1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trò chuyện linh tinh giữa 2 hiệp

Chủ đề trong 'Bóng đá Việt Nam' bởi sole_husband, 20/09/2015.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. anhtrai81

    anhtrai81 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    09/12/2004
    Bài viết:
    1.006
    Đã được thích:
    566
    Công nhận là Huệ ko giỏi giao bang, an dân. Đặc biệt là ko hiểu thế lực của thương nhân và hoa kiểu ở miền Nam. Nhưng tôi đảm bảo nếu Huệ ko chết đột tử thì Ánh lại phải chạy tiếp. Huệ yên đc mặt Bắc mà tập trung vào Ánh thì sợ là Ánh ko ngóc lại được đâu. Có điều triều đại nhà Tây Sơn chắc chắn sẽ ko yên bình như nhà Nguyễn. Tây sơn sẽ phải chinh chiến liên miên.
    Cái chuyện con trưởng con thứ thì ông Sole nói đúng rồi. Con của vợ mới là trưởng. Con của thiếp có sinh ra trước thì vẫn là thứ. Huệ thì chỉ có 3 bà được gọi là vợ thôi.
    Lần cập nhật cuối: 04/01/2016
    Malogs thích bài này.
  2. atlas07

    atlas07 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/08/2015
    Bài viết:
    6.217
    Đã được thích:
    3.187
    Ánh năm 1792 không còn là Ánh của ngày xưa nửa. Ông có biết vì sao Ánh phải xây thành Gia định kiên cố, mua được vũ khí xịn 2000 pháo 1 vạn súng điểu thương 2000 đạn nổ và nhiều lần mua vũ khí khác, mua thuốc nổ đen chế diêm tiêu quan hệ với Xiêm trao đổi hàng hóa... để xây 1 lực lượng vững mạnh. Vì sao Ánh nhờ Xiêm đánh quân của Huệ trên đất Chân Lạp và tự mình phá tan hải quân của Nhạc ở Thị Nại? bởi vì Ánh buộc Huệ phải đánh đường bộ nơi mà đại quân Ánh chờ sẳn. tác chiến trên đồng bằng thì uy lực của pháo và súng điểu thương của Ánh càng tăng lên đáng kể.
    Malogs thích bài này.
  3. atlas07

    atlas07 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/08/2015
    Bài viết:
    6.217
    Đã được thích:
    3.187
    dàn gái của chú Kim nhìn kinh khủng quá. Mà chú post ảnh gái lên đây tôi mở net ngoài cửa hàng nhiều lúc đỏ cả mặt.
    cái gu của chú không hợp với tôi. Nhìn dàn gái xôi thịt và già, mở quá nhiều ngán khủng khiếp
  4. hoalongtrang

    hoalongtrang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/08/2008
    Bài viết:
    2.675
    Đã được thích:
    1.111
    Ô Kim nên mở cái tu pich "Rửa mắt giữa 2 hiệp" rồi post zô đó.
  5. muaxuanbackinh

    muaxuanbackinh Moderator box bóng đá VN

    Tham gia ngày:
    09/07/2003
    Bài viết:
    8.065
    Đã được thích:
    4.148
    Chú Kim ngừng post ảnh nhé, đủ rồi.
    Malogs, atlas07halosun thích bài này.
  6. Rapid_Arrow

    Rapid_Arrow Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/08/2015
    Bài viết:
    1.157
    Đã được thích:
    877
    Nhận thấy địa thế Gia Định là sông ngòi, biển nhiều, đồng thời thiên nhiên cực kỳ ưu đãi các sản vật và tài nguyên cần thiết như dầu cây rái[114], trám, sơn và đặc biệt là gỗ; Nguyễn Ánh ra sức phát triển ngành đóng thuyền.[110] Từ trước khi chính sách chính thức về "ty" và "nậu" ngành thủ công nghiệp, Nguyễn Ánh đã cho thành lập các nậu dầu rái, trám, sơn nhằm phục vụ cho ngành đóng thuyền: từ năm 1790 lệnh cho dinh Trấn Biên và Phiên Trấn mộ dân lập nậu dầu rái với định mức thuế 8 vò dầu, cho miễn lao dịch chỉ phải nộp thêm thuế thân; từ 1791 lệnh lập cá nậu dầu rái ở đạo Long Xuyên với lệ thuế 5 vò dầu và 100 cây nến, miễn hẳn thuế thân.[115] Đến năm 1799, ông thống nhất lệ thuế tất cả các vùng thành 6 vò dầu rái, 50 cây đèn cầy và nửa cây đèn lớn. Cũng cùng cách tổ chức cho các nậu dầu rái, Nguyễn Ánh từ năm 1790 cũng thành lập các nậu dầu trám với lệ thuế 800 cân dầu trám, 1 cây đèn lớn và 40 cây đèn nhỏ, cho miễn lao dịch chỉ phải nộp thuế thân. Các nậu buồm lá ở Trấn Biên và Phiên Trấn hằng năm phải nộp 80 bó buồm.[115] Đối với gỗ, từ sau 1789, Nguyễn Ánh ra lệ thuế cho các quan coi đạo Trấn Biên, Trấn ĐịnhVĩnh Trấn phải dự trên số phu cục tượng và các đội nậu biệt nạp phải nộp như sau: 40 người phải nộp đủ gỗ đóng một chiếc sai thuyền; và kết quả của chính sách là đạo Long Xuyên nộp 10 chiếc, Kiên Giang 3 chiếc, và Trấn Giang là 5 chiếc. Để tăng năng suất lấy gỗ, Nguyễn Ánh cấp cho đội lấy gỗ 300 quan tiền mua 300 con trâu chuyên dùng kéo gỗ từ rừng Quang Hóa[115][116].

    Có nguyên liệu rồi, Nguyễn Ánh ra sức đốc thúc đóng tàu: năm 1789 ông đóng được 40 chiếc thuyền và 100 chiếc thuyền biển; hai năm sau đóng thêm được 100 chiếc với gỗ ván lấy từ rừng Quang Hóarừng Chân Lạp. Đến năm 1793, Nguyễn Ánh cho mua hẳn một chiến hạm cũ của Châu Âu rồi sai người gỡ ra để sao chép lại.[116] Nguyễn Ánh đích thân giám sát việc đóng những chiếc thuyền theo kiểu này[116]. Nhờ tích cực vậy nên ngay cùng năm, quân Nguyễn đóng được những chiến hạm nổi tiếng là Long Ngư, Long Thượng, Long Hưng, Long Phi, Bằng Phi, Phụng Phi, Hồng Nhi, Loan Nhi, Ưng Nhi (trong này quan trọng nhất là ba chiếc Long Phi được trang bị đến 32 khẩu đại bác, Phụng Phi và Bằng Phi có 26 khẩu) với sức chứa trên 300 người mỗi thuyền[116]. Những năm tiếp theo, Nguyễn Ánh vẫn tiếp tục kiên nhẫn cho đóng thêm thuyền như năm 1896 cho đóng thêm 15 chiến hạm hiệu là "Gia" và xếp theo tam tài cùng thập nhị chi: Thiên, Địa, Nhân, Tý, Sửu, Dần, Mão.. cho đến Hợi là đủ 15 chiếc[116]. Đến năm 1800, cho đóng thêm 15 chiếc thuyền biển nữa và 1801 thì có thêm 200 hạm có tên là Anh, Vũ, Thước, Nga, Quyên, Phu, Lệ, Diên, Chiêu, Ly[116]. Nhờ tích cực vậy, có khi mỗi 2 năm mà Nguyễn Ánh đóng thêm gần được 300 pháo hạm và 10 năm thì tổng số thuyền của Nguyễn Ánh lên được gần 1.200 chiếc[116].

    Các chính sách phát triển kinh tế-quân sự này đã giúp rất lớn cho quân đội của Nguyễn Ánh, ông đã phát triển lên được một đội quân có thể cạnh tranh nổi với Tây Sơn: theo John Barrow thì quân số của Gia Định đầu thế kỷ 19 lên tới 139.800 người[117]. Thủy binh của Nguyễn Ánh cũng trở nên hùng mạnh và có ưu thế hơn hẳn so với thủy binh của Tây Sơn,[118] chính điều này đã giúp Nguyễn Ánh có khả năng vượt biển đánh thẳng vào cảnh Quy Nhơn của Tây Sơn các năm 1790, 1797, 1798; và Nha Trang vào năm 1793, với trận quyết định tại Thị Nại năm 1801[116]. Cho đến khi kết thúc chiến tranh; Nguyễn Ánh có một số thuyền hùng hậu lên tới 100 chiến hạm, 800 pháo hạm và 500 bán pháo hạm[116].

    Tới lúc này, đối với nước Pháp, Nguyễn Ánh bắt đầu tìm đối sách về mặt ngoại giao: khoảng năm 1790, ông viết quốc thư với đại ý "cảm ơn nước Pháp", nhưng ông không còn cần họ giúp theo hiệp ước hiệp ước Versailles năm 1787 đã ký trước đây nữa[119]. Đồng thời với việc trên là công cuộc giao thiệp với ba nước lớn Xiêm La, Chân Lạp, Vạn Tượng: ông cho quân chiếm đóng Chân Lạp, giữ quan hệ hòa hiếu với Xiêm La để yên ổn với Vạn Tượng (khi này trong tầm khống chế của Xiêm La), ngoài ra còn có quan hệ với một ít quốc gia nhỏ khác[120]. Kết quả là cả ba quốc gia lớn đều có sự giúp đỡ ít nhiều cho Nguyễn Ánh trong cuộc chiến của mình[121].
    https://vi.wikipedia.org/wiki/Gia_Long

    Theo như đánh đế chế thì Nguyễn Ánh đúng là phát triển tay to, đời sau mà tiếp đà phát triển như thế thì thành tiểu bá rồi.
  7. atlas07

    atlas07 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/08/2015
    Bài viết:
    6.217
    Đã được thích:
    3.187
    ccộc nội chiến 1785 - 1802 tôi đánh giá là cuộc nội chiến hay nhất của Lịch sử Việt nam giai đoạn Trung và cận đại. Đặc biệt là giai đoạn Gia Long phục quốc. Tiếc là vì 1 số lý do chính trị mà người ta cố tình lãng quên hoặc bôi nhọ nó.
  8. Rapid_Arrow

    Rapid_Arrow Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/08/2015
    Bài viết:
    1.157
    Đã được thích:
    877
    Tôi đánh giá cao ở Gia Long cái khoản xây dựng quân đội, nhất là khoản ông ta mua tàu tây về rồi tháo ra để copy ra hàng chục chiếc.
  9. Rapid_Arrow

    Rapid_Arrow Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/08/2015
    Bài viết:
    1.157
    Đã được thích:
    877
    Phần 2: Trang bị tàu thuyền và công tác huấn luyện của thủy quân thời Gia Long và Minh Mệnh


    Tàu thuyền là phương tiện quan trọng bậc nhất của thủy quân. Một lực lượng thủy quân được đánh giá mạnh hay yếu một phần lớn căn cứ vào tình hình trang bị cũng như kỹ thuật chế tạo tàu thuyền.

    Trước năm 1802, một số tàu chiến được Nguyễn Ánh mua lại của nước ngoài, đồng thời ông cũng thiết lập các xưởng đóng thuyền để phục vụ cho mục đích quân sự.

    Nguyễn Ánh đặc biệt quan tâm tới việc đóng thuyền. Kỹ thuật đóng thuyền thời kỳ này đã có tiến bộ, cùng với việc du nhập thêm những yếu tố kỹ thuật mới của phương Tây. Như J. Barrow nhận xét: “kỹ nghệ đặc biệt mà ngày nay có thể nói là người xứ Nam Hà nổi trội hơn cả là kỹ thuật đóng tàu biển của họ: chẳng thiếu loại kích cỡ nào cũng như có đủ các loại chất lượng gỗ dùng để đóng”. Ông cũng cho biết trong những năm 1797-1798, “nhà vua (Nguyễn Ánh) đã cho đóng ít nhất 300 pháo thuyền lớn hoặc loại thuyền dùng chèo, năm thuyền có cột buồm và một chiến hạm đúng theo kiểu các tàu châu Âu. Ông cho đưa vào quân đội một hệ thống các chiến thuật hàng hải, và cho những sĩ quan hải quân học cách sử dụng các tín hiệu”.

    [​IMG]


    Tranh minh họa về nghề đóng tàu thuyền thời Nguyễn.

    J. Barrow cũng cho biết thêm, “để nắm vững kiến thức về thực hành cũng như về lý thuyết của kỹ thuật đóng tàu châu Âu, nhà vua đã mua lại một chiếc tàu Bồ Đào Nha, với mục đích chỉ tháo rời ra thành từng bộ phận, từng tấm ván một rồi tự tay lắp vào một tấm ván mới có hình dáng và kích thước tương tự như cái cũ mà ông tháo ra, cho tới khi mọi thanh sàn tàu, xà ngang tàu, thanh gỗ khớp nối được thay thế bằng một cái mới, và như vậy con tàu hoàn toàn được đổi mới”.

    Khi chiến tranh kết thúc, chiến thuyền của Nguyễn Ánh gồm có 100 chiến hạm, 800 pháo hạm, 500 bán pháo hạm.

    Các xưởng đóng thuyền lớn ở Gia Định vẫn được Gia Long duy trì hoạt động sau khi lên ngôi. Ông còn lập thêm xưởng đóng thuyền ở Nghệ An và đặc biệt là cho dựng nhiều xưởng đóng thuyền ở Huế. Tháng 2 năm Gia Long thứ 6 (1807) đã đóng thêm hơn trăm chiếc thuyền chiến sai.

    [​IMG]


    Chiến thuyền của thủy quân triều Nguyễn.

    Kỹ thuật đóng thuyền vào cuối thời Gia Long đã đạt đến trình độ khá cao. J. White, một người Mỹ đến Sài Gòn vào năm 1819 rất khâm phục cơ sở đóng thuyền ở đây. Ông viết trong hồi ký của mình: “Riêng cơ xưởng này đáng làm cho người Việt Namtự hào hơn bất cứ cái gì khác ở trong nước. Thực ra thì xưởng này có thể ví với bất cứ một cơ xưởng đóng tàu nào bên châu Âu”.

    Đến thời Minh Mệnh, nhà nước cho đóng nhiều chủng loại thuyền với số lượng rất lớn. “Cuối triều Gia Long đầu triều Minh Mệnh, ở Huế, chiến thuyền gồm có: 200 thuyền mang 16, 18, 20 và 22 đại bác; 500 thuyền nhỏ có 40 đến 44 tay chèo, có nhiều tiểu bác và một đại bác; 100 thuyền lớn, có 50 đến 70 tay chèo, có cả đại bác, tiểu bác; 3 thuyền kiểu Tây”… Ở các tỉnh có nhiều gỗ tốt như Nghệ An, Thanh Hóa và tiện đường sông như Nam Định đều có xưởng đóng thuyền.

    Số lượng tàu thuyền của thủy quân thời Minh Mệnh được Moor mô tả năm 1823 là “ước chừng: 50 thuyền buồm dọc 14 súng, 80 pháo hạm, 100 thuyền lớn, khoảng 300 thuyền chèo từ 80 đến 100 mái, 500 thuyền chèo từ 40 đến 80 mái. Tại các tỉnh, 500 thuyền từ 20 đến 100 mái tạo nên tổng số khoảng 1530 chiếc”.

    Một điểm đáng chú ý dưới thời Minh Mệnh là việc ông cho triển khai đóng các tàu máy hơi nước theo kiểu phương Tây. Việc đóng tàu máy hơi nước khá tốn kém nhưng muốn khiến cho công tượng nước ta quen máy móc cho khéo, vậy nên chẳng kể lao phí gì. Đến tháng 10 năm 1839, Minh Mệnh cho chế thêm một chiếc tàu máy lớn, phí tổn hơn 11.000 quan tiền.

    Song song với việc trang bị tàu thuyền cho thủy quân, thì công tác huấn luyện và thao diễn là vấn đề luôn được các vua Nguyễn coi trọng. Hàng năm, đầu xuân là kỳ thủy quân thao diễn và vua thường đến xem.

    [​IMG]


    Tái hiện thao diễn thủy binh thời Nguyễn tại Festival Huế 2010.

    Khi còn ở Gia Định, Nguyễn Ánh đã quy định lệ duyệt binh hàng năm. Năm 1791, đại duyệt tướng sĩ các dinh quân. Từ đấy cứ đầu mùa xuân hàng năm thì duyệt binh. Đối với thủy quân, Gia Long năm thứ 2, nghị chuẩn: “Về thủy quân diễn cách chèo thuyền, tức thì ở chỗ đất liền, thiết lập đồ chèo thuyền, chọn vài trăm người biết chèo, cho diễn tập, làm như hình dáng đi thuyền. Hàng năm đầu xuân, y theo phép ấy diễn tập”.

    Thời Minh Mệnh, công tác huấn luyện, thao diễn cũng được tiến hành đều đặn và nghiêm chỉnh. Năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) xuống Dụ: “Nay thủy quân ở Kinh, hiện đã đặt thêm nhiều, mà các địa phương ven biển cũng đều có thủy quân. Vậy các viên chưởng lĩnh cai quản ở Kinh, đốc phủ, bố án, lãnh binh ở ngoài đều chiểu lệnh: thủy quân, nên thi hành diễn tập, chẳng hạn loại thuyền mành, buồm chèo, cột buồm, dây buồm, người cầm lái và thủy thủ tiến hành thao diễn, được cốt người tinh thạo, sau đến đường biển, đường sông, chỗ nông chỗ sâu, chỗ hiểm chỗ dễ và chỗ đảo lớn, đảo nhỏ, nơi sâu cạn, nhất thiết phải tránh, nên khiến cho tập để biết tất cả. Rồi lại dạy về súng nhỏ, súng lớn khiến cho được tinh thạo, đề phòng khi dùng đến”.

    Bên cạnh việc huấn luyện, diễn tập tàu thuyền cho chỉnh tề thì luyện tập bắn súng cho thủy quân cũng được quan tâm đúng mức. Đầu thời Gia Long có đắp trường bia ở Hoằng Phúc (cao hơn 30 thước, rộng hớn 130 thước). Bề mặt trương một cái đích bắn để cho quân thủy đi lại nhắm bắn, lấy sự trúng vào đích hay không để định thưởng phạt.

    Năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) đắp trường bia Thanh Phúc. Ra lệnh cho biền binh Thủy sư diễn tập các súng lớn ở thuyền Hải đạo, cùng bộ binh phối hợp để thao diễn phép bắn. Mỗi ngày diễn tập 2 lần: buổi sáng bắt đầu trước mặt trời mọc 1 khắc đến lúc lậu xuống khắc thì thôi; buổi chiều bắt đầu từ lúc lậu xuống 8 khắc đến khi mặt trời lặn thì thôi.

    Lại làm thuyền giả để cho quân lính làm đích mà tập bắn. Năm Minh Mệnh thứ 20, có Sắc: “Thủy sư diễn tập bắn súng điểu sang và súng lớn. Nên kết thành một cái bè nổi ở ngoài biển làm ra hình dáng như cái thuyền… Ra lệnh cho thuyền binh, nhân gió qua lại, cho đúng theo mức ngắm vừa chở đi vừa bắn. Bắn trúng được làm ưu, bắn không trúng là liệt. Chia định thưởng phạt, diễn tập như thế là thực dụng”.

    Đối với các loại súng đại bác, cách thức diễn tập cũng tương tự. Chiểu theo cách thức, kết một cái bè nổi ở ngoài biển, cách bờ hơi xa. Bốn bên bè đều bỏ neo, xích, để gió khỏi làm trôi đi. Rồi lấy thuyền lớn Thanh Loan và các thuyền bọc đồng ở ngoài bể cách bè ước 50 trượng… khi có lệnh tức thì đem súng đại bác áo đỏ, nhằm vào bè nổi bắn liền 3 phát. Thuyền chở nối sau, lần lượt bắn ra.

    Như vậy, có thể thấy dưới thời vua Gia Long và Minh Mệnh, quân đội nói chung và lực lượng thủy quân nói riêng được quan tâm xây dựng về mặt tổ chức, lực lượng và trang bị theo tinh thần “binh quý tinh nhuệ không quý nhiều”. Với việc xây dựng một lực lượng thủy quân mạnh, trang bị tốt, được huấn luyện thường xuyên, vua Gia Long và Minh Mệnh đã thể hiện quyết tâm cao trong việc làm chủ vùng biển, đảo rộng lớn của đất nước.
    http://www.baotanglichsu.vn/portal/vi/Tin-tuc/Kien-thuc-lich-su---van-hoa/2014/07/3A924129/

    Thời Minh Mạng cũng vẫn tiếp tục xây dựng quân đội theo kiểu châu âu, đóng mới tàu hơi nước, huấn luyện quân đội tập trận thường xuyên. Vậy mà chỉ mấy chục năm sau thời Thiệu Trị, Tự Đức thì Hải quân không đủ sức chống hải tặc nữa :))
  10. atlas07

    atlas07 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/08/2015
    Bài viết:
    6.217
    Đã được thích:
    3.187
    minh mạng nướng hết tiền bên Casino Campuchia rồi thì lấy đâu ra Tự đức mua vũ khi

Chia sẻ trang này