1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trò chuyện linh tinh giữa 2 hiệp

Chủ đề trong 'Bóng đá Việt Nam' bởi sole_husband, 20/09/2015.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. atlas07

    atlas07 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/08/2015
    Bài viết:
    6.201
    Đã được thích:
    3.185
    Năm 1020, do mất mùa và đói kém, quân Chiêm Thành tiến chiếm hai châu Bố Chánh và Ma Linh (Quảng Bình). Năm 1021, thái tử Phật Mã, trưởng nam của Lý Thái Tổ, chiếm lại hai châu bị mất. Năm 1026, quân của thái tử Phật Mã chiếm luôn châu Điền (Thừa Thiên). Lý Thái Tổ mất năm 1028, Phật Mã lên thay, xưng hiệu Thái Tôn. Vua Chiêm Thành không những không chịu thông sứ với Đại Việt mà còn xua quân đánh phá các làng ven biển tại châu Điền, châu Ái (Thanh Hóa) và châu Hoan (Nghệ An).
    1044 lấy lý do Thái Tổ mất 16 năm mà người Chăm không chịu tiến cống Ngày Quý Mão vua thân chinh đánh Chiêm Thành, dùng Khai Hoàng làm chức lưu thử. Ngày Giáp Thìn, quân Lý xuất phát từ kinh đô, ngày Ất Tỵ đóng quân tại cửa biển Đại Ác. Lúc đó sóng yên, có lợi cho đại quân đi từ Đại An (tức Đại Ác) qua Ma Cô ( Kỳ Anh -Hà Tĩnh)

    Trong ngày ấy nhờ có gió vượt qua được 2 bãi cát dài, quân Lý đi thẳng đến cửa biển Tư Dung ( thừa thiên- Huế). Vua Chiêm Thành đã dàn trận trước ở sông Ngũ Hồ để đợi quan quân nhà Lý. Lý Thái Tông bèn xuống chiếu cho quân sĩ bỏ thuyền, lên đất liền. Vua lại cho một phần binh lính dựng cờ, đánh trống như sắp muốn đánh nhau với người Chiêm. Quân Chiêm Thành thấy binh lính oai nghiêm, lại quá nhiều mới sợ mà thua sớm. Vua cho quân đuổi theo chém được ba đầu của người Chiêm. Tướng Chiêm là Quách Gia Di chém chúa Sạ Đẩu để dâng quân Lý. Quân Lý giết 3 vạn quân Chiêm, bắt sống 5.000 người, bắt được 30 con voi. Lý Thái Tông thấy cảnh máu đầy gươm giáo, xác chất đầy đồng, lấy làm thương xót mới hạ lệnh rằng: "Kẻ nào giết bậy người Chiêm Thành thì sẽ giết không tha"

    Vua Thái Tông kéo quân vào thành Phật Thệ, bắt cung nữ của Sạ Đẩu, kén lấy người nào giỏi hát và biết múa điệu khúc Tây thiên cùng vô số cung nhân, nhạc nữ đem về nước. Quân về đến Lý Nhân, triệu vợ của Sạ Đẩu là Mỵ Ê lên hầu vua. Mỵ Ê từ chối, lấy chăn quấn mình rồi nhảy xuống nước mà chết. Vua khen là người trinh tiết, phong cho làm Hiệp chính Hựu thiện phu nhân.
    Tháng 8 Lý Thái Tông rút quân về, tháng 9 thì về đến kinh đô Thăng Long. Lý Thái Tông đem tin thắng trận cáo Thái miếu, ban tiệc rượu thưởng công. Những tù binh Chiêm Thành sau đó được cấp ruộng đất và cho định cư tại Hưng Hóa (Nghệ An) trong hai xã Vĩnh Khương và Đăng Châu. Nông dân Đại Việt cũng di cư vào các vùng đất mới tại Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh lập nghiệp.

    Trong số tù binh Chăm có một thiền sư Phật giáo tên Thảo Đường. Tăng sư Thảo Đường lập ra phái Thiền tông thứ ba tại Đại Việt. Nhiều chùa Phật giáo Tiểu Thừa tại miền Bắc Việt Nam (chùa Vạn Phúc ở Bắc Ninh, chùa Thiên Phúc ở Sơn Tây) do nhân công gốc Chăm xây dựng. Thợ Chăm dạy cho thợ Đại Việt cách đúc tượng Phật và xây cất chùa kiểu Ấn Độ. Nghệ nhân Chiêm Thành dạy cho các cung nữ triều đình nhà Lý các điệu nhạc Chiêm Thành (các điệu nam ai, nam oán...).
    __Duc__No_____soccer thích bài này.
  2. atlas07

    atlas07 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/08/2015
    Bài viết:
    6.201
    Đã được thích:
    3.185
    Quách Gia Gi là một vương tôn thuộc đẳng cấp Ksatriya (chiến sĩ). Sau khi đầu hàng nhà Lý, ông được triều thần tôn lên làm vua năm 1044, hiệu Jaya Paramesvaravarman I. Trước một đất nước bị kiệt quệ vì chiến tranh, Quách Gia Gi một mặt phải giao hảo tốt với Trung Hoa và Đại Việt để được yên thân, mặt khác tập trung sức lực còn lại bình định loạn lạc ở phía nam. Trước kia, theo thỏa hiệp giữa Vikrantavarman IV và Surayavarman I (vương quốc Angkor), quân Khmer vào giúp Chiêm Thành dựng trại tại Panduranga, khi Vikrantavarman IV mất quân Khmer không những không chịu rút quân về mà còn muốn chiếm giữ luôn lãnh thổ Panduranga.

    Năm 1050, viện cớ một tiểu vương tại Panduranga không tuân phục triều đình trung ương, Jaya Paramesvaravarman I cùng cháu là hoàng thân Yavaraja Mahasenapati mang quân chinh phạt và cũng nhân dịp đánh đuổi quân Khmer ra khỏi lãnh thổ. Tiểu vương Panduranga thua trận, một số binh sĩ và dân chúng đất Pănrăn (Phan Rang) phải trốn trong các hầm đất, hang động hoặc chạy lên núi trốn, một số khác chạy theo quân Khmer về bên kia biên giới lánh nạn. Toàn bộ tài sản, súc vật của dân chúng Pănrăn bị tịch thu mang về Vijaya làm chiến lợi phẩm ; những tù binh bị mang về làm nô lệ và hạ xuống làm đẳng cấp Sudra. Tiểu quốc Panduranga bị đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của triều đình trung ương Vijaya. Trong giai đoạn này, người Chăm chạy loạn lên Tây Nguyên (đặc biệt là cao nguyên Đắc Lắc) lánh nạn một số đã ở lại định cư vĩnh viễn, hòa trộn với những nhóm dân cư có trước để thành người Rhadé.


    Dẹp xong loạn phía Nam, Jaya Paramesvaravarman I xây dựng lại đất nước. Nhà vua cho dựng lại các tượng đài bằng đá hoa cương trong tháp Po Nagar, cấp cho những vị tu sĩ giữ đền 50 nô lệ Chăm, Khmer, Hoa, Miến, Xiêm, 15 cân vàng, 15 cân bạc, và nhiều vật dụng quí giá khác. Nhà vua mất năm 1060, con trai trưởng lên kế vị hiệu Bhadravarman III, trị vì được một năm (1060-1061) thì mất.

    Sang thời Lý Thánh Tông, năm 1065 - 1069, Chiêm Thành bỏ cống. Vua Thánh Tông lại đem quân Nam chinh. Nhưng một vài sử gia cho rằng tới giai đoạn lịch sử này cuộc đánh Chiêm chẳng phải riêng vì việc đoạn tuyệt giao hiếu, mà do Đại Việt bắt đầu thi hành chính sách mở rộng biên giới, dựa vào chỗ Chiêm Thành có tinh thần bất khuất chống đối đối với Đại Việt và lại lén lút thần phục nhà Tống.

