến cậu như một người anh em ruột thịt.
    - Cìờ thì Cali có cái óc trắng rồi! - Cậu bé da đenđáp.
    Câu chuyện kết thúc tại đó. Một lát sau vang lên những tiếng rú hét rùng rợn, nhưng đó không phải là tiếng Mdimu Ác nữa, mà là tiếng của hai tên phù thủy đang bị Cali nện cho nên thân. Các chiến sĩ đang vây quanh con King dưới chân núi thành một vòng chật cứng, vội vã lao lên núi xem có chuyện gì xảy ra, và họ được trông thấy tận mắt cũng như qua lời khai của những tên phù thủy, rằng cái ma Mdimu Ác vẫn khiến họ run sợ cho tới nay chỉ là một khúc thân cây rỗng lòng bịt da khỉ mà thôi.
    Còn chàng thanh niên Pharu, khi được người ta báo cho biết rằng không bị chặt đầu để hiến tế Mdimu Tốt và ?oông lớn? mà Cali sẽ ?oăn một miếng? của y, còn y sẽ ?oăn một miếng? của Cali, thì y không dám tin vào tai mình nữa, rồi lát sau, khi biết mình được ai cứu sống, y bèn áp mặt xuống đất khi bước vào lều của ông Phumba, và cứ nằ m như thế cho đến khi Nen phải ra bảo y đứng dậy. Y bèn dùng hai bàn tay màu đen của mình ôm lấy bàn chân nhỏ bé của cô bé đặt lên đầu mình để biểu thị rằng suốt cả đời y muốn được làm nô lệ cho Nen.
    Người Vahima rất kinh ngạc trước nhữ ng mệnh lệnh của vị vua mới, nhưng sự có mặt của những vị khách khác thường mà họ xem là những vị phù thủy hùng mạnh nhất trên đời, đã khiến cho không có kẻ nào dám chống lại.
    Tuy nhiên, nhữ ng người già không vui mừng gì trước những phong tục mới mẻ đó, còn hai tên phù thủy thì hiểu rằng thời tốt đẹp của chúng đã vĩnh viễn chấm dứt, chúng thề trong lòng sẽ trả thù vị vua mới cù ng những vị khách kia thật ghê gớm.
    Người ta chôn cất ông Phumba một cách trọng thể dưới chân núi đá của kinh thành. Cali cắm trên mồ ông một cái thập ác bằng tre, còn người da đen thì đặt lên mồ ông mấy hũ bia pompe và mấy chậu thịt khô, ?ođể ông không về hành hạ và đe dọa họ đêm đêm?.
    Sau lễ kết nghĩa anh em máu thịt giữa Cali và Pharu, người ta trả xác Mamba cho người Xamburu.
  3. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 42 ​

    - Nen, em có tính được những chặng đường của húng mình kể từ Phaium không? - Xtas hỏi.
    - Được chứ.
    Rồi cô bé rướn lông mày lên bắt đầu tính trên đầu ngón tay.
    - Khoan đã nhé. Từ Phaium đến Kháctum - làmột; từ Kháctum tới Phasôđa - là hai, từ Phasôđa tới cái khe núi chúng mình tìm được con King - là ba, còn từ núi Linđe tới hồ này - là bốn.
    - Đúng. Có lẽ trên thế giới không có con ruồi thứhai nào bay được qua suốt một phần Phi châu như thế đâu.
    - Giá như không có anh thì con ruồi ấy trông mới hay chứ! Cậu bé bật cười.
    - Ruồi cưỡi trên voi! Ruồi cưỡi trên lưng voi!
    - Nhưng không phải là ruồi tse tse, phải khônganh Xtas, không phải ruồi tse tse?
    - Không phải, - cậu bé đáp - mà một cô ruồi kháđáng yêu.
    Sung sướng vì lời khen, Nen tì cái mũi nhỏ xíu vào tay anh, rồi hỏi:
    - Thế bao giờ chúng mình bắt đầu đoạn thứ nămhả anh!
    - Khi nào em nghỉ ngơi được chút ít, còn anh thì ập luyện cho những người mà Cali hứa sẽ cho chúng biết bắn súng.
    - Nhưng chúng mình đi có lâu không anh?
    - Ôi, lâu, Nen ạ, lâu đấy! Biết đâu đây chẳng là uãng đường dài hơn cả.
    - Nhưng anh sẽ ứng phó được như trước chứ, hải không anh?
    - Anh phải ứng phó.
    Xtas quả là đã ứng phó rất khá, nhưng chặng đường thứ năm này đòi hỏi phải chuẩn bị nhiều thứ. Bọn trẻ sẽ phải đi vào những vùng chưa ai biết đến, nơi có biết bao tai họa rình rập. Vì thế cậu bé muốn vũ trang tốt nhất để chống lại nhữ ng tai ương hơn hẳn so với nhữ ng chặng đường trước kia. Nhằm mục đích ấy, em tập cho bốn mươi chàng thanh niên Vahima bắn súng rêmingtơn, họ sẽ là lực lượng vũ trang chủ yếu và là đội cận vệ của Nen. Em không thể có được nhiều xạ thủ hơn, vì con King chỉ có thể chở được hai mươi lăm khẩu súng, còn lũ ngựa hơn mười lăm khẩu nữa. Phần còn lại của đội quân gồm một trăm người Vahima và một trăm người Xamburu được vũ trang bằng giáo và cung tên mà Pharu hứa sẽ cung cấp. Sự có mặt của những người này sẽ đẩy lùi mọi trở ngại trên đường đi qua vùng đất rộng mênh mông và rất hoang vắng, nơi những bộ lạc người Xamburu sinh sống. Xtas không khỏi tự hào khi nghĩ rằng, mặc dầu em chạy trốn dọc đường từ Phasôđa chỉ với Nen và hai đứa bé da đen, không có lấy một phương tiện sống nào cả, ấy vậy mà em vẫn có thể tiến được tới gần đại dương, dẫn theo hai trăm người có vũ trang với một thớt voi và một đàn ngựa. Em hình dung những điều người Anh sẽ bình phẩm về chuyện đó (họ đánh giá rất cao tính tháo vát), trước hết những iều cha em và ông Rôlixơn sẽ nói về em. Ý nghĩ đó khiến mọi khó khăn trở nên nhẹ nhàng hơn.
    Tuy thế em vẫn không yên tâm về số phận của bản thân và của Nen. Được rồi, cứ cho là sẽ dễ dàng vượt qua vùng đất của người Vahima và người Xamburu sinh sống, nhưng rồi sao nữa?
    Chúng sẽ gặp những bộ lạc nào đây, sẽ đi vào vùng đất nào đây, bao nhiêu đường đất còn phải vượt? Những chỉdẫn của ông Linđe rất chung chung. Điều khiến Xtas lo ngại nhất là em không biết hiện nay mình đang ở nơi nào, vì trên bản đồ, phần này của Phi châu trông cứ như một mảnh giấy trắng vậ y. Em cũng không rõ hồ Baxxa Narốc là hồ nào, to nhỏ ra sao. Em đang ở mép phía Nam của hồ, nơi chiều rộng mặt nước ước chừng hơn chục cây số. Nhưng hồ này kéo dài bao xa về phía Bắc, cái đó không một ai có thể trả lời cho em, kể cả ngườ i Vahima, người Xamburu, lẫn Cali. Thằng bé vốn biết nói khá sõi tiếng Kixvahili, ấy thế mà để trả lời mọi câu hỏi của Xtas nó chỉ đáp lại vỏn vẻn có hai tiếng ?o''Bali! Bali?, có nghĩa là ?oXa, xa lắm!? và đó là tất cả những gì Xtas có thể khai thác đượ c ở nó.
    Vì những rặng núi phía Bắc vây quanh đường chân trời có vẻ khá gần nên em cho rằng hẳn đây chỉ là một cái hồ trên núi nào đó, không rộng lắm, những hồ loại này có rất nhiều ở Phi châu.
    Vài năm sau em mới hiểu rằng em đã nhầm lẫn một cách tai hại1, tuy vậy, lúc này em không quan tâm đến việc tìm hiểu kĩ diện tích hồ Baxxa Narốc bằng việc tìm hiểu xem có con sông nào chảy từ hồ ra rồi sau đó đổ vào đại dương hay không. Những người Xamburudưới quyền của Pharu khẳng định rằng, phía Đông vùng đất của họ có một sa mạc lớn không một chút nước, chưa từng có ai vượt qua nổi. Vốn hiểu người da đen qua những lời thuật lại của các nhà thám hiểm, qua kinh nghiệm của ông Linđe và một phần qua kinh nghiệm của bản thân, Xtas biết rằng khi nào có những nỗi nguy hiểm và khó khăn, nhiều người trong bọn họ sẽ quay trở lại, và rất có thể bên em sẽ không còn lại một ai cả. Sẽ chỉ còn em, Nen, Mêa và cậu bé Nasibu giữa rừng thẳm cùng sa mạc mà thôi.
    Tuy nhiên, điều trước tiên, quan trọng nhất, là nếu thiếu nước thì đoàn người sẽ tán loạn ngay lập tức; chính vì thế em cố gắng dò hỏi về consông. Đi dọc theo bờ sông có thể tránh được nỗi khủng khiếp mà khách bộ hành thường gặp phải trong những vùng không có nước.
    Song những người Xamburu không nói cho em một điều gì chắc chắn, còn em không thể tự cho phép mình tiến hành một cuộc thăm dò dài ngàyvùng phía Đông bờ hồ, vì có bao việc khác giữ chân em lại ở Bôcô. Em cho rằng trong số tất cả những chiếc diều được thả từ núi Linđe và dọc đường đi từ các làng người da đen không một chiếc nào vượt qua được những đỉnh núi vây quanh hồ Baxxa Narốc, vì thế cần phải làm và thả thêm những chiếc diều mới, vì từ đây gió có thể mang chúng qua vùng sa mạc bằng phẳng, đi xa đến tận đại dương. Công việc này thì chính em phải có mặt để làm - bởi dẫu Nen biết dán diều rất lành nghề, còn Cali thì đã học được cách thả diều, nhưng không có ai trong hai đứa biết viết những điều cần thiết lên những chiếc diều đó cả. Xtas cho rằng đây là một việc cực kì quan trọng không thể lơ là được.
    Việc này chiếm nhiều thì giờ nên mãi ba tuần sau cả đoàn mới sẵn sàng để lên đường. Trong đêm trước ngày xuất phát, vị vua trẻ tuổi của người Vahima xuất hiện trước mặt Xtas, sau khi cúi chào thật thấp, Cali nói:
    - Cali sẽ đi cùng với ông lớn và cô bé đến con nước, nơi những cái thuyền lớn của người da trắng đi lại.
    Xtas rất xúc động trước biểu hiện này của tình gắn bó, nhưng em nghĩ rằng, em không có quyền mang cậu bé vào một cuộc hành trình xa xăm như thế, cuộc hành trình khó hẹn ngày về.
    - Sao cậu lại muốn đi cùng chúng tớ? - Em hỏi.
    - Cali yêu ông chủ và cô bé.
    Xtas đặt tay lên mái tóc quăn như len.
    - Mình biết, Cali ạ, cậu là một người rất trung thực và tốt bụng. Nhưng còn vương quốc của cậu thì sao, ai sẽ thay cậu trị vì người Vahima?
    - M''Tana, anh của mẹ Cali.
    Xtas vốn biết rằng, giữa người da đen cũng như giữa những người da trắng bao giờ cũng xảy ra việctranh giành quyền bính, và vương quyền bao giờ cũng đầy cám dỗ, nên em suy nghĩ một lúc rồi nói:
    - Không, Cali! Mình không thể mang cậu đi theo được. Cậu phải ở lại với người Vahima để dạy họ trở thành những người tốt.
    - Cali sẽ trở về với họ mà.
    - M''Tana có nhiều con trai, sẽ ra sao đây, nếu như bản thân ông ta muốn trở thành vua và truyền ngôi cho các con trai của mình, đồng thời xúi giục người Vahima đuổi cậu đi?
    - M''Tana là người tốt. Ông ta không làm thế đâu.
    - Nếu ông ta làm thì sao?
    - Thì Cali lại đến con nước lớn để tới với ông lớn và cô bé.
    - Chúng mình sẽ không còn ở đó nữa.
    - Thì Cali sẽ ngồi khóc trên bờ con nước vì buồn.
