1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

triệu chứng và cách điều trị bệnh hạ cam

Chủ đề trong 'Sức khoẻ - Y tế' bởi lienlien9xbg, 08/09/2015.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. lienlien9xbg

    lienlien9xbg Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/08/2015
    Bài viết:
    20
    Đã được thích:
    0
    cam là nhiễm trùng da hoặc niêm mạc sinh dục gây ra bởi Haemophilus ducreyi và được đặc trưng bởi các sẩn, viêm loét đau đớn, và sự mở rộng của các hạch bạch huyết bẹn dẫn đến suppuration. Chẩn đoán lâm sàng thường vì nuôi các sinh vật là khó khăn. Điều trị bằng một macrolide (azithromycin hoặc erythromycin), ceftriaxone, hoặc ciprofloxacin.
    Triệu chứng và dấu hiệu
    Sau một thời gian ủ bệnh 3-7 ngày, nhỏ, sẩn đau đớn xuất hiện và nhanh chóng phá vỡ thành nông cạn, mềm, loét đau đớn với rách rưới, cạnh suy yếu (tức là, với mô nhô ra) và một đường viền màu đỏ. Loét khác nhau về kích thước và thường kết lại. Xói mòn sâu hơn đôi khi dẫn đến sự phá hủy mô đáng kể. Các hạch bạch huyết bẹn trở nên mềm, mở rộng, và bện lại với nhau, tạo thành một áp xe chứa đầy mủ (bubo). Da trên áp-xe có thể trở nên đỏ và sáng bóng và có thể phá vỡ để tạo thành một xoang. Các nhiễm trùng có thể lây lan sang các khu vực khác của da, dẫn đến tổn thương mới. Hẹp bao quy đầu, niệu đạo hẹp, và niệu đạo lỗ rò có thể do hạ cam.
    Chẩn đoán
    Đánh giá lâm sàng
    Đôi khi văn hóa hay PCR
    Hạ cam bị nghi ngờ là ở những bệnh nhân có vết loét sinh dục không rõ nguyên nhân hoặc buboes (có thể nhầm với áp xe) và những người đã ở trong vùng dịch tễ. Loét sinh dục do các nguyên nhân khác (xem Bảng: Phân biệt thường lây truyền qua đường ******** sinh dục tổn thương) có thể giống với hạ cam.
    Nếu có sẵn, một mẫu mủ từ một mụt hạch hoặc dịch tiết từ các cạnh của một vết loét nên được gửi đến một phòng thí nghiệm có thể xác định H. ducreyi. Tuy nhiên, chẩn đoán thường dựa trên lâm sàng một mình vì văn hóa của vi khuẩn là rất khó và xác định vi được nhân lên bởi hệ thực vật hỗn hợp trong loét. Xét nghiệm PCR là không thương mại hóa, nhưng một số tổ chức đã được chứng nhận xét nghiệm có độ nhạy cao (98,4%) và cụ thể (99,6%) cho H. ducreyi. Chẩn đoán lâm sàng có độ nhạy thấp (53-95%) và độ đặc (41-75%).
    Xét nghiệm huyết thanh giang mai và HIV và các nền văn hóa cho herpes nên được thực hiện để loại trừ các nguyên nhân khác gây viêm loét sinh dục. Tuy nhiên, giải thích các kết quả xét nghiệm là phức tạp bởi thực tế là vết loét sinh dục do các điều kiện khác có thể đồng nhiễm H. ducreyi.
    Điều trị
    Thuốc kháng sinh (khác nhau)
    Điều trị nên được bắt đầu ngay lập tức, mà không cần chờ kết quả xét nghiệm. Một trong những điều sau đây được đề nghị:
    A-đơn liều azithromycin 1 g po hoặc ceftriaxone 250 mg IM
    Erthromycin 500 mg po qid trong 7 ngày
    Ciprofloxacin 500 mg thầu po trong 3 ngày
    Bệnh nhân điều trị các nguyên nhân khác của viêm loét sinh dục nên được dùng kháng sinh mà còn điều trị hạ cam nếu hạ cam bị nghi ngờ và thử nghiệm trong phòng thí nghiệm là không thực tế. Điều trị bệnh nhân đồng nhiễm HIV, đặc biệt là với các phác đồ đơn liều, có thể không có hiệu quả. Ở những bệnh nhân, viêm loét có thể yêu cầu lên đến 2 tuần để chữa lành, và sưng hạch có thể giải quyết chậm hơn.
    Buboes một cách an toàn có thể bị hít để chẩn đoán hoặc khắc vạch cho giảm triệu chứng nếu bệnh nhân cũng được cho kháng sinh có hiệu quả.
    Các đối tác ******** phải được kiểm tra, và bệnh nhân cần phải có một xét nghiệm huyết thanh giang mai và HIV trong 3 tháng.
    chi tiết xem tại website: http://phongkhamauviet.vn/

Chia sẻ trang này