1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trinh sát, thám báo, tình báo của miền Bắc - Một cái nhìn từ phía bên kia

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi mitanomini, 24/04/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. mitanomini

    mitanomini Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/02/2006
    Bài viết:
    467
    Đã được thích:
    0
    Trinh sát, thám báo, tình báo của miền Bắc - Một cái nhìn từ phía bên kia

    Bạn thân mến!
    Rất tiếc bài viết của bạn có thể có nội dung chưa phù hợp hoặc vượt ra ngoài nội qui của TTVNOnline. Nếu không có sự vi phạm, bài viết của bạn sẽ được hiển thị trở lại trong một thời gian ngắn.
    Mong bạn thông cảm và tiếp tục đóng góp xây dựng và phát triển TTVNOnline.
    Ban Quản trị TTVNOnline!​

    Chiến tranh Việt Nam - Cuộc so găng quyết liệt trên mặt trận tình báo

    Bài 1: Những cuộc ?okhảo sát? của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
    Thứ năm, 17/04/2008, 14:44 (GMT+7)
    Không chỉ Cục Tình báo trung ương (CIA), Cơ quan Quân báo quốc phòng (DIA) thuộc Lầu Năm góc, Cơ quan An ninh quốc gia (NSA) và Văn phòng Do thám quốc gia (NRO), Bộ Ngoại giao Mỹ cũng tham gia tình báo thời chiến tranh Việt Nam. Đây là một trong những bí mật dai dẳng và chỉ được công bố mới đây, dựa vào tài liệu giải mật được đăng trên website Cục Tàng thư quốc gia Hoa Kỳ. Cụ thể, Bộ Ngoại giao Mỹ làm gì trong cuộc chiến rình mò tại chiến trường Việt Nam?

    Nhiệm vụ đầu tàu của Bộ Ngoại giao Mỹ


    Trái sang: Ngoại trưởng Dean Rusk, Giám đốc INR Thomas L. Hughes và Phó Giám đốc Allan Evans

    Nghiên cứu tình báo Bộ Ngoại giao Mỹ thời chiến tranh Việt Nam được tiến hành từ Phòng Nghiên cứu tình báo (INR) thuộc cơ quan này. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ bắt đầu khảo sát chi tiết tình hình Việt Nam vào năm 1968, dưới chỉ đạo của Thomas L. Hughes, lúc đó là giám đốc INR.

    Bản nghiên cứu đề tựa A Review of Judgments in INR Reports (Khảo sát đánh giá các báo cáo INR) hoàn thành năm 1969 và vẫn là tài liệu tuyệt mật trong nhiều thập niên cho đến đầu năm 2005. Phần quan trọng nhất trong tài liệu là báo cáo tổng kết quan điểm Bộ Ngoại giao Mỹ về các chủ đề tình báo khác nhau suốt thập niên 1960, được trình bày bởi W. Dean Howells và Dorothy R. Avery (hai viên chức INR đặc trách Đông Nam Á).

    Cần nhấn mạnh, Bộ Ngoại giao là một trong những cơ quan quan trọng hàng đầu nội các Hoa Kỳ, nơi đóng vai trò hoạch định chính sách cũng như chiến lược đối ngoại. Trong các động thái đối với tình hình Việt Nam thời thập niên 1960, nhiệm vụ đầu tàu trong chiến lược đối sách của Bộ Ngoại giao Mỹ càng được tô đậm.

    Sau khi nhậm chức tổng thống, John F. Kennedy chỉ định Roger A. Hilsman làm giám đốc INR. Chủ trương biến INR thành bộ máy hoạch định chính sách, Hilsman kích hoạt loạt thay đổi trong Bộ Ngoại giao. Kennedy tin cậy Hilsman đến mức thường tham khảo ý kiến nhân vật này hơn cả Ngoại trưởng Dean Rusk.

    Khi vụ khủng hoảng tên lửa Cuba xảy ra năm 1962, Hilsman đóng vai trò quan trọng trong điều phối tình báo cũng như tổ chức loạt cuộc họp giữa Kennedy và EXCOM (Ủy ban Điều hành thuộc Hội đồng An ninh quốc gia Hoa Kỳ).

    Từng là cựu binh Thế chiến thứ hai tại Myanmar (khi làm việc cho OSS - tiền thân CIA), Hilsman rành rẽ các thủ thuật của chiến tranh bất quy ước, phù hợp với quan điểm Kennedy về chiến tranh chống du kích tại Việt Nam. Hilsman thậm chí còn soạn cẩm nang đầu tiên về phương pháp chống chiến tranh du kích được phân phát cho quân đội Mỹ, trong đó ghi rõ cách thức đối phó cuộc chiến tranh nhân dân chống Ngô Đình Diệm tại Nam Việt Nam. Nói cách khác, Hilsman đã đặt nền tảng cho cuộc chiến tình báo của Bộ Ngoại giao Mỹ tại Việt Nam.

    INR chỉ khoảng 350 nhân viên, được phân thành hai nhóm chính - nhóm liên lạc và nhóm phân tích thông tin tình báo. Nhóm liên lạc có nhiệm vụ điều phối và hợp tác với các cơ quan liên quan tình báo khác, giúp ngoại trưởng quyết định chính sách như thế nào đối với các đề nghị từ CIA cho những chiến dịch đặc biệt.

    Trong khi đó, nhóm phân tích làm việc chặt chẽ với các tuyến tình báo mặt trận (chẳng hạn Phòng Nghiên cứu Liên Xô, nơi thu thập thông tin tình báo liên quan Xô Viết và hệ thống vệ tinh do thám Đông Âu). Với cuộc chiến Việt Nam, nhóm phân tích INR làm việc cùng Phòng Viễn Đông (RFE), nơi có các chuyên gia phân tích tình báo lão luyện.

    Từ năm 1962-1966, RFE nằm dưới sự chỉ đạo của Allen S. Whiting, một tay tổ trong làng phân tích tình báo, từng nổi tiếng với công trình nghiên cứu China Crosses the Yalu (viết về những thất bại nghiêm trọng trong chính sách và tình báo thời chiến tranh Triều Tiên).

    Khi được Hilsman cất nhắc ở vị trí sếp RFE, Whiting tuyển dụng (cô) Evelyn Colbert làm trưởng chi nhánh văn phòng Viễn Đông. Là một bản sao của Hilsman, Colbert 43 tuổi đã trở thành thế hệ phân tích gia (về tình báo) đầu tiên tại cuộc chiến Việt Nam.

    Trong khi Colbert đặc trách thông tin tình báo Nam Việt Nam, một nữ nhân viên RFE khác - Dorothy Avery - được giao nhiệm vụ nghiên cứu thông tin tình báo Bắc Việt. Dorothy Avery có bằng thạc sĩ Đông Á học tại Đại học Harvard, từng được CIA thuê thực hiện các công trình phân tích về cộng sản Trung Quốc. Ngoài ra, RFE còn có Louis G. Sarris, được giao nhiệm vụ khảo sát Việt Nam không lâu sau chuyến công lý sang Mỹ của Ngô Đình Diệm.

    Phác họa chính sách

    Trong năm đầu tiên Kennedy ở ghế tổng thống, INR đóng vai trò quan trọng trong phác họa chính sách và tiếp tục khẳng định rằng Nam Việt Nam còn có một số gương mặt khác có thể thay Diệm; rằng vấn đề khó khăn của Mỹ ở Nam Việt Nam xuất phát chủ yếu từ chương trình viện trợ vô bổ của Washington; rằng sức mạnh của Mặt trận giải phóng miền Nam khởi nguồn từ các làng quê Nam Việt Nam chứ không phải do sự trà trộn của bộ đội miền Bắc.

    Sau chuyến thị sát thực tế của tướng Maxwell D. Taylor và phó cố vấn an ninh quốc gia Walt W. Rostow, INR tung ra báo cáo, ghi: ?oĐiểm yếu cơ bản trong kế sách chống chiến tranh du kích (của Mỹ) là quan điểm phổ biến (từ Washington) rằng cuộc khủng hoảng Việt Nam có thể giải quyết thuần túy bằng viện trợ ào ạt?.

    Tháng 1-1962, Kennedy yêu cầu Hilsman sang Nam Việt Nam. Viên giám đốc INR nhận thấy nỗ lực chống chiến tranh du kích bằng biện pháp quân sự là không đủ; đồng thời ủng hộ ý tưởng ấp chiến lược (sau chuyến đi, Hilsman đệ trình Kennedy báo cáo A Strategic Concept for South Vietnam). Mùa xuân 1963, Kennedy bổ nhiệm Hilsman làm trợ lý ngoại trưởng đặc trách các vấn đề Viễn Đông. Ghế giám đốc INR được giao cho Thomas L. Hughes.
    Bài 2: CIA và đường mòn Hồ Chí Minh

    Phúc Cẩm




    http://www.sggp.org.vn/hosotulieu/2008/4/149488/


    Được mitanomini sửa chữa / chuyển vào 20:06 ngày 24/04/2008
  2. mitanomini

    mitanomini Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/02/2006
    Bài viết:
    467
    Đã được thích:
    0
    Bài 2: CIA và đường mòn Hồ Chí Minh
    Thứ sáu, 18/04/2008, 15:43 (GMT+7)
    Ngày 22-10-1963, INR (Phòng Nghiên cứu tình báo thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ) tung ra báo cáo Statistics on the War Effort in South Vietnam Show Unfavorable Trends (Thống kê về nỗ lực chiến tranh tại Nam Việt Nam cho thấy những khuynh hướng bất lợi). Báo cáo đã gây nên làn sóng chống đối dữ dội tại nhiều cơ quan Chính phủ Mỹ.
    Ban tham mưu Lầu Năm Góc chỉ trích mạnh báo cáo, cho rằng chuyên gia INR không đủ kinh nghiệm để bàn về cuộc chiến ?ođang thắng lợi? tại Nam Việt Nam của Mỹ...
    Nội bộ cộng đồng tình báo Mỹ mâu thuẫn
    Bộ trưởng Quốc phòng Robert S. McNamara tất nhiên ?orủa? báo cáo của INR không tiếc lời. Ngoại trưởng Dean Rusk buộc phải gọi sếp INR Thomas L. Hughes vào văn phòng và đề nghị không tiếp tục làm nản lòng Lầu Năm Góc về viễn cảnh chiến thắng tại Nam Việt Nam (bản thân Rusk ủng hộ chính sách mạnh tay trong cuộc chiến chống cộng tại Đông Nam Á).

    Ngô Đình Diệm và Tổng thống Eisenhower

    Đến thời Tổng thống Lyndon B. Johnson, tình hình Việt Nam diễn biến ngày càng phức tạp. INR đã sai khi đánh giá thấp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cho đến sự kiện Vịnh Bắc bộ vào tháng 8-1964, không có bất kỳ nhận định tình báo nào của Mỹ cho thấy Hà Nội sẽ đưa quân vào miền Nam.
    Tình báo Mỹ tin rằng Bắc Việt không dám đụng độ trực tiếp với quân đội Mỹ (mà thay vào đó chỉ ủng hộ Mặt trận giải phóng miền Nam) và Washington cũng không dám mạnh tay với Hà Nội do e ngại Bắc Kinh và Moscow vào cuộc (trong khi sếp CIA John McCone liên tục yêu cầu Lyndon B. Johnson dội bom Hà Nội, INR cũng liên tiếp cảnh báo khả năng Trung Quốc chính thức đưa quân sang ủng hộ Bắc Việt Nam).
    Trong một hội thảo năm 1991, nguyên Giám đốc INR Thomas L. Hughes đã nhắc lại mâu thuẫn trong nội bộ cộng đồng tình báo Mỹ về các phân tích tình hình chiến trường Việt Nam.
    Năm 1966, tình báo Mỹ vẫn không nắm chính xác tỷ lệ quân đội Bắc Việt tại Nam Việt Nam cũng như lực lượng vũ trang Mặt trận giải phóng miền Nam.
    Cựu viên chức INR Louis Sarris cho biết cơ quan mình thường xuyên bị ?ođe dọa? từ Lầu Năm Góc, đặc biệt xung đột với các ý kiến xung quanh đánh giá thực lực nội các Sài Gòn.
    Cụ thể một trường hợp: Trong khi Ban cố vấn quân sự Hoa Kỳ (MACV) tin tưởng (thủ tướng chính quyền Sài Gòn) Nguyễn Cao Kỳ, báo cáo INR cho biết Kỳ đã dùng lực lượng cảnh sát quốc gia - nằm dưới chỉ huy của đồng minh Nguyễn Ngọc Loan, theo cách như Ngô Đình Diệm dùng đảng Cần lao - cốt để củng cố chiến thắng trong cuộc bầu cử 1966.
    Trong khi tư lệnh trưởng MACV William C. Westmoreland có mặt tại Washington giục Nhà Trắng đổ thêm bom vào Việt Nam thì Louis Sarris trong chuyến kinh lý Sài Gòn đã được tướng Fred Weyand tâm sự: ?oTôi chẳng thể hiểu cái mà ông Westmoreland nói về ánh sáng cuối đường hầm là cái quái quỷ gì. Chúng tôi có thể bị tấn công bất cứ lúc nào và chúng tôi không bao giờ biết kẻ thù xuất hiện từ đâu?.
    Điều này cuối cùng đã xảy ra vào Tết Mậu Thân 1968. Như tất cả cơ quan tình báo Mỹ, INR hoàn toàn bất ngờ trước sự kiện ?o*********? tấn công Sài Gòn. INR đã rơi vào bẫy khi tin rằng Bắc Việt chỉ đột kích căn cứ quân sự Mỹ tại Khe Sanh.
    10 ngày trước sự kiện Mậu Thân, INR thật ra đã phân tích một thông tin tình báo cho thấy loạt tấn công nhỏ của Bắc Việt nhằm lôi kéo sự chú ý và giãn độ tập trung của quân đội Mỹ tại các thành phố lớn?
    Cuối cùng, với sự leo thang nghiêm trọng trong cuộc chiến Việt Nam thời Nixon, INR dần bị bỏ rơi như một đứa con ghẻ trong làng tình báo Mỹ?
    Thất bại ?ongoạn mục? của quân báo Mỹ-ngụy
    Đầu thập niên 1960, với chuẩn y của Tổng thống John F. Kennedy, CIA bắt đầu mở chiến dịch bí mật - phối hợp với đặc nhiệm Việt Nam Cộng hòa (VNCH) của chế độ Ngô Đình Diệm - tổ chức liên tiếp phá rối đường mòn Hồ Chí Minh.
    Sẽ có những vụ cài mìn phá vỡ hàng loạt căn cứ của ?ocộng quân?, sẽ có những màn đặc nhiệm Mỹ ?okhứa cổ *********? lạnh xương sống như trong phim Hollywood, sẽ có những họng súng bắn tỉa đen ngòm chĩa từ bụi rậm khĩa phát nào trúng phát nấy? Hoàn toàn không!
    Hai tác giả Ken Conboy và James Morrison trong bài viết trên nguyệt san Vietnam (của cựu binh Mỹ) đã tiết lộ thất bại ?ongoạn mục? của quân báo Mỹ-ngụy trong những ngày đầu tổ chức đánh phá đường mòn Hồ Chí Minh như thế nào?
    Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, biên giới Lào trở thành điểm quan trọng cho các cuộc vận chuyển binh lực bộ đội Việt Nam. Quân báo Mỹ lẫn tình báo VNCH biết rõ điều này.
    Chính quyền Ngô Đình Diệm từng thương lượng với Chính phủ Hoàng gia Lào cho quân VNCH trà trộn vào vùng và cải trang làm lính Hoàng gia Lào. Đến cuối năm 1959, một đồn lính VNCH đã được lập tại làng Ban Houei Sane (Lào).
    Tháng 8-1960, đại úy Kong Le đánh chiếm thủ đô Vientiene và tuyên bố Lào là quốc gia trung lập. Sự kiện này tạo ra tình huống khá phức tạp.
    Lực lượng cánh hữu tập trung tại Nam Lào lập kế hoạch tái chiếm quyền lực (ủng hộ Hoàng gia Lào); trong khi thành phần cộng sản Lào (Pathet Lao) lại nghiêng về Kong Le.
    Khi bạo động bùng lên khắp Lào vào tháng 1-1961, Tiểu đoàn 12 bộ binh Hoàng gia Lào - vốn cát cứ ở vài điểm phòng thủ tại Tchepone - bắt đầu chuyển sang phía Tây để đến thị trấn Thakhek nằm ở bờ Mekong và sau đó thành lập Tiểu đoàn tình nguyện 33 (BV 33).
    Với loạt chiến dịch thành công của bộ đội Việt Nam tại khu vực giáp giới cũng như vùng Tây Nguyên, quân đội VNCH hối Diệm hỗ trợ lính Hoàng gia Lào tái chiếm Tchepone....
    Bài 3: Thảm bại tại Lào!
    Phúc Cẩm

  3. mitanomini

    mitanomini Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/02/2006
    Bài viết:
    467
    Đã được thích:
    0
    Bạn thân mến!
    Rất tiếc bài viết của bạn có thể có nội dung chưa phù hợp hoặc vượt ra ngoài nội qui của TTVNOnline. Nếu không có sự vi phạm, bài viết của bạn sẽ được hiển thị trở lại trong một thời gian ngắn.
    Mong bạn thông cảm và tiếp tục đóng góp xây dựng và phát triển TTVNOnline.
    Ban Quản trị TTVNOnline!​
    Bài 3: Thảm bại tại Lào!
    Thứ bảy, 19/04/2008, 15:52 (GMT+7)
    Với loạt chiến dịch thành công của bộ đội Việt Nam tại khu vực giáp giới cũng như vùng Tây Nguyên, quân đội VNCH hối Diệm hỗ trợ lính Hoàng gia Lào tái chiếm Xê phôn. Tuy nhiên, Diệm từ chối và thay vào đó yêu cầu ủng hộ BV 33. Nhóm đặc nhiệm thuộc Sư đoàn 1 bộ binh VNCH - cùng hỗ trợ của Nhóm quan sát thứ nhất (OG I) - bắt đầu lẻn vào Lào...
    Màn ra mắt đầu tiên thất bại
    OG I không là thành phần ?oquan sát viên quốc tế? nào hết mà chính là phân nhánh của Văn phòng liên lạc tổng thống (Presidential Liaison Office - PLO), có nhiệm vụ giám sát và báo cáo tình hình Việt Nam nói riêng và khu vực Đông Dương nói chung cho riêng John F. Kennedy.

    Máy bay CIA tại Lào

    Đầu tiên được biết đến với tên ?oPhân khu 6? thời chiến tranh Đông Dương, PLO hình thành như một văn phòng phản gián của Mỹ tại khu vực. Sau khi được giao lại cho VNCH, PLO nằm dưới sự chỉ huy của trung tướng ngụy Lê Quang Tung.
    Hè năm 1957, 54 lính PLO trải qua khóa huấn luyện 4 tháng tại Nha Trang với hướng dẫn của một toán đặc nhiệm bộ binh Mỹ (U.S. Army Special Forces). Sau 4 khóa tuyển mộ và huấn luyện (mỗi khóa cho tốt nghiệp khoảng 50 người), PLO chia thành các đội 15 thành viên. Mỗi đội được chỉ định nằm vùng ở địa điểm cụ thể nào đó tại khu vực biên giới với nhiệm vụ quậy phá và tấn công du kích vào lực lượng bộ đội Việt Nam.
    Ngày 6-5-1961, nội các John F. Kennedy chính thức chuẩn y chương trình tuyệt mật đánh phá biên giới Lào (đường mòn Hồ Chí Minh). Chiến dịch được trợ giúp của Phân đoàn nghiên cứu hỗn hợp (CSD - gồm một nhóm CIA nằm trá hình trong sứ quán Mỹ tại Sài Gòn, với chỉ huy trưởng là đại tá Gilbert Layton).
    Cùng thiếu tá ngụy Trần Khắc Kinh (chỉ huy phó PLO), Layton lập kịch bản ?oThunder shower? (Lôi vũ) mà sau này được biết đến với cái tên ?oTyphoon? (Bão dữ). Để đảm bảo kế hoạch vẹn toàn, Kinh còn tuyển một số lính từ Sư đoàn 22 bộ binh (đóng ở Kon Tum). Số lính này được đưa về Trường Sĩ quan Thủ Đức để trải qua khóa huấn luyện cận chiến.
    Sau khi tốt nghiệp, nhóm này được đặt tên là Đại đội 1 không kỵ Ranger, nằm dưới sự chỉ huy của đại úy Lương Văn Hối (từng có mặt trong lực lượng Pháp thời chiến tranh Đông Dương). Tiếp đó, Kinh thành lập Đại đội 2 không kỵ Ranger. Cùng hai đại đội này, Kinh tung lực lượng tình báo đến đường mòn Hồ Chí Minh vào tháng 8-1961. Từ máy bay Douglas C-47, đám quân báo nhảy dù xuống Lào.
    Sau gần 3 tháng, các toán quân báo VNCH tái hợp và cùng bí mật tản đến khu vực giáp giới. Tháng 11-1961, khi mò về sân bay Attopeu để lấy lương thực, một nhóm quân báo VNCH bị bộ đội Việt Nam phát hiện và tấn công. Kinh liên lạc quân đội Hoàng gia Lào, xin cứu viện. Tuy nhiên, chẳng ai dám mạo hiểm vào địa thế hiểm trở và thay vào đó không quân Hoàng gia Lào dội bom xuống khu vực. Trong cơn hoảng loạn, ba lính quân báo VNCH phóng vào rừng trốn. Nhận được tin, chỉ huy trưởng Attopeu - đại tá Khong Vongnarath - ra lệnh ngưng bỏ bom và phái hai đại đội tìm lính quân báo VNCH?
    Thiên bất dung gian
    Sau màn ra mắt đầu tiên thất bại, PLO tung ra Toán 5 dưới chỉ huy của Nguyễn Ngọc Giang vào khu vực. ?oThiên bất dung gian?, chiếc máy bay tiên phong của Giang lạc tay lái va vào lùm cây to, Giang phải liều mình phóng xuống để tự cứu mạng. Hậu quả, Giang gãy cả hai chân.
    Một giờ sau, lính của Giang mới nhảy dù xuống và loay hoay cả tiếng mới tìm được sếp. Khi thấy đồng đội, Giang quát tháo nhặng xị và sau đó rút súng toan tự tử! Đám lính tước súng Giang và điện về Sài Gòn xin giải cứu khẩn cấp. Một lần nữa, Kinh lại không tuân thủ quy định CIA, bí mật phái một trực thăng H-34 đến hiện trường, với hỗ trợ của hai chiến đấu cơ Douglas A-1. Đích thân Kinh chỉ huy chiến dịch, từ chiếc C-47.
    Tuy nhiên, không lâu sau khi hai chiếc Douglas A-1 khởi hành từ Đà Nẵng, họ mất liên lạc với nhóm Giang. Không biết làm gì hơn, chiến dịch giải cứu hủy bỏ (sau này mới biết hai chiếc Douglas A-1 đã đâm vào núi). Tuyệt vọng, nhóm Giang lần mò trong rừng tìm đường về. Ngày 10-12-1961, cả nhóm đã bị bắt?
    Kế hoạch đánh phá đường mòn Hồ Chí Minh tiếp tục được CIA yêu cầu VNCH thực hiện (trước đó, tháng 7-1961, một sĩ quan OG I thân chinh ra trận cũng đã bị thộp sau khi máy bay bị bắn rơi). Sau nhiều lần xôi hỏng bỏng không, lực lượng đặc nhiệm VNCH đổi tên thành Nhóm 77 (đặt theo sự kiện ngày 7-7-1954, khi Diệm chính thức lên ghế tổng thống) và chỉ huy Bùi Thế Minh được thay bằng thiếu tá Phạm Văn Phú.
    Là tiểu đoàn phó không kỵ đầu tiên trong hàng ngũ quân ngụy thời Pháp, Phú từng nhảy dù xuống Điện Biên Phủ năm 1954 và bị bắt làm tù binh. Sợ Phú bị ?otẩy não? sau khi được ********* thả, quân đội VNCH đã xếp Phú vào thành phần bị theo dõi chặt chẽ.
    Tuy nhiên, với nhiều lần chứng minh lòng trung thành, Phú được giao ghế chỉ huy Nhóm 77. Theo yêu cầu của Phú, nhóm quân báo - đặc nhiệm VNCH được mở rộng, thêm Đại đội 3 và Đại đội 4 Ranger. Đại đội 4 gồm đa số thành phần Thiên Chúa giáo tình nguyện, được tuyển mộ từ sự giúp đỡ của linh mục Mai Ngọc Khuê. Đại đội trưởng Đại đội 4 Ranger là trung úy Trần Khắc Khiêm (em ruột Kinh).
    Đầu năm 1962, chiến dịch Typhoon ?ophiên bản cập nhật? được tiến hành. Tiến vào Lào từ Lao Bảo, Đại đội 1 Ranger lẻn đến Muong Nong. Dự kiến nằm phục tại đây bốn tuần chờ quân báo nhảy dù xuống hỗ trợ, Đại đội 1 Ranger bất ngờ bị tấn công và thiệt mạng 4 người. Không còn cách nào khác, họ thu binh trở về Lao Bảo.
    Giữa năm 1962, lực lượng Typhoon mở thêm vài chiến dịch thâm nhập nữa. Tuy nhiên, tháng 10-1962, khi một hiệp định quốc tế có hiệu lực tại Lào (yêu cầu tất cả lực lượng quân đội nước ngoài rút khỏi nước này), chiến dịch Typhoon bị ách lại. Tổng cộng, quân báo VNCH đã thực hiện 41 đợt thâm nhập biên giới Lào cũng như dọc đường mòn Hồ Chí Minh trong thời gian đầu thập niên 1960 và không chiến dịch nào đem lại ?ocơm cháo? gì! .
    ______
    Bài 4: Chiến dịch mang mật danh Arc Light
    Phúc Cẩm

  4. mitanomini

    mitanomini Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/02/2006
    Bài viết:
    467
    Đã được thích:
    0

    Bạn thân mến!
    Rất tiếc bài viết của bạn có thể có nội dung chưa phù hợp hoặc vượt ra ngoài nội qui của TTVNOnline. Nếu không có sự vi phạm, bài viết của bạn sẽ được hiển thị trở lại trong một thời gian ngắn.
    Mong bạn thông cảm và tiếp tục đóng góp xây dựng và phát triển TTVNOnline.
    Ban Quản trị TTVNOnline!​
    Bài 4: Chiến dịch mang mật danh Arc Light
    Chủ nhật, 20/04/2008, 15:09 (GMT+7)
    Ngày 18-6-1965, trên đường băng căn cứ không quân Guam, 27 chiếc pháo đài bay B-52 đậu nối đuôi nhau. Quang cảnh trông lạnh tóc gáy. Chúng chuẩn bị lên đường, cho chiến dịch mang mật danh Arc Light với loạt mục tiêu là căn cứ tại Việt Nam?
    Đột nhập hệ thống mã khóa NSA?

    Chuyên gia NSA tại Sài Gòn
    Không lâu sau sự kiện vịnh Bắc bộ (tháng 8-1964), một tàu đánh cá Liên Xô tên Izmeritel xuất hiện ngoài khơi Apra (cảng chính của Guam). Chẳng ngư dân nào trong vùng biết rằng Izmeritel được trang bị thiết bị bắt sóng, tại một vùng mà Guam đã trở thành một trong những trung tâm liên lạc chủ yếu của hải quân Mỹ ở Đông Nam Á và là bãi phóng của B-52 vào Việt Nam.
    Không lâu sau khi chiến dịch Arc Light tiến hành, bộ chỉ huy quân đội Mỹ tại Guam bắt đầu nhận ra rằng nhiều đợt oanh tạc B-52 đã mất tính bất ngờ và phải mất hơn một năm họ mới hiểu tại sao. Hóa ra hầu hết thông tin liên quan Arc Light đã bị Izmeritel bắt được và thậm chí xác định số hiệu máy bay B-52 để cung cấp cho quân báo miền Bắc Việt Nam.
    Rõ ràng, quân báo Mỹ đã thất bại trong cuộc chiến mật mã, theo cùng cách như Đức-Nhật thất bại trong Thế chiến thứ hai. Với trợ giúp của tình báo Liên Xô, quân báo miền Bắc Việt Nam đã đột nhập thành công vào hệ thống mã khóa an toàn nhất của Cơ quan an ninh quốc gia Hoa Kỳ (NSA), ?ohốt? được vô số thông tin như trước kia NSA từng phá được bộ mã Enigma của Đức và Purple của Nhật trong Thế chiến thứ hai.
    Ngay từ những ngày đầu cuộc chiến, tướng lĩnh Mỹ đều tin tưởng tuyệt đối về thế mạnh trên chân của kỹ thuật quân sự mình. Họ tin rằng lực lượng quân sự miền Bắc Việt Nam và du kích ?otầm vông vạt nhọn? không bao giờ có thể hiểu mô tê gì về hệ thống mật mã phức tạp của NSA?
    Ngày 8-3-1965, hai tiểu đoàn thủy quân lục chiến đổ bộ vào Đà Nẵng - lực lượng quân bộ chính thức đầu tiên được đưa vào chiến trường Việt Nam (đến cuối năm, số lính Mỹ tại Việt Nam đã tăng lên gần 200.000 người). Sau thời gian ngắn im lặng, quân đội Việt Nam lại tổ chức tấn công dữ dội khắp Nam Việt Nam từ ngày 11-5-1965. Hơn 1.000 quân đội Việt Nam đã tràn vào Sông Bé từ ngả Campuchia.
    Để ?okhóa cửa? Campuchia, NSA quyết định đưa tàu USS Oxford sang Việt Nam, trở thành chiếc tàu quân báo đầu tiên bước vào chiến trường Việt Nam. Tất cả chi tiết liên quan việc đưa USS Oxford sang Việt Nam đều là thông tin tuyệt mật.
    Thử xem một chi tiết nhỏ để thấy việc NSA nỗ lực giấu hành tung USS Oxford như thế nào. Đó là chuyến công tác được chỉ định của sĩ quan quân báo John De Chene. Từ California, Chene đến vịnh Subic (Philippines). Khi đến đây, Chene được thông báo USS Oxford thật ra ở Yokosuka (Nhật). Chene lại đáp máy bay sang Yokosuka. Tại đó, Chene được báo USS Oxford đang neo tại Sài Gòn. Đến Sài Gòn, nghe nói USS Oxford ở Subic, Chene lại trở sang Philippines. Đến lúc đó, nhóm Chene được thông báo đến cảng Sasebo (Nhật). Lần này, quả thật USS Oxford đậu ở Sasebo (!)?
    USS Oxford bắt đầu ?olàm việc?
    Sau khi nhận đủ quân số, USS Oxford khởi hành đến khu vực Phú Quốc và bắt đầu ?olàm việc?. Ít lâu sau, NSA phái thêm tàu quân báo USS Jamestown (còn được gọi là Jimmy-T), lảng vảng ở biển Đông, gần châu thổ Cửu Long. Trang bị cho USS Oxford lẫn USS Jamestown là máy bắt sóng đa kênh KG-14 siêu mạnh cùng đội ngũ nhân viên NSA rành tiếng Thái, Miên, Tàu, Nga, Việt và thậm chí ngôn ngữ Tagalog (tiếng bản ngữ Philippines).
    Một trong những sứ mạng quan trọng của USS Oxford là nghe lén Hội nghị thượng đỉnh tổ chức tại Manila (gồm Australia, Nam Hàn, Philippines, New Zealand, VNCH, Thái Lan và Mỹ), diễn ra từ ngày 23 đến 27-10-1966, nhờ đó có thể nắm được động thủ các bên tham gia thương lượng và thậm chí biết được - theo lời kể John De Chene - về âm mưu ám sát Tổng thống Lyndon B. Johnson, Tổng thống Ferdinand Marcos và Nguyễn Cao Kỳ.
    Cuối năm 1967, NSA đã đặt Việt Nam dưới ống kính hiển vi khổng lồ của mình. Các chuyên gia tình báo tín hiệu (SIGINT, viết tắt từ Signal Intelligence) của NSA thậm chí quét (scan) tất cả tờ báo ấn hành tại miền Bắc Việt Nam để hy vọng tìm vài bức ảnh chụp thiết bị truyền tin.
    Về lý thuyết, gần như không tín hiệu liên lạc nào của miền Bắc Việt Nam có thể thoát khỏi hệ thống nghe lén của quân báo Mỹ, từ cột ăng-ten gắn trên chiếc xe jeep lội ruộng ở đồng bằng Cửu Long đến hệ thống bắt sóng nằm dưới bụng máy bay do thám Blackbird bay trên bầu trời Hà Nội ở độ cao 15 dặm với vận tốc gấp ba vận tốc âm thanh. Dù vậy, tất cả tín hiệu bắt trộm đều vô dụng nếu không có phân tích xác đáng và tất cả phân tích đều vô dụng nếu tướng lĩnh không đánh giá xác đáng. Điều đó đã xảy ra trong bộ máy quân sự Mỹ tại Việt Nam.
    Theo nguyên tắc, khi bắt được tín hiệu liên lạc miền Bắc Việt Nam, bộ phận giải mã NSA sẽ phá mã, dịch và phân tích thành dữ liệu. Báo cáo sau đó được chuyển đến CIA và Bộ tư lệnh hỗ trợ quân sự Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam (MACV, dưới chỉ huy của tướng William C. Westmoreland). Tiếp đó, nhóm phân tích MACV sẽ hệ thống hóa và ấn hành trong các tài liệu nội bộ Báo cáo cập nhật tình báo hàng tuần và Báo cáo tóm tắt tình báo hàng ngày. Tuy nhiên, MACV không tin 100% vào dữ liệu NSA, đặc biệt ở phân tích về quân số quân đội Việt Nam.
    ---------------------
    Bài 5: Hệ thống vô tuyến tuyệt mật
    Phúc Cẩm

  5. mitanomini

    mitanomini Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/02/2006
    Bài viết:
    467
    Đã được thích:
    0

    Bạn thân mến!
    Rất tiếc bài viết của bạn có thể có nội dung chưa phù hợp hoặc vượt ra ngoài nội qui của TTVNOnline. Nếu không có sự vi phạm, bài viết của bạn sẽ được hiển thị trở lại trong một thời gian ngắn.
    Mong bạn thông cảm và tiếp tục đóng góp xây dựng và phát triển TTVNOnline.
    Ban Quản trị TTVNOnline!​

    Bài 5: Hệ thống vô tuyến tuyệt mật
    Thứ hai, 21/04/2008, 15:31 (GMT+7)
    Trong khi Westmoreland không bao giờ tin quân đội miền Bắc Việt Nam vượt quá 298.000 người, thông tin Cơ quan An ninh quốc gia (NSA) cho biết lực lượng này có thể lên đến 420.000-431.000 người. Sự khác biệt trong đánh giá thực lực đối phương khiến Giám đốc CIA Richard Helms từng nổi cáu và phái phân tích viên CIA, NSA lẫn Cơ quan Tình báo quốc phòng (DIA) sang Sài Gòn để làm việc với Westmoreland.
    Sự kiện ?oMậu Thân thứ hai? tại Quảng Trị
    Trong cùng thời gian, NSA cũng nhận được thông tin về sự chuyển quân số lượng lớn của bộ đội miền Bắc Việt Nam với khả năng tổ chức một cuộc tổng tấn công. Ngày 17-1-1968, NSA tung ra báo cáo về khả năng tấn công của miền Bắc Việt Nam tại loạt thành phố lớn ở miền Trung và Đông Nam bộ.
    Dù được thông báo có tảng băng to trước mặt nhưng Westmoreland vẫn cho tàu tiến tới, với niềm tin rằng con tàu khổng lồ của mình không thể bị đánh chìm. Hậu quả, ?ocộng quân? đã tiến vào Sài Gòn, trong chiến dịch Mậu Thân, làm thiệt mạng ít nhất 4.000 lính Mỹ.

    Ngày 27-1-1973, 15 phút trước khi Hiệp định Paris có hiệu lực, tàu USS Turner Joy lặng lẽ rút khỏi Việt Nam

    Cần nói thêm, ở thời điểm đó, lực lượng NSA tại Nam Việt Nam đã lên đến 95.000 người (!), gấp 5 lần cơ số CIA (chưa kể khoảng 10.000 nhân viên NSA khắp Đông Nam Á).
    Đầu năm 1972, NSA tiến hành chiến dịch Explorer với hệ thống hầm ngầm tại sát khu vực phi quân sự (DMZ). Một trong những hầm ngầm như vậy, mật danh A-4, đặt tại vùng núi gần Cồn Tiên (Quảng Trị).
    A-4 là trạm nghe lén nằm sát khu vực kiểm soát miền Bắc Việt Nam nhất của NSA. Boongke ngầm của nó chứa 7 nhân viên (5 người làm việc, 2 người ngủ; tiếp đó đổi ca). Tháng 3-1972, Quảng Trị trở thành chiến trường đỏ lửa.
    Trận mưa đạn cối 122 ly của lính miền Bắc Việt Nam liên tục dội xuống khu vực. Một trong những quả pháo như vậy đã phóng trúng A-4, làm chết tức thì hai nhân viên NSA và boongke A-4 trở thành lò thiêu khi nó cháy liên tục trong nhiều ngày.
    Tất cả nhân viên NSA liên quan chiến dịch Explorer được lệnh tiêu hủy thiết bị, đặc biệt các đĩa nhiệt nhôm chứa dữ liệu (mà muốn hủy, phải dùng nhiệt điện nung cháy ở 19.400oC). Vài ngày sau sự kiện ?oMậu Thân thứ hai? tại Quảng Trị, NSA đã xóa sạch dấu vết. 7g45 sáng 27-1-1973, 15 phút trước khi hiệp định ngừng bắn có hiệu lực, tàu USS Turner Joy lặng lẽ rút khỏi Việt Nam. Với NSA, cuộc chiến đã kết thúc và Mỹ đã thua.
    CIA tăng cường chiến dịch đột nhập
    Trong phiên họp Hội đồng An ninh quốc gia ngày 29-4-1961, Tổng thống John F. Kennedy đã chuẩn y việc Cơ quan An ninh quốc gia Hoa Kỳ (NSA) hỗ trợ lực lượng quân báo Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Thời điểm đó, sự chia sẻ thông tin tình báo với nước ngoài còn là điều bất thường đối với ngành an ninh-tình báo Mỹ.
    Phó đô đốc Lawrence H. Frost - giám đốc NSA - đã ra lệnh Cục An ninh quân đội (ASA) lập tức triển khai kế hoạch. Vài tuần sau, Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA lên đường sang Nam Việt Nam. Ngày 13-5-1961, những đôi giày bóng lộn của 93 sĩ quan quân báo Mỹ đã bước ra khỏi chiếc C-130 đỗ tại phi trường Tân Sơn Nhất.
    Xác định vị trí tình nghi đóng quân của du kích Việt Nam là một trong những nhiệm vụ của Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA. Ngoài ra, còn có chiến dịch White Birch gồm nghe lén và chiến dịch thứ ba - Sabertooth - gồm huấn luyện quân báo VNCH kỹ thuật gián điệp hậu tuyến cũng như giải mã.
    Căn cứ Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA (còn gọi là Đơn vị nghiên cứu vô tuyến thứ ba) nằm trong một nhà chứa máy bay cũ tại Tân Sơn Nhất, nóng hầm hập và ngột ngạt (trong khi đó, sếp Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA được ?obố trí? ở tại khách sạn Majestic).
    Trong 7 tháng, lực lượng quân báo Mỹ tại Nam Việt Nam tăng hơn gấp đôi. Đến tháng 12-1961, lực lượng này đã lên đến 236 người, nằm rải rác tại 18 vị trí nghe lén, trong đó có điểm nghe lén và bắt tín hiệu quân báo miền Bắc Việt Nam đặt tại Phú Bài, gần khu vực phi quân sự (DMZ).
    Công việc của quân báo Mỹ nguy hiểm không kém lính tác chiến, đặc biệt tại một chiến trường mà lính Mỹ ?obị đột kích nhiều hơn mặt đối mặt kẻ thù? - như miêu tả của chính John F. Kennedy.
    Trong số sĩ quan quân báo thuộc Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA, có James T. Davis. Nhóm Davis được phân công truy tìm du kích tại vùng ven Sài Gòn. Muốn như vậy, James T. Davis phải ra sát khu vực tình nghi để bắt sóng liên lạc du kích.
    Ngày kia, cùng toán lính VNCH, James T. Davis mang theo thiết bị PRC-10 để bắt tín hiệu sóng ngắn. Ba ngày trước Giáng sinh 1961, James T. Davis lại lên chiếc jeep cùng toán lính bảo vệ VNCH phóng về phía Tây Sài Gòn. Khi cách căn cứ khoảng 15km, nhóm James T. Davis bị tấn công. Cầm khẩu carbine M-1, James T. Davis bóp cò. Tuy nhiên, họ đã bị vây kín. Sau vài phút, 9 tay súng VNCH bị thiệt mạng.
    Một viên AK-47 bắn trúng đầu Davis từ phía sau. Davis đổ gục, trở thành sĩ quan quân báo Mỹ đầu tiên chết tại chiến trường Việt Nam (hai tuần sau, Đơn vị nghiên cứu vô tuyến thứ ba đổi tên thành Trạm Davis và thậm chí một doanh trại NSA tại Mỹ cũng lấy tên này).
    Tại Washington, Kennedy quyết định Mỹ hóa cuộc chiến Việt Nam, yêu cầu CIA tăng cường chiến dịch đột nhập phía bên kia DMZ. Một đêm tối, quân báo VNCH nhảy dù vào chiến tuyến thuộc kiểm soát Bắc Việt và được đón chào bằng loạt súng liên thanh.
    Cuối cùng, cho đến khi từ giã Nhà Trắng đột ngột bởi bị ám sát, John F. Kennedy vẫn không hài lòng kết quả cụ thể nào của quân báo Mỹ tại chiến trường Việt Nam?
    Bài 6: Trụ sở bí mật của IBM tại trung tâm Sài Gòn
    Phúc Cẩm

  6. mitanomini

    mitanomini Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/02/2006
    Bài viết:
    467
    Đã được thích:
    0

    Bạn thân mến!
    Rất tiếc bài viết của bạn có thể có nội dung chưa phù hợp hoặc vượt ra ngoài nội qui của TTVNOnline. Nếu không có sự vi phạm, bài viết của bạn sẽ được hiển thị trở lại trong một thời gian ngắn.
    Mong bạn thông cảm và tiếp tục đóng góp xây dựng và phát triển TTVNOnline.
    Ban Quản trị TTVNOnline!​

    Bài 6: Trụ sở bí mật của IBM tại trung tâm Sài Gòn
    Thứ ba, 22/04/2008, 15:21 (GMT+7)
    Theo nguyệt san Vietnam (của giới cựu binh Mỹ), từ 1965-1973, có 250 kỹ thuật viên IBM làm việc tại Nam Việt Nam. Họ trực thuộc quản lý của Bộ Tư lệnh hỗ trợ quân sự Hoa Kỳ (MACV) tại Nam Việt Nam. Khi cuộc chiến leo thang từ 1965-1968, hỗ trợ của bộ máy kỹ thuật phân tích dữ liệu càng cần thiết và do vậy không thể không có kỹ thuật viên máy tính. Với chủ trương ?ovi tính hóa? cuộc chiến của Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara, hàng lô máy tính siêu mạnh thời điểm đó đã được chở sang Việt Nam.
    IBM tham chiến tại Việt Nam như thế nào?

    Máy bay do thám Mỹ tai sân bay Tân Sơn Nhát

    Đầu thập niên 1970, quân đội Mỹ tại Việt Nam đã tự hào có trong tay vài cỗ máy tính mạnh nhất thế giới. Tất cả chuyên gia IBM đều độc thân (điều kiện bắt buộc) và tuổi dưới 30. Họ được cấp thẻ đặc biệt để có thể vào hầu hết vị trí bí mật, với chỉ huy sở đặt tại số 115 đường Minh Mạng (nay là đường Ngô Gia Tự, quận 10). Họ sống trong những căn nhà gần đó.
    Thông tin từ văn phòng IBM -Sài Gòn được báo cáo cho văn phòng IBM-Honolulu rồi được chuyển về Mỹ. MACV còn cung cấp cho chuyên gia IBM một khu vực trước kia là văn phòng Hội Chữ thập đỏ. Đó là một nông trại thời Pháp với tường cao, cổng lớn và dây thép gai chằng quanh. Nơi này trở thành văn phòng quản lý của IBM trong hơn 5 năm. Không bao giờ cúp điện tại đây.
    Thiết bị quan trọng nhất trong văn phòng là máy nhận tín hiệu vô tuyến Collins SSB và cột ăng ten cực mạnh có thể truyền sóng khắp Nam Việt Nam và sang tận Thái Lan. Collins SSB hoạt động 24/24. Chuyên gia IBM cũng làm việc 24/24, suốt 7 ngày trong tuần.

    Mạng Collins SSB làm việc tốt đến mức nó từng ít nhất một lần được không quân Mỹ sử dụng khi hệ thống liên lạc của họ bị hỏng. Cần mở ngoặc nói thêm rằng, qua hợp đồng làm việc cho quân đội Mỹ, IBM cũng tranh thủ móc được nhiều hợp đồng thuần túy thương mại với giới kinh doanh Nam Việt Nam, đặc biệt các ông chủ ngân hàng trong Chợ Lớn.

    Việt Nam là cuộc chiến đầu tiên của Mỹ mà vấn đề xử lý dữ liệu được sử dụng tại tất cả bộ phận quân đội. Có hàng trăm trung tâm xử lý dữ liệu lớn nhỏ khắp Nam Việt Nam và do đó nhiệm vụ chuyên gia IBM còn huấn luyện lính Mỹ lẫn lính VNCH cách sử dụng máy tính cũng như học các ngôn ngữ lập trình thời đó (COBOL, FORTRAN, PL/1) cũng như hệ điều hành 360 (Operating System/360), trong một hệ thống gọi chung là PIACCS (Pacific Interim Air Force Command and Control system - hệ thống quản lý và chỉ huy không quân chuyển tiếp Thái Bình Dương) và Seek Data II - công cụ tối quan trọng cho điều khiển chiến tranh không quân (thoạt đầu, hệ thống máy tính chỉ là bộ xử lý 1401 hoặc 1460 nhưng sau đó nâng cấp lên S/360 Model 40).
    Seek Data II có ba sứ mạng: 1/ Gửi lệnh tác chiến qua PIACCS để đến một căn cứ không quân cụ thể (mệnh lệnh gồm thời gian và địa điểm tấn công; loại máy bay sử dụng; thông tin về mục tiêu; yêu cầu về hậu cần?). Các mệnh lệnh này được lưu trong hệ thống 360/50, được điều chỉnh và gửi đi dựa theo thông tin tình báo.
    Ngoài ra, còn có CREST - hệ thống báo cáo chiến sự. Sau mỗi cuộc oanh tạc, phi công phải đệ trình kết quả cho trung tâm tình báo; kết quả này được PIACCS chuyển đến trung tâm xử lý thông tin tại căn cứ không quân Hickam (Hawaii) rồi toàn bộ được tổng hợp trong bản báo cáo chung đệ trình cho giới sĩ quan cấp cao để làm cơ sở cho kế hoạch tấn công kế tiếp. Cuối cùng, sứ mạng thứ ba của Seek Data II là quản lý không vận. Đây là kế hoạch điều phối hành quân quy mô về người lẫn khí cụ bằng không quân trên khắp chiến trường Đông Nam Á.

    Sứ mạng kết thúc
    Được xem là một thành phần đặc biệt trong quân đội Mỹ, chuyên gia IBM tại Nam Việt Nam từng rất tự hào về những gì họ làm, cho đến khi nhận ra rằng dàn máy tính khổng lồ của họ không thể phân tích được tâm lý cục diện chiến sự Việt Nam. Họ cũng là những người đầu tiên thiết kế thành công ?o1403 Vietnamese print train? (dãy in tiếng Việt; giúp soạn và in văn bản bằng tiếng Việt có dấu).
    Xin mở ngoặc, ứng dụng đầu tiên của bộ mã in tiếng Việt đã được sử dụng trong chương trình ?oNgười cày có ruộng? của Nguyễn Văn Thiệu (đó là lần đầu tiên mà toàn bộ ruộng đất Nam Việt Nam được thống kê trong các cỗ máy tính IBM, bằng tiếng Việt). Nguy hiểm và nguy cơ đe dọa tính mạng tất nhiên không loại trừ cho nhóm nhân viên IBM.
    Không lâu sau sự kiện kinh hoàng Tết Mậu Thân 1968, hai chuyên gia phần cứng - Bob và Jerry (tác giả bài báo trên Vietnam giấu tên thật hai nhân viên này) - đã suýt thiệt mạng. Hôm đó, họ làm việc đến khuya và ngủ lại trại quân đội ở Phú Lâm (nay thuộc quận 6).
    Khoảng nửa đêm, họ choàng tỉnh bởi loạt đạn. ?oRa khỏi đây nhanh!? - Bob hét lên; và hai người chỉ được cứu khi toán lính Mỹ kịp đến. Một cựu nhân viên IBM khác kể thêm: ?oHôm đó, tôi nhận được điện từ một trung úy ở Củ Chi. Anh ấy nhờ tôi sửa chiếc máy tính 407 hỏng. Lúc đó trời xế chiều nên tôi ngần ngừ. ?oKhông, anh phải đến ngay. Anh có thể đáp một trực thăng ở Đệ Nhất khách sạn (Tân Bình). Tôi sẽ bảo đảm cho anh tối nay? - tay trung úy nài nỉ.
    Sau một hồi giằng co, tôi quyết định chỉ đi vào sáng hôm sau. Tối hôm đó, ********* đã tấn công trại lính Mỹ tại Củ Chi. Toàn bộ máy tính bị bắn nát và anh trung úy đã bị trúng đạn??.

    Đầu thập niên 1970, kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh được triển khai và nhiệm vụ chuyên gia IBM được rút lại. Nhiều thiết bị máy tính được chuyển cho quân đội VNCH . S/360 Model 50 tại MACV được quân đội VNCH mua lại (có hai chiếc 360/50 vẫn còn ở Nam Việt Nam sau khi Sài Gòn được giải phóng).
    Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris được ký kết. 60 ngày sau, cánh cửa văn phòng IBM tại 115 Minh Mạng đóng lại lần cuối cùng. Trừ một người tình nguyện lưu lại thêm vài tháng, toàn bộ nhân viên IBM đã được lệnh thu xếp thiết bị về nước. Lịch sử tham chiến của IBM tại Việt Nam kết thúc.
    Bài 7: Tình báo miền Bắc Việt Nam chiến thắng như thế nào?
    Phúc cẩm

  7. mitanomini

    mitanomini Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/02/2006
    Bài viết:
    467
    Đã được thích:
    0

    Bạn thân mến!
    Rất tiếc bài viết của bạn có thể có nội dung chưa phù hợp hoặc vượt ra ngoài nội qui của TTVNOnline. Nếu không có sự vi phạm, bài viết của bạn sẽ được hiển thị trở lại trong một thời gian ngắn.
    Mong bạn thông cảm và tiếp tục đóng góp xây dựng và phát triển TTVNOnline.
    Ban Quản trị TTVNOnline!​
    Bài 7: Tình báo miền Bắc Việt Nam chiến thắng như thế nào?
    Thứ tư, 23/04/2008, 15:27 (GMT+7)
    Báo cáo từ chuyến đi thực tế của Maxwell Taylor vào tháng 10-1961 đã ghi rằng VNCH đúng là cần được quân đội Mỹ hỗ trợ. Ngày 11-12-1961, gần hai tháng sau khi Kennedy gửi lá thư cho Ngô Đình Diệm, viết rằng ?oMỹ quyết định giúp Việt Nam giành độc lập??, hai nhóm quân đội và thiết bị quân sự gồm 33 trực thăng bắt đầu đến Sài Gòn, cùng 4 máy bay một động cơ dùng huấn luyện và 400 viên chức-nhân viên quân đội Mỹ.
    Cuộc chiến ?oMỹ hóa? chính thức mở màn
    Hôm sau, tờ New York Times viết: ?oSự ủng hộ quân sự trực tiếp đầu tiên của Mỹ dành cho cuộc chiến Nam Việt Nam chống du kích Việt Nam đã được tiến hành?. Hơn 10 ngày sau, 22-12-1961, chuyên gia quân sự James Davis đã trở thành người lính Mỹ đầu tiên bị du kích Việt Nam tiêu diệt. Cuộc chiến ?oMỹ hóa? tại Việt Nam thật sự mở màn.

    Nhiều cuộc hành quân của lính Mỹ đã bị tấn công chớp nhoáng nhờ hoạt động hiệu quả của quân báo miền Bắc Việt Nam

    Giữa năm 1964, đã có 16.000 lính Mỹ tại Việt Nam và cuộc chiến bắt đầu ngốn 1,5 triệu USD/ngày. Hủy bỏ kế hoạch trà trộn vào miền Bắc Việt Nam của CIA, tân Tổng thống Lyndon B. Johnson yêu cầu bộ tổng tham mưu Mỹ phác thảo chiến dịch nặng tay hơn, đủ mạnh để buộc miền Bắc Việt Nam ngưng cuộc chiến du kích tại miền Nam.
    Chiến dịch OPLAN 34A ra đời, một kịch bản phối hợp giữa CIA và Lầu Năm Góc, một kế hoạch ?ohoàn toàn vô giá trị? - như thú nhận của (nguyên) Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara sau này. Trong khi đó, hoạt động quân báo Mỹ vẫn triển khai. Đầu năm 1964, số lính-sĩ quan quân báo Mỹ tại Việt Nam đã lên đến 1.747 người, trong đó 300 người đóng ở Tân Sơn Nhất.
    Ngoài ra, còn có nhóm quân báo thủy quân lục chiến đóng ở Pleiku và quân báo không quân đóng ở Đà Nẵng. Một mạng kết nối các điểm nghe lén được thiết lập bí mật ở Nha Trang, Cần Thơ, Biên Hòa, Pleiku, Đà Nẵng và Buôn Ma Thuột - tất cả đều được đấu liên lạc trực tiếp với tổng hành dinh NSA tại Mỹ qua một sợi cáp ngầm dưới biển kéo từ Nam Việt Nam đến Philippines.
    Mật danh Wetwash, sợi cáp này còn truyền về bộ chỉ huy NSA các thông điệp phức tạp vượt quá khả năng giải mã của quân báo Mỹ tại Sài Gòn?
    Lỗ hổng của quân báo Mỹ
    Theo tác giả James Bamford trong Body of Secrets, quân báo miền Bắc Việt Nam đã chơi nhiều vố khá đau cho quân báo Mỹ. Một báo cáo tuyệt mật NSA từng ghi: ?oMột bức tranh rõ ràng và thậm chí mang tính đe dọa về sự thành công của quân báo Việt Nam chống lại kỹ thuật quân báo phe đồng minh (ở đây hiểu là Mỹ) đã dần xuất hiện?.
    Cuối thập niên 1960, một số vị trí nghe lén của quân báo Việt Nam bị phát hiện. ?oĐánh giá thiết bị tịch thu được đã cho thấy đơn vị quân báo kẻ thù có thể nghe hầu như tất cả liên lạc Morse của Mỹ và đồng minh.
    Tài liệu cho thấy đối phương đã rất am hiểu kỹ thuật quân báo??. Tình báo Mỹ đánh giá rằng miền Bắc Việt Nam có khoảng 5.000 chuyên viên bắt tín hiệu và ?ođang thực hiện một chiến dịch quân báo cực kỳ phức tạp nhắm trực tiếp vào Mỹ và lực lượng đồng minh tại Nam Việt Nam?.
    Hậu quả của lỗ hổng quân báo Mỹ và kỹ thuật quân báo miền Bắc Việt Nam đã trở thành vấn đề nghiêm trọng. Tướng Charles R. Myers (sĩ quan quân báo từng làm việc tại Việt Nam) kể rằng ?okẻ thù thường biến mất khỏi vị trí nào đó trước khi một kế hoạch chiến dịch oanh tạc định sẵn của Mỹ tiến hành? và ?oB-52 thường xuyên dội bom xuống các địa điểm không người mà trước đó quân báo Mỹ từng cung cấp thông tin về sự tập trung đông của quân đội Việt Nam?.
    Trận đánh ngày 11-2-1965 là một điển hình, khi chiến hạm USS Han**** dội pháo xuống căn cứ quân đội Việt Nam tại duyên hải miền Bắc. Không hiểu bằng cách nào, chiến dịch tuyệt mật tưởng thành công chắc chắn này đã không hề ?obất thần? hạ được chiếc tàu hoặc căn cứ quân đội Việt Nam nào trong khi oanh tạc cơ Mỹ lại được đón chào bằng loạt pháo cao xạ.
    Theo vài phân tích mật NSA thời điểm đó, một trong những nguyên nhân khiến quân báo Mỹ thất bại là sự rò rỉ từ quân báo VNCH. Đó là chưa kể việc quân báo Việt Nam học được cách giải mã từ chính những thiết bị quân báo Mỹ mà họ tịch thu được, đặc biệt thiết bị TPHZ-3 - có thể nghe 30 line điện thoại cùng một lúc.
    Năm 1967, từ thiết bị này, quân báo Mỹ đã nghe được 6.606.539 cuộc điện đàm vô tuyến và hơn 500.000 điện đàm điện thoại. Trong một lần, TPHZ-3 đã cứu được mạng tướng Creighton W. Abrams (phó tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam). Khi Abrams chuẩn bị lên trực thăng từ Sài Gòn ra Phú Bài, quân báo Việt Nam đã lập tức truyền tín hiệu báo cáo trung tâm về lịch trình của Abrams. Tuy nhiên, lần này, TPHZ-3 đã bắt được tín hiệu liên lạc trên; nếu không, Abrams đã thiệt mạng.
    Quân báo Việt Nam cũng thành công trong việc tung tin giả bằng cách ngụy tạo thông điệp và ?osơ hở? gửi truyền; đồng thời dụ quân báo Mỹ truyền thông tin nhạy cảm để họ bắt được! NSA gọi đây là kỹ thuật ?osự lừa phỉnh viễn thông mô phỏng? (ICD). Bằng ICD, quân đội Việt Nam đã bắn hạ ít nhất 8 trực thăng Mỹ trong một chiến dịch. ICD cũng được thể hiện ở hình thức khác.
    Trong một vụ đánh ở căn cứ không quân Mỹ tại Đà Nẵng, du kích Việt Nam đầu tiên giết chết lính canh Mỹ rồi dùng điện thoại ?obáo động? rằng góc mé xa căn cứ ?ođang bị cộng quân tấn công?. Toán lính canh Mỹ lập tức được điều động đến khu vực ?ođang giao tranh?.
    Hậu quả, an ninh căn cứ bị bỏ lỏng và căn cứ bị bộ đội tấn công bất ngờ. Lần đó, trị giá số máy bay Mỹ bị phá hỏng lên đến 15 triệu USD. Lần khác, quân đội Việt Nam dùng tần số liên lạc trực thăng để giả giọng trung tâm chỉ huy, yêu cầu trực thăng chuyển hướng bay và cuối cùng nó bị bắn cháy.
    Theo cùng cách, ?ocó vô số lần mà máy bay Mỹ bị ?ohướng dẫn? dội bom vào chính đồng đội họ và nhiều lần khác, du kích có thể ngăn được cuộc tấn công của Mỹ bằng cách tạo ra mệnh lệnh ngừng bắn giả? - James Bamford viết?
    Phúc Cẩm

  8. mitanomini

    mitanomini Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/02/2006
    Bài viết:
    467
    Đã được thích:
    0

    Bạn thân mến!
    Rất tiếc bài viết của bạn có thể có nội dung chưa phù hợp hoặc vượt ra ngoài nội qui của TTVNOnline. Nếu không có sự vi phạm, bài viết của bạn sẽ được hiển thị trở lại trong một thời gian ngắn.
    Mong bạn thông cảm và tiếp tục đóng góp xây dựng và phát triển TTVNOnline.
    Ban Quản trị TTVNOnline!​
    Chiến tranh Việt Nam - Cuộc so găng quyết liệt trên mặt trận tình báo
    Bài 1: Những cuộc ?okhảo sát? của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ

    Thứ năm, 17/04/2008, 14:44 (GMT+7)
    Không chỉ Cục Tình báo trung ương (CIA), Cơ quan Quân báo quốc phòng (DIA) thuộc Lầu Năm góc, Cơ quan An ninh quốc gia (NSA) và Văn phòng Do thám quốc gia (NRO), Bộ Ngoại giao Mỹ cũng tham gia tình báo thời chiến tranh Việt Nam. Đây là một trong những bí mật dai dẳng và chỉ được công bố mới đây, dựa vào tài liệu giải mật được đăng trên website Cục Tàng thư quốc gia Hoa Kỳ. Cụ thể, Bộ Ngoại giao Mỹ làm gì trong cuộc chiến rình mò tại chiến trường Việt Nam?
    Nhiệm vụ đầu tàu của Bộ Ngoại giao Mỹ

    Trái sang: Ngoại trưởng Dean Rusk, Giám đốc INR Thomas L. Hughes và Phó Giám đốc Allan Evans

    Nghiên cứu tình báo Bộ Ngoại giao Mỹ thời chiến tranh Việt Nam được tiến hành từ Phòng Nghiên cứu tình báo (INR) thuộc cơ quan này. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ bắt đầu khảo sát chi tiết tình hình Việt Nam vào năm 1968, dưới chỉ đạo của Thomas L. Hughes, lúc đó là giám đốc INR.
    Bản nghiên cứu đề tựa A Review of Judgments in INR Reports (Khảo sát đánh giá các báo cáo INR) hoàn thành năm 1969 và vẫn là tài liệu tuyệt mật trong nhiều thập niên cho đến đầu năm 2005. Phần quan trọng nhất trong tài liệu là báo cáo tổng kết quan điểm Bộ Ngoại giao Mỹ về các chủ đề tình báo khác nhau suốt thập niên 1960, được trình bày bởi W. Dean Howells và Dorothy R. Avery (hai viên chức INR đặc trách Đông Nam Á).
    Cần nhấn mạnh, Bộ Ngoại giao là một trong những cơ quan quan trọng hàng đầu nội các Hoa Kỳ, nơi đóng vai trò hoạch định chính sách cũng như chiến lược đối ngoại. Trong các động thái đối với tình hình Việt Nam thời thập niên 1960, nhiệm vụ đầu tàu trong chiến lược đối sách của Bộ Ngoại giao Mỹ càng được tô đậm.
    Sau khi nhậm chức tổng thống, John F. Kennedy chỉ định Roger A. Hilsman làm giám đốc INR. Chủ trương biến INR thành bộ máy hoạch định chính sách, Hilsman kích hoạt loạt thay đổi trong Bộ Ngoại giao. Kennedy tin cậy Hilsman đến mức thường tham khảo ý kiến nhân vật này hơn cả Ngoại trưởng Dean Rusk.
    Khi vụ khủng hoảng tên lửa Cuba xảy ra năm 1962, Hilsman đóng vai trò quan trọng trong điều phối tình báo cũng như tổ chức loạt cuộc họp giữa Kennedy và EXCOM (Ủy ban Điều hành thuộc Hội đồng An ninh quốc gia Hoa Kỳ).
    Từng là cựu binh Thế chiến thứ hai tại Myanmar (khi làm việc cho OSS - tiền thân CIA), Hilsman rành rẽ các thủ thuật của chiến tranh bất quy ước, phù hợp với quan điểm Kennedy về chiến tranh chống du kích tại Việt Nam. Hilsman thậm chí còn soạn cẩm nang đầu tiên về phương pháp chống chiến tranh du kích được phân phát cho quân đội Mỹ, trong đó ghi rõ cách thức đối phó cuộc chiến tranh nhân dân chống Ngô Đình Diệm tại Nam Việt Nam. Nói cách khác, Hilsman đã đặt nền tảng cho cuộc chiến tình báo của Bộ Ngoại giao Mỹ tại Việt Nam.

    INR chỉ khoảng 350 nhân viên, được phân thành hai nhóm chính - nhóm liên lạc và nhóm phân tích thông tin tình báo. Nhóm liên lạc có nhiệm vụ điều phối và hợp tác với các cơ quan liên quan tình báo khác, giúp ngoại trưởng quyết định chính sách như thế nào đối với các đề nghị từ CIA cho những chiến dịch đặc biệt.
    Trong khi đó, nhóm phân tích làm việc chặt chẽ với các tuyến tình báo mặt trận (chẳng hạn Phòng Nghiên cứu Liên Xô, nơi thu thập thông tin tình báo liên quan Xô Viết và hệ thống vệ tinh do thám Đông Âu). Với cuộc chiến Việt Nam, nhóm phân tích INR làm việc cùng Phòng Viễn Đông (RFE), nơi có các chuyên gia phân tích tình báo lão luyện.
    Từ năm 1962-1966, RFE nằm dưới sự chỉ đạo của Allen S. Whiting, một tay tổ trong làng phân tích tình báo, từng nổi tiếng với công trình nghiên cứu China Crosses the Yalu (viết về những thất bại nghiêm trọng trong chính sách và tình báo thời chiến tranh Triều Tiên).
    Khi được Hilsman cất nhắc ở vị trí sếp RFE, Whiting tuyển dụng (cô) Evelyn Colbert làm trưởng chi nhánh văn phòng Viễn Đông. Là một bản sao của Hilsman, Colbert 43 tuổi đã trở thành thế hệ phân tích gia (về tình báo) đầu tiên tại cuộc chiến Việt Nam.
    Trong khi Colbert đặc trách thông tin tình báo Nam Việt Nam, một nữ nhân viên RFE khác - Dorothy Avery - được giao nhiệm vụ nghiên cứu thông tin tình báo Bắc Việt. Dorothy Avery có bằng thạc sĩ Đông Á học tại Đại học Harvard, từng được CIA thuê thực hiện các công trình phân tích về cộng sản Trung Quốc. Ngoài ra, RFE còn có Louis G. Sarris, được giao nhiệm vụ khảo sát Việt Nam không lâu sau chuyến công lý sang Mỹ của Ngô Đình Diệm.
    Phác họa chính sách
    Trong năm đầu tiên Kennedy ở ghế tổng thống, INR đóng vai trò quan trọng trong phác họa chính sách và tiếp tục khẳng định rằng Nam Việt Nam còn có một số gương mặt khác có thể thay Diệm; rằng vấn đề khó khăn của Mỹ ở Nam Việt Nam xuất phát chủ yếu từ chương trình viện trợ vô bổ của Washington; rằng sức mạnh của Mặt trận giải phóng miền Nam khởi nguồn từ các làng quê Nam Việt Nam chứ không phải do sự trà trộn của bộ đội miền Bắc.
    Sau chuyến thị sát thực tế của tướng Maxwell D. Taylor và phó cố vấn an ninh quốc gia Walt W. Rostow, INR tung ra báo cáo, ghi: ?oĐiểm yếu cơ bản trong kế sách chống chiến tranh du kích (của Mỹ) là quan điểm phổ biến (từ Washington) rằng cuộc khủng hoảng Việt Nam có thể giải quyết thuần túy bằng viện trợ ào ạt?.
    Tháng 1-1962, Kennedy yêu cầu Hilsman sang Nam Việt Nam. Viên giám đốc INR nhận thấy nỗ lực chống chiến tranh du kích bằng biện pháp quân sự là không đủ; đồng thời ủng hộ ý tưởng ấp chiến lược (sau chuyến đi, Hilsman đệ trình Kennedy báo cáo A Strategic Concept for South Vietnam). Mùa xuân 1963, Kennedy bổ nhiệm Hilsman làm trợ lý ngoại trưởng đặc trách các vấn đề Viễn Đông. Ghế giám đốc INR được giao cho Thomas L. Hughes.
    Bài 2: CIA và đường mòn Hồ Chí Minh
    Phúc Cẩm

    http://www.sggp.org.vn/hosotulieu/2008/4/149488/
  9. taisaolainhuvay

    taisaolainhuvay Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    11/06/2006
    Bài viết:
    641
    Đã được thích:
    17
    vót luôn
  10. ms710

    ms710 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2007
    Bài viết:
    1.416
    Đã được thích:
    1
    hay nhầy!

Chia sẻ trang này