    Vừa nói, nó vừa đặt hai tay lên đầu, rồi lát sau nó thì thầm:
    - Cali rất yêu ông lớn và cô bé, rất nhiều!
    Rồi hai giọt lệ lớn long lanh trong mắt nó. Xtas ngần ngừ không biết nên làm thế nào. Em rất thương Cali nhưng không thể nào đồng ý ngay với lời thỉnh cầu của cậu bé. Em hiểu rằng, nếu M''Tana hoặc đám phù thủy cùng những người da đen nổi loạn, thì cậu bé bị đe dọa không những chỉbởi việc bị đuổi khỏi đất nước thôi, mà còn bởi cái chết nữa, chưa nói tới những nỗi nguy hiểm trên đường về.
    - Tốt hơn hết cho cậu là cậu hãy ở lại, - em bảo - tốt hơn rất nhiều.
    Song em đang nói thì Nen bước vào, qua bức mành mỏng ngăn giữa các phòng, cô bé đã nghe rõ câu chuyện, và giờ đây, khi nhìn thấy những giọt lệ trong mắt Cali, cô bé lấy ngón tay lau mắt cho nó, rồi quay lại phía Xtas.
    - Cali sẽ đi với chúng ta! - Cô bé nói rất quả quyết.
    - Ơ hay! - Xtas đáp vẻ hơi phật ý. - Điều đó không phụ thuộc vào em.
    - Cali sẽ đi với chúng ta! - Cô bé nhắc lại.
    - Hoặc không đi.
    Bỗng nhiên cô bé giậm chân:
    - Em muốn thế.Rồi chính cô bé cũng òa lên khóc nứ c nở. Xtas ngạc nhiên nhìn Nen, dường như không hiểu nổi có chuyện gì xảy ra với cái cô bé lúc nào cũng tốt bụng và dịu hiền này, nhưng khi trông thấy cô bé dụi hai nắm tay vào mắt, miệng hớp hớp không khí như chim non, em bèn vội kêu lên:
    - Cali sẽ đi với chúng ta! Sẽ đi! Sẽ đi! Sao em lại khóc? Cái đồ khó bảo ở đâu ấy. Nó sẽ đi! Nó làm tôi phát điên lên mất! Nó sẽ đi!
    Em nghe rõ chưa?
    Thế là mọi chuyện được quyết định. Xtas còn xấu hổ mãi tới chiều về sự yếu mềm của mình đối với Mdimu Tốt, còn Mdimu Tốt thì sau khi đã đạt được điều mong muốn của mình, lại trở nên lặng lẽ, hiền lành và vâng lời như mọi khi.
    Chú thích:
    (1-) Đây là một cái hồ rất lớn, được nhà thám hiểm nổi tiếng Têlêki phát hiện vào năm 1888 và đặt tên là hồ Ruđônphơ (chú thích của tác giả).
  4. dreamweaver

    dreamweaver Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/03/2002
    Bài viết:
    265
    Đã được thích:
    0
    Tiếp đi bạn , đang hay .
  5. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 43 ​

    Rạng sáng hôm sau cả đoàn lên đường. Cậu bé da đen sung sướng, còn cô bé chuyên quyền vẫn tiếp tục hiền dịu và vâng lời như thường lệ. Xtas tràn đầy nghị lực và hi vọng. Cù ng đi với bọn trẻ là một trăm người Vahima và một trăm người Xamburu, trong số những người Vahima có bốn mươi người được trang bị súng trường rêmingtơn mà họ mới biết sử dụng. Vị thủ lĩnh da trắng, người dạy họ tập bắn trong vòng ba tuần lễ, hiểu rằng khi có sự cố, hẳn là họ gây ra nhiều tiếng nổ hơn gây tác hại cho địch, nhưng em nghĩ rằng, khi chạm trán với những người mông muội, tiếng động đóng vai trò không ít quan trọng hơn so với đạn, vì vậy em rất hài lòng về đội cận vệ của mình. Họ mang theo thật nhiều sắn, những bánh sắn nướng lẫn với những con kiến trắng to, béo mẫm, được sấy thật khô. Cùng đi với đoàn người là hơn mười phụ nữ, họ mang theo nhiều thức ăn ngon cho Nen cùng những túi da linh dương đựng nước uống. Từ chỗ ngồi cao trên lưng voi, Xtas theo dõi trật tự, ra mệnh lệnh có thể không phải là do thật cần thiết, mà chủ yếu là do vai trò thủ lĩnh khiến em thích thú - và em tự hào nhìn toàn bộ đội quân của mình.
    ?oGiá như mình muốn, - em tự nhủ, - mình có thểở lại đây, trở thành vua của tất cả dân Đôcô, nhưông Bênhiốpxki1 ở đảo Mađagaxca vậy?.
    Trong óc em thoáng qua ý nghĩ không hiểu có nên quay trở lại đây vào một lúc nào đó, khai phá một vùng đất rộng lớn, khai hóa cho người da đen,mở mang ở nơi này một đất nước Ba Lan mới, hoặc khi nào đó, dẫn đầu những toán quân người da đen đã được tập luyện thật tốt, quay trở về nước Ba Lan cũ. Nhưng chính em cũng cảm thấy có cái gì đó thật buồn cười trong những ý nghĩ đó, em nghi ngờ không rõ cha em có cho phép em đóng vai Alécxanđrơ Maxêđoan tại Phi châu hay chăng, vì thế em không thể lộ những dự định ấy với Nen, cô bé hẳn là người duy nhất trên đời sẵn sàng vỗ tayhoan nghênh.
    Nhưng trước khi chiếm cứ miền đất Phi châu này, cầ n phải thoát ra khỏi đây cái đã, vì thế Xtasquay trở lại với những vấn đề thiết thân hơn. Đoàn người đi thành một hàng dài. Ngồi trên đầu voi, Xtas quyết định sẽ đi cuối hàng quân để có thể theo dõi mọi sự.
    Khi mọi người vượt qua, em không khỏi ngạc nhiên thấy cả hai tên phù thủy - M''Kunđe và M''Pua, chính những kẻ đã bị Cali đánh đòn, - cũng cùng đi với đoàn; những bọc hàng trên đầu chúng cũng lắc la lắc lư như nhữ ng người khác trên đường.
    Em bèn giữ chúng lại và hỏi:
    - Ai bảo các người đi?
    - Vua ạ! - Cả hai đáp lại vẻ nhẫn nhục và cúi chào.
    Nhưng dưới lớp vỏ cam chịu này, mắt chúng vẫn long lên dữ tợn, mặt chúng lộ rõ vẻ tức giận, nên ngay lúc đầu Xtas đã muốn đuổi chúng quay trở lại, nếu em không làm điều đó cũng chỉ vì để khỏi ảnh hưởng tới uy tín của Cali mà thôi.
    Nhưng em gọi ngay cậu bé lại.
    - Có phải chính cậu đã ra lệnh cho bọn phù thủy đi cùng với chúng ta không? - Em hỏi.
    - Cali ra lệnh, vì Cali là người thông minh.
    - Thế thì tớ hỏi lại một lần nữa, tại sao cái thông minh ấy lại không bắt chúng phải ở lại nhà?
    - Vì nếu như M''Kunđe và M''Pua ở lại, cả hai đứa sẽ xúi người Vahima giết Cali khi Cali quay trở về, còn nếu chúng đi với chúng ta, Cali sẽ trông thấy chúng và coi chừng chúng.
    Xtas nghĩ một lúc rồi bảo:
    - Có thể cậu có lí, nhưng hãy chú ý đến chúng cả đêm lẫn ngày, vì mắt chúng nhìn gian lắm.
    - Cali đã có sẵn roi tre đây rồi, - cậu bé da đen đáp.
    Đoàn người lên đường. Vào phút chót, Xtas ra lệnh cho toán cận vệ vũ trang bằng súng trườngrêmingtơn đi cuối cùng, vì đó là những người tin cẩn nhất được chính em lựa chọn. Trong những ngày luyện tập sử dụng vũ khí kéo dài khá lâu, họ đã phần nào gắn bó với vị thủ lĩnh trẻ tuổi củamình, đồng thời, được gần gũi với em, họ tự xem mình là những người tốt hơn những kẻ khác. Bây giờ, họ sẽ phải canh giữ cho cả đoàn và bắt những kẻ nào trong tương lai định trốn. Có thể thấy trước: khi những gian khó và nguy hiểm bắt đầu xuấthiện thì không thiếu chi những kẻ chạy trốn.
    Nhưng trong những ngày đầu tiên, mọi việc diễn ra thật tốt đẹp. Mang theo những kiện hàng trên đầu, mỗi người da đen được vũ trang bằng giáo và đòng - được gọi là axagai - đi thành một hàng dài giữa rừng hoang. Họ đi hồi lâu dọc theo bờ phía Nam của cái hồ trên vùng bằng phẳng. Nhưng vì hồ được vây bọc bốn chung quanh bởi những đỉnh núicao vòi vọi, nên khi rẽ về phía Đông, họ bắt đầu phải leo dần lên cao. Những cụ già Xamburu biết rõ miền này đều nói rằng đoàn người sẽ phải vượt qua những đèo cao giữa núi mà họ gọi tên là Cunla và Inrô, sau đó sẽ đi vào vùng đất Ebênê nằm ở phía Nam Bôrani. Xtas hiểu rằng không thể đi thẳngsang phía Đông được, em nhớ rõ là Mombaxa nằm ở phía Nam đường xích đạo, cách chừng vài vĩ độ, nghĩa là nằm rất xa cái hồ nọ về phía Nam. Có được mấy chiếc địa bàn thừa hưởng của ông Linđe, em hoàn toàn không còn sợ bị lạc đường nữa.
    Đêm đầu tiên họ dừng chân nghỉ trên một cao nguyên phủ đầy rừng. Khi bóng đêm về, mấy chục đống lửa chiếu sáng rực.
    Bên lửa, nhữ ng ngườ i da đen nướng thịt khô và ăn sắn, họ bốc thức ăn bằng tay. Rồi sau khi đã thỏa cơn đói khát, họ bắt đầu trò chuyện với nhau, xem bvana kubva dẫn họ đi đâu, họ sẽ được tặng những phần thưởng nào. Một số người ngồi bệt, vừa cời lửa vừa ca hát. Mọi người trò chuyện ồn ào đến nỗi rốt cuộc Xtas phải ra lệnh cho họ im lặng để Nen có thể chợp mắt.
    Đêm rất lạnh, nhưng sáng hôm sau, khi những tia mặt trời đầu tiên chiếu sáng trong vùng thì không khí lại trở nên ấm áp.
    Vào lúc rạng đông, những người bộ hành trẻ tuổi trông thấy một cảnh tượng kì lạ. Lúc bọn trẻ đang đi tới một cái hồ kéo dài chừng hai cây số, nói cho đúng hơn, là tới một vùng ngập nước do nước mưa đọng lại trong thung lũng, bỗng Xtas - đang ngồi cùng cô bé trên lưng con King - nhìn quanh bằng ống nhòm gọi to lên:
    - Nhìn kìa, Nen, voi đang đi uống nước kìa!
    Cách đó chừng nửa cây số có một đàn chừng năm con voi đang kéo nhau tiến lại gần hồ.
    - Những con voi này trông lạ lắm. - Xtas nói, em vẫn chăm chú quan sát những con vật này. - Chúng nhỏ hơn con King, tai nhỏ hơn nhiều và chẳng thấy ngà đâu cả.
    Trong khi đó đàn voi bước xuống nước, nhưng chú ng không dừng lại ở bên bờ như con King thường làm, cũng không dùng vòi phun nước, mà chúng lại đi thẳng về phía trước, mỗi lúc một ngập sâu hơn, rốt cuộc chỉ có cái sống lưng của chúng là nhô lên trên mặt nước, trông giống như những tảng đá vậy.
    - Gì thế kia? Chúng nó lặn à? - Xtas kêu lên.
    Đoàn người tiến lại gần hồ hơn nữa rồi dừng chân ngay trên bờ hồ. Xtas cho mọi người dừng lại và kinh ngạc nhìn Nen rồi lại nhìn xuống hồ.
    Gần như hoàn toàn không trông thấy đàn voi đâu nữa, trên mặt nước phẳng lặng, bằng mắt thường, chỉ có thể nhận thấy những cái gì đó như năm bông hoa màu đỏ nhô lên và lắc lư nhè nhẹ.
