1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trung đoàn 66 Hai Râu

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi maseo, 04/05/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    M-30 122mm
    [​IMG]
    Giai đoạn cuối mỗi sư đoàn của ta có 1 trung đoàn pháo binh, thì trong đó có 1 tiểu đoàn lựu pháo, M-30 122mm LX hoặc M-101 105mm Mĩ tùy sư đoàn. Năm 75 có nhiều sư đoàn bỏ hết M-30 chuyển sang dùng M-101 do đạn 105mm thu được rất nhiều.
    D-74 và M-46 dùng từ thời 66-67 nhưng trước 73 thì chỉ đánh nhau ở chiến trường Trị Thiên và trong chiến dịch đường 9 Nam Lào.
    Nổ yếu thì chưa phải 130mm bác Cal ạ. Trận Phước Long năm 74 QĐ4 đi xin xỏ mãi mới được phép sử dụng 1 đại đội (tức là chỉ 4-6 khẩu) 130mm, đủ thấy tầm quan trọng của nó như thế nào rồi.
    Còn AT-3 xuất trận lần đầu cuối tháng 4-72. Trận Tân Cảnh cũng là lần đầu AT-3 tham chiến ở Tây Nguyên, nên Mĩ và VNCH bất ngờ cũng phải thôi.
    u?c chiangshan s?a vo 11:06 ngy 25/05/2006
  2. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    1 khẩu không giật M-20 75mm nặng cỡ 50kg, 1 khẩu đại liên M-2 12,7mm nặng 58kg. Mà súng không giật thì chỉ cần cái nòng cũng đặt lên vai bắn ứng dụng được, chứ đại liên muốn bắn thì cứ phải trọn gói cả nòng lẫn bệ.
    Khó nghĩ nhỉ
  3. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Công nhận, cực kỳ khó nghĩ, để post lại thử xem:
    - Tài liệu ta: dùng AT3 bắn hạ 2 khẩu ĐKZ đặt trên tháp nước (hai nhá!).
    - Tài liệu VNCH: Thiếu Tá Nguyễn Bá Như, Trung Đoàn Phó 42, cùng Đại Úy Cố Vấn Kenneth Yoman đã leo lên tháp nước cao tại căn cứ, xử dụng đại liên 12 ly 7 để tác xạ địch, cũng bị hỏa tiển Sagger bắn trúng, bồn nước nổ tung và cà hai vị sĩ quan này chết tại chỗ.
    Hiện chưa tìm được phim ảnh gì về vụ này để kiểm chứng, tư lệnh ta trận này ko rõ là ai và chắc cũng chả dại mà đứng sát hàng rào căn cứ để nhìn tận mắt mà kể lại, tư lệnh VNCH là Lê Đức Đạt quy tiên trong trận này nên cũng ko kể lại được. Vậy coi như "câu chuyện cái bồn nước" này xếp vào dạng tồn nghi, lịch sử sẽ làm rõ, nếu ai ko chịu chờ lịch sử làm rõ mà tự rút ra kết luận ai viết đúng ai viết sai thì là việc của người đó
  4. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Như đã thông báo ở bài trước, để đáp lại tấm thịnh tình của quý vị, Maseo xin post tiếp phần sau về chuyến vượt thoát vĩ đại của Mr. Hùng Râu từ Tân Cảnh. Và bây giờ ... xin giới thiệu :
    Phần Hai: Hoành Sơn Nhất Đái - Vạn Đại Dung Thân - Cô độc lữ hành.
    Ngày một (24 tháng 4 năm 1972)
    Đồng hồ dạ quang chỉ 21:15 giờ, bò ra khỏi bụi cây, áo quần ướt sũng. Vẫn còn nón sắt, áo giáp, "bi-đông" còn một phần ********! Kiểm soát lại đạn dược... đã xài hết 3 "sạt-gơ" rồi, còn 1 "sạt-gơ" trong súng. Một lát, đã tiến tới quá dốc đưa đến sân bay L-19. Chỗ mà khi chiều hồi 17:45 giờ còn thoáng thấy Tư Lệnh Lê Đức Đạt...
    Không còn một ai hết! Yên lặng quá! Mùi máu đâu đây! Máu của bạn hay thù? Phía sau lưng, tiếng nổ ở trại Chu Văn Tiếp vẫn tiếp tục. Kho đạn tiếp tục nổ. Chỉ còn một mình ta thôi! Con đường về Diên Bình xa lắm! Như thế mình cũng cách Tân Cảnh được 5 hay 6 cây số gì rồi!
    Ngày hai (25 tháng 4 năm 1972)
    Mấy giờ rồi? 5 giờ sáng rồi! Tiến thối lưỡng nan. Đi nữa thì trời sắp sáng rồi! Đây là đâu, cũng chẳng biết nữa? Kiếm một chỗ trú ẩn, rồi tính sau... Đã 06:00 giờ chiều. Qua được một ngày. Bụng đói cồn cào. 10:00 giờ đêm, khởi hành đi thôi! và lặng lẻ như bóng ma, như một Frankenstein! Nhắm theo hướng Bắc và Tây-Bắc mà bước, Trên trời, chùm Đại hùng tinh với ngôi sao Bắc Đẩu chỉ về hướng Bắc...
    02:00 giờ sáng rồi, chắc đúng là cái suối hôm qua. Như vậy không còn xa Phượng Hoàng bao nhiêu nữa. Lại lủi thủi đi nữa! "Cô độc lữ hành....!"
    À, cái nhà ga phi cảng cũ của Phượng Hoàng đây rồi. Chỗ mà năm xưa, Thiếu Tướng Linh Quang Viên cùng Đại Tá Hoàng Văn Tỷ Tư Lệnh Phó, đầu năm 1964 thì phải, đã đưa bản doanh chiến thuật Sư Đoàn lên đóng tại đây cả tháng! Tung quân đánh thẳng vào hướng Tây của mật khu Đỗ Xá đó!... Sông Dak Pako! Múc nước đổ đầy "bi đông"... vượt qua cầu bộ hành... Trời mờ mờ sáng, 6 giờ rồi mà sương mù quá cở... Một xác, hai xác, ba xác.... toàn là xác Biệt Động Quân... Thôi "chuồn" gấp!
    Mặt trời lên cao. Á! chỗ này có nhiều mây rừng chằng chịt... có thể là một chỗ ẩn núp tốt. Rời Tân Cảnh đã 2 ngày rồi, nhưng đã đói 4 ngày. Vì hôm 23 và 24 chỉ được chút gạo sấy vào bụng vá 1 tô mì gói thôi... Thâm sơn giá lạnh. Trời đất mênh mông. Chả lẽ ta ta phải tuyệt tích oan uổng ở đây? Chết không một lời trăn trối cho vợ con!... Đêm trường thật là vắng tanh. Lạnh... muỗi quá. Có nhắm được phương hướng của dãy Ngok-Kon-Krin để đi lên phía của căn cứ hỏa lực "5" không? ..."Buôn" nào đây? Vào kiếm cái gì ăn đã. Phải dò dẫm thật cẩn thận... chả có ai cả! Mừng quá... thơm, thơm, thơm nhiều quá! cả một rừng thơm. Trời giúp ta rồi. Thôi! không có dao thì thôi. Ta hãy dùng răng mà cắn vỏ thơm vậy! Đau ơi là đau. Cạp vá cắn cho hết vỏ của 10 trái thơm này, toét cha nó cả hai môi. Đau quá! Tuy nhiên chất ngọt của thơm rót vào huyết quản... thật là êm dịu, làm cho tỉnh hẳn người lại. Sống rồi, có thêm sức rồi!
    Ngày ba (26 tháng 4 năm 1972)
    Hôm nay đã là ngày thứ ba, mà mình đã thoát khỏi Tân Cảnh. Như một con cá sẩy lưới. Khẩn cấp vô cùng!
    "Buôn" nào đây? Phải chăng là làng Dak-Rao-Kuan! Nhưng dân làng đi đâu hết rồi? Địch cũng đi qua đây rồi! Chúng đã đập phá hết vật dụng, dụng cụ của dân làng... Tốt quá, tìm được một con dao rừng. À! lại có cả một chiếc áo "chandail" nữa chứ! Quanh "Buôn" này có cả mấy vườn thơm. Lại bẻ, gọt vỏ cả hơn chục trái. Đem theo phòng hờ. Chứ biết còn mấy ngày nữa? Lương khô của ta đây!...
    Phành phạch!... Phành phạch! ...
    Tiếng trực thăng từ đàng xa vang dội đến. Đồng hồ chỉ 6 giờ 20 sáng. Nhưng trực thăng chỉ xẹt qua đầu rồi đi thẳng luôn! Mình đâu có phương tiện gì liên lạc với họ... Thôi thế là hết rồi! Còn gì hy vọng nữa? Dùng răng cắn lần hồi các mấu chỉ, các cấp hiệu, huy hiệu "Tam Sơn Nhị Hà" (SĐ-22-BB) và bảng tên. Rồi lấy dao róc lần... Lấy chúc bùn bôi lên. Chôn hết vào lòng đất mẹ. Áo giáp, nón sắt nặng quá. Thôi ta cũng giã từ "mi" tại đây nhé! Tháo nhẫn cưới... tháo băng tang - Kỷ niệm ngày cu Huỳnh, đứa con Út mất đó - cất kỷ vào "báp-phơi". kẻo lở mất, thì buồn lắm!
    Đêm nay lạnh quá, sao lạnh quá!
    Ngày tư (27 tháng 4 năm 1972)
    Sáng nay, bừng mắt dậy. Nguy to! sao mặt trời lại mọc ... bên tay phải? Trong đêm, ta đã loay hoay làm sao ... mà lại đi ngược lên hướng Bắc? Lộn xà ngầu cả rồi!
    Bụng đói cồn cào. Thơm dự trữ đã hết, không còn gì nữa, trừ "bi đông" nước...
    - Chết cha rồi! Toàn là hầm hố chằng chịt. Có cả dây điện thoại nữa? Ta đã lọt vào vị trí đóng quân của địch rồi...Chà! có nhiều nhà tranh quá! Kho tàng gì của địch đây? Toàn là lúa. Chỗ nào cũng là lúa. Im phăng phắc. Thôi "bỏ đi Tám", chuồn gấp!
    Cứ ngày nghỉ, đêm đi, trong giá lạnh và đói rét... Mưa vẫn rơi, mỗi lúc một nặng hột hơn... Đây là đâu? Ta đã lạc hướng rồi! Tính nhẩm hôm nay đã sang ngày thứ sáu gì rồi!
    Cần phải định hướng, tìm ngay chỗ nào có suối nước, mới sống được? Nhịn đói có thể chịu đựng ít lâu nữa được... Nhưng không có nước thì xỉu, chóng chết lắm!
  5. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Gặp Ân Nhân
    Soạt! giật mình, hoảng hốt! Nguy tai rồi, cái gì sau rặng tre? Lố nhố... khá nhiều người Thượng. Đồng bào của Paul-Nưr (bạn) hay của Y-Jon (địch) đây? Cả thẩy là 11 người. Trước hết là một lão ông, tuy tuổi đã cao, nhưng còn quắc thước. Trên lưng, gùi 1 chiếc va-li, ở trần, mặc 1 quần xà lỏn đã bạc màu. Kế đến là 2 lão bà, một bà cụ thì ở trần, bà kia kia mặc áo. Rồi là 2 thiếu nữ hay thiếu phụ gì đó, khoảng trên dưới 25 tuổi. Và 6 đứa trẻ nít, đứa lớn nhất khỏng 10 tuổi và nhỏ nhất là 1 bé đang được bế trên tay, tất cả là 4 trai và 2 gái...
    Tập trung vốn liếng thổ ngữ Djarai, pha lẫn tiếng Việt, hai bên Kinh-Thượng nói chuyện với nhau khá lâu... Tôi mới biết đây là hai gia đình hàng xóm, ở gần Tân Cảnh. Đã tản cư được mấy hôm rồi. Chớp được yếu tố đó, tôi khuyên họ hãy cùng tôi xuôi về Nam, để tìm nơi an toàn tạm trú lánh nạn... Họ đồng ý là cùng nhau xuôi làng Kon-Haring.
    Tôi ra dấu đói bụng. Họ bẻ cho một phần củ mì, ra dấu cho tôi ăn. Củ mì sống, làm sao mà nuốt? Thôi đành nhai ngấu nghiến. Ngòn ngọt, đăng đắng thế nào đấy? Và nuốt ực với nước.
    Rồi cả đoàn người, dọc theo sông Dak-Pako, xuôi về Nam. Đoàn tổng cộng 12 người. Đi mãi, đi mãi cho đến khi trời tối hẳn; Đoàn người mới dừng chân nghỉ. Vẫn bên cánh sông Dak-Poko... Chưa tới Kontum được. Mà cũng chưa xa Tân Cảnh bao nhiêu. Cả đoàn người dừng lại, nấu ăn. Cơm chín rồi! Cơm! Hoan hô! Nồi cơm mì cũng chín rồi... Lão ông tên là K''O, còn người con gái, chồng là lính Địa Phương Quân Tân Cảnh đã tử trận năm ngoái, tên là Ch''le; Goá phụ kia, con của lão bà, tên là Kung.
    Mười một ngày đi qua rồi, có lẽ đây là buổi cơm ngon nhất trong đời tôi... chỉ một nắm cơm nóng, ăn bốc, vài hột muối sống và một phần ba trái ớt cay, chia cho nhau... Nhưng sao mà ngon dữ vậy!
    Ăn xong, mọi người nằm xoài ra mà ngủ đêm thôi.. Thấy bà cụ K''O vẫn ở trần, tôi liền trao ngay chiếc áo "chandail" màu nâu tặng bà cụ cho đỡ lạnh. Cụ mừng lắm! goá phụ Ch''le liền đưa cho tôi mượn một chiếc "liner-poncho" để quấn vào người mà ngủ.
    Ngày bảy (30 tháng 4 năm 1972)
    Sáng nay, đoàn người tiếp tục đi về phía Nam. Vẫn chưa vượt sông Dak-Poko được...
    À! chỗ này chắc đã xảy ra một trận ác chiến giữa Thiên Thần Mũ Đỏ và địch? Rải rác một vài áo giáp, một vài nón sắt, một vài nón rừng... lẫn lộn với vài đôi dép râu "Bình-Trị-Thiên", vài nón cối bọc vải nhựa của cộng sản... chỗ này một cây M-16, chỗ kia một khẩu AK-47 đã gãy ngang...
    Đến chiều, khi dừng chân tại một ngọn đồi hoang vu, Ch''le mới cho biết rằng ở buôn Kon-Kotu, dân làng đã bị giặc lùa đi hết. Cụ K''O đã lần mò vào đó, tí nữa bị lính cộng sản bắt giữ. Khi thấy cộng sản đang tập trung dân làng ở nhà "rông" để cán bộ Thượng cộng nói chuyện, cụ K''O đã nhanh chân đánh bài tẩu mã...
    Thế là hướng Kon-Kotu đã bị nghẽn rồi! Không thể tiếp tục xuôi Nam, mà phải tìm đường khác để tránh lính cộng sản...
    Ngày tám (1 tháng 5 năm 1972)
    Đã trở lại dòng sông Dak-Poko rồi. Nước chảy xoáy và hơi sâu. Không bơi qua được, nhất là có 6 đứa con nít... May sao, cụ K''O đi lục soát một hồi, tìm được một chiếc thuyền gỗ độc mộc; tuy đã bị lủng một vài lổ. Nhưng xài tạm đuợc. Hãy tìm cách bít các lổ thủng lại!
    Đoàn người lần lượt qua sông. Thật là vất vả, kẻ trước người sau, nắm tay nhau giây chuyền. Cứ mấy lần liên tiếp, suýt bị nước cuốn trôi. Cuối cùng cũng qua được hết. Mệt ơi là mệt. Kìa! kìa! Đàng trước kia, có một đoàn người! Thượng có, cộng sản có! Đông quá! Súng AK có, mã tấu có, lại có cả hai khẩu trung liên nữa...May quá, gió thổi ngược từ hướng Đông, nên giặc không phát giác được...
    Bà cụ K''O có vẻ bằng lòng khi thấy tôi lần hồi giống hình dáng của một người Thượng; đầu bù, tóc rối, da mỗi ngày một sạm đen hơn; áo quần tả tơi, mang vớ thay vì đi giày. Thật không còn thể thống gì nữa... May chỉ còn khẩu Colt với 2 viên đạn, nhét bên hông trái, áo phủ choàng lên... Lại lên đường!
    Đồng bào Thượng, họ khỏe thật. Giờ nào cũng di chuyển được, cứ ba bốn tiếng đồng hồ, lại nghỉ 15 phút, rồi tiếp tực đi. Không chút than van.
    Ngày mười (3 tháng 5 năm 1972)
    Sáng nay sương mù quá. Ngày nay chắc sẽ nóng như thiêu đốt. Nhờ trận mưa to, trong đêm, đỡ quá! Các "bình đông" đã đầy nước... Lại tiếp tục đi... Đến Kon-Horing. Trong "buôn" có đồng bào Thượng đi ra... Cụ K''O tiến đến nói chuyện líu lo, mình chẳng nghe rõ được gì cả! Không biết họ có đi báo cáo cho cộng sản đang chiếm đóng trong