1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trò chuyện linh tinh giữa 2 hiệp

Chủ đề trong 'Bóng đá Việt Nam' bởi sole_husband, 20/09/2015.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hoa_khanh

    hoa_khanh Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    30/11/2003
    Bài viết:
    7.699
    Đã được thích:
    7.191
    Tôi thì ko đọc kinh phật nhiều như các bác, nhưng nghe đoạn này bác nói có vẻ đúng. Vì chữ Phật là viết tắt của Phật đà, phiên âm Hán Việt của cách người Hoa đọc chữ "Buddha". Buddha nghĩa nguyên thủy của nó là "the enlightened one", tức người đã giác ngộ, người đã khai sáng, chứ không phải là 1 người cụ thể nào. Tất nhiên, Buddha (viết hoa) thường là chỉ người giác ngộ đầu tiên, tức đức Phật Thích Ca hay Phật Tổ. Nhưng không có nghĩa là không ai có thể trở thành "buddha" nữa. Nói nôm na thì nếu bác tu tâm tích đức đến lúc nào đó giác ngộ thì cũng có thể thành một "buddha", tức một "phật" khác.
    _DucNo____________DucNo__________ thích bài này.
  2. Vangngayxua

    Vangngayxua Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/08/2017
    Bài viết:
    696
    Đã được thích:
    1.203
    Nói nghe như Phật ý kekekeke
    --- Gộp bài viết: 02/09/2017, Bài cũ từ: 02/09/2017 ---
    Câu Phật Tại Tâm ko biết là từ trong bộ kinh nào mà ra nhỉ

    Không cần phải Phật Tại Tâm có làm sao ko

    Muôn vạn Pháp, pháp nào cũng đều đến đích

    Có coppy paste hết cả tàng kinh các ra đây cũng chẳng nghĩa lí gì nữa là "Phật tại tâm"
    _DucNo____________DucNo__________ thích bài này.
  3. Vangngayxua

    Vangngayxua Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/08/2017
    Bài viết:
    696
    Đã được thích:
    1.203
    Tứ thánh quả


    Tứ Thánh quả
    là bốn cấp độ đạo quả được Phật chỉ ra giúp hành giả đánh giá được sự tu chứng của mình. Người chứng được một trong bốn Thánh quả này được xem là có tư cách của Thánh, có Thánh tính, có giá trị làm Thánh, vượt lên sự tầm thường của con người, nếu ai cung kính cúng dường vị này sẽ có phước rất lớn tùy theo cấp bậc chứng ngộ của vị này. Tiêu chuẩn để đánh giá các quả Thánh là dựa vào mức độ tăng trưởng Đạo quả qua việc phá trừ các Kiết sử, khác với tiêu chuẩn của Tứ thiền là dựa vào mức độ nhập định sâu cạn. Phật không nêu ra mối tương quan nhất định giữa đạo quảthiền định, mặc dù cuối cùng thì Tứ thiền với Tam minh bằng Đệ Tứ Thánh quả (quả vị thứ 4, tức A-la-hán).

    Sơ quả Tu-đà-hoàn (Sotāpatti)
    Còn gọi là Nhập lưu, nghĩa là bắt đầu nhập vào dòng Thánh. Đây là Thánh vị đầu tiên sau khi đệ tử Phật phá được ba kiết sử Thân kiến, Giới cấm thủ, và nghi.

    Một vị chứng Sơ quả thì có thể có trình độ thiền của Chánh niệm, hoặc Sơ thiền, thậm chí Nhị thiền. Nhưng ngược lại, một vị chứng thiền định như thế thì chưa chắc chứng được quả Thánh nào. Đó là lý do tại sao nhiều hành giả có thể chứng thiền định rất sâu, có thần thông nhưng không thể chứng Thánh quả là vậy. Thánh quả khác với thiền định ở chỗ đòi hỏi trí tuệ, đạo đức và công đức. Thiền định chỉ cần tâm vắng lặng là đủ mặc dù tâm đi vào vắng lặng lại phải có Công đức, Đạo đứcKhí công.

    Hầu hết những vị chứng Thánh quả đều có nguyên nhân từ kiếp xa xưa đã từng hết lòng tôn kính một vị Thánh giác ngộ nào đó. Điều này giống như Thánh nối tiếp Thánh thành một dòng bất tận. Còn việc thành tựu thiền định thì chỉ đòi hỏi công đức đem được nhiều niềm an vui cho nhiều người.

    Điều khác nhau giữa Thánh quả và bốn mức thiền là sự bảo toàn ở vị lai. Đối với các mức thiền, nếu không đạt được Tứ thiền ngay trong kiếp này, hoặc không lập nguyện, thề ước với Phật sẽ tu hành đời đời kiếp kiếp, thì khi sang kiếp sau hành giả có nguy cơ quên mất, quay lại với kiếp người bình thường. Còn đối với Thánh quả thì có bảo chứng cho sự giải thoát hoàn toàn ở vị lai theo từng quả vị khác nhau. Ở Sơ quả Tu đà hoàn, Phật ấn chứng rằng vị này chắc chắn sẽ giải thoát nhưng không đưa ra thời gian cụ thể. Vị đó vẫn sống như người bình thường, tuy rằng sẽ không bao giờ rớt vào ba đường ác đạo (xem Lục đạo), rồi sẽ tu hành để chứng A-la-hán

    Nhị quả Tư-đà-hàm (Sakadāgāmī)
    Còn gọi là Nhất lai, nghĩa là còn trở lại một lần nữa. Quả vị này hiện hữu nơi người đã phá xong ba kiết sử trên và tiếp tục làm mỏng nhạt tham và sân. Người chứng Nhị quả chưa phải là người đã phá trừ hết hai kiết sử ThamSân, chỉ là bớt đi Tham và Sân, đủ để ta không bao giờ nhìn thấy vị ấy khởi tham lam và sân hận. Còn Tham và Sân vi tế, tiềm tàng thì khi diệt sạch sẽ đắc Tam quả.

    Phật cũng ấn chứng cho người chứng được Nhị quả Tư-đà-hàm sẽ chỉ còn một lần tái sinh lại cõi đời này và chứng A-la-hán.

    Tam quả A-na-hàm (anāgāmī)
    Còn gọi là Bất lai, nghĩa là Không trở lại nữa, xuất hiện nơi vị đã diệt sạch hai kiết sử Tham và Sân.

    Nhân duyên làm chúng ta cứ bị liên lụy với cõi đời này chính là do tham lam, tham dục, hận thù, ganh ghét. Hết hai kiết sử Tham và Sân rồi thì nhân duyên với thế gian này cũng hết. Do vậy, một vị chứng A-na-hàm thì không còn bị tái sinh về cõi này nữa, sẽ hóa sinh giữa cõi trời Sắc cứu kính, sau một thời gian không nhất định, sẽ chứng Niết bàn tại đây.

    Chúng ta cũng không nghe nói là phải chứng được mức thiền nào thì chứng A-na-hàm, chỉ theo lời Phật dạy để biết rằng ai có thể diệt trừ năm kiết sử từ Thân kiến, Giới cấm thủ, Nghi, ThamSân thì đạt được đệ Tam Thánh quả.

    Tứ quả A-la-hán (Arahanta)
    Là quả vị Thánh cao siêu cuối cùng, thật sự giải thoát, giác ngộ viên mãn. Vị A-la-hán tự tại phi thường, tuổi thọ vượt hơn người bình thường, không còn bị cuốn vào luân hồi sinh tử nữa, muốn chết (viên tịch) lúc nào cũng được.Một vị A La Hán sẽ có đủ Tam MinhLục Thông, không thể có chuyện một vị đã chứng A La Hán nhưng không có đủ Tam MinhLục Thông được.Tuy nhiên, do phước duyên mỗi vị khác nhau, mức độ về Thần Thông có thể khác nhau và Đức Phật thường không khuyến khích sử dụng thần thông vì tránh chúng sinh lấy đây làm mục tiêu tu hành, vì đạo của Ngài là đạo Giải Thoát, không phải đạo của thần thông.

    Sự vĩ đại của một bậc A-la-hán thì không một ngôn từ nào có thể diễn tả được. Mỗi người chỉ tùy theo nhân duyên và trí tuệ của riêng mình để hiểu một phần nho nhỏ nào đó mà thôi.

    Nếu trong vô lượng kiếp quá khứ chúng ta xả thân làm lợi ích cho chúng sinh, thực hành Bồ tát hạnh, tôn kính bậc đáng kính, giữ tâm khiêm hạ thì đến khi đủ phước duyên để đắc đạo, ta sẽ chứng được một quả vị A-la-hán cao siêu tột bậc. Đức Phật cũng tự xem mình là một vị A La Hán, tuy nhiên, do phước duyên của Ngài đã đạt tới viên mãn, hoàn hảo, nên Ngài đã chứng được Phật quả. Một vị đã chứng Phật quả có nhiều khả năng phi thường tột cùng hơn một vị A La Hán.

    Khi bản ngã đã hết, vị A-la-hán không còn bị ràng buộc bởi sức mạnh nào đối với luân hồi sinh tử nên hoàn toàn giải thoát.

    Sau khi phá luôn năm kiết sử cuối cùng, một vị A-na-hàm sẽ chứng A-la-hán, nghĩa là đạo đức đã trở thành tuyệt đối hoàn hảo. Không một thần Thánh thiên tử trừ Đức Phật nào có thể tìm thấy lỗi lầm của một vị A-la-hán nữa.

    Nơi đây, đương nhiên một vị A-la-hán cũng đã thành tựu xong bốn mức thiền. Tứ thiền và Tứ Thánh quả đều hiện diện đầy đủ nơi vị A-la-hán như thế.

    Đến thời điểm hiện tại từ ngày những vị A-la-hán cuối cùng nhập niết bàn, chưa có tài liệu nào ghi chép lại đã có ai chứng quả hay chưa ngoại trừ trường hợp Trưởng Lão Thích Thông Lạc[1]. Tuy có nhiều tranh cãi về việc Trưởng Lão có chứng quả hay chưa nhưng nếu tìm hiểu kỹ vào kinh sách mà thầy viết thì người đọc có thể tự đưa ra nhận định của mình về vấn đề trên.

    https://vi.wikipedia.org/wiki/Tứ_th...A3_A-na-h.C3.A0m_.28an.C4.81g.C4.81m.C4.AB.29
    _DucNo____________DucNo__________ thích bài này.
  4. Vangngayxua

    Vangngayxua Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/08/2017
    Bài viết:
    696
    Đã được thích:
    1.203
    BÀI GIẢNG

    NHỮNG TỪNG BẬC TU CHỨNG

    18/01/2011

    Đây là chủ đề khó nghe, và khó hiểu. Chúng ta không biết mình thuộc căn cơ nào, nhưng ai lắng lòng, chăm chú nghe bài này, người này phước lành đã rất lớn, còn ai nghe mà hiểu được hết thì thiện căn đắc đạo đã nằm sẵn trong trái tim. Kính mong chư tôn đức chứng minh gia hộ cho con nói cho thông suốt và rất mong quý Phật tử hãy chú tâm, lắng lòng nghe. Đây là bài pháp quan trọng, rất khó nghe, rất khó hiểu trong cuộc đời giảng sư của thầy và kể cả cuộc đời tu học của tất cả chúng ta.

    Chúng ta biết rằng từ phàm phu bước lên Thánh vị là khoảng cách rất xa, quãng đường rất xa. Còn như ta nghe chuyện đồ tể buông đao thành Phật – đó chỉ là sự khuyến khích. Nhiều khi là một vị Bồ tát thị hiện một vai trò nghịch hạnh để rồi quay lại tu tập, nhanh chóng thành tựu đạo quả nhằm sách tấn chúng sinh dù là người xấu ác, cũng chớ đánh mất niềm hi vọng đối với Phật đạo. Vì chúng sinh xấu ác, nghe nói một tên đồ tể có thể buông đao xuống thành Phật, cảm thấy rằng mình vẫn còn cơ hội quay về, còn cơ hội từ bỏ sự tối tăm, quay về với ánh sáng. Chính vì vậy, con người mạnh dạn từ bỏ điều xấu ác, chứ thật ra, chuyển từ thân phận phàm phu lên Thánh vị là một sự việc không dễ, một quá trình chẳng đơn giản chút nào. Nếu như làm Thánh dễ thì thế gian này đầy dẫy các vị Thánh. Bấy lâu nay, sống trên cõi đời này, chúng ta vất vả, dõi mắt tìm cầu một bậc Thánh để nương tựa, cung kính mà chẳng thấy đâu nên ta hiểu ‘làm Thánh’ quả là khó. Nếu ai có tà kiến rằng mình sẽ tu mau chứng thì chính tà kiến này lấy mất phước của người này thật nhanh chóng, có khi trở thành điên loạn.

    Vì thế, khi một người bước vào Phật pháp tu hành, phải nhớ đường đi còn rất xa và mình chỉ mới bắt đầu bước vào cuộc hành trình xa xôi, vời vợi mà chưa biết bờ bến là đâu, nơi đến là đâu. Dẫu ta bước xuống thuyền, cầm trong tay bản đồ chỉ đường, cầm trong tay la bàn, chúng ta cũng chưa thấy, chưa biết bờ nằm mãi tận nơi nào. Nhưng ta không thể không đi. Vì nếu ta không đi, không bước vào Phật đạo thì mãi mãi ta là phàm phu, chìm trong luân hồi tăm tối, đau khổ mà thôi. Ta phải thật sự tu hành, chẳng những thế, ta còn phải tu hành tinh tấn, rất chuyên cần, rất tận tụy dẫu ta biết rằng đường đi hãy còn xa lắm. Đây mới là suy nghĩ chân chính của một người đệ tử Phật.

    Vì vậy, người nào nghĩ mình tu mau chứng là sai, người nào nghĩ rằng tu lâu thôi thì cứ tu từ từ, người này sẽ chẳng bao giờ tiến bộ được. Ta chỉ có một con đường duy nhất, một chọn lựa duy nhất là phải rất tinh tấn tu hành và luôn nhớ rằng đường đi rất xa xôi.

    Hôm nay, qua bài giảng, chúng ta nói với nhau một điều là khi một người nào đạt chút kết quả nào trong tu tập, chớ vội nghĩ rằng mình đã chứng đạo. Vì sao trong quá trình tu hành, có những người lại thối lui, thậm chí có người rối loạn tâm thần? - Chỉ vì trong tâm linh có chút gì bừng sáng, mới lạ đã cho rằng mình chứng đắc. Chỉ vì người này không có thầy ấn chứng, chỉ dẫn, khuyên dạy rằng chỗ đến còn rất cạn tuy tâm linh có khai mở, có tiến bộ nhưng đúng với Phật pháp, cũng chưa hề bước vào cửa đạo, hãy còn đứng ngoài rào mà thôi. – Nghe thì như gáo nước lạnh tạt vào mặt nhưng đó là một sự thật, và là một phúc lớn cho người đệ tử.

    Còn như kém phước, ta tự tu, khi thấy tâm linh khai mở, tự cho là mình chứng đắc, chắc chắn sẽ điên thôi. Hoặc không may, ta gặp phải vị thầy không sáng mắt, vội ấn chứng ta chứng đắc, khiến ta vui mừng cho là đã ngộ đạo – chính những lời khen này giết chết ta vì thật ra, đường đi hãy còn xa lắm.

    Chúng ta nghe rất nhiều giáo lý chư tôn thiền đức giảng và có thể hiểu được những bài giảng ấy, những giáo lý ấy, cũng chưa hề là gì cả, cái nghe, cái biết của ta cũng chỉ là biết một phần triệu về con đường tu hành mà thôi. Vì thế, ta chẳng nên tự hào khoe khoang chỗ nghe, chỗ hiểu của mình làm ta mất phước đi.

    Tiến một bước nữa, nghe giáo lý, thông hiểu giáo lý rồi, người này bắt đầu chuyển tâm tu hành, chuyển 3 nghiệp.

    Tâm bắt đầu nghĩ điều tốt và bớt nghĩ điều xấu. Sự thực hành này của ta ngoài ta không ai biết được vì không ai kiểm tra, biết được tâm của ta tốt xấu thế nào. Đây là sự cô đơn khủng khiếp của người bước vào cuộc đời tu hành. Chiến đấu với nội tâm không ai chia sẻ cùng ta. Chúng ta nói, có người nghe. Chúng ta làm, có người thấy. Khi chúng ta suy nghĩ, chỉ có ta đối diện chính nội tâm ta mà thôi. Nếu có chăng chỉ là chư Bồ tát, chư Phật mới biết tâm ta nhưng các Ngài không thể thị hiện để nói chuyện với ta trong tâm tưởng. Hành trình chuyển đổi tâm ý là hành trình chỉ có ta với ta, một mình, một bóng cô đơn trong ý nghĩ của chính mình, không ai đi cùng với ta cả.

    Và chính vì ta cô đơn trên con đường chuyển hóa ý nghiệp từ xấu thành tốt, chỉ một mình ta biết tốt xấu trong tâm ta nên ta cũng dễ nản lòng, dễ buông lơi. Chính vì không có ai phê phán, chia sẻ, lắm lúc, ta giãi đãi, buông theo ý nghĩ bất thiện, xấu xa mà không kiềm chế được.

    Con đường chuyển hóa ý nghiệp là chặng đầu cô đơn của sự tu hành. Nếu ta không chuyển biến được ý nghiệp trong hành trình cô đơn này, đời ta không có gì chuyển biến tốt lành cả, đời ta vẫn tiếp tục chìm trong bóng tối.

    Nghe giáo lý, hiểu giáo lý chỉ là một phần triệu của con đường tu hành. Ta phải chuyển hóa ý nghiệp, tâm hồn ta mới dần dần tốt lên. Nhưng hành trình đầu tiên này, ta hoàn toàn cô độc. Do đó, ta phải hết sức tinh tấn, hết sức cố gắng và phải thường xuyên lạy Phật phát nguyện, cầu Phật gia hộ. Nếu không có thần lực chư Phật gia hộ, ta chiến đấu với nội tâm một thời gian là bỏ cuộc, tâm hồn ta bị cái xấu ác xâm chiếm trở lại, lui về cuộc đời tăm tối, tội lỗi ngày nào. Mỗi ngày siêng lễ Phật, ta được chư Phật thầm thầm gia hộ, bí mật giữ gìn ta, giúp ta vượt qua ý nghĩ xấu, ý nghĩ sai, ý nghĩ quấy, không bị ý nghĩ xấu ngăn che để ta giữ được ý nghĩ tốt lành, hướng tâm ý dần về chỗ thuần thiện. Thế là ta chuyển được ý nghiệp dần dần.

    Tiếp theo, là chuyển khẩu nghiệp, nôm na là chuyển lời nói. Trước đây, có thể ta ăn nói bỗ bã, chửi thề, nói tục, nói những lời gay gắt, hung dữ. Nay, tâm ta chuyển rồi, lời nói chuyển theo. Khi tu ý nghiệp, ta cô đơn, bây giờ, tu khẩu nghiệp, ta nói ra, có nhiều người lắng nghe và đánh giá, nghĩa là, trên hành trình này đã có người đi cùng ta – trừ phi ta lãi nhãi chỉ một mình ta trong phòng!

    Vì sợ sơ suất bị mọi người đánh giá, ta bắt đầu giữ lời ăn tiếng nói, chỉ nói lời tao nhã, đẹp lòng người và đúng với đạo lý. Còn người nào biết có người nghe mình nói, đánh giá mình mà vẫn nói bậy bạ, thô tục thì ta biết người giao tiếp với người này cũng giống như thế; hoặc người này là người bất cần mọi sự góp ý, đánh giá, một con người chai lỳ, ngang bướng đến mức độ miệng nói bậy chẳng cần quan tâm đến bất cứ lời khuyên nào. Hạng người này không còn biết hổ thẹn, ta gọi là không còn biết tàm quý, không dùng được trên đời nữa. Tàm quý là thành trì quí báu và cần thiết ngăn chúng ta không nói bậy, nghĩ bậy.

    Qua đến thân nghiệp. Ta chuyển hóa thân chẳng những bằng cách bản thân ta chỉ làm điều lành, tốt đẹp, ích lợi cho đời, mà còn ngăn người khác làm điều xấu ác cho đời.

    Chuyển cả ba nghiệp từ tâm ý qua khẩu nghiệp rồi đến thân nghiệp, cuộc đời ta bắt đầu thay đổi. Qua việc làm của ta, có nhiều người nhìn thấy, qua lời nói, có nhiều người nghe, hành trình tu tập của ta không còn cô đơn như buổi đầu nữa. Chính vì có người nghe ta nói, thấy ta làm, ta trở nên dè dặt hơn. Còn người nào biết có người thấy việc mình làm vẫn thản nhiên làm điều xấu, người này quả thực rất xấu ác.

    Khi chuyển hóa được cả ba nghiệp thân khẩu ý, phước ta tích lũy và tăng dần lên từ kiếp này qua kiếp khác. Có thể xem ta tuy còn là phàm phu, nhưng một người phàm phu lương thiện, tốt lành, hướng về Thánh vị.

    Muốn bước vào Thánh vị, không còn con đường nào khác hơn con đường thực hành thiền định. Dù cho ta nhập được định, có thần thông bay lơ lững trên hư không, ta chỉ là phàm phu nếu ta không tu thiền định đúng cách, khai mở được trí tuệ bậc Thánh. Làm Thánh không phải là chuyện dễ dàng và 4 bậc Thánh do thực hành thiền định mà thành.

    Khi thực hành thiền định, ta nên tìm phương pháp thực hành nào căn bản và đúng đắn nhất. Trên thế giới, khắp nơi có xu hướng tu học thiền, nhiều nơi dạy thiền, mở câu lạc bộ tu thiền, nhiều vị xưng mình là bậc đạo sư, thiền sư. Chúng ta khó biết ai là người đúng, ai là kẻ sai vì tất nhiên, ai cũng cho rằng phương pháp mình dạy là đúng. Tìm một phương pháp thực hành thiền chuẩn nhất, căn bản nhất không phải dễ nếu ta chưa đủ duyên lành.

    Để có pháp môn đúng đắn, chuẩn mực nhất về tu thiền, ta phải cầu Phật gia hộ ta gặp minh sư dạy ta phương pháp tu đúng với ý Phật nhất. Thời gian cầu nguyện vài tháng, hay nhiều năm cũng không chừng vì tùy theo duyên phước mỗi người. Ai cũng cho mình đúng. Trong khi chờ đợi minh sư, chúng ta tạm tin theo cách hướng dẫn của chùa Phật Quang.

    Có lần, thầy gặp một vị ở Unesco chuyên nghiên cứu thiền, thầy có nói với ông rằng: Tư thế kiết già, lưng thẳng là tư thế duy nhất đúng nhất để ngồi thiền. Vì sao? – Vì chỉ với tư thế đó, 2 lòng bàn tay, 2 lòng bàn chân và bụng ta qui về một chỗ. Mà sự tụ về một chỗ của 2 lòng bàn tay, 2 lòng bàn chân và bụng mang nhiều điều lợi cho não của ta so với cách ngồi thoải mái, giơ 2 tay, bung 2 chân, xa khỏi vùng bụng.

    Đưa tay chân xa khỏi bụng, các vùng tương ứng với tay và chân trên võ não không giữ yên được nữa. Tư thế kiết già lưng thẳng là tư thế giúp mười phương ba đời chư Phật thành tựu đạo quả. Sự hợp lý khi hai bàn chân tréo lại, hai tay chồng lên nhau và tất cả qui tụ về vùng bụng làm cho võ não yên, tâm dễ nhiếp là điều mà khoa học còn đang tìm hiểu và giải thích.

    Ngồi kiết già, lưng thẳng đúng tư thế rồi, tiếp theo, ta phải biết rõ toàn thân, buông lỏng toàn thân, giữ thân bất động vì toàn bộ vị trí của thân đều định vị trên võ não, một bộ phận nào nhúc nhích sẽ ảnh hưởng đến vùng tương ứng bộ phận ấy trên võ não. Thân nhúc nhích, não bị tác động, không còn yên lắng được nữa. Thân có trang nghiêm, tâm mới trang nghiêm theo. Nhưng nói là bất động, không có nghĩa kềm giữ, dằn ép mà ta phải buông lỏng toàn thân. Bất cứ sự dằn ép nào cũng làm cho võ não sôi trào.

    Ngồi kiết già lưng thẳng, bất động mà buông lỏng để võ não thư giãn là tiền đề cho tu tập thiền định. Biết toàn thân rất vi diệu. Khi ta làm bất cứ việc gì trong đời sống, như nói chuyện, học bài, làm bài, đọc sách, viết lách…, lúc nào ta cũng nhớ lại thân mình, biết rõ toàn thân, tâm ta lúc nào cũng dính vào thân mình, sẽ giúp cho não được an trú. Phương pháp này giúp ta không tán tâm, giữ được chánh niệm.

    Vì biết toàn thân giúp tâm ta an trú nơi thân và khi tâm an trú nơi thân, giúp võ não an trú, không sôi trào, dao động.Đức Phật dạy ta “Cảm giác toàn thân, tôi thở vào” – “Cảm giảc toàn thân, tôi thở ra” là những điều cực kỳ hợp lý, khoa học từ hơn 2500 năm trước.

    Ta phải nhớ muốn an trú tâm, phải an trú thân, buông lỏng toàn thân, biết rõ toàn thân, chứ không phải lo truy tìm tâm. Thân có yên, tâm mới lắng xuống.

    Khi thân yên, tâm lắng, sẽ phát sinh tâm lý “chấp thân”, thấy thân mình quan trọng. Và hệ quả là chấp thân kéo theo “chấp ngã”. Thấy thân mình quan trọng, chấp ngã tăng lên. Khi chấp ngã tăng lên, thấy “cái tôi” mình quan trọng, bắt đầu ta trở nên đố kỵ, hơn thua, ngang tàng, kiêu ngạo, tham lam …Tu là đạt Vô Ngã, nên ta phải quán thân vô thường.

    Biết rõ toàn thân để an trú tâm, và đồng thời, ta suy nghiệm “thân này vô thường” để nhẹ chấp ngã. Quán thân vô thường phải quán đến lúc thân thành cát bụi. Chính việc quán thân vô thường, tâm này vô ngã là nhân đắc đạo, nhân chứng Thánh.

    Khi tâm yên lắng, sâu sắc rồi, hơi thở hiện ra. Dù một người có định, có thần thông mà không suy nghiệm về vô thường của thân, vô ngã cũa tâm, cũng không sao chứng Thánh được, không sao đắc đạo được. Một người gặp ta, nói chuyện quá khứ, vị lai của ta, đừng vội cho là người này chứng Thánh.

    Người tu thiền, tâm đi vào an định, dần dần rỗng rang, tâm sáng tỏ một cách thanh thản, nhẹ nhàng - chính là đạt được chánh niệm tĩnh giác. Có chánh niệm tĩnh giác, ta dễ dàng kiểm soát tâm hồn mình, kiểm soát đạo đức của mình. Bấy giờ, mọi phong thái, mọi lời nói đều nằm trong trí tuệ kiểm soát, không còn nói bậy, làm bừa vì chánh niệm tĩnh giác luôn soi sáng cho người này, luôn giữ gìn người này. Ta không cần nghe một người khoe khoang công phu họ mà chỉ cần thoáng nhìn họ bước ngang, nghe họ nói một câu, bắt gặp ánh mắt họ nhìn, ta đã biết tâm người này có thanh tịnh hay không. Đó chỉ là kết quả khi ta bước đầu có chánh niệm tĩnh giác.

    Nếu đủ túc duyên, trong giai đoạn đạt được chánh niệm tĩnh giác này, ta sẽ chứng được hai quả vị Sơ quả Tu đà hoàn và Nhị quả Tư đà hàm. Ta nhớ với chánh niệm tĩnh giác, ta đạt hai quả vị Sơ quả và Nhị quả, chứ chưa đòi hỏi ta vào Sơ thiền.

    Có bốn tầng mức chứng Thánh – Sơ quả Tu đà hoàn, Nhị quả Tư đà hàm, Tam quả A na hàm và Tứ quả A la hán. Và bốn tầng mức chứng Thiền – Sơ thiền, Nhi thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Cả hai phạm trù Tứ Thiền và Tứ Thánh này hoàn toàn khác nhau.

    Ta đạt chánh niệm tĩnh giác, trải qua thời gian rất dài từ vài mươi năm, vài mươi kiếp chưa chắc vào được Sơ thiền. Nhưng trong giai đoạn đắc chánh niệm tĩnh giác, ta có thể chứng được hai quả Thánh Sơ quả và Nhị quả. Còn như người đạt chánh niệm tĩnh giác, tiến lên Sơ thiền, ta sẽ đạt Thánh quả thứ ba là A na hàm. Ta nhắc lại, khi vào Sơ thiền ta mới có thể đạt Thánh quả thứ ba. Nấc thang này do Đức Phật đặt ra. Ngày xưa, thời Đức Phật tại thế, ai đạt tới đâu, Đức Phật chỉ rõ và ấn chứng nên các vị rất tinh cần tu tiếp, không sợ lầm, không sợ sai.

    Khi Đức Phật nhập Niết bàn, không còn người ấn chứng quả vị cho chúng sinh nũa nên bị hiểu lầm mình chứng đắc và bị tổn phước dần. Vì chúng sinh mất phước nên không còn nhiều người chứng đắc. Hôm nay, ta nhắc lại Thiền và các từng bậc tu chứng để ta không tự hào. làm cho mình bị tổn phước. Hiểu được điều này, thế gian mới gồm người thực tu, thực chứng, không còn bị nhầm lẫn và dần dần bậc Thánh xuất hiện lại trên đời.

    Ta nhắc lại, tu phải qua Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Trước khi chứng thiền, ta phải đạt chánh niệm tĩnh giác. Nhờ chánh niệm tĩnh giác, ta chứng hai quả Thánh Tu đà hoàn và Tư đà hàm. Tính chất hai quả Thánh này như thế nào?

    Người chăm chú nghe được bài này chắc chắn là người có được căn lành. Ta xuất hiện trạng thái rỗng rang, tâm sáng tỏ, không dựa vào đâu nữa, không còn chỗ dụng công, chỗ để biết, chỗ để nắm lấy như lúc ta đang ở giai đoạn chánh niệm tĩnh giác. Lúc đó, tâm ta phá được ba triền cái: nghi, thân kiến và giới cấm thủ. Ngày xưa, các vị chứng Tu đà hoàn thường nói “ Ồ. Cái gì có sinh thì cái đó có diệt”. Một câu nói nghe rất quen nhưng chúng ta, chưa hề có ai chứng đắc. Chúng ta nghe câu nói, chúng ta hiểu nhưng chứng đắc là vấn đề khác. Khác nhau giữa phàm phu và người đạt Sơ quả là ta chỉ dừng lại chỗ nghe hiểu còn vị Thánh chứng đắc chỗ này. Lúc bấy giờ, vị chứng Sơ quả tách tâm mình ra khỏi thế gian, tâm buông lỏng khoi thế gian, thấy thế gian là chuỗi sinh diệt vô tận nên trí tuệ bắt đầu xuất hiện.

    Khi tâm rỗng rang, tĩnh sáng, người chứng Sơ quả diệt thân kiến, chính là ích kỷ. Người này sống rất vị tha, lòng rất bao dung, dẫu ai có nói nặng cũng không trách phiền; dẫu ta có cầm nhầm đồ đạc của họ, họ vẫn sẵn lòng bố thí, không giận dỗi. Sống gần họ, ta cảm thấy rất hạnh phúc vì tâm họ vị tha, nhẹ nhàng. Ta có thể xin bất cứ thứ gì của họ vì bàn tay họ không nắm lại. Người này bắt đầu buông của cải thế gian xuống do tâm họ vượt qua thân kiến.

    Tiếp đến là giới cấm thủ, chính là cố chấp nguyên tắc. Con người sống trong xã hội, thường lập ra nguyên tắc tuân thủ theo đó mà sống. Nhưng đến một giới hạn nào đó, nguyên tắc lại cản trở cuộc sống của nhau, làm khổ nhau. Người chứng Tu đà hoàn giữ nguyên tắc nhưng không khư khư chấp vào nguyên tắc vì có những sự việc cần phải giải quyết có tình, có lý. Chúng ta đều nghe nói trường hợp tình ngay, lý gian nên xử lý việc gì phải thấu đáo tình và lý, không làm người khác khổ tâm.

    Ví dụ, xe chạy trước mặt ta không cho ta vượt qua, vẫn giữ tốc độ quá chậm, ta phải lách vượt phải, bên trong xe kia mà tiến lên. Ngay lúc đó, ta vi phạm luật giao thông nhưng một chiến sĩ cảnh sát giao thông hiểu được sẽ không giữ ta lại và phạt. Hoặc giả như, một cán bộ tâm sự với chúng tôi là thời bao cấp, mới ra trường, nhận mấy gói mì người ta cho, cảm thấy lúng túng vì mặc cảm “ăn hối lộ”, phải chia cho anh em cùng công tác, lòng mới nhẹ lo âu. Luật pháp vẫn có những con người không chấp, xét xử tình huống có tình có lý dù không hẵn các vị này chứng Tu đà hoàn.

    Kể cả quý thầy cô, ở chùa, có thanh quy nhưng không thể lấy thanh quy làm rắc rối cho nhau, gây áp lực nặng nề cho đại chúng. Người chứng Tu đà hoàn biết lúc nào giữ nguyên tắc, lúc nào lách qua nguyên tắc vì họ sáng suốt, nắm lấy cứu kính mà xử lý tình huống.

    Người vượt qua Giới cấm thủ, sẽ tiếp tục phá kiết sử Nghi để xác định niềm tin vững chắc vào đạo lý, vào ngôi Tam Bảo. Từ đây, niềm tin llý tưởng vô thưoyng bồ đề không gì làm lung lay họ được, niềm tin đối với Tam Bảo là tuyệt đối.

    Đó là ba dấu hiệu của một vị chứng quả Tu đà hoàn; không còn ích kỷ, không còn cố chấp và không còn nghi ngờ. Tâm rỗng sáng nhưng ý niệm vẫn còn bất an, nhấp nhô vì chưa vào định. Ý niệm của họ không đến nỗi là phong ba, bão tố nhưng vẫn chưa lặng yên được. Kiến giải của họ phong phú, họ rất linh lợi đối đáp thiền ngữ một cách trôi chảy. Nhiều hành giả gọi tình trạng này là đạt Chân Tâm, Phật Tánh. Đạo đức người chứng quả Tu đà hoàn tốt dần lên nhưng có khi còn hiểu lầm, tạo nghiệp, chịu tái sinh vất vả, đáng thương, phải trả quả báo, trôi lăn có khi làm vua, có khi làm ăn mày, nhưng thực sự, họ là Thánh.

    Còn người chứng Tư đà hàm cũng chưa vào định sâu, tham sân mỏng nhạt chưa hết, đạt trạng thái thiền tông gọi là Triệt Ngộ, tức giai đoạn cuối của chánh niệm tĩnh giác, chuẩn bị vào Sơ thiền. Người này đạt kiến giải vượt bậc, siêu việt, không ai tranh hơn được, không ai lý luận đối đáp bằng. Người này còn trải qua một kiếp tái sinh – gọi là Nhất lai.

    Chuyện trong nhà thiền, ngày xưa Ngũ ***** Giới là một thiền sư đắc quả Tư đà hàm, kiến giải của Ngài không ai đối đáp bằng. Khi tịch, ông đầu thai làm Tô Đông Pha, một nhà thơ nổi tiếng đời Tống, có 7 bà vợ, lận đận chốn quan trường. Nhà thơ Tô Đông Pha tu theo hơi thở, chứng quả A na hàm, không trở lại thế gian nữa. Tô Đông Pha rất thân với thiền sư Phật Ấn vì có túc duyên từ kiếp trước. Một lần, đệ tử của một ngôi chùa được báo mộng có Ngũ ***** GIới đến. Sáng ra, chỉ thấy khách viếng chùa là Tô Đông Pha mà thôi. Tô Đông Pha cho biết thuở nhỏ, ông mơ thấy mình là nhà sư sống ở một ngôi chùa ở Thiểm Tây – đó chính là thiền sư Ngũ ***** Giới vậy. Chúng ta thấy kiếp trước của Tô Đông Pha và Ngài Phật Ấn cùng là thiền sư đắc đạo, nhưng khi tái sinh trở lại, Ngài Phật Ấn vẫn là thiền sư tu hành nghiêm túc còn Ngũ ***** Giới lại trở thành một nhà thơ Tô Đông Pha đào hoa, tài ba, hiểu sâu Phật Pháp và tu hành tinh tấn. Những bài viết của Tô Đông Pha cho thấy cảnh giới của ông đạt được là cõi Thánh. Và cuối cùng, Ngài Phật Ấn và nhà thơ Tô Đông Pha cùng đắc đạo với quả vị thứ ba gọi là Bất lai (A na hàm), không trở lại cõi đời này nữa.

    Vị Tư đà hàm có thần thông một phần, biết được tâm người khác, biết quá khứ, vị lai một phần, còn niệm, đã triệt ngộ, chưa vào định sâu vì còn ở mức độ chánh niệm tĩnh giác, chuẩn bị vào Sơ thiền, tâm hãy còn như sóng biển lăn tăn, chưa phẳng lặng như mặt gương, phải trở lại làm người, tu thêm để đạt quả Thánh A na hàm. Vị A na hàm đạt Sơ thiền và không còn trở lại cuộc đời, lên cõi Trời tu tiếp đến chứng A la hán.

    Vị A na hàm chứng ít nhất là Sơ thiền, sâu hơn là Tam thiền. Vị A na hàm khi mới nhập Sơ thiền, đạt được ly duc, ly bất thiện pháp, là người chấm dứt ********, nếu mất, sẽ sinh lên cõi trời Sắc giới, không ở trần gian nữa. Khi vị này nhập Nhị thiền, tâm phẳng lặng, không gợn sóng lăn tăn. Khi vị này nhập Tam thiền, tâm và vật nhất như, thần thông phi thường.

    Thiền sư Đặng Ẩn Phong có lần thấy hai bên quân đội đánh nhau quyết liệt, bèn thi triển thần thông, bay lên hư không, áo tràng phất phới, cầm gậy chỉ vào hai bên. Cả hai bên thấy một nhà sư với hành động như thế, không dám đánh nhau nữa. Sau đó, về, thiền sư tịch.

    Một vị chứng Thánh quả thứ ba và nhập Tam thiền, tâm và vật nhất như, đi xuyên qua vách, thần thông biến hóa tài tình, chúng ta không thể dấu diếm gì với vị này. Còn vị chứng A na hàm mới nhập Sơ thiền thấu suốt nhiều việc, có trực giác mạnh nhưng chưa đủ sức thị hiện thần thông như vị nhập Tam thiền. Một vị chứng Sơ thiền, Nhị thiền hay Tam thiền chỉ có thể chứng đến quả Thánh A na hàm mà thôi. Chứng Sơ thiền mới bước vào Tam quả, và vị chứng Tam quả sẽ nhiếp luôn Tam thiền.

    Trước đó, ở giai đoạn đạt Chánh niệm tĩnh giác, quả Thánh đạt được chỉ là Sơ quả Tu đà hoàn và Nhị quả Tư đà hàm mà thôi.

    Năm 12 tuổi, nhân dịp lễ Hạ Điền, vua cha và các quan cày vỡ đất ngoài ruộng, còn Thái tử Tất Đạt Đa ngồi dưới gốc cây nhập định. Bóng cây trút nghiêng che mát cho Thái tử khi bóng chiều lan tỏa làm mọi người ngạc nhiên và vua cha không dằn được đã quỳ lạy con mình. Nghĩa là Thái tử đã bước vào ly dục, ly bất thiện pháp, nhưng vì sao Thái tử lại lập gia đình với Da du đà la và sinh La hầu la – đó là vấn đề sẽ được trình bày trong tập Truyện Tranh Đỉnh Núi Tuyết.

    Nhưng vị chứng Thánh quả A na hàm phát sinh 5 điều không hay là 5 kiết sử: Sắc ái– Vô sắc– Kiêu mạn – Giãi đãi – Vô minh.

    Sắc ái: vị chứng Tam quả, ưa thích cõi trời Sắc giới.

    Vô Sắc ái: cõi trời chỉ còn tâm vô hình, vị chứng A na Hàm rất yêu thich cõi này.

    Kiêu mạn: tự thấy mình quá hay – trường hợp Đơn Hà đốt tượng Phật gỗ trong một ngôi chùa để sưởi ấm. Khi thầy trụ trì lên tiếng trách lại cho là đốt để tìm xá lợi, nếu đốt mà không có xá lợi thì tượng Phật đâu có giá trị gì. Ngài Đơn Hà làm ra vẻ tự tại, phá chấp nhưng vẫn là hành động kiêu mạn vì dù bằng gì chăng nữa, Tượng Phật cũng là biểu tượng của Phật, không được phép xúc phạm. Vị chứng A na hàm có thái độ ngang tàng, làm ra vẻ tự tại chỉ là biểu hiện của kiêu mạn nên Đức Phật “chê”.

    Trường hợp ngài Lâm Tế về nhận chùa, gặp ngài Phổ Hóa là một thiền sư chứng A na hàm ở nơi ngôi chùa đó. Trong bữa cơm, hai bên đối đáp và bất ngờ là ngài Phổ Hóa lật đổ cả mâm cơm thay cho câu trả lời! Ngài Phổ Hóa là vị tạo nhiều chuyện lạ, như ngài tuyên bố thị tịch, sau đó, ngài vác áo quan ra chợ, đi các hướng rao là mình sẽ thị tịch, khi mọi người chạy đến xem, ngài vác hòm lên bảo thôi, mai hãy tịch. Cuối cùng, mọi người không tò mò và cho là ngài nói dối, ngài vào nằm trong hòm nhờ một người đóng nắp lại. Thế là mọi người mới tin rằng ngài tịch. Lúc mọi người đổ xô đến xem, nghe tiếng gõ mõ và ngài thị hiện đi xa dần rồi mất hút. Ngạc nhiên, cạy áo quan ra thì không thấy xác Ngài đâu!

    Giãi đãi: Do tu hành đạt thần thông như thế, lại không có Phật khuyến khích, không có ai sách tấn, vị chứng A na hàm sinh ra mất động cơ tinh tấn tu hành, tâm giãi đãi, không còn nỗ lực tu tiến, có khi công phu dừng lại rất lâu vài nghìn năm nơi cõi trời.

    Vô minh: điều này ai cũng có.

    Quả Thánh thứ tư là A la hán. Mức chứng Thiền tương ứng phải là Tứ thiền, sâu xa, vượt khỏi tâm, vượt khỏi vật, đi sâu vào tam minh lục thông, nhớ lại vô lượng kiếp của mình, thấy vô lượng kiếp của chúng sinh, thấy rõ Tứ Đế và chứng Lậu tận minh. Diệu dụng cao vời, biến hóa tự tại, một thân hóa nghìn thân, nghìn thân gom lại một thân, bay lên hư không, vào lửa như vào nước v.v.

    Phần chúng ta nói với nhau trên đây chỉ là phần Tự giác - Tự lợi, còn phần Lợi tha, ta phải gieo duyên với chúng sinh rất nhiều. Vị A la hán không có công đức, không có trí tuệ, không có dung sắc, không có thần thông bằng Đức Phật dù sự giải thoát như nhau.

    Ta đặt vấn đề: tu những pháp môn khác nhau có đắc đạo không? - Có hai hạng người tu, một hạng người là người có túc duyên đời trước, qui định kiếp này đắc đạo, dù tu thế nào cũng đắc đạo và một hạng người nữa là người không có túc duyên, tu khó đạt kết quả, bắt buộc phải tu cho đúng pháp Phật đã dạy vì sai một ly đi một dặm.

    Điều đáng ngại là một vị túc duyên đắc đạo, tu thế nào cũng đắc đạo. Nhưng mọi người thấy vị này đắc đạo theo học, được vị này dạy những gì bản thân vị này hành trì, nhưng mọi người không có túc duyên, tu theo cũng không thể đắc đạo như thầy mình! Trong khi đó, người không đủ duyên đắc đạo, sợ sai nên cẩn trọng về pháp môn tu, nhờ vậy, có dạy cho ai cũng dạy chuẩn xác, không dám dễ dãi về pháp môn.

    Chúng ta lưu ý, người chứng Thiền chưa phải là người chứng Thánh. Chứng Thánh quả có những nhân duyên riêng. Có người chứng Thiền rồi chứng Thánh và có người chứng Thánh rồi mới chứng Thiền. Có người vừa chứng Thiền vừa chứng Thánh, nhưng có người chứng Thiền mà không hề chứng Thánh còn người chứng Thánh bắt buộc phải chứng Thiền. TT. Thích Chân Quang
    _DucNo____________DucNo__________ thích bài này.
  5. chimcanhcut1212

    chimcanhcut1212 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/09/2005
    Bài viết:
    3.244
    Đã được thích:
    449
    Hôm trước đi đá phò, lúc rút ra mới biết rách bao, sợ quá mua thuốc chống phơi nhiễm về uống, cực khổ gì đâu.

    Hôm qau là tròn 3 tháng từ ngày có nguy cơ, đi xét nghiệm âm tính mới thở phào nhẹ nhõm.

    Đúng là làm gì cũng có rủi ro, may mà cũng ko dính mấy thứ khác như lậu, sùi hay giang mai, thặc là vãi đái.

    Lúc phát hiện toach bao, em sợ vãi linh hồn.
  6. Vangngayxua

    Vangngayxua Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/08/2017
    Bài viết:
    696
    Đã được thích:
    1.203
    Kekeke đàn ông là phải như thế
    _DucNo____________DucNo__________ thích bài này.
  7. haohoacongtu

    haohoacongtu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/05/2006
    Bài viết:
    3.736
    Đã được thích:
    5.410
    Thí chủ không có căn giác ngộ. Thầy chịu không giảng nữa. Câu "Phật Tại Tâm" chỉ là cách nói ẩn dụ, nói mãi không hiểu lại còn cố tìm lý lẽ biện bạch cho cái ấu trĩ của mình, càng nói càng lộ cái vô minh ra. Nói về chơi gái với xã hội đen thầy không đủ kiến thức để cãi với anh. Còn về Phật học anh không đủ trình cãi thầy. Không nghe thì thôi không nói nữa.
    _DucNo____________DucNo__________ thích bài này.
  8. Vangngayxua

    Vangngayxua Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/08/2017
    Bài viết:
    696
    Đã được thích:
    1.203
    Câ m m ẹ cá i mồ m đi nói ko biết ngượng à ?
    --- Gộp bài viết: 02/09/2017, Bài cũ từ: 02/09/2017 ---
    Anh uống thuốc phơi nhiễm thấy nó như thế nào ? Buồn nôn ko
    --- Gộp bài viết: 02/09/2017 ---
    Mấy đứa anh với em của em bị lậu rồi. Bọn nó bảo lúc đái cảm giác như đái ra nước sôi ý. vkl. Tiêm 2 mũi đắt lắm gần 2 củ
    _DucNo____________DucNo__________ thích bài này.
  9. hoa_khanh

    hoa_khanh Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    30/11/2003
    Bài viết:
    7.699
    Đã được thích:
    7.191
    haha, chết cười với bác.

    Tôi nghĩ bác nên đổi nick đi, nick chim cụt cánh nghe yếm thế, có vận không hay ở trong :) Bác nên lấy nick chim ưng, chim đại bàng hay chim rất sung thì đảm bảo mấy vụ trên không xảy ra nữa đâu :D
    _DucNo____________DucNo__________ thích bài này.
  10. Vangngayxua

    Vangngayxua Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/08/2017
    Bài viết:
    696
    Đã được thích:
    1.203
    Bác lập nick từ 2003 ngày xưa hoạt động mạnh ở box nào
    --- Gộp bài viết: 02/09/2017, Bài cũ từ: 02/09/2017 ---
    _DucNo____________DucNo__________ thích bài này.

Chia sẻ trang này