    - Chúng nó đứ ng dưới đáy hồ, còn kia là những cái đầu vòi của chúng. - Xtas kêu lên, không tin vào mắt mình nữa.
    Rồi em gọi Cali:
    - Cali! Cậu thấy không?
    - Có thấy, ông chủ à, Cali thấy, đó là những con voi nước(#2). - Cậu bé da đen thản nhiên đáp.
    - Voi nước à?
    - Cali trông thấy chúng nhiều lần rồi.
    - Thế chúng nó sống trong nước ư?
    - Ban đêm chúng nó vào rừng ăn cỏ, còn banngày chúng ở dưới hồ, như hà mã. Sau lúc mặt trời lặn, chúng mới lên bờ.
    Xtas không hết ngạc nhiên, và giá như không phải lên đường gấp, em đã cho cả đoàn dừng lại đến chiều để quan sát thật kĩ những con vật kì lạ này. Nhưng em thoáng nghĩ rằng đàn voi có thể sẽ lặn sang phía bờ hồ bên kia, và dù cho chúng có lên bờ ở đâu đi chăng nữa, cũng khó lòng nhìn rõ chúng ban đêm.
    Thế là em đành ra lệnh xuất phát, nhưng dọc đường em bảo Nen:
    - Này, thế là chúng mình đã được trông thấy mộtthứ mà chưa người Âu nào trông thấy. Em biết anh nghĩ gì không? Nếu như chúng mình đến được đại dương yên lành, thì hẳn sẽ chẳng ai tin khi anh nói rằng ở Phi châu có loài voi nước.
    - Nếu chúng mình bắt được một con mang tớiđại dương thì sao? - Nen nói, cô bé lúc nào cũng tin là Xtas có thể làm được tất cả mọi chuyện.
    Chú thích:
    (1-) Bênhiốpxki M.A. (1748 - 1785), quý tộc gốc Hung hoặc Xlôvácki. Bị đày đi Camsátca, ông chạy trốn. Sau đó phục vụ trong quân đội Pháp đánh chiếm Mađagaxca và trở thành thủ lĩnh ở đảo này.
    (2-) Phi châu còn biết bao bí ẩn chưa được nghiên cứu. Đã từ lâu tin đồn về loại voi nước vọng tới tai các nhà thám hiểm, nhưng người ta không muốn tin họ. Gần đây, Viện bảo tàng lịch sử tự nhiên đã phái ông L.Petit đi, ông này đã trông thấy voi nướcCônggô tại hồ Lêôpôn. Tạp chí Kosmeos số 6 của Đức đã đăng tin này (Chú thích của tác giả
  6. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 44 ​

    Mãi sau mười ngày đường, cả đoàn mới vượt qua được những ngọn đèo và đi vào một vùng đất hoàntoàn khác hẳn. Đó là một vùng bình nguyên rộng lớn, chỉ đôi nơi mới có những quả đồi gợn sóng nhô lên, nhưng đa số lại là những quả đồi dẹt phẳng. Giới thự c vật hoàn toàn thay đổi. Không còn thấy những cây gỗ lớn đứng một mình hay thành cụm vươn cao trên mặt cỏ gợn sóng nữa. Chỉ thảng hoặc mới nhô lên những cây xiêm gai cho nhựa, vỏ màu trai ngọc, có dáng ô, nhưng lá rất thưa thớt, ít bóngmát vừa mọc cách xa nhau. Đây đó, giữa những tổ mối là những cây xương khô vươn thẳng lên trời, với những cành cây trông giống như các giá cắm nến. Lũ diều hâu quay lượn trên trời cao, còn bên dưới, bay từ cây xiêm gai này sang cây nọ là những con chim thuộc họ quạ, lông màu đen lẫn trắng. Cỏ màu vàng khè, mọc thành từng búi trông cứ như lúa hắc mạch chín. Tuy vậy, đồng hoang khô cằn này hẳn là vẫn cung cấp đầy đủ thức ăn cho một lượng thú rừng rất đông đảo, vì cứ mỗi ngày vài lần, các vị khách bộ hành lại trông thấy những đàn linh dương gơnu, linh dương rừng móc và nhất là ngựa vằn. Trên vùng bình nguyên mênh mông không có bóng cây, cái nắng thật khó chịu đựng nổi. Trời không một gợn mây, ban ngày nóng nực, ban đêm cũng chẳng mang lại được mấy nỗi nghỉ ngơi.
    Càng ngày, chuyến đi càng trở nên khó nhọc hơn. Trong những bản làng mà đoàn gặp được, thổ dân rất mực hoang dã đón tiếp đoàn một cách sợ hãi và miễn cưỡng, và nếu như không có một số khá đông những người phu khuân vác có vũ trang, nếu như không có bóng dáng những khuôn mặt da trắng cũng như con King và con Xaba, thì hẳn là các vị khách bộ hành gặp phải không ít nỗi nguy hiểm.
    Nhờ Cali, Xtas biết được rằng tiếp sau đó sẽ không có bản làng nào nữa và vùng đất sẽ hoàn toàn không có nước. Thật khó mà tin điều đó vì những đàn thú đông đảo mà người ta gặp được phải có nơi nào đó để uống nước chứ. Tuy nhiên, câu chuyện về những vùng sa mạc, trên đó không hề có lấy một con sông, một vũng nước nào khiến cho những người da đen hoảng sợ, họ bắt đầu trốn dần đi. Hai tên M''Kunđe và M''Pua làm gương đầu tiên. May thay, người ta sớm nhận ra cuộc chạy trốn của chúng, và những người dùng ngựa đuổi theo đã tóm được chúng cách trại không xa lắm. Khi người ta giải chúng về, Cali đã dùng hèo tre chứng minh cho chúng thấy sự tội lỗi trong hà nh động của chúng. Họp tất cả những người phu mang hành lí lại, Xtas nói chuyện với họ, bài nói được chàng thanh niên da đen dịch sang thứ thổ ngữ của địa phương. Nhân việc ở chỗ trú đêm hôm trước lũ sư tử gầm thét suốt đêm chung quanh trại, Xtas cố gắng chứ ng minh cho những người của em thấy rằng, kẻ nào chạy trốn sẽ trở thành mồi của sư tử ngay lập tức, thậm chí nếu như kẻ đó có ngủ đêm trên những cây xiêm gai đi chăng nữa, thì hắn sẽ gặp những con vôbô còn kinh khủng hơn nhiều. Sau đó em nói rằng nơi nào có linh dương sinh sống, nơi đó nhất định phải có nước, còn nếu như trên đường đi tiếp, họ gặp phải vùng đất hoàn toàn không có nước, thì họ vẫn có thể mang theo một lượng nước đủ dùng cho hai ba ngày đường trong các túi da linh dương khâu lại cơ mà. Nghe em nói, những người da đen chốc chốclại bảo nhau: ?oMẹ ơi! Đúng quá đi mất!?, nhưng đêm hôm sau lại vẫn có thêm năm người Xamburu cùng hai người Vahima nữa bỏ trốn, rồi cứ mỗi đêm lại có thêm những kẻ khác bỏ đi.
    Tuy nhiên, M''Kunđe và M''Pua không thử tìm may mắn lần thứ hai, vì lí do đơn giản là hàng ngày, sau lúc mặt trời lặn, Cali ra lệnh trói bọn chúng lại.
    Vùng đất mỗi lúc một trở nên khô cằn hơn và mặt trời càng ngày càng thiêu đốt đồng hoang dữ dội hơn. Thậm chí không còn trông thấy cả những cây xiêm gai nữa. Những đàn linh dương vẫn thường xuyên xuất hiện, nhưng mỗi ngày một ít hơn. Lũ lừa và ngựa vẫn còn tìm đủ thức ăn, vì bên dưới lớp cỏ cao bị khô héo, tại nhiều chỗ thấp vẫn còn tiềm trữ những loại cỏ thấp, xanh sẫm hơn và ít bị khô hơn. Song con King thì gầy sụt đi, mặc dù nó chẳng hề kén chọn gì cả. Khi gặp những cây xiêm gai, nó dùng đầu bẻ gẫy cả cây rồi chén sạch cả lá lẫn những đọt cây không từ cả những lá già năm ngoái. Cho đến nay, hàng ngày đoàn người vẫn gặp được nơi có nước, nhưng thường thường là nước đục cần phải lọc hoặc là nước mặn hoàn toàn không thể nào uống nổi. Rồi tiếp đó, có vài lần những người do Cali chỉ huy được Xtas cử đi tiền trạm không tìm thấy một vũng nước hay một nguồn khe ẩn kín nào cả, và Cali đành thưa với Xtas bằng nét mặt đầy buồn phiền: không có nước.
    Xtas hiểu rằng cuộc hành trình cuối cùng này hoàn toàn không dễ dàng hơn những giai đoạn trước, em bắt đầu lo lắng cho Nen, vì ngay cả cô bé cũng có những thay đổi. Khuôn mặt cô bé, thay vì bị rám màu nắng gió, mỗi ngày một trở nên nhợt nhạt hơn, mắt mất vẻ long lanh. Trên vùng đồng bằng khô cằn không có muỗi, không bị bệnh sốt rét đe dọa, nhưng rõ ràng là cái nóng đã làm tiêu hao sức khỏe của cô bé. Xtas thương xót và lo lắng nhìn những bàn tay nhỏ bé đang trắng bệch như giấy của cô, và em cay đắng trách mình đã để phí mất quá nhiều thời gian vào việc tập bắn súng cho những người da đen, khiến cô bé phải đi trong tiết nóng bức thế này.
    Ngày nối ngày trôi qua trong những nỗi lo như thế. Mặt trời càng ngày càng hút kiệt hơi ẩm và sức sống trên trái đất một cách thèm khát và ác độc hơn. Cỏ khô khốc quắt queo hẳn lại và khô tới mức gãy vụn dưới gót chân những đàn linh dương, mỗi đàn dù chẳng đông mấy chạy qua cũ ng làm bốc lên những đám bụi mù mịt. Tuy nhiên, những người bộ hành của chúng ta cũng gặp được một con sông nhỏ, họ nhận ra ngay từ xa nhờ những hàng cây mọc trên hai bờ sông. Những người da đen vội đua nhau chạy tới những hàng cây, và khi tới được bờ sông, họ bắc cầu, rồi nhúng ngập đầu xuống nước uống ừng ực cho tới khi một con cá sấu đớp lấy tay một người trong bọn mới thôi. Những người khác vội lao tới cứu bạn và trong nháy mắt đã lôi con ?othằn lằn? khủng khiếp này lên bờ, song nó vẫn không chịu nhả cái tay của người bị nạn ra, mặc dù người ta đã dùng dao và giáo nậy hàm nó. Mãi đến lúc con King đặt chân lên mình con vật và chà vụn nó dễ như một cái nấm mủn thì mọi chuyện mới kết thúc.
    Khi rốt cuộc mọi người đã thỏa cơn khát, Xtas ra lệnh quây hàng rào cọc tre thành hình tròn tại một chỗ nước nông, chỉ chừa một lối vào từ phía bờ sông để Nen có thể hoàn toàn an toàn tắm cho thoải mái. Em còn bố trí con King ở ngay lối cửa vào.Được tắm táp, cô bé tỉnh cả người, và sau khi nghỉ ngơi, sức lực của cô bé hồi lại phần nào.
    Cả đoàn cũng như Nen rất sung sướng khi bvana kubva quyết định cho họ được dừng chân haingày cạnh sông. Được tin ấy, mọi người tươi tỉnh hẳn lên và quên đi những nỗi nhọc nhằn vừa trải qua. Sau khi đã được ngủ đẫy giấc và ăn uống no nê, một số người da đen bắt đầu thơ thẩn trong những hàng cây mọc trên bờ sông tìm những quả chà là dại và những quả cây được mệnh danh là ?onước mắt Hiốp? mà người ta dùng làm tràng hạt.
    Trước khi mặt trời lặn, mấy người trong bọn họ quay trở về trại mang theo những vật hình vuông màu trắng mà Xtas nhận ra ngay rằng đó là những cánh diều củ a chính em.
    Một trong những chiếc diều đó mang số 7, nghĩa là nó được thả lên từ núi Linđe, nơi bọn trẻ thả tới hàng mấy chục chiếc. Xtas rất mừng và thêm phấn chấn vì chuyện này.
  7. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    - Anh không nghĩ rằng, - em nói với Nen, - diều lại có thể bay xa đến thế. Anh cứ tưởng chúng sẽ vướng lại trên các đỉnh của dãy Caramôiô chứ. Bây giờ thì hóa ra gió có thể mang được diều đến nơi nào nó muốn, anh hi vọng rằng những chiếc diều chúng mình thả lên từ những ngọn núi vây quanh hồ Baxxa Narốc cũng như thả dọc đường sẽ bay được tới đại dương.
    - Thế nào chúng cũng bay tới, - Nen đáp.
    - Cầu Chúa cho được như thế! - Cậu bé nói, và nghĩ tới những nỗi nguy hiểm và khó khăn của chặng đường phía trước.
    Ngày thứ ba đoàn người rời khỏi sông, sau khi đã lấy theo thật nhiều nước dự trữ trong những túi da. Trước khi hoàng hôn xuống, họ đi vào một vùng bị mặt trời thiêu đốt, nơi không có cả cây xiêm gai, một đôi chỗ mặt đất trần trụi như nện vậy. Chỉ thỉnh thoảng mới có một bụi lạc tiên có thân ngầm trong đất, trông giống như những quả bí khổng lồ, có đường kính tới hai thước ta. Từ những cái củ khổng lồ ấy mọc ra những sợi dây leo mảnh mai, lan ra trên mặt đất chiếm một khoảng không gian thật to lớn, tạo thành những bụi rậm rạp đến nỗi chuột cũng khó lòng rúc qua nổi.
    Tuy vậy, mặc dù loài thực vật này có màu xanh non ngon lành, trônggiống như màu cây gai châu Âu, song chúng lại có không biết cơ man nào là gai nhọn, đến nỗi cả con King lẫn bọn ngựa cũng không sao xơi nổi. Riêng chú lừa là còn nhấm nháp được chút đỉnh, nhưng cũng rất thận trọng.
    Còn bình thường, trong phạm vi vài dặm Anh, không hề trông thấy một thứ gì khác ngoài một loại cỏ cứng ngắn ngủn và một loài cây thân cỏ rất thấp trông từa tựa như cây trường sinh; loài cây này gãy vụn khi bị động vào. Sau chặng nghỉ đêm đầu tiên, cả ngày hôm sau, lửa trút từ trời cao xuống đất. Không khí run rẩy giống như trên sa mạc Libi. Trời không một gợn mây. Mặt đất tràn ngập ánh sáng, khiến cho mọi vật đều có màu trắng, không nghe thấy một tiếng động nào, thậm chí cả tiếng côn trùng, trong cái im lặng chết chóc đầy ánh sáng khó chịu này.
    Mọi người đẫm mồ hôi. Thỉnh thoảng họ phải dồn đống những súc thịt khô và khiên lại để tìm một chút bóng mát. Xtas ra lệnh phải tiết kiệm nước, những người da đen cũng giống như trẻ con vậy, họ hoàn toàn không hề lo nghĩ gì tới ngày mai. Cuối cùng, đành phải dù ng lính canh giữ những người mang túi nước, và phân phát khẩu phần nước cho từng người. Chính Cali tự làm việc đó một cách rất công minh, nhưng chuyện ấy mất rất nhiều thì giờ, làm chậm trễ tốc độ hành quân, điều đó cũng có nghĩa là chậm tới được những nguồn nước mới. Thêm vào đó, những người Xamburu kêu ca rằng người Vahima được chia nhiều nước uống hơn, còn người Vahima lại kêu người Xamburu. Người Xamburu đòi quay trở lại, song, Xtas tuyên bố rằng vua Pharu sẽ ra lệnh chặt đầu họ, còn bản thân em cũng ra lệnh cho những xạ thủ được trang bị súng trường rêmingtơn của mình không cho phép một ai bỏ đi cả.
    Đêm thứ hai họ gặp trúng chỗ đất trần trụi. Họ không làm bôma - hay hàng rào deriba như người ta thường gọi ở Xuđan - vì không có gì để làm cả.King và Xaba trở thành lính canh trạ i. Đó là những lính canh đủ tin cậy, nhưng vì được uống nước mười lần ít hơn lượng cần thiết, nên con King rống lên cho đến tận rạng đông, còn con Xaba thì thè lưỡi nhìn Xtas và Nen với lời khẩn cầu câm lặng, xin hãy thí thêm cho nó dù chỉ là một giọt nước. Cô bé muốn Xtas cho nó một ít nước trong cái bình đựng nước bằng cao su được thừa hưởng của ông Linđe mà em đeo bằng một sợi dây ở vai, nhưng cậu bé từ chối, vì em giữ gìn chút nước này cho Nen, dành cho những giờ đen tối nhất.
    Đến chiều thứ tư thì chỉ còn lại có năm túi nước không lớn lắm, nghĩa là mỗi đầu người chỉ còn lại được không đầy nửa chén.
    Và vì rằng dù sao ban đêm cũng mát hơn ban ngày, khiến cơn khát đỡ giày vò hành hạ người ta hơn là dưới ánh mặt trời gay gắt, hơn nữa buổi sáng mọi người cũng đã được chia chút ít nước, nên Xtas ra lệnh dành những túi nước này sang ngày hôm sau. Những người da đen lao xao phản đối mệnh lệnh này, nhưng nỗi sợ hãi đối với Xtas hãy còn khá lớn, nên họ không dám lao vào chỗ nước dự trữ ít ỏi cuối cùng ấy, nhất là khi bên cạnh đó đang có người cầm súng rêmingtơn đứng canh; những người này được thay gác từng giờ một.
    Để đánh lừa cơn khát, những người Vahima và Xamburu đành vặt những cuộng cỏ khô cằn, nhai lõi của chúng, song trong cỏ cũng gần như không còn chút hơi ẩm nào, vì mặt trời đã hút cạn hơi ẩm ngay cả của những tầng đất sâu1.
    Mặc dù không dập tắt được cơn khát, nhưng ít nhất thì giấc ngủ cũng cho phép tạm quên đi, nên khi đêm về, những người mệt nhọc và kiệt sức sau cả ngày đi đường ngủ như chết. Xtas cũng thiếp đi, nhưng trong lòng em đang có quá nhiều lo nghĩ và dằn vặt nên không sao ngủ yên và lâu được. Vài giờ sau, em tỉnh giấc và bắt đầu suy nghĩ về những chuyện sẽ đến, làm sao kiế m được nước uống cho Nen cùng cả đoàn, kể cả người lẫn vật? Tình thế thật nghiêm trọng, thậm chí có thể nói: thật kinh khủng, nhưng vốn tháo vát, cậu bé vẫn không chịu ngã lòng. Em bắt đầu nhớ lại tất cả những sự kiện diễn ra từ khi chúng bị bắt cóc ở Phaium cho tới lúc này: chuyến đi dài đằng đẵng đầu tiên vượt sa mạc Xahara, bão cát trong sa mạc, những lần định chạy trốn, Kháctum, Mahơđi, Phasôđa, thoát khỏi tay Ghebơrơ, rồi chặ ng đường tiếp theo đó đến khi ông Linđe chết, cho tới tận hồ Baxxa Narốc và mãi đến chỗ mà bọn trẻ đang trú đêm hiện nay. ?oTa đã vượt qua biết bao chuyện, đã chịu đựng biết bao điều?, - em tự nhủ, - ?obiết bao lần ta tưởng chừng mọi sự đi đứt rồi và không còn lối thoát nào nữa, ấy vậy mà Chúa vẫn trợ giúp và bao giờ ta cũng tìm ra lối thoát. Thật khó tưởng tượng là ta đã vượt qua ngần ấy chặng đường, ngần ấy hiểm nguy để rồi phải chết trong chặng đường cuối cùng này! Bây giờ hãy đang còn một ít nước, và vùng này đâu phải là Xahara, vì nếu như thế thật thì hẳn là người ta phải biết điều đó chứ!? Song, thật ra niềm hi vọng của em còn được duy trì bởi vì qua ống nhòm về ban ngày em nhìn thấy ở phía Nam dường như có dạng của một dãy núi mờ mờ, có thể cách chúng còn chừng trăm dặm Anh nữa, cũng có thể xa hơn. Nhưng nếu như đến được nơi đó thì chúng sẽ thoát chết, vì ít khi vùng núi lại không có nước. Cần phải mất bao nhiêu lâu để đến được, cái đó em không biết, điều ấy còn phụ thuộc vào độ cao của núi. Trong làn không khí trong suốt như không khí Phi châu này, những đỉnh núi cao có thể nhìn thấy được từ rất xa, nghĩa là cần phải tìm ra nước trước khi tới đó. Nếu không thì chết hết.
    ?oNhất định phải thế!? - Xtas tự nhắc mình.
    Tiếng thở dài đứt đoạn của con ngựa đang cố sức tống ra khỏi phổi cái nhức nhối của cơn khát chốc chốc lại cắt ngang dòng suy nghĩ của cậu bé. Nhưng lúc sau, em như nghe thấy có tiếng gì đó tựanhư tiếng rên rỉ từ một phía khác của trại, chính từ phía mà những bao nước được phủ cỏ qua đêm.
    Vì tiếng rên lặp đi lặp lại mấy lần liền, nên cậu bé đứng dậy để xem có chuyện gì xảy ra. Em bước vềphía bụi cây mọc cá ch lều chừng vài mươi bướcchân. Đêm sáng vằng vặc, nên từ xa đã có thể trông thấy hai bóng người màu đen thẫm nằm cạnh nhau và hai khẩu rêmingtơn lóe sáng trong ánh trăng.
    ?oNgười da đen bao giờ cũng thế, - em nghĩ thầm, - phải canh nước, thứ quý giá nhất đối với chúng tahiện giờ, ấy thế mà họ lại ngủ khì cả hai, cứ như đang nằm trong căn lều của họ vậy. A! Ngày mai thì hẳn là cái hèo tre của Cali lại có việc làm đây!?.
    Nghĩ thế, em tiến lại gần và lấy chân lay lay một trong hai người lính canh, nhưng lập tức em lùi lại, kinh hoàng.
    Người da đen có vẻ đang ngủ kia nằm ngửa với một con dao cắm ngập tận chuôi vào cổ họng, cạnh đó là người thứ hai, với cái cổ cũng bị cắt ngang khủng khiếp đến nỗi đầu gần như rời hẳn khỏi thân mình.
    Hai túi nước biến mất, ba túi khác bị phanh thủng và bẹp dí, nằm giữa đám cỏ bị vứt ngổn ngang.
    Xtas cảm thấy tóc em dựng ngược cả lên.
    Chú thích:
    (1-) Về những vùng bình nguyên không có nước tại miền này xin bạn đọc hãy xem quyển sách tuyệt hay của linh mục Le Roy, giám mục xứ Gabon nhan đề Kilima - Njoro (Chú thích của tác giả).
  8. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 45 ​

    Nghe thấy tiếng kêu của em, Cali chạy lại đầu tiên, theo sau là hai người xạ thủ trước đó vừa được thay gác, rồi lát sau tất cả những người Vahima và Xamburu tụ tập lại, vừa hò hét vừa hú lên tại nơi xảy ra vụ án mạng. Lộn xộn, đầy nhữ ng tiếng kêu và kinh hoàng. Người ta quan tâm không mấy đến những người bị giết và đến chuyện giết người, mà quan tâm nhiều hơn tới những giọt nước cuối cùng đã bị ngấm sạch vào nền đất bỏng cháy của hoang mạc. Một số người da đen bò ngoài ra đất, dùng tay vốc từng vốc đất lên, cố hít lấy chút hơi ẩm còn sót lại. Những người khác kêu la ỏm tỏi rằng chính cái ma ác đã giết chết những người lính canh và phanh thủng các túi nước. Nhưng Xtas và Cali biết rõ nên hiểu chuyện ấy ra sao. Chính M''Kunđe và M''Pua không có mặt trong số những người đang gào thét quanh bụi cỏ. Trong chuyện vừa xảy ra có cái gì đó lớn hơn là một vụ giết hai người lính canh và đánh cắp hai túi nước. Việc băm nát những túi nước còn lại chứng tỏ đó là một hành động báo thù, đồng thời là cái án tử hình cả đoàn. Những tên tín đồ của Mdimu Ác đã báo thù những người tốt. Những tên phù thủy trả thù vị vua trẻ, người đã phanh phui chuyện lừa lọc của chúng và không cho phép chúng được tiếp tục bóc lột những người Vahima lâu hơn nữa. Giờ đây, đôi cánh của tử thần đang chao lượn trên đầu cả đoàn, như những cánh diều hâu lượn trên đàn bồ câu.
    Cali chợt nhớ lại một cách quá muộn màng rằng vì đang có nhiều lo nghĩ và bận những việc khác nên đã quên không ra lệnh trói những tên phù thủy này lại, như vẫn làm từ khi chúng định chạy trốn đến nay. Cũng rõ ràng là, do tính cẩu thả bẩm sinh của người da đen, hai lính canh đã đặt lưng và ngủ thiếp đi. Chính điều đó đã khiến cho công việc của lũ đểu cáng được dễ dàng và khiến chúng trốn thoát mà không bị xử tội.
    Cũng phải mất khối thì giờ thì sự lộn xộn mới lắng đi chút ít và mọi người mới thoát khỏi cơn bàng hoàng, tuy vậy, bọn tội phạm chắc là vẫn chưa đi được xa, vì đất chỗ những tú i nước bị rách hãy còn ẩm và máu chảy từ thây hai người bị giết vẫn chưa đông hẳn. Xtas ra lệnh đuổi theo hai tên chạy trốn, không những chỉ để nhằm trừng trị chúng mà còn để đoạt lại hai túi nước cuối cùng. Cali lên ngựa, dẫn hai mươi tay súng đuổi theo. Thoạt tiên Xtas cũng muốn tham gia vào việc đuổi bắt, nhưng em nghĩ là không thể để Nen ở lại một mình trong cơn phẫn nộ và trong trạng thái kích động của những người da đen, nên em ở lại. Em chỉ bảo Cali mang con Xaba theo.
    Em ở lại vì e sẽ có cuộc nổi loạn, đặc biệt là về phía những người Xamburu. Nhưng em nhầm. Nói chung người da đen dễ nổi khùng, đôi khi vì những chuyện không đâu, nhưng một khi có một nỗi bất hạnh lớn nào đó đổ xuống đầu họ, nhất là khi cánh tay không khoan nhượng của tử thần chạm tới họ, thì họ đành thúc thủ, không chỉ riêng những người được đạo Hồi dạy rằng chống lại định mệnh là vô ích, mà hết thảy mọi người đều như thế. Khi đó cả nỗi sợ hãi lẫn sự dày vò của những phút giây cuối cùng cũng không làm họ thức tỉnh khỏi cơn bải hoải xuôi tay. Bây giờ đây cũng vậy. Khi sự bùng nổ ban đầu đã qua đi, khi cái ý nghĩ rằng sẽ phải chết đã hằn sâu vào đầu óc họ, thì cả những người Xamburu lẫn những người Vahima đều lặng lẽ nằm lăn ra đất chờ chết, vì vậy có lẽ không cần phải lo họ nổi loạn, mà có lẽ nên lo ngày mai họ có chịu nhổm dậy đi tiếp hay không. Khi nhận ra điều đó, Xtas cảm thấy rất thương họ.
    Trước khi mặt trời mọc, Cali đã quay trở về và đặt trước mặt Xtas hai cái bao đã bị cào xé rách nát, trong đó không còn lấy một giọt nước nào cả.
    - Ông lớn, - nó nói, - hết nước rồi!Xtas đưa tay lên cái trán đẫm mồ hôi rồi hỏi:
    - Thế còn M''Kunđe và M''Pua?
    - M''Kunđe và M''Pua chết rồi. - Cali đáp.
    - Cậu ra lệnh giết chúng à?
    - Sư tử hoặc vôbô đã giết chúng.
    Rồi nó bắt đầu thuật lại chuyện xảy ra. Họ tìm thấy xác của hai tên tội phạm cách trại khá xa, tại chỗ chúng bị tử thần bắt gặp. Cả hai đều nằm cạnh nhau, cả hai đều có cái sọ bị vỡ nát đằng sau gáy, cánh tay bị cào xé và tấm lưng bị gặm dở dang. Cali cho rằng sư tử hoặc vôbô hiện ra trước mặt bọn chúng trong ánh trăng, thì cả hai liền nằm úp sấp mặt xuống và van xin chúng tha chết cho. Nhưng con thú dữ tợn đã giết cả hai, rồi sau khi cơn đói đã qua, nó ngửi thấy hơi nước liền xé nát các túi đựng nước.
    - Chính Chúa đã trừng phạt chúng. - Xtas nói. Người Vahima nên biết rằng Mdimu Ác không thể cứu nổi bất cứ kẻ nào.
    Cali lặp lại:
    - Chúa đã trừng phạt chúng, nhưng chúng ta không có nước.
    - Phía xa xa trước mặt tớ trông thấy những rặng núi về phía Đông. Ở đó chắc chắn có nước.
    - Cali cũng trông thấy núi, nhưng nhiều nhiều ngày đường mới tới nơi được. .. Im lặng.
    - Ông chủ, - Cali cất tiếng nói. - Xin Mdimu Tốt hãy... xin cô bé hãy cầu Linh thần vĩ đại cho một con sông hay một trận mưa.
    Xtas không nói gì hết và bỏ đi. Em trông thấy hình bóng màu trắng của Nen đang đứng trước lều. Tiếng kêu thét và tiếng hú của những người da đen đã đánh thức cô bé dậy từ nãy.
    - Có chuyện gì thế, anh Xtas?
    Cậu bé đặt tay lên đầu Nen và nói nghiêm trang:
    - Nen, hãy cầu Chúa xin nước, nếu không tất cả chúng ta sẽ chết.
    Thế là cô bé bèn ngước khuôn mặt nhợt nhạt của mình lên trời và nhìn dán mắt vào vầng trăng bạc,bắt đầu cầu xin Đấng tối cao, ngườ i đã đưa đẩy những chòm sao trên bầu trời và đã quạt gió vào lông cừu trên mặt đất, hãy cứu vớt.
    Sau một đêm mất ngủ, ồn ào và không yên tĩnh, mặt trời bỗng nhô lên sau đường chân trời một cách bất thần, như thường khi vẫn vọt lên trong vùng nhiệt đới, một ngày ngập tràn ánh sáng bắt đầu. Trên ngọn cỏ không có lấy một giọt sương, trên bầu trời không một gợn mây. Xtas ra lệnh cho các xạ thủ tập trung mọi người lại và nói chuyện với họ một lúc. Em nói với họ rằng không thể quay lại con sông đã qua nữa, vì chính họ cũng biết rõ rằng nó nằm cách đó năm ngày đêm đường. Nhưng không một ai biết rằng liệu phía đối diện có nước hay không. Rất có thể là ở cách đây không xa có một nguồn suối nào đấy, một con sông hay một vũng nước. Tuy không thấy cỏ, cây cối gì, nhưng thường thường, trên những vùng đồng bằng trống trải, nơi gió mang vung vãi hạt giống đi xa, cây cối cũng không thể mọc được, ngay cả bên cạnh nước.
    Hôm qua họ đã trông thấy mấy con linh dương rất to cùng mấy con đà điểu chạy về phía đông, đó là dấu hiệu chứng tỏ rằng phía ấy hẳn phải có một nguồn nước nào đó. Vậy thì, những ai không phải là kẻ ngu ngốc, những ai trong ngực có trái tim không phải của loài thỏ mà là trái tim của sư tử và trâu rừ ng, người ấy hãy tiếp tục đi về phía trước, dù là đang khát khô cổ và mệt mỏi, chứ không chịu nằm lại để chờ lũ diề u hâu hay linh cẩu tới.
    Vừa nói thế, em vừa đưa tay chỉ những con diều hâu đang quần những vòng u ám trên đầu đoàn người. Sau những lời của Xtas, tất cả những người Vahima được Cali ra lệnh đều đứng cả dậy. Vì vốn đã quen tuân phục quyền lực hà khắc của nhà vua, họ không dám cưỡng lại. Nhưng nhiều người Xamburu không muốn đứng dậy, vì vua của họ là Pharu đã ở lại tại vùng hồ. Những người này bảo nhau: ?oTại sao chúng ta lại phải đi đón cái chết khi mà tự nó cũng sẽ đến với chúng ta?? Thế là đoàn người tiếp tục tiến lên, giảm đi gần một nửa, và ngay lúc mới lên đường đã rơi vào nỗi mệt nhọc.
    Suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ người ta không có lấy một giọt nước nào trong cổ họng, cũng không có lấy một chất lỏng nào khác. Ngay cả trong những điều kiện khí hậu mát mẻ hơn, thì khi lao động, chuyện đó cũng đã là chuyện khó chịu đựng nổi, huống hồ trong cái lò lửa Phi châu nóng bỏng này, nơi ngay cả những người được uống nước thỏa thuê cũng bị tháo mồ hôi nhanh đến nỗi họ có thể dùng tay vớt lại nước toát ra khỏi da mình ngay vào lúc đang uống. Cũng có thể thấy trước được rằng, nhiều người sẽ nằm xuống dọc đường vì kiệt sức và vì bị say nắng. Xtas cố gắng hết sức bảo vệ Nen khỏi bị mặt trời thiêu đốt và không cho phép cô bé được ló người ra khỏi cá i bành lấy một phút nào, cái bành mà trên nóc em đã dùng một tấm lụa trắng làm thành hai lớp để che.
    Dùng chút nước còn lại trong cái bình cao su, em nấu lên pha chè thật đặc, để nguội đi và đưa cho Nen, không pha đường, vì vị ngọt khiến cho cái khá t tăng thêm. Cô bé rơi lệ van xin em hãy cùng uống, nên em bèn đặt cái bình lên miệng - trong bình chỉ còn lại chừng vài chén nước - rồi động đậy cổ họng giả vờ uống. Lúc cảm thấyvị hơi ẩm trên môi, em tưởng như trong bụng và ngực đang có lửa cháy, và nếu như không dập tắt ngọn lửa ấy thì em sẽ gục xuống chết ngay lập tức. Trong mắt em quay cuồng những đốm màu đỏ, em cảm thấy trong hai hàm răng nhói lên nỗi đau khủng khiếp, dường như có ai đang cắm vào đó hàng ngàn chiếc kim. Tay em run đến nỗi suýt đánh đổ nhữ ng giọt nước cuối cùng ấy. Tuy vậy, em chỉ dùng lưỡi hớp lấy hai ba giọt, còn lại, em dành cho Nen.
    Lại một ngày đầy khổ sở và khó nhọc nữa trôi qua, đêm đến, may thay, trời lại mát mẻ hơn. Song sáng ngày hôm sau trời lại vô cùng nóng nực. Không một hơi gió thoảng. Mặt trời như một vị hung thần trút lửa xuống thiêu đốt mặt đất khô rang. Thậm chí không thấy một cây xương khô nào cả, chỉ có một vùng bình nguyên khô cháy, trống trải, phủ đầy những bụi cỏ xám xịt, cùng những cây thạch thảo khô khốc. Chỉ thỉnh thoảng ở tận phía xa xa vang lên những tiếng sấm nhè nhẹ, nhưng trong khi bầu trời đang nắng chang chang, những tiếng sấm ấy không báo hiệu mưa, chỉ báo nắng hạn đang kéo dài mà thôi.
    Lúc gần trưa, khi trời nóng nực kinh khủng hơn cả, cần phải dừng lại nghỉ ngơi. Cả đoàn rải ra nghỉ trong im lặng nặng nề.
    Kiểm lại thấy một con ngựa bị chết và hơn mười người phu khuân vác nằm lại dọc đường. Ngay cả lúc nghỉ ngơi, không một ai nghĩ đến chuyện ăn. Mắt mọi người hõm sâu, môi nứt nẻ với những cục máu khô đọng lại. Nen thở hổn hển như một con chim. Xtas bèn đưa cái bình cao su cho Nen và kêu lên: ?oAnh uống rồi! Anh uống rồi!?, rồi em vội chạy trốn sang đầu kia của trại, vì sợ rằng nếu ở lại thì em có thể lấy lại bình nước hoặc sẽ đòi Nen chia nước cho mình chăng. Và đó có thể là hành động dũng cảm nhất của em trong suốt cuộc hành trình. Bản thân em đang khốn khổ vì chịu đựng. Những đốm lửa đỏ quay lượn trước mắt em liên tục. Em cảm thấy hai hàm dính chặt với nhau, đến nỗi há ra ngậm vào đều khô.
    Cổ họng em khô khốc, cháy bỏng, không có một ít nướ c bọtnào trong miệng, lưỡi cứ ng đờ như bằng gỗ. Ấy thế mà đối với em cũng như cả đoàn, đây mới chỉ là bước đầu của những nỗi cực hình.
    Nhữ ng tiếng sấm báo hạn cứ rền khan ở chântrời. Khoảng ba giờ chiều, khi mặt trời đã ngả vềtây, Xtas ra lệnh cho cả đoàn đứng dậy, rồi dẫn đầucả đoàn tiếp tục tiến về phía đông. Nhưng bây giờđây chỉ còn chừng bảy chục người đi cùng với em, song chốc chốc lại có một người ngã vật xuống bêngói hàng của mình để không bao giờ đứng dậy nữa.Cái nóng giảm đi chừng vài độ nhưng thự c ra lạicòn kinh khủng hơn. Trong bầu không khí lặng yênhình như có hơi khí than lởn vởn. Mọi người dườngnhư không còn gì để thở nữa, lũ súc vật cũng khốnkhổ không ké m. Chỉ một giờ sau khi xuất phát lại một con ngựa nữa ngã gục xuống. Con chó Xaba thởhổn hển, bụng hóp cả lại, cái lưỡi xám xịt thè ranhư không còn một tí bọt nào. Còn con King vốnquen với cái khô cằn của vùng đồng hoang Phichâu, ít nhọc nhằn hơn, nhưng cũng đã bắt đầu nổicáu. Đôi mắt nhỏ bé của nó ánh lên những tia sáng kì lạ. Khi Xtas và nhất là Nen thỉnh thoảng nói vớinó đôi lời, nó còn đáp lại bằng một thứ tiếng gừ gừtrong cổ họng, nhưng Cali vô tình đi qua ngang gầnnó, nó rống lên dữ tợn và huơ vòi ra, suýt nữa thìgiết chết tươi cậu bé, nếu cậu không kịp nhảy tránhvề một bên.
    Mắt Cali cũng vằ n máu đỏ, những mạch máu trên cổ nó căng phồng ra, môi nứt nẻ như những người da đen khác. Khoảng năm giờ chiều, nó lại gần Xtas và nói bằng một giọng khản đặc khó khăn lắm mới thoát ra khỏi cổ:
    - Ông lớn ơi, Cali không thể đi xa hơn được nữa. Cứ để cho đêm tới ngay chỗ này thôi.
    Xtas cố nén nỗi đau đớn trong hai hàm răng và nói một cách khó nhọc:
    - Cũng được! Dừng lại thôi. Đêm sẽ dễ chịu hơn.
    Mọi người ném phịch những kiện hàng đội trên đầu xuống đất, nhưng vì cái nóng trong người họ đã khiến cho máu đặc lại đến hết mức, nên lần này họ không nằm vật ngay xuống đất. Trái tim và những mạch máu ở thái dương họ, ở chân tay họ, đập mạnh như vỡ tung ra. Da trên thân thể họ khô đi, co lại và bắt đầu nứt nẻ, họ cảm thấy trong xương cốt có cái gì đó thật bồn chồn, còn trong lục phủ ngũ tạng cũng như trong họng thì có lửa đốt. Một số người đi đi lại lại vẻ đầy lo lắng bên cạnh những bọc hàng, còn những người khác thì trong ánh sáng đỏ của vầng mặt trời đang lặn có thể thấy họ nối nhau lẩn quẩn trong những bụi cây khô khỏng như đang muốn tìm kiếm vật gì cho tới khi sức họ hoàn toàn kiệt quệ. Khi đó họ nối nhau ngã xuống mặt đất và nằm xoài người trong cơn rung giật. Cali ngồi xệp bên cạnh Xtas cùng Nen, há hốc miệng đớp đớp không khí, giữa hai hơi thở nó lặp đi lặp lại như một lời van xin:
    - Bvana kubva, nước!
  9. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Xtas dương cặp mắt đông cứng như thủy tinh nhìn nó và nín lặng.
    - bvana kubva! - Rồi một một lúc sau: - Cali chết mất.
    Khi đó, Mêa, người mà không rõ vì lí do nào có thể chịu đựng những cơn khát giỏi hơn cả và ít đau khổ hơn tất cả những người khác, bèn tiến đến gần, ngồi xuống cạnh cậu bé, ôm chặt lấy cổ nó và cất giọng du dương khe khẽ nói:
    - Mêa muốn chết với Cali...
    Im lặng kéo dài..............
    Trong khi đó mặt trời lặn hẳn và đêm bao trùm lên cảnh vật.
    Bầu trời ngả sang màu tím than. Chòm sao chữ thập lóe sáng ở phương Nam. Những chòm sao dầy đặc lấp lánh vùng bình nguyên ấy. Mặt trăng dường như nhô lên từ dưới đất tỏa ánh sáng vào bóng đêm, còn phía trời Tây sáng lên, ánh sáng mờ mờ nhạt nhạt của hoàng đạo. Không khí như biến thành một bể ánh sáng to lớn duy nhất. Rồi ánh sáng mỗi lúc một rạng thêm lên. Cái bành trên lưng con King mà người ta đã lãng quên đi cùng nhữ ng lều trại sáng lên như những tường nhàđược quét vôi trắng ánh lên trong bóng đêm. Ánh sáng rơi vào im lặng, trái đất chìm trong giấc ngủ mê mệt.
    Thế mà trong cái im lặng và thanh bình này của thiên nhiên, những con người trong khu trại lại đang phải rên lên vì đau đớn và đang chờ chết. Trên cái nền bàng bạc của bóng tối hiện lên sắc cạnh những đường nét khổng lồ của con voi. Ngoài những chiếc lều ra, ánh trăng còn làm sáng lên những bộ quần áo màu trắng của Xtas và Nen, còn trong những bụi thạch thảo là những thân hình sẫm đen co quắp của những người da đen, đây đó vứt lỏng chỏng những bọc hàng hóa. Con Xaba ngồi tựa hai chân trước mặt bọn trẻ, ngẩng đầu trông lên cái đĩa của vầng trăng và hú lên thê thảm.
    Trong lòng Xtas quay cuồng những mẩu ý nghĩ, nhào trộn vào nhau thành một cảm giác tuyệt vọng câm lặng, rằng lúc này không còn cứu cánh nào cả, rằng tất thảy, tất thảy những cố gắng và công sức to lớn, những chịu đựng vô song, những hành động can trường và đầy ý chí mà em đã thực hiệ n trong thời gian những chuyến đi kinh khủng từ Mêđinét tới Kháctum, từ Kháctum tới Phasôđa rồi từ Phasôđa tới cái hồ chưa ai biết đến, đã không mang lại một kết quả gì hết, và giờ đây, cái kết cục chấm hết cuộc đấu tranh và sự sống đang kéo đến mộtcách không khoan nhượng. Đối với em, điều khủng khiếp hơn cả là ở chỗ, cái kết cục ấy lại đến chính trong đoạn đường cuối cù ng này, đoạn đường mà cáiđích là đại dương. Ôi, em không còn đưa được bé Nen đến bờ biển nữa, em không cò n được lao vào vòng tay cha, không được nghe ông khen em đã hành động như một thiếu niên can đảm, như một người Ba Lan chân chính nữa! Hết rồi, hết cả rồi! Vài ngày nữa thôi, mặt trời sẽ chỉ gặp những cái xác chết, và sau đó sẽ thiêu đốt chúng cho đến khi chúng giống như những cái xác ướp đang ngủ một giấc ngủ vĩnh hằng trong các viện bảo tàng ở Ai Cập.
    Vì đau đớn và nóng sốt, đầu óc em hỗn loạn. Những ảo ảnh và ảo âm hôn mê kéo tới. Em nghe rõ tiếng bọn Xuđan và bọn Bêđuin thét lên: ?oYalla, yalla? trên những con lạc đà phi nước đại.
    Em trông thấy Iđrix và Ghebơrơ. Gã Mahơđi với cặp môi dầy đang mỉm cười nhìn em và hỏi: ?oCháu có muốn uống nước từ nguồn suối chân lí hay không?...? Tiếp đó con sư tử trên phiến đá đang dương mắt nhìn em, rồi ông Linđe đưa cho em lọ thuốc kí ninh và bảo:
    ?oNhanh lên, nhanh lên cháu, cô bé đang chết kia kìa!? Rồi cuối cùng, em chỉ còn nhìn thấy khuôn mặt vô cùng thân yêu, tái nhợt, và hai cánh tay nhỏ bé đang vươn về phía em.
    Đột nhiên em rùng mình tỉnh dậy vì sát bên tai loáng thoáng tiếng thì thào nghe như một lời than vãn của Nen:
    - Anh Xtas... nước!
    Cũng giống như Cali vừa rồi, cô bé chỉ trông vào em, chờ sự cứu vớt. Nhưng vì mười hai tiếng đồng hồ trước đây em đã trao cho cô bé những giọt nước cuối cùng, nên lúc này em bật dậy, kêu lên thành tiếng, trong tiếng kêu đó có sự bùng nổ của nỗi đau đớn tuyệt vọng và tủi thân:
    - Nen ôi! Anh chỉ giả vờ uống thôi, chứ ba ngày nay anh không có một chút nước nào trong họng!
    Rồi hai tay ôm chặt lấy đầu, em chạy trốn để khỏi phải nhìn thấy nỗi đau đớn của cô bé. Em cắm đầu chạy như mù giữa những bụi cỏ và thạch thảo cho tới khi ngã vật vào một bụi cây vì hoàn toàn kiệt sức. Em không còn một chút khí giới nào để tự vệ. Bất kì một con báo, một con sư tử hay thậ m chí một con linh cẩu lớn nào cũng có thể ăn thịt em một cách dễ dàng. Nhưng con chó Xaba chạy lại, và sau khi ngửi ngửi khắp người em, con chó hú lên, nhưng muốn gọi người cứu lấy chủ.
    Song chẳng hề có ai vội đến cứu. Từ trên trời cao, vầng trăng thản nhiên và không chút động lòng nhìn xuống. Cậu bé nằm rất lâu như đã chết. Mãi tới khi một hơi gió mát mẻ hơn chợt thổi từ phíaĐông tới, khiế n em hồi lại. Xtas ngồi dậy, và lát sau, cố gắng đứng lên để quay về phía Nen.
    Hơi gió mát hơn lại thổi đến với em lần thứ hai. Con Xaba thôi hú và quay mũi về phía Đông, cánh mũi phập phồng. Bỗng nhiên nó bật sủa lên một tiếng, rồi hai tiếng, bằng cái giọng trầm đứt đoạn, và nó lao đi về phía trước mặt. Một hồi lâu không nghe thấy tiếng nó, nhưng rồi lát sau tiếng sủa của nó lại vang lên từ phía xa xa. Xtas đứng dậy chuệch choạng trên hai chân cứng đờ dõi nhìn theo nó. Nhữ ng chặng đường dằng dặc, cuộc sống kéo dài trong rừng, sự cần thiết phải căng thẳng tất cả các giác quan một cách thường xuyên, cùng những nỗi nguy hiểm luôn luôn đe dọa để dạy cho cậu bé chú ý đến tất cả những gì xảy ra chung quanh, nên giờ đây, mặc dù đau đớn, mặc dù trí óc không thật tỉnh táo, nhưng bằng bản năng và thói quen, em liền chú ý ngay tới hành động của con chó. Một lúc sau, con Xaba lại xuất hiện bên cạnh em có vẻ rất xúc động và loay hoay một cách lạ lùng. Mấy lần liền nó ngước mắt nhìn Xtas, nó chạy vòng tròn, rồi lại lao đi, hít hít không khí và sủa về phía đám thạch thảo, rồi lại quay trở lại, và cắn lấy quần cậu bé lôi về phía ngược với trạ i.
    Xtas đã hoàn toàn tỉnh táo.
    ?oGì thế nhỉ? - Em nghĩ thầm - Hoặc là con chó đã hóa điên vì quá khát, hoặc là nó cảm thấy có nước đâu đây. Nhưng mà không!... Giá như có nguồn nước gần đây thì nó đã phải chạy ngay tới uống và mõm nó phải ướt chứ. Nếu như nước ở xa thì hẳn là nó không ngửi thấy... nước không có mùi... Còn nếu có linh dương thì chắ c nó không muốn ăn. Thú dữ chắc cũ ng không phải... Vậy thì là cái gì?
    Và bỗng nhiên trái tim cậu bé đập mạnh hơn trong ***g ngực.
    ?oVậy rất có thể là gió đã mang lại hơi người... Có thể ở phía xa xa kia có một cái làng dân da đen nào chăng?... Có thể một cái diều đã bay được tới tận...Ôi, Đức Chúa Giêsu lòng lành, ôi Đức Chúa Giêsu...? Dưới ảnh hưởng của tia hi vọng, em bỗng lấy lại được sức lực và lao ngay về phía trại mặc dù con chó cứ cưỡng lại, bằng cách chạy chắ n đường em.
    Trong trại, em trông thấy cái bóng trắng của Nen, em nghe thấy tiếng nói yếu ớt của cô bé, em vấp phải Cali đang nằm trên mặt đất, nhưng em không còn để ý đến điều gì nữa cả. Em lao đến cái gói đựng pháo hiệu, xé toạc ra, rút một cái, tay run rẩy buộc nó vào một cái cọc tre cắm xuống khe nứt trên mặt đất, đánh lửa và châm vào sợi dây ngòi nhỏ lủng lẳng dưới chân ống pháo.
    Một giây sau, một con rắn đỏ vừa kêu rít vừa bay lên cao, Xtas ôm chặt hai tay vào cây cọc tre để khỏi ngã và dán mắt nhìn về phía xa. Mạch ở tay em và ở thái dương em đập mạnh như búa, môi em mấp máy những câu cầu nguyện khẩn thiết. Em gửi hơi thở cuối cùng của mình trong đó chứa đựng cả tâm hồn đến với Đức Chúa.
    Một phút trôi qua, rồi hai, ba, bốn phút. Không thấy gì, không thấy gì cả! Hai tay cậu bé buông thõng xuống, đầu gục xuống phía mặt đất và một nỗi tủi hận trào lên trong ***g ngực đã quá đau khổ của em.
    - Vô ích! Vô ích! - Em thì thào. - Ta sẽ đến, ngồi xuống cạnh Nen và sẽ chết cùng em!
    ....
    Chính vào lúc ấy, ở xa xa, trên cái nền màu bạc của đêm trăng, đột nhiên vọt lên một dải lửa rồi tóe ra thành những vì sao màu vàng rơi lả tả như những giọt lệ lớn xuống mặt đất.
    - Cứu tinh... - Xtas kêu lên.
    Thế là những người vừa như chết dở mới đây lao dậy chạy như đua nhau vượt qua những bụi thạch thảo và những bụi cỏ.
    Sau cái pháo hiệu thứ nhất tiếp đến cái thứ hai rồi thứ ba. Sau đó hơi gió mang lại tiếng gì như tiếng gõ mà người ta dễ dàng nhận ra đó là tiếng súng xa xa. Xtas ra lệnh cho tất cả các khẩu súng rêmingtơn đều phát hỏa, thế là từ đó cuộc đối thoại của những khẩu súng trường không ngơi nghỉ một giây, mỗi lúc càng nghe rõ hơn lên. Cậu bé nhảy lên lưng ngựa, con ngựa dường như cũng được một phép thần nào đó trả lại cho sức lực, và giữ chặt Nen trước yên, Xtas phi như bay về phía những thanh âm cứu tinh, xuyên qua đồng bằng. Con Xaba chạy theo bên cạnh, phía sau là con King khổng lồ với nhữ ng bước chân thình thịch.
    Hai trại cách nhau chừng vài cây số, nhưng vì người ta lao đến với nhau từ cả hai phía đồng thời, nên quãng đường đó chẳng phải đi mất bao lâu. Chẳng mấy chốc, không những chỉ nghe mà còn thấy được nhữ ng phát súng bắn nữa. Lại thêm một chiếc pháo hiệu bay lên không trung, cách đấy cùng lắm chỉ vài trăm bước chân. Rồi nhiều ánh đuốc sáng bừng lên. Mặt đất hơi nhô cao che khuất chúng đi trong giây lát, nhưng khi Xtas vừa vượt qua được thì em gần như đột ngột chạm ngay vào một hàng rào người da đen đang cầm trong tay những bó đuốc chá y rừng rực.
    Dẫn đầu đoàn là hai người Âu đội mũ kiểu Anh và cầm súng.
    Chỉ cần thoáng qua Xtas đã nhận ra ngay đó chính là đại uý Glen và bác sĩ Clery.
  10. pathetique

    pathetique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/11/2004
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Chương 46 ​

    Chuyến đi của đại uý Glen và bác sĩ Clery hoàn toàn không nhằm mục đích tìm kiếm Nen và Xtas.Đó là một chuyến đi rất đông người và được hậu cần chu đáo của chính phủ, nhằm mục đích nghiêncứu sườn phía Đông Bắc của dãy núi Kilima Ndarô khổng lồ, cùng với những vùng đất còn rất ít được biết đến nằm ở phía Bắc rặng núi này. Mặ c dù cả đại uý lẫn bác sĩ đều biết tin về việc bọn trẻ bị bắt cóc từ Mêđinét En Phaium (vì các nhật báo Anh và Ả Rập đều đưa tin này) nhưng họ nghĩ rằng cả hai trẻ hoặc đã chết hoặc đang rên xiết trong cảnh nô lệ ở xứ sở của tên Mahơđi, nơi mà không một ngườidân châu Âu nào trốn thoát. Ông Clery có người chị lấy ông Rôlixơn ở Bombay, rất yêu thích cô bé Nen trong chuyến đi tới Cairô, cảm thấy vô cùng đau đớn vì bị mất cô bé.
    Song cả hai ông nói chung cũngchân thành thương tiếc cậu bé cương nghị. Đã mấy lần liề n từ Mombaxa họ gửi điện tới ông Rôlixơn để hỏi thăm xem đã tìm thấy bọn trẻ chưa, và mãi cho tới khi nhận được bức điện cuối cùng - điện đến từ trước khi họ lên đường khá lâu - với câu trả lời mang tin buồn, thì cả hai mới mất hi vọng.
    Thậm chí họ không hề nghĩ rằng bọn trẻ vốn bị giam ở thành Kháctum xa xôi lại có thể xuất hiện ở vùng này. Tuy nhiên, thường thường, về đêm, sau khi kết thúc những công việc ban ngày, họ thường trò chuyện về bọn trẻ, vì bác sĩ không sao quên nổi cô bé xinh xắn tuyệt vời nọ.
    Trong khi đó, chuyến đi của họ càng ngày càng tiến xa. Sau khi dừng chân một thời gian lâu trêncác sườn phía Đông của dãy núi Kilima Ndarô, sau khi đã khảo sát nguồn sông Xốpbát và Tana cùng ngọn núi Kênia, đại uý và bác sĩ quặt về phía Bắc, rồi sau khi vượt qua vùng Cuaxô Nưirô lầy lội, họ tiến vào một vùng đồng bằng rộng lớn, không cư dân, chỉ có những đàn linh dương không tính xuể sinh sống. Sau hơn ba tháng đi đường, cần để cho mọi người được nghỉ ngơi một thời gian dài, vậy nên đại uý Glen - sau khi phát hiện được cái hồ nhỏ nhiều nước, một thứ nước màu nâu nâu nhưng rất lành, liền ra lệnh hạ trại tại đó và tuyên bố nghỉ mười ngày.
    Trong khi dừng chân nghỉ, hai người da trắng thường lo việc săn bắn, chỉnh lại những ghi chép về địa lí và tự nhiên, còn những người da đen thì rong chơi theo đúng sở thích của họ. Một ngày kia, bác sĩ Clery dậy sớm, vừa khi đến bên bờ hồ, ông trông thấy khoảng mươi người Dandiba trong đoàn đang ngước mắt nhìn lên một ngọn cây cao, lặp đi lặp lại một cách luẩn quẩn:
    - Ndege? Akuna ndege! Ndege? (Chim? không phải chim!
    Chim?) Bác sĩ bị cận thị nên bảo người về lều mang lại cho mình cái kính dã chiến, rồi nhìn qua kính lên cái vật mà những người da đen đang chỉ trỏ - và một nỗi kinh ngạc hiện lên trên mặt ông.
    - Hãy mời đại uý đến ngay! - Ông bảo.
    Song trước khi những người da đen kịp chạy đến nơi, đại uý đã hiện ra trước cửa lều vì ông đang định đi săn linh dương.
    - Trông này, anh Glen! - Bác sĩ vừa nói vừa trỏ lên cây.
    Đến lượt đại uý cũng ngửa đầu nhìn lên, lấy tay che mắt và ngạc nhiên không kém bác sĩ.
    - Cái diều! - Ông kêu lên.
    - Phải, nhưng những người da đen không biết thả diều, từ đâu nó bay lại đây mới được chứ?
    - Có lẽ có một cái làng da trắng nào hay một đoàn truyền giáo nào đó đang ở gần đây chăng?...
    - Gió đã thổi từ hướng Tây suốt ba ngày nay rồi, nghĩa là thổi từ phía vùng ta chưa biết, vùng mà hình như cũng không người như cái đồng hoang này vậy. Mà anh cũng biết đấy, vùng này đâu có làng nào, cũng có đoàn truyền giáo nào đâu.
    - Vậy thì lạ thật nhỉ...
    - Phải lấy cho được. Có thể chúng ta sẽ biết được nó xuất phát từ đâu chăng.
    Đại uý ra lệnh. Cái cây cao vài chục mét, nhưng những người da đen trong chớp mắt đã leo lên đến ngọn, cẩn thận lấy cái diều đang bị vướng xuống, đưa cho bác sĩ. Bác sĩ vừa nhìn cái diề u đã bảo ngay:
    - Có những chữ gì đây này... Ta đọc xem...Rồi nheo mắt lại, ông bắt đầu đọc. Bỗng nhiên mặt ông biến đổi hẳn, tay run run.
    - Anh Glen, - ông nói, - anh hãy cầm lấy đọc lênvà bảo cho tôi biết xem tôi có bị say nắng không và trí óc tôi có hoàn toàn minh mẫn hay không.
    Đại uý cầm lấy cái gọng diều bằng tre có dán tờ giấy và đọc như sau: ?oNenly Rôlixơn và Xtanixoáp Tarcôpxki.
    Bị đưa từ Kháctum đi Phasôđa. Rồi từ Phasôđa bị đưa về phía dòng sông Nin.Đã thoát khỏi tay bọn phiến loạn. Sau nhiều tháng đi đường chúng tôi đã đến được một cái hồ nằm ở phía Nam Abixinia.Chúng tôi đang đi về phía Đông. Yêu cầu được cứu ngay".Ở rìa tờ giấy có một dòng ghi thêm bằng nét chữ nhỏ hơn:
    ?oCái diều này là cái thứ năm mươi tư, đượ c thả lên từ dãy núi vây quanh cái hồ chưa có tên trong địa lí. Ai nhặt được xin chuyển cho Công ti Kênh đào ở Port Xaiđơ hoặc cho đại uý Glen ở Momxaba.
    Xtanixoáp Tarcôpxki?o. Khi giọng đọc của đại uý đã lặng đi, cả hai người bạn cùng im lặng nhìn nhau.
    - Cái gì thế này? - Mãi sau bác sĩ Clery mới hỏi.
    - Tôi không tin vào mắt mình nữa! - Đại uý trả lời.
    - Nhưng đây đâu phải là ảo ảnh.
    - Không phải!
    - Rõ ràng viết: ?oNenly Rôlixơn và XtanixoápTarcôpxki?.
    - Thật rõ ràng.
    - Sao bọn trẻ lại có thể ở vùng này nhỉ?
    - Chúa đã cứu thoát chúng, rất có thể là như thế.
    - Tạ ơn Người! - Bác sĩ nhiệt thành kêu lên.
    - Nhưng biết tìm bọn chúng ở đâu bây giờ.
    - Trên diều không còn viết thêm gì nữa à?
    - Còn vài chữ nữa nhưng đúng vào chỗ bị cành cây chọc thủng. Khó mà đọc nổi.
    Cả hai chụm đầu xuống tờ giấy và sau khi nghiên cứu khá lâu, họ mới đánh vần được nổi:
    - ?oMùa mưa qua đã lâu?.
    - Thế có nghĩa là gì? - bác sĩ hỏi.
    - Có nghĩa là thằng bé không còn tính được thời gian nữa.
    - Và bằng cách này nó muốn báo gần đúng thời gian. Anh nó i phải lắm. Và như thế có nghĩa là chiếc diều này mới thả cách đây chưa lâu.
    - Nếu đúng như thế thì bọn trẻ ở cách đây không xa!
    Cuộc trò chuyện sôi nổi đứt đoạn còn kéo dài một chút nữa, rồi hai người bạn lại nghiên cứu cái tài liệu nọ một lần nữa, mỗi người đều nghiền ngẫm riêng mình thật kĩ mỗi lời mỗi chữ ghi trên đó. Song việc này khó tin đến nỗi giá như nó không xảy rađúng vào cái vùng hoàn toàn không có người Âu sinh sống và cách bờ biển những sáu trăm cây số, thì hẳn bác sĩ và đại uý đã cho rằng đó chỉ là mộttrò đùa không phải lúc mà một bạn trẻ người Âu nào đó hoặc những đứa con nuôi của một đoàn truyền giáo nào đó đã bày đặt ra sau khi đọc tin về việc bọn trẻ bị bắt cóc qua các báo mà thôi. Song thật khó mà không tin vào chính mắt mình: họ đang cầm cái diều thật trong tay, trên đó nổi rõ lên những hàng chữ màu đen đã hơi bị mờ đi.
    Ấy thế mà nhiều chuyện họ không sao hiểu nổi. Bọn trẻ kiếm ở đâu ra giấy để làm diều? Nếu như có một đoàn thương khách nào đó cho chúng giấy, thì hẳn là chúng đã nhập luôn vào đó và đâu cần xin cứu viện nữa. Vì những lí do gì mà cậu bé không cố gắng cùng với cô bạn đồng hành nhỏ bé của mình chạy trốn sang Abixinia? Vì sao bọn phiếnloạn đày bọn trẻ về phía Đông sông Nin, tới vùng đất chưa ngườ i biết đến? Làm cách nào chúng có thể thoát khỏi tay bọn canh giữ? Chúng ẩn náu ở đâu? Bằng phép màu nhiệm nào mà suốt hàng tháng trời đi đường ròng rã chúng không bị chết đói, không làm mồi cho dã thú? Vì sao những người dã man không giết chúng? Tất cả những câu hỏi đó đều không có trả lời.
    - Tôi không hiểu gì cả, tôi không thể hiểu gì cả!
    - Bác sĩ Glery lặp đi lặp lại. - Họa chăng đó là sự kì diệu của Chúa.
    - Chắc chắn là thế. - Đại uý đáp.
    Rồi ông nói thêm:
    - Nhưng cả cái thằng bé ấy nữa chứ! Vì rõ ràng đây là công lao của nó.
    - Nó đã không bỏ rơi con bé! Cầu Chúa ban phước lành cho cái đầu và đôi mắt của chú bé!
    - Xtanlây, thậm chí cả Xtanlây cũng không thể sống nổi quá ba ngày trong những điều kiện như thế.
    - Ấy thế mà bọn trẻ lại sống nổi.
    - Và chúng đang cầu cứu. Chấm dứt chuyện nghỉ ngơi! Lên đường ngay lập tức!
    Và họ làm đúng thế. Dọc đường hai người bạn lại nghiên cứu tài liệu một lần nữa, vì họ tin rằng có thể tìm thấy trong đó lời chỉ dẫn về phương hướng mà họ cần phải đi để cứu bọn trẻ.
    Nhưngkhông có chỉ dẫn nào hết. Đại uý dẫn đoàn đi theo đường dích dắc với hi vọng là có thể gặp một đống lửa đã tắt hoặc những dấu hiệu nào đó khắc lên vỏ cây. Họ cứ đi như thế mấy ngày liền.
    Không may, sau đó họ tiến vào một vùng đồng bằng hoàn toàn không có cây cối gì, chỉ phủ đầy những bụi thạch thảo cao và những lùm cỏ khô khốc. Nỗi lo lắng bắt đầu hành hạ hai ngườ i bạn. Trên cái khoảng không gian mênh mông này thậm chí có thể dễ dàng bỏ qua cả những đoàn thương khách lớn chứ chưa nói tới hai đứa trẻ con, mà theo tưởng tượng của họ, đang bò trườn ở đâu đó như hai con sâu nhỏ giữa nhữ ng bụi thạch thảo còn cao hơn chúng nữ a. Lại một ngày nữa trôi qua. Nhữ ng cái lon đựng giấy để lại trong các bụi cây cũng như những đống lửa ban đêm không hề giúp gì. Đại uý và bác sĩ đôi khi đã bắt đầu thấy mất hi vọng, không hiểu liệu có tìm thấy bọn trẻ hay không, nhất là có tìm thấy chúng cò n sống hay không.
    Tuy nhiên, họ vẫn tìm kiếm một cách nhiệt thành suốt mấy ngày nữa. Những đội tuần tra mà đại uý Glen phái đi sang phía bên trái và bên phải cho biết rằng tiếp theo đây sẽ là vùng hoang mạc khô cằn hoàn toàn không có nước, cho nên khi tình cờ tìm thấy nước trong một khe đất, họ đành phải dừng lại để lấy nước chuẩn bị cho chuyến đi tiếp tục.
    Cái khe thực ra chỉ là một hẽm sâu chừng mươi mét và rất hẹp. Dưới lòng khe có nguồn nước nóngsủi bọt như sôi vì có chứa axít cácbôníc. Song sau khi để nguội đi, nước lại rất tốt và rất lành. Nguồn nước dồi dào đến nỗi cả ba trăm người trong đoàn cũng không thể khiến nó cạn được. Ngược lại, họcàng lấy nhiều nước bao nhiêu thì nguồn lại càng phun mạnh bấy nhiêu và khiến cho khe càng đầy hơn nhiều.
    - Cũng có thể với thời gian vù ng này sẽ thành một nơi chữa bệnh, - bác sĩ Clery nói. Nhưng hiện nay thì bọn thú không uống được nước này vì hai sườn khe quá dốc.
    - Liệu bọn trẻ có tìm ra được một nguồn nước tương tự như thế này không nhỉ? - Đại uý hỏi.
    - Không rõ. Cũng có thể là trong vùng này có nhiều nguồn nước. Nhưng nếu không thì bọn trẻ chết mất vì thiếu nước.
    Đêm đến. Họ đốt lên những đống lửa heo hắt mặc dù không dựng hàng rào chắn vì chẳng biết dựng bằng gì. Sau khi ăn tối, bác sĩ và đại uý ngồi trên những chiếc ghế gấp và vừa hút thuốc vừa trò chuyện về những điều đang đè nặng nhất lên trái tim họ.
    - Không có lấy một dấu vết nào hết! - Ông Clerythốt lên.
    - Mình đã định, - Glen đáp, - phái mươi người của chúng ta đi đến biển để đánh điện báo là đã có tin bọn trẻ. Nhưng thật mừng là mình đã không làm việc đó, vì chắc là những người này sẽ chết dọc đường, mà nếu họ có đến nơi được chăng nữa thì khuấy lên cái hi vọng hão huyền mà làm gì...
    - Để lại khiến cho nỗi đau trở lại...
    Bác sĩ nhấc cái mũ ra khỏi đầu, lau trán đẫm mồ hôi.
    - Này, - ông nói, - nhưng nếu chúng mình quay trở lại cái hồ ấy, chặt thật nhiều cây và đêm đêm đốt những đống lửa thật to thì có thể bọn trẻ thấy được đấy...
    - Nếu như chúng ở gần thì thể nào chúng mình cũng tìm được chúng, còn nếu chúng ở xa thì sự lồi lõm của địa hình sẽ che mất ánh lửa. Cái bình nguyên này có vẻ bằng phẳng nhưng thực ra đầy gò đống, lượn sóng như mặt đại dương. Thêm nữa, nếu đi lùi lại thì chúng mình bị mất thêm khả năng tìm ra dấu vết của bọn trẻ.
    - Anh hãy nói thẳng xem, không còn tí hi vọng nào nữa à?
    - Bạn thân yêu ơi, chúng ta là người lớn, mạnh khỏe và tháo vát, thế nhưng cậu hãy nghĩ thử xem chuyện gì sẽ xảy ra nếu như chúng mình chỉ có độc hai đứa rơi vào xứ này, cứ cho là có cả khí giới đi, nhưng không có lương thực và không có người nào khác...
    - Phải, phải, đáng buồn là đúng như vậy... Tôi hình dung ra cảnh hai đứa trẻ đi qua vùng hoang mạc trong một đêm như thế này.
    - Đói, khát, thú dữ...
    - Ấy thế mà thằng bé lại viết rằng chúng nó đã đi qua nhiều tháng ròng rã.
    - Thế nên trong chuyện này có cái gì đó vượt quá sức tưởng tượng của mình.
    Một hồi lâu trong lặng im chỉ nghe thấy tiếng thuốc lá đang ngún cháy trong nõ tẩu. Bá c sĩ nhìn đăm đăm vào bóng đêm nhợt nhạt, rồi hạ giọng nói:
    - Khuya rồi, nhưng tôi không thấy buồn ngủ...Cứ nghĩ rằng bọn trẻ còn sống, vẫn đang lang thang đâu đó trong ánh trăng, giữa những bụi thạch thảo khô khốc này... mỗi mình hai đứa... hai đứa trẻ con như thế. Anh có nhớ không, Glen, cái khuôn mặt đầy vẻ thiên thần của cô bé.
    - Nhớ chứ, mình không sao quên được.
    - Ôi! Tôi sẵn sàng để cho chặt tay mình giá như...
    Ông không nói hết câu, vì đại uý Glen bật dậy như bị bỏng.
    - Pháo hiệu ở phía xa! - Ông kêu lên. - Pháohiệu!
    - Pháo hiệu! - Bác sĩ lắp lại.
    - Có một đoàn người nào đó đang ở phía trướcchúng ta.
    - Có thể là họ đã tìm thấy bọn trẻ.
    - Có thể. Mau đến với họ đi!
    - Tiến lên!
    Nhữ ng mệnh lệnh của đại uý trong chớp mắt loan ra toàn trại. Những người Danbiba bật dậy.Nhữ ng ngọn đuốc được thắp sáng lên ngay. Để trả lời lại tín hiệu phía xa, ông Glen cho đốt liền mấy cái pháo hiệu, cái nọ tiếp theo cái kia, rồi sau đó cho bắn mấy loạt súng. Chưa đầy mươi lăm phút cả trại đã lên đường.
    Từ phía xa có những tiếng súng đáp lại. Không còn nghi ngờ gì nữa, rằng có một đoàn người Âu đang kêu gọi sự giúp đỡ vì một lí do chưa tường nào đó.
    Đại uý và bác sĩ thi nhau chạy, vừa hi vọng vừa phập phồng lo sợ. Họ có tìm thấy bọn trẻ hay không? Bác sĩ nhủ thầm trong bụng rằng nếu như không thì chắc hẳn trên con đường tiếp theo đó họ chỉ còn tìm thấy xác của chúng giữa những lùm thạch thảo kinh khủng này mà thôi.
    Nửa giờ sau, một cái gò nhô lên trong số nhữ ng chỗ lồi lõm được nói tới trên kia đã chắn mất tầm mắt của hai người bạn.
    Nhưng họ đã tới gần đến nỗi có thể nghe rõ tiếng vó ngựa. Chỉ mấy phút sau, trên sườn đồi đã hiện ra một kị sĩ đang ôm giữ trước mặt mình một vật gì đó to lớn màu trắng.
    - Giơ đuốc lên cao! - Glen ra lệnh.
    Đúng vào lúc đó người kị sĩ nọ dừng ngựa trong vùng ánh sáng.
    - Nước! Nước!
    - Bọn trẻ! - Bác sĩ Clery hét lên.
    - Nước! - Xtas lặp lại. Và em gần như ném Nen vào tay đại uý rồi nhảy xuống ngựa.
    Song ngay tức khắc em lảo đảo và ngã vật xuống như chết.

Chia sẻ trang này