    Quốc vương Chiêm là Chế Củ muốn dựa vào nhà Tống để chặn bước tiến của Đại Việt, xin thần phục và được vua Tống Thần Tông giúp đỡ, cho ngựa trắng và cho phép họ mua Lúa ở Quảng Châu, Chiêm Thành không tiếp tục nạp cống cho Đại Việt nữa. Mọi hành động của Chiêm Thành đều bị người Việt cho là khiêu khích họ.
    Năm 1061, em trai của Bhadravarman III là Chế Củ lên thay, hiệu Rudravarman III. Rudravarman III là một người tinh khôn, một mặt giao hảo bình thường nhà Lý để tránh bị nghi ngờ, mặt khác chuẩn bị quân sĩ tiến đánh Đại Việt. Năm 1068, Rudravarman III mang quân đánh vào các làng của người Việt tại Ma Linh và Địa Lý, quân Lý thua phải rút lên phía Bắc.
    __Duc__No_____soccer thích bài này.
  3. atlas07

    atlas07 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/08/2015
    Bài viết:
    6.201
    Đã được thích:
    3.185
    Năm 1068 vua Lý Thánh Tông sửa soạn thêm chiến thuyền (việc giao thông từ thành Phật Thệ tới Đại Việt bằng đường núi theo lời sứ Chiêm tâu với vua Tống phải mất 40 ngày. Vua nhà Tiền Lê trước đây có đào tân cảng và sửa chữa đường sá nhưng xét ra dùng thủy đạo vẫn dễ dàng cho việc chuyển quân hơn. Lực lượng quân sự của Lý triều tất cả có chừng 200 chiếc thuyền, Lý Thường Kiệt được làm Đại tướng đi tiên phong, em Thường Kiệt là Lý Thường Hiến giữ chức Tán kỵ Võ úy.

    Ở triều bấy giờ Lý Thánh Tông giao cho Nguyên phi Ỷ Lan và Thái Sư Lý Đạo Thành trông coi việc nước. Bảy ngày sau khi rời khỏi Thăng Long các đạo quân Việt đã có mặt ở Nghệ An, ba ngày sau tới phía Nam núi Hồng Lĩnh Hà Tĩnh, vào hải phận Chiêm Thành.

    Năm ngày sau Lý Thường Kiệt tới cửa Nhật Lệ là nơi tập trung của thủy quân Chiêm Thành. Tại Nhật Lệ, một nhóm nhỏ thủy quân Chiêm xông ra chặn quân Việt. Tướng của quân Lý là Hoảng Kiệt đánh lui họ rồi tiến về phía Nam không bị ngăn trở, mục đích của quân Đại Việt là tiến thẳng tới thành Phật Thệ phá kinh đô và bắt quốc vương. Bốn ngày sau nữa tới cửa Tư Dung nay gọi là Tư Hiền là cửa sông vào các phá và sông thuộc Quy Nhơn ngày nay. Quân Lý mất ba ngày nữa, tính tất cả là 26 ngày từ Thăng Long đến đấy.

    Thành Phật Thệ, ba phía Tây-Nam-Bắc có núi che chở, phía Đông giáp biển. Thủy quân của nhà Lý đổ bộ ở đây. Tướng Chiêm là Bố Bì Đà La dàn trận trên bờ sông Tu Mao chặn đánh. Quân Lý xông lên giết được Bố Bì Đà La và rất nhiều binh sĩ.

    Lý Thường Kiệt vượt được sông Tu Mao, lại qua hai con sông nữa mới tới kinh đô Chiêm Thành. Đang đêm nghe tin quân của mình bại trận ở Tu Mao, vua Chế Củ mang vợ con chạy trốn. Đêm ấy, quan quân nhà Lý tràn vào thành Phật Thệ, đến Bến Đồng la, dân ở thành Phật Thệ phải xin hàng.

    Vua Thánh Tông đánh Chiêm Thành lâu lắm không hạ nổi, bèn đem quân trở về. Đi nửa đường đến châu Cư Liên, vua nghe thấy nhân dân khen bà Nguyên phi ở nhà giám quốc, trong nước được yên trị, Thánh Tông nói: "Người đàn bà trị nước còn được như thế, mà mình đi đánh Chiêm Thành không thành công, thế ra đàn ông hèn lắm sao?"

    Vua Thánh Tông quay trở lại đánh Chiêm. Lý Thường Kiệt đem quân theo phía Nam. Tháng tư quân Lý tiến đến biên giới Chân Lạp (Campuchia), qua các vùng Phan Rang, Phan Thiết ngày nay mà tiếng Chiêm gọi là Panduranga. Tháng 4 Lý Thường Kiệt bắt được vua Chế Củ ở biên giới Chân Lạp. Vua Chiêm, vốn có cựu thù với nước Chân Lạp nên hết đường chạy phải ra hàng, kết quả là ông bị Lý Thường Kiệt cầm tù. Cuộc đuổi bắt vua Chế Củ mất hết một tháng.

    Người có công lớn nhất trong cuộc đại thắng này của nhà Lý là Lý Thường Kiệt.

    Tháng 5 Lý Thánh Tông ngự tiệc cùng quần thần ở cung điện của vua Chiêm, vua lại thân hành múa thuẫn và đánh cầu ở nơi thềm điện ấy. Trước khi về nước Thánh Tông còn không quên sai đếm tất cả nhà của dân ở trong và ngoài thành Phật Thệ, gồm có hơn 2.660 căn đều thiêu rụi sạch.

    Ngày 19 tháng 6 năm Quý Tỵ, thuyền của quân Lý về đến cửa Tư Minh, có lẽ là Tư Dung. Ngày 17 tháng 7 năm Tân Dậu, đạo quân Nam chinh về tới Thăng Long. Vua Thánh Tông lên bộ ngự trên xe, quân thần cưỡi ngựa theo sau. Vua Chiêm mặc áo vải trắng, đầu đội mũ làm bằng cây gai, tay bị trói sau lưng do 5 người lính Võ đô dắt. Quyến thuộc đi sau cũng bị trói. Chế Củ xin dâng 3 châu Bố Chính, Ma Linh và Địa Lý (vùng từ dãy Hoành Sơn đến dãy Bạch Mã tương ứng với Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế ngày nay)để chuộc tội nên ông được tha về.

    Mùa thu, tháng 7 tại nhà Thái Miếu, vua Lý Thánh Tông dâng trình việc thắng trận. Chiến tranh kết thúc với thắng lợi và mở rộng đất đai của Đại Việt.
    Thật ra ba châu Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh đã thuộc về Đại Việt từ lâu, từ đời nhà Tiền Lê (năm 982), cách đó gần 80 năm. Do sức ép về dân số, nhiều gia đình nông dân nghèo khó không có đất canh tác trên đồng bằng sông Hồng và sông Cả đã tự động di cư đến đây rồi khai phá đất hoang và canh tác hoa mầu. Trong cuộc sống cộng cư, với thời gian, có thể những nhóm di dân cư này đã hòa trộn với các nhóm dân cư gốc Kinh có mặt từ trước, khi vương quốc Lâm Ấp được thành hình, hoặc với người Chăm địa phương từ nhiều đời để tạo thành các nhóm "dân miền Trung". Yếu tố Chăm do đó không còn mạnh mẽ, nếu không muốn nói là mất hẳn ảnh hưởng trên vùng đất này, nhường chỗ cho yếu tố Kinh, đầy sức sống và đông đảo hơn. Nói một cách khác, sự dâng đất này là một hình thức công nhận quyền sở hữu chính thức của nhà Lý trên một vùng đất đã thoát khỏi sự kiểm soát của chính quyền trung ương Chiêm Thành từ lâu. Sự dâng đất này còn ngụ ý là Chiêm Thành sẽ không mang quân sang quấy phá nữa, vì thần linh bảo vệ hoàng tộc và đất đai không còn nữa. Đất ở ba châu này thật ra có phì nhiêu hơn ở vùng Thanh Hóa (tức châu Điền), nhưng không phì nhiêu bằng đất ở Amavarati (Quảng Nam). Sự tranh chấp giữa Đại Việt và Chiêm Thành về sau trên phần lãnh thổ này vì tự ái dân tộc nhiều hơn vì sự mầu mỡ của đất đai.

    Sau khi nhượng hẳn cho Đại Việt ba châu phía Bắc, Rudravarman III mất uy tín trước các tiểu vương. Chiêm Thành bị loạn sứ quân, không ai còn nghe ai nữa. Hơn mười tiểu vương tự tuyên bố độc lập, kẻ mạnh mang quân đi đánh tiểu vương quốc yếu để mở rộng lãnh thổ hoặc gây thanh thế. Các tiểu vương ở phía Nam, liên minh với đế quốc Angkor, biến Panduranga thành trung tâm chống lại vương triều và các tiểu vương phía Bắc. Năm 1074, buồn phiền trước cảnh đất nước loạn lạc và bị các tiểu vương phía Nam xua đuổi, Rudravarman III (Chế Củ) dẫn gia đình sang Đại Việt xin tị nạn và tan biến luôn trong xã hội người Kinh. Kể từ đây biên giới Đai Việt mở rộng xuống vùng nam Quảng Trị Thừa thiên Huế ngày nay.
    [​IMG]
    Lãnh thổ Đại Việt năm 1069
    __Duc__No_____soccer thích bài này.
  4. atlas07

    atlas07 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/08/2015
    Bài viết:
    6.201
    Đã được thích:
    3.185
    Tại Panduranga, một hoàng thân xuất thân từ Panduranga tên Thăn (còn gọi là Yan Visnumurti, Madhavamurti hay Devatamurti, tiếng Việt là Thân), cùng em là hoàng tử Pãn (tên Việt là Phan), đã lần lượt chinh phục các tiểu vương sứ quân, thống nhất lại đất nước. Năm 1074, Thăn được quần thần tôn lên làm vua, hiệu Harivarman IV, mở đầu triều vương thứ chín.
    Thăn là tên một hoàng tộc thuộc bộ tộc Cau mà dân chúng Panduranga cho là dòng vương tôn chân truyền của vương quốc Champa. Chính vì thế Harivarman IV rất tự hào về nguồn gốc xuất thân của mình, vì luôn tự nhận là sự kết hợp của hai bộ tộc lớn nhất của Chiêm Thành : cha là Pralaysvara Dharmaraja, dòng Narikelavansa thuộc đẳng cấp Ksatriya, bộ tộc Dừa ở Amaravati ; mẹ thuộc dòng Kramukavansa, đẳng cấp Brahman, bộ tộc Cau ở Panduranga. Sở dĩ có sự giải thích dài dòng về nguồn gốc xuất thân này - nhất là nguồn gốc xuất thân của mẹ, dòng Brahman chính thống - vì Harivarman IV biết chắc rằng trong các sứ quân không ai hội đủ điều kiện về nguồn gốc xuất thân để có thể được tôn lên làm vua trên toàn cõi Chiêm Thành.
    Việc làm đầu tiên của Harivarman IV là phục hồi lại các đền đài đã bị tàn phá bởi quân Đại Việt và cuộc nội chiến. Không đầy một năm sau, Chiêm Thành trở nên hùng mạnh trở lại. Harivarman IV mang quân sang đánh Đại Việt, giành lại phần lãnh thổ mà Rudravarman III đã nhượng trước đó.
    Năm 1075, viện cớ phục hồi ngôi vua cho con cháu Rudravarman III (Chế Củ), nhà Lý sai Lý Thường Kiệt mang quân chiếm lại ba châu vừa bị mất. Trước sự chống trả mãnh liệt của quân Chiêm, Lý Thường Kiệt phải lui binh nhưng cho người vẽ lại địa thế rồi đưa một số nông dân gan dạ (thật ra là những binh lính trá hình) vào định cư. Hay tin quân Lý bị Chiêm Thành đánh bại, vua Tống sai Vương An Thạch mang 10.000 quân tiến qua biên giới tấn công Đại Việt. Lý Thường Kiệt lui về bảo vệ lãnh thổ phía bắc. Ba châu vừa chiếm lại lọt vào tay Chiêm Thành.
    Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì kết hợp với Chiêm Thành và Angkor, mang 7.000 quân tiến công Đại Việt nhưng bị Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đánh bại. Thừa thắng, Lý Thường Kiệt tiến xuống chiếm đóng đế đô Phật Thành, Harivarman IV phải cùng con cái và một số thân tín chạy lên núi trốn ; tại đây phái đoàn được các sắc dân Thượng che chỡ.
    Quân Lý chỉ chịu rút khỏi Phật Thành khi Harivarman IV tuyên bố chấp nhận triều cống nhà Lý trở lại. Hay tin này, hoàng thân Sri Nandanavarmadeva (người Khmer) - mang quân vào miên Nam Chiêm Thành theo lời mời của Quách Quì để chống lại nhà Lý - chiếm luôn Panduranga. Vua Harivarman IV phải yêu cầu nhà Lý giúp đỡ. Lúc này mặc dù đã tuổi già sức yếu, Lý Thường Kiệt vẫn phải thân chinh đi đánh dẹp. Quân Khmer thua to bỏ chạy về nước, Harivarman IV truy đuổi và tiêu diệt hết tại Somesvara (Biên Hòa ngày nay). Nhà vua sai em là hoàng tử Pãên (tiếng Việt là Phan) chiếm thành Sambhupura (Sambor) trên sông Mékong, bắt được nhiều tù binh cùng vàng bạc và của cải mang về nước.
    Dẹp xong loạn phương Nam, Harivarman IV tập trung phục hồi đất nước. Mặc dù vẫn duy trì triều đình tại Vijaya, nhà vua sửa sang lại các nơi thờ phượng khác trên toàn quốc và cho xây dựng lại các thánh địa tôn giáo tại Indrapura (Đồng Dương) và Sinhapura (Mỹ Sơn). Hoàng tử Pãn đích thân đôn đốc việc trùng tu các đền thờ tại Sinhapura (Mỹ Sơn). Dưới triều vua Harivarman IV, Chiêm Thành trù phú trở lại, đền đài cung điện tìm lại những nét huy hòang tráng lệ ngày xưa.
    Năm 1080, Harivarman IV nhường ngôi cho con là thái tử Văk Pulyan Rajadvara, 9 tuổi. Tân vương lên ngôi năm 1081, hiệu Jaya Indravarman II (Chế Ma Na). Chú là hoàng tử Pãn thế quyền giám quốc. Nhưng không biết vì nguyên do nào mà cả triều thần và thái tử Văk đồng tôn Pãn lên làm vua, hiệu Sri Paramabodhisatva (Si-bà Ra-ma Bồ-đề Sát-bà). Paramabodhisatva giao hảo tốt với Đại Việt, mục đích chính của nhà vua là duy trì sự thống nhất của Chiêm Thành, vì lúc đó một tiểu vương Panduranga tên Rudravarman ly khai, không công nhận vương quyền phương Bắc. Thật ra sự ly khai này đã xảy ra từ 16 năm trước, nhưng triều đình Vijaya vì bận lo giải quyết những vấn đề khác cấp bách hơn nên chưa ra tay. Tiểu vương Rudravarman bị đánh bại, Panduranga bị dưới quyền cai trị trực tiếp của Phật Thành (Vijaya).
    Năm 1086, nội bộ Chiêm Thành xảy ra nội chiến. Thái tử Văk (Jaya Indravarman II) được triều đình thúc đẩy muốn cầm quyền trở lại. Ước muốn này gặp sự phản đối của vua Paramabodhisatva (hoàng tử Pãn) - người muốn đưa trưởng nam của mình là hoàng tử Pulyan Sri Yavaraja lên ngôi - đã tìm mọi cách loại trừ thế lực của thái tử Văk nhưng không được. Cuối cùng Paramabodhisatva mất tích, phe của ông bị phe của thái tử Văk giết hết. Jaya Indravarman II lên ngôi và tiếp tục triều cống Đại Việt. Năm 1092, Jaya Indravarman II nhờ nhà Tống giúp đòi lại vùng đất đã mất nhưng không kết quaœ.
    Năm 1103, một người Việt ở phủ Diên Châu (Nghệ An) tên Lý Giác nổi lên làm phản. Lý Thường Kiệt vào đánh, Lý Giác thua chạy sang Phật Thành (Vijaya) thuyết phục vua Jaya Indravarman II hưng binh chiếm lại vùng đất đã mất. Lý Thường Kiệt một lần nữa phải thân chinh đi dẹp lọan, Jaya Indravarman II bị thua phải trả lại ba châu đã chiếm và chịu triều cống trở lại năm 1104.
    Nhà Lý liền phân chia lại các châu vừa lấy lại như sau : châu Bố Chánh gồm huyện Nam Bố Chánh (Bố Trạch ngày nay) và huyện Bắc Bố Chánh (Quảng Trạch và Tuyên Hóa ngày nay), châu Lâm Bình (Địa Lý cũ) gồm huyện Phong Lộc (Quảng Ninh ngày nay) và huyện Phong Đăng (sau gọi là Phong Phú, tức huyện Lệ Thủy ngày nay). Hai huyện Phong Lộc và Phong Phú là vựa lúa lớn nhất của đất Indrapura. Châu Minh Linh (Ma Linh cũ) được chia thành hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh.
    Năm 1113, cháu Jaya Indravarman II là Harivarman V lên ngôi, tân vương giữ nguyên chính sách cai trị của chú, quan hệ giữa Chiêm Thành và Đại Việt rất là thân thiết. Harivarman V trị vì đến năm 1129 thì mất không người kế vị, Chiêm Thành lâm cảnh loạn lạc. Vương triều Panduranga không chịu sự cai trị của Vijaya, liên kết với Chân Lạp đánh lại. Hai miền Nam Bắc đánh phá lẫn nhau trong suốt 10 năm (1129-1139).
    __Duc__No_____soccer thích bài này.
  5. atlas07

    atlas07 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/08/2015
    Bài viết:
    6.201
    Đã được thích:
    3.185
    Năm 1191 tại Vijaya, Surya Jayavarman (hoàng tử In) bị Rasupati, một hoàng thân Champa, đánh bại phải chạy về lại Chân Lạp. Rasupati tự xưng là vua xứ Vijaya, hiệu Jaya Indravarman V. Không nhìn nhận vương quyền mới này, Jayavarman VII cho Jaya Indravarman IV (cựu vương Chiêm Thành và cũng là thân phụ của hoàng tử In) về Bắc Chiêm Thành chiếm lại ngôi báu. Jaya Indravarman IV được Suryavarman (hoàng thân Sri Vidyananda) tiếp sức mới chiếm được Vijaya, Rasupati (Jaya Indravarman V) bị xử trảm. Thay vì giao thành lại cho vua Chăm cũ, Suryavarman chiếm luôn Vijaya ; Jaya Indravarman IV liền kêu gọi dân chúng tại Amavarati và các làng Ulik, Vyar, Jriy, Traik chống lại. Năm 1192, Jaya Indravarman IV bị tử trận tại Traik. Suryavarman thống nhất lại đất nước, lên ngôi vua và tìm cách tách khỏi ảnh hưởng của đế quốc Angkor.
    Hay tin hoàng thân Suryavarman làm phản, Jayavarman VII cử đại quân, trong số này có cả người Thượng (do tướng Jai Ramya cầm đầu), sang đánh Chiêm Thành. Cuộc chiến kéo dài từ 1193 đến 1194, đại quân Khmer bị đánh bại. Thay vì theo quân Khmer về nước, một người Djarai tên Sri Agara chiếm một vùng đất lớn từ Amavarati đến Pidhyan (Phú Giang, bắc Phú Yên) rồi tự xưng vương năm 1193, hiệu Patau Ajna Po Ku.
    Tuy đẩy lui được quân Khmer, Suryavarman vẫn lo sợ. Năm 1194, ông dời cư lên Amaravati (Quảng Nam) tránh nạn và giao hảo tốt với Đại Việt năm 1198, bằng cách triều cống hằng năm, và được vua Lý Cao Tông (Long Cán) phong vương năm 1199. Đất nước được thái bình trong vài năm thì Suryavarman bị chú là Yuvaraja on Dhanapati Grama (Bố Do) soán ngôi năm 1203. Dhanapati Grama đưa quân Khmer vào chiếm Amaravati, Suryavarman dẫn một hải đội hơn 200 chiến thuyền chạy vào cửa Cửu La (Nghệ An) xin tị nạn. Tại đây, vị hoàng thân Chăm (người Việt gọi là Bố Trì) bị Dĩ Mông và Phạm Giêng, hai quan trấn thủ Nghệ An, nghi ngờ. Suryavarman rất buồn lòng, dùng mưu đốt thuyền của Phạm Giêng và giăng buồm ra khơi mất tích.
    Dhanapati được lệnh vua Khmer đánh dẹp các cuộc nổi loạn tại Chiêm Thành, đặc biệt là trên cao nguyên. Patau Ajna Po Ku bị bắt sống đem về Chân Lạp trị tội. Dhanapati được phong toàn quyền cai trị xứ Chiêm Thành. Chiêm Thành trở thành một tỉnh của đế quốc Angkor lần thứ hai. Dhanapati được con trưởng của Jaya Harivarman II (1162-1167), sinh sống tại Chân Lạp, tên Ansaraja Turaivijaya phụ lực cai trị Chiêm Thành. Turaivijaya cai quản đất Amavarati, tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Đại Việt (Nghệ An) trong những năm 1207, 1216 và 1218 ; tất cả đều bị quan trấn thủ Nghệ An Lý Bất Nhiêm đẩy lui. Chiêm Thành bị đế quốc Angkor tái đô hộ trong suốt 17 năm (1203-1220). Năm 1220 bị quân Xiêm La làm áp lực tại chính quốc, quân Khmer rút khỏi Chiêm Thành. Trong gần 100 năm chống chọi và bị Angkor đô hộ, Chiêm Thành bị kiệt quệ.
    Quân Chân Lạp vừa rút khỏi Chiêm Thành, hoàng tử Ansaraja Turaivijaya (tên Khmer là Sri Ajirang) được hoàng tộc Chăm tôn lên làm vua, hiệu Jaya Paramesvaravarman II, đóng đô tại Viyaja. Vừa lên ngôi, tân vương cho xây lại những tượng đài bị đập phá tại tháp Sri Sanabhadresvara (Mỹ Sơn) và Po Nagar (Nha Trang), xây thêm các đập nước, mở rộng diện tích dinh điền, đất nước phồn thịnh trở lại ; nhiều bộ lạc Thượng trên Tây Nguyên về thần phục. Năm 1230, hoàng tử Abhimanyuvarman, một vương tôn tỉnh Pankaja người Cathei, được Jaya Paramesvaravarman II cử làm thống lãnh đất Panduranga. Những tiểu vương kế nghiệp ông được biết đến sau này tại Panduranga là Po Unvavah, Po Binasur, Po Putrik v.v... (Tên những vương tôn Chăm tại miền Nam Chiêm Thành, hay tại Panduranga sau này, đều kèm theo chữ Po (Pô, Pu, Pou hay Poh), có nghĩa là Ông, Ngài hay Vua). Năm 1244, vua Chiêm tổ chức nhiều đợt tấn công vào duyên hải Nghệ An và Thanh Hóa, chiếm đóng Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh.
    Tại Đại Việt, sau khi ổn định triều chính, năm 1252 Trần Thái Tôn dẫn đại quân đi đánh Chiêm Thành. Cuộc tiến công kéo dài gần một năm, thành Vijaya thắt thủ, vương phi Bố Gia La cùng nhiều cung phi, tù binh và quan chức triều đình Chăm bĩ bắt mang về Đại Việt. Jaya Paramesvaravarman II bị tử trận năm 1254, em là hoàng tử Sakan Vijaya lên thay, hiệu Jaya Indravarman VI. Jaya Indravarman VI duy trì giao hảo với Đại Việt, triều cống đều đặn. Năm 1257, nhà Trần rút quân về nước, lúc đó đang bị quân Nguyên (Mông Cổ) đe dọa.
    Năm 1257, Jaya Indravarman VI bị ám sát, hoàng tử Pulyan Sri Yuvaraja, con người chị (công chúa Suryadevi) lên thay, hiệu Jaya Sinhavarman VI. Năm 1266, hoàng tử Chay Nuk, con Jaya Paramesvaravarman II, lên kế vị, hiệu Indravarman V. Indravarman V tiếp tục giao hảo tốt với Đại Việt. Năm 1278, Indravarman V sai hai sứ giả (Bồ Tinh và Bồ Đột) sang Đại Việt xin bảo hộ và thành lập một liên minh chống lại quân Mông Cổ.
    Hay tin này, năm 1281, vua Nguyên (Hốt Tất Liệt) cử hữu thống chế Toa Đô (Sogatu) và tả thống chế Lưu Thâm cùng tham chính A Lý và Ô Mã Nhi mang
    10 vạn thủy binh từ Quảng Châu sang Chiêm Thành buộc Indravarman V phải đích thân về Trung Nguyên triều cống. Không chống nổi quân Mông Cổ, Indravarman V chịu đặt Chiêm Thành dưới sự bảo hộ của nhà Nguyên năm 1282. Toa Đô được nhà Nguyên phong làm thống đốc toàn quyền cai trị xứ Chiêm Thành, tiểu vương Chăm nào chịu theo quân Nguyên đều được phong làm phó vương.
    Hoàng tử Harijit Po Devada Svor (hay Po Depitathor), con Indravarman V, cùng mẹ là hoàng hậu Gaurendraksmi, không chấp nhận sự đô hộ của Mông Cổ rút vào rừng, tổ chức kháng chiến. Harijit mộ được khoảng 20.000 người, gồm đủ mọi các sắc tộc Thượng sinh sống trên cao nguyên Ya Heou, phía tây bắc Chiêm Thành, tấn công quân Nguyên trên khắp lãnh thổ Bắc Chiêm Thành. Năm 1283, Toa Đô dẫn đầu một đoàn quân gồm 5.000 người, 100 tàu và 250 thuyền đi dọc theo bờ biển và các con sông lớn đổ bộ lên Tây Nguyên nhưng bị đánh bại. Quân Mông Cổ - một phần bị bệnh tật, không chịu đựng nổi khí hậu nóng nực của miền nhiệt đới, một phần vì đói kém, thiếu tiếp liệu từ lục địa - phải rút về trấn giữ đồng bằng.
    Tháng 4-1285, Toa Đô cùng Ô Mã Nhi mang hải đội từ Chiêm Thành, trong đó có đội thủy binh người Chăm, tiến lên ra Bắc hợp với Thoát Hoan vây thành Thăng Long, kinh đô của Đại Việt. Quân của Thoát Hoan bị quân Trần đánh bại phải rút về nội địa, quân của Toa Đô bị đánh tan tại Nghệ An. Toa Đô bị chết tại trận, quân Trần bắt được rất nhiều tù binh Mông Cổ và Chăm, trong đó có hai tướng Chăm tên Lậu Khê và Na Liên, bị trả về cho vua Chiêm Thành xử tội. Những binh lính Chăm khác theo Mông Cổ, không dám về lại quê cũ, theo quân Nguyên về Hoa lục và được cho định cư trên đảo Hải Nàm, bờ biển nam Quảng Châu, nơi đã có nhiều người Chăm khác đến lập nghiệp từ năm 992 dưới thời Lưu Kỳ Tông. Những binh lính Chăm này, đa số theo đạo Hồi, đã lập gia đình với người địa phương và ở lại lập nghiệp. Đây là đợt di dân thứ hai của người Champa ra hải ngoại.
    Năm 1288 Indravarman V mất, hoàng tử Harijit lên ngôi, hiệu Jaya Sinhavarman III (Chế Mân), đặt kinh đô tại Vijaya. Mặc dù không triều cống nhà Trần, bang giao giữa Đại Việt và Chiêm Thành rất là thắm thiết. Chỉ một thời gian ngắn sau Chiêm Thành hùng mạnh trở lại, các vương quốc lân bang, trong có Đại Việt cử người sang thông hiếu đều đặn. Nhiều đền đài được xây cất cả tại đồng bằng lẫn trên cao nguyên. Chế Mân cho xây một tháp trên đồi Chok Hala, gọi là đồi Trầu, để dân chúng đến tế lễ, sau này là tháp Po Klong Garai (Tháp Chàm Phan Rang).
    Năm 1292 và 1293, trên đường tiến đánh Java (Indonesia) và Madjapahit (Mã Lai) quân Mông Cổ xin vào bờ mua tiếp liệu nhưng bị Chế Mân từ chối, phải giương buồm đi tiếp. Cũng nên biết Chế Mân có rất nhiều quan hệ tình cảm với các tiểu vương Nam Đảo. Vợ cả của Chế Mân là vương phi Bhaskaradevi, con một đại vương Java ; thứ phi là hoàng hậu Tapasi, con gái một tiểu vương Yavadvipa (Mã Lai). Lãnh thổ Chiêm Thành trong thời kỳ này được nới rộng lên cao nguyên Darlac và Langbian, Chế Mân cho xây một đền thờ tại Yang Prong (An Khê) để đón nhận phẩm vật triều cống của những bộ lạc Thượng trên Tây Nguyên.
    __Duc__No_____soccer thích bài này.
  6. nuadieuthuoc

    nuadieuthuoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    17/11/2015
    Bài viết:
    6.673
    Đã được thích:
    1.889
    Ông Ất chắc biết xem phong thuỷ nhỉ
    __Duc__No_____ thích bài này.
  7. atlas07

    atlas07 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/08/2015
    Bài viết:
    6.201
    Đã được thích:
    3.185
    công chúa Huyền Trân và 2 châu Ô Lý
    bối cảnh xảy vụ Huyền Trân là đời Trần Anh Tông. Lúc này Đại Việt đang trên đường cường thịnh. Phía bắc nhà Nguyên đã thừa nhận vương triều nhà Trần. biên giới phía bắc đã yên ổn. Đại Việt đã đánh thắng Ai Lao thu rất nhiều chiến lợi phẩm. Quá trình đồng hoá vùng đất Bố Chính Quảng Bình sau hàng trăm năm đã hoàn tất. Đại Việt muốn tiến xa hơn về phương nam.
    trước đó dưới thời Trần Nhân Tông Đại Việt và Chiêm Thành có mối quan hệ đồng minh khi cùng đánh Chiêm Thành. Trần Nhân Tông trong vai trò Thượng Hoàng trong chuyến đi thăm thú Chiêm Thành và ở dây 8 tháng đã có đề nghị Đại Việt và Chiêm Thành kết đồng minh thông qua cuộc hôn nhân giữa Chế Mân và con gái là công chúa Huyền Trân.
    nhưng lúc này khi Trần Anh Tông lên ngôi mọi chuyện đã khác. các tướng lĩnh đang muốn co chiến tranh để lập công không muốn cuộc hôn nhân này. Họ muốn chinh phục Chiêm Thành bằng vũ lực để tiện cướp phá lập công. Vì vậy khi Chế Mân nhiều lần cho sứ giả sang bàn hôn nhân với nhà Trần các võ tuớng đều phản đối chỉ có Trần Đạo Tái và Trần Khắc Chung là hai quan văn ủng hộ cuộc hôn nhân này.
    Trước đây thời nhà Lý vua thường gả công chúa cho các tù trưởng dân tộc để yên biên giới như Thân cảnh phúc thân Thiệu Thái… nhưng đến đời Trần thì khi vua gã công chúa Huyền Trân thì các quan lại phản đối. Bản thân Anh Tông cũng không đồng ý có lẽ vì ông cũng có tham vọng như các võ tướng muốn mở rộng lãnh thổ bằng cách chuẩn bị chiến tranh cùng chiêm thành để tiến xa hơn về phương nam.
    biết được ý đồ trên. Cuối cùng Chế Mân đành hạ cờ tung chiêu độc tháng 6 năm 1306 Chế Mân quyết định dâng hai châu Ô Lý ngày nay là vùng đất Thừa thiên Huế và Quảng Trị đén bắc đèo Hải vân làm sính lễ để cưới công chúa Huyền Trân tránh cuộc chiến tranh với Đại Việt mà phần bất lợi gần như sẽ thuộc về phía Chế Mân. Nhận được sính lễ to lớn này và thoả được nguyện vọng Trần Anh Tông không còn gì để phản đối cuộc hôn nhân tiến hành Công chúa khi về Chiêm Thành, được phong làm Vương Hậu thứ 2 với phong hiệu là Paramecvari. Vì trước đó Chế Mân đã có Hoàng hậu người Java ( indonesia) cũng là tín đồ đạo Bà la môn là Tapasi.
    như vậy cuộc hôn nhân của Huyền Trân là 1 vở kịch mà ở đó 2 bên Chiêm Thành và Đại Việt đều đạt mục đích của mình. Đại việt có được thứ mình muốn là châu Ô và Lý để mở mang bờ cõi còn Chiêm thành có được điều mình muốn là hoà bình. Chế Mân hy vọng sau cuộc hôn nhân này Đại Việt và Chiêm thành sẽ bền chặt để ông ta yên ổn xây dựng lực lượng.
    Nhưng bất ngờ chỉ 1 năm sau Chế Mân trong 1 chuyến đi săn đã ngã ngựa chết vào tháng 5 năm 1307. Lúc này Huyền Trân vừa hạ sinh hoàng tử Chế Đa Đa được 1 tháng. Vị vua nối ngôi là Chế Chí là con trai của Chế Mân và vương hậu người Java là Tapasi. Ông này không hiền lành như Chế Mân mà có tham vọng đòi lại 2 châu Ô Lý. Lúc này vấn đề Huyền Trân trở thành khúc mắc lớn.
    sử cũ chép lại rằng vì phong tục của người Chiêm là vua chết sẽ đem Huyền Trân lên giàn hoả để hoả thiêu cùng chồng nên vua Trần Anh Tông đã ra lệnh cho Trần Khắc Chung sang giả đò viếng tang cướp công chúa về. Trần khắc chung sang lừa người chiêm bảo là đem công chúa ra biển thiêu người chiêm đồng ý nhưng Trần khắc chung giả đò cho người cướp công chúa về trên đường lênh đênh 1 năm mới về lại Đại Việt. công chúa và Trần Khắc Chung đã có tư tình cùng nhau. Thậm chí có 1 số tiểu thuyết gia còn thêu dệt chuyện Trần Khắc chung và công chúa là tình thanh mai trúc mã yêu nhau từ trước khi cưới Chế Mân. Đây là những câu chuyện đầy tính vô lý.
    người chăm theo đạo bà la Môn. theo phong tục người chồng chết thì vợ phải lên giàn hoả nhưng người vợ phải là tín đồ đạo bà la môn và phải là vợ cả. Điều này xuất phát từ tục thờ thần Shiva theo đó vợ thần shiva để bảo tồn danh dự cho chồng đả tự mình hoả thiêu. vì vậy tín đồ Bà la môn khi chồng chết thì bắt vợ hoả thiêu để bảo tồn danh dự.
    nhưng Huyền Trân không nằm trong trường hợp này vì vợ cả của Chế mân là Tapasi mới phải lên giàn hoả còn Huyền Trân chỉ là vợ thứ lại là người Đại việt không phải theo đạo bà la môn nên Huyền Trân có muốn lên giàn hoả cũng không được. Nếu đem Huyền Trân đi thiêu là xúc phạm đến thần shiva.
    Hơn nửa Chế Mân chết từ tháng 5. Tháng 9 Chiêm Thành mới cho sứ sang báo tang tháng 10 vua Trần mới cử Trần Khắc Chung vào viếng tang. Nếu theo phong tục bà la môn người vợ sẽ phải thiêu cùng xác chồng. như vậy sau 5 tháng nhà Trần mới cử Khắc chung đến. nếu Huyền Trân bị thiêu thì đã thiêu từ đời nào Khắc chung đến chưa chắc đã còn tro cho Khắc chung lượm về.
    huống chi kinh đô Bình định nằm sâu trong lãnh thổ Chiêm Khắc chung có thể cho người đột nhập vượt qua phòng tuyến quân sự và binh lực dày đặc bảo vệ kinh đô cướp được công chúa và vượt biển đem về là chuyện không tưởng việc này tương tự đặc nhiệm mỹ đột nhập pakistan bắn chết osama và rút lui an toàn khiến cho pakistan không hay biết. Đây là nhiệm vụ bất khả thi. Huống chi Trần khắc chung lại chỉ là quan văn.
    Chế chí là con trai cả của chế mân và hoàng hậu người java khi chế mân chết chế chí lên ngôi năm 23 tuổi.
    Lúc này bà công chúa huyền trân trở thành cái gai trong mắt chế chí. Để thì chướng mắt giết thì không dám trả lại thì lỗ to. Cho nên 4 tháng sau lên ngôi chế chí mới cho người sang báo tang về cái chết của chế mân cho nhà trần.
    Khác với chế mân, người đã chứng kiến sức mạnh quân sự của đại việt khi đánh nguyên nên rất ôn hoà. Chế chí suy nghĩ khác hơn và muốn đòi lại đất. Ông quyết định dùng bà huyền trân để trao đổi với đại việt vấn đề liên quan đến ô lý.
    Lúc này trần anh tông muốn đón em gái về. Một phần vì tình anh em và huyền trân là con gái út của thượng hoàng nhân tông người tuy tu hành trên yên tử nhưng quyền lực cũng rất to với triều đình.
    Hơn nửa nhân việc đón huyền trân về trần anh tông cũng muốn chấm dứt thời kỳ hoà hoãn với chiêm thành chuẩn bị cho chiến tranh.
    Như vậy cả đại việt và chiêm đều có toan tính trong vụ huyền trân. Ai cũng xem cô ấy là con cờ tùy sắp đặt.
    Việc đón huyền trân về chỉ có thể thông qua đường ngoại giao đàm phán. Vì thế nhà trần cử trần khắc chung sang viếng tang và tìm cách điều đình đón công chúa về.
    Vì sao lại cử trần khắc chung? Vì chung là nhà đàm phán và ngoại giao giỏi nhất của nhà trần khi quân nguyên sang chiếm năm 1285 trần khắc chung một mình vào trại quân nguyên đàm phán khiến ô mã nhi kính phục: nước nó còn có nhân tài. Chưa dễ đánh hạ được đâu.
    Vì tài ngoại giao xuất sắc nên trần khắc chung mới được giao sứ mệnh này. Hơn nửa khắc chung sinh năm 1247 thời điểm sang chiêm đàm phán đón công chúa về năm 1307 thì ông đã hơn 60 tuổi. Cho nên chuyện ông và công chúa yêu nhau là chuyện rất hoang đường.
    Việc điều đình giữa chế chí và khắc chung không hề đơn giản. Chế chí muốn nhân việc trả huyền trân về và đòi lại đất. Nhà trần thì muốn đón về vô điều kiện nên hai bên dùng dằng việc đàm phán kéo dài cả năm. Cuối cùng chế chí chấp nhận trả huyền trân cho đại việt. Có lẽ nhà trần đã chấp thuận điều kiện nào đó của ông ta.
    Lần cập nhật cuối: 15/06/2018
    __Duc__No_____ thích bài này.
  8. atlas07

    atlas07 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/08/2015
    Bài viết:
    6.201
    Đã được thích:
    3.185
    Chế chí ở nhà đợi mãi mà chẳng thấy nhà trần đáp ứng nên ông ta điên máu. Bắt đầu xúi dân chiêm ở vùng thuận quảng là hai châu ô lý cũ làm loạn có ý tách khỏi đại việt.
    Lấy cớ chiêm nổi loạn năm 1311 Trần Anh Tông mang đại quân đi đánh Chiêm. Đến trại Câu Chiêm, Anh Tông dụ Chế Chí. Chế Chí biết mình thế yếu bèn theo đường biển ra hàng. Anh Tông tuy phong Chế Chí làm vương nhưng bắt về giam lỏng ở Gia Lâm, cho em Chí là Chế Đà A Bà Niêm làm tước hầu, trấn giữ nước Chiêm.
    Chế a bà niêm lên ngôi lấy hiệu là chế năng. Chế năng cũng noi gương anh mình là chế chí quyết tâm đòi lại ô lý. Chế năng năm 1314 đem quân ra bắc lấy lại châu ô lý. Đến 1318 nhà trần cử phạm ngũ lão và trần quốc chẩn đem đại quân đánh xuống đồ bàn. Chế năng thua trận đem toàn bộ gia quyến bỏ chạy sang java. Dòng họ chế mân chính thức kết thúc. Ngôi vua được nhà trần trao cho chế a nan là một viên tướng trong triều nhà chiêm.
    sau 2 lần phải cho quân đối phó với anh em Chế Chí và Chế năng đều là con của Chế Mân nên nhà Trần sau thắng lợi năm 1318 đã quyết định xóa xổ luôn dòng họ Chế Mân và đem lập triều đại mới . Họ đưa Chế A nan là 1 viên tướng của triều đình Chăm không liên quan gì đến hoàng tộc cũ nhà Chăm lên làm vua nước Chăm.
    chế a nan vì không thuộc hoàng tộc nhà Chăm nên bị triều thần chống đối. Vì vậy anh khôn ngoan đã đi trước 1 bước năm 1323 Chế an nan cử em trai đi sứ nhà Nguyên xin được triều cống và được chấp thuận. được nhà Nguyên phong vương Chế A nan đã dẹp yên triều đình và tách ra khỏi vị trí lệ thuộc của Chiêm với Đại Việt. Chiêm giờ không còn là chư hầu của Đại Việt mà quan hệ thẳng với nhà NGuyên. Đại việt tức lắm cho quân xuống bình định nhưng Huệ Túc Vương đem quân xuống thất bại. Nhà Trần đành bó tay không can thiệp được vào chuyện Chiêm Thành nửa. sau này khi Chế A nan mất nhà Trần bảo hộ con trưởng của Chế A nan là Chế Mỗ về tranh ngôi với con rể Chế A nan là Trà Hòa nhưng thất bại. Chiêm Thành tách ly khỏi Đại Việt thành công.
    sau cái chết của Trà Hòa. các quan đồng lòng tôn Chế Bồng Nga là con thứ của Chế A nan làm vua Chiêm. Cơn ác mộng của nhà Trần chính thức bắt đầu.
    có thể nói chính việc nhà Trần can thiệp vào nội bộ Chiêm Thành lập Chế A nan người không liên can gì hoàng tộc cũ làm vua khiến ông này khôn ra, tìm đường đi mới bằng cách giao thiệp thẳng với Trung Hoa không qua Đại Việt. chính sách này được Chế Bồng Nga triệt để thi hành. Chính nhờ sự bảo kê của Trung Hoa mà Đại Việt mỗi khi đánh Chiêm đều phải cân nhắc kỹ.
    [​IMG]
    Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Trần 1306
    __Duc__No_____ thích bài này.
  9. atlas07

    atlas07 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/08/2015
    Bài viết:
    6.201
    Đã được thích:
    3.185
    lúc này bên Trung Hoa xảy ra biến cố mới là Chu Nguyên Chương đánh bại nhà Nguyên lên ngôi và lập ra nhà Minh. vua nhà Minh gửi chiếu thư đầu tiên liên lạc ngoại giao với Chiêm Thành [Champa] và một số nước khác vào tháng Giêng năm Hồng Vũ thứ 2:
    Ngày 20 tháng Giêng năm Hồng Vũ thứ 2 [26/2/1369]
    Sai Sứ giả mang tờ chiếu lên ngôi dụ các nước Nhật Bản, Chiêm Thành, Trảo Oa [Ja Va], và Tây Dương. (Minh Thực lục v. 2 , t. 0775; Thái Tổ q. 38, t. 11a)
    Riêng đối với nước Champa thì lúc Sứ giả chuẩn bị ra đi, Chế Bồng Nga đã nhanh tay cho người đến trước; triều cống:
    Ngày 4 tháng 2 năm Hồng Vũ thứ 2 [12/3/1369]
    Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả sai quan là Hổ Đô Man cống cọp, voi, và sản vật địa phương.
    Chu Nguyên Chương có chiếu khen ngợi như sau
    Ngày mồng bốn tháng 2 năm nay, Hổ Đô Man đến dâng cọp, voi; lòng thành của Vương, Trẫm đã hiểu rõ. Tuy nhiên lúc Hổ Đô Man chưa tới, Sứ giả của Trẫm cũng sẵn sàng trên đường đi đến nước Quốc vương. Sứ giả của Trẫm đến để báo cho Quốc vương biết rằng trước đây nước Trung Quốc bị rợ Hồ [Nguyên Mông] trộm chiếm hàng trăm năm, khiến tập tục man di đầy rẫy, phế bỏ Trung quốc phong hóa. Trẫm khởi binh trong vòng 20 năm, dẹp sạch bọn chúng, làm chủ Trung Quốc, thiên hạ bình an. Sợ các Di trong bốn phương chưa biết, nên sai Sứ giả báo tin cho các nước. Không ngờ Sứ giả nước của Vương tới trước, lòng thành thể hiện vững vàng, khiến Trẫm rất vui. Nay ban một bản lịch Đại Thống, 40 bộ y phục lụa là, lụa ỷ dệt kim tuyến; sai người đưa Sứ giả về nước. Lại dụ vương về đạo [thờ nước lớn], Vương nên phụng thờ coi như đạo trời, khiến dân Chiêm Thành yên với nghề nghiệp, Vương giữ được lộc vị truyền đến con cháu; trời đất soi xét sự cố gắng, Vương chớ xem thường. Hổ Lao Man và đám tùy tùng cũng được ban lụa là, lụa ỷ hoa văn, có phân biệt
    như vậy bằng sách lược ngoại giao thông minh. Chế Nga đã tranh thủ được cảm tình của nhà Minh và tạo thuận lợi trong kế hoạch đánh Đại Việt sau này khi được nhà Minh bảo kê.
    __Duc__No_____ thích bài này.
  10. atlas07

    atlas07 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/08/2015
    Bài viết:
    6.201
    Đã được thích:
    3.185
    lúc này sau thời đại cường thịnh của Anh Tông và Minh Tông nhà Trần bắt đầu suy yếu nhanh chóng và trở nên đớn hèn. Nguyên nhân về duy tâm có lẽ bắt đầu từ việc vua Trần Minh Tông vì để chữa bệnh bất lực cho con trai là Trần Dụ Tông đã làm việc loạn luân trái với đạo lý người việt là cho 2 chị em ruột là Thiên Ninh và Dụ Tông quan hệ với nhau theo lời thầy thuốc Trâu Canh( có lẽ Trâu Canh báo thù việc bị nhà Trần bắt làm tù binh)
    các vua nối tiếp như Trần Dụ Tông thì đớn hèn bất lực để cho Dương Nhật lễ la người khác họ cướp ngôi nhà Trần suýt mất ngôi vị may nhờ Trần Nghệ Tông đoạt lại ngôi vị giết được mẹ con Dương Nhật lễ. Nghệ Tông lên ngôi sau đó nhường ngôi cho Duệ Tông mình lên làm thượng hoàng.
    mẹ Nhật Lễ trốn sang nước Chiêm, bày tỏ tình hình suy yếu của nước ta và xui Chế Bồng Nga sang đánh. Quân Chiêm vào đến Thái Tô, huyện Thọ Xương. Quân Trần chống cự không nổi. Theo sử thuật lại, ông đi thẳng vào Thăng Long "như đi vào chỗ không người", không nơi nào có quân chống giữ. Vua Nghệ Tông bỏ chạy khỏi kinh đô khiến quân Chiêm vào Thăng Long lấy hết vàng bạc châu báu, bắt cả đàn bà trẻ con rồi đốt sạch cung điện, sách vở. Tháng 3 nhuận năm 1371, Chế Bồng Nga mang quân ra đánh. Quân Chiêm vượt biển đánh vào cửa Đại An, tiến thẳng vào kinh thành Thăng Long. Ngày 27 tháng 3 ÂL, quân Chiêm tiến vào Thăng Long, cướp phá cung điện, bắt phụ nữ, lấy của cải ngọc lụa mang về.
    anh Chế Nga rất khôn ngoan. sau khi đánh vào Thăng Long cướp phá xong anh lại cho sứ sang khóc lóc kể khổ với Chu Nguyên Chương, Vừa ăn cướp vừa la làng.
    vua Champa Chế Bồng Nga lại sai sứ sang Trung Quốc dâng biểu, văn bản được trân trọng khắc trên vàng lá, tố cáo ta xâm lấn; xin được viện trợ vũ khí, nhạc khí cùng dạy cho âm nhạc để không còn bị coi thường:
    Ngày 25 tháng 7 năm Hồng vũ thứ 4 [5/9/1371]
    Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả sai bầy tôi Đáp Ban Qua Bốc Nông đến triều đình dâng biểu về việc An Nam xâm lấn đất. Biểu viết trên vàng lá, dài hơn 1 xích, bề ngang 5 thốn , bằng chữ nước này, dịch ý như sau:
    “Hoàng đế Đại Minh lên ngôi cao quí, chức vị coi sóc bốn biển, như trời đất che chở; mặt trời, mặt trăng soi sáng. Ha Đáp Ha Giả chỉ đáng là một cây cỏ mà thôi, được ơn Hoàng đế ban cho ấn vàng, phong làm Quốc vương; lòng trung thành hân hoan đội ơn vạn bội. Duy việc An Nam dùng binh xâm nhiễu bờ cõi, giết bắt quan lại nhân dân; nguyện được Bệ hạ nghĩ đến ban cho binh khí, nhạc khí, chuyên viên về âm nhạc; khiến An Nam biết Chiêm Thành được trang bị thanh giáo, là nước triều cống Trung Quốc, thì An Nam không dám khinh thường.”
    chu Nguyên Chương nhận được lễ vật thì cho sứ đáp trả như sau
    Lân quốc giao thiệp, đạo lý là phương sách hay để giữ đất, thờ nước lớn tận lòng thành để làm trọn lễ của bề tôi. Vả lại Chiêm Thành và An Nam đã là bề tôi thờ triều đình, cùng phụng thừa lịch Chính Sóc, lại gây việc binh khiến độc hại sinh linh, đã trái lễ phụng sự bề trên, lại sai đường giao hảo giữa lân bang. Đã báo cho Quốc vương An Nam bãi binh ngay, bản quốc cũng nên để hai bên tôn trọng giữ gìn cương thổ. Việc xin Thiên tử binh khí thì nào có tiếc gì, nhưng Chiêm Thành và An Nam đang tranh chấp, mà triều đình lại cho riêng Chiêm Thành, là giúp ngươi đánh nhau, rất trái với đạo chiêu an. Việc xin nhạc khí và chuyên viên âm nhạc, thì về thanh luật Trung Quốc và nước ngoài không khác, nhưng về ngữ âm thì có sự sai biệt giữa Hoa và Di, như vậy khó có thể điều khiển. Nếu nước ngươi có kẻ tập nói được tiếng Hoa, có thể dạy cho âm luật; hãy tuyển chọn một số người đến kinh đô học tập.”
    Lại dụ Hành Tỉnh Phúc Kiến nếu thuyền bè Chiêm Thành ghé bờ thì cho miễn thuế, để tỏ ý mềm dẻo quyến luyến. (Minh Thực lục v. 3, q. 67, trang 1260-1261)
    ngoài ra anh chế Nga còn phô diễn thực lực bằng cách ra tận biển đông bắt giùm cướp biển Nụy khấu là nhật bản đang uy hiếp bờ biển cho Chu Nguyên Chương làm anh Chu rất mực hài lòng:
    Ngày 12 tháng Một năm Hồng Vũ thứ 6 [26/11/1373]
    Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả sai bọn bầy tôi Dương Bảo Ma Ha, Bát Đích Duyệt Văn Đán dâng biểu, cống phương vật. Lại tâu rằng bọn giặc bể Trương Nhữ Hậu, Lâm Phúc tự xưng là Nguyên soái cướp phá trên biển, bị Quốc vương đánh bại. Bọn Nhữ Hậu bị chết trôi. Bắt được 20 chiếc thuyền biển, 7 vạn cân tô mộc, cùng tên giặc Ngô Đệ Tứ đem đến hiến. Thiên tử vui lòng, mệnh ban cho Vương nước này 40 tấm lụa là, văn ỷ; cho Sứ giả 2 tấm lụa là, 4 tấm văn ỷ, 1 bộ y phục, 1 vạn 2 ngàn đồng tiền; những người đi theo được ban thưởng có phân biệt. (Minh Thực lục v. 4, q. 84, t. 1505)
    Vết thương nhức nhối cho các triều đại nhà Minh là nạn cướp biển hoành hành, cầm đầu bởi người Nhật mà sử Trung Quốc gọi là giặc Nụy (Nụy khấu). Liên hệ đến văn học nước ta, ngay cuộc đời thực của anh hùng Từ Hải trong Truyện Kiều cũng đã từng tham gia “giặc Nụy”. Giặc Nụy hoành hành tại biển Đông và vùng duyên hải từ cuối đời Nguyên cho đến triều Minh; bởi vậy, việc nước Champa trực tiếp tham gia vào việc đánh cướp biển, phải được vua Minh Thái Tổ đặc biệt o bế:
    Ngày 4 tháng 8 năm Hồng Vũ thứ 7 [11/9/1374]
    Thiên tử phán bảo quan Trung thư Tỉnh rằng: “Mùa thu năm ngoái Quốc vương Chiêm Thành sai sứ là Dương Bảo Ma Ha, Bát Đích Duyệt Văn Đán đến cống; đáp lại, chỉ ban cho lụa văn ỷ, lụa là; còn công bắt giặc thì chưa thưởng. Nay gần ngày sứ trở về nước, có thể sai người mang đồ vật đem cho. Liền sai Tuyên sứ Kim Cừ mang rượu Thượng Tôn, cùng 24 tấm lụa văn ỷ dệt kim tuyến, lụa là, đến Quảng Đông giao cho sứ nước này là Dương Bảo Ma Ha, Bát Đích Duyệt Văn Đán mang về để tặng Quốc vương. (Minh Thực lục v. 4, t.1607-1608; Thái Tổ q. 92,t. 4a-4b)
    __Duc__No_____ thích bài này.

Chia sẻ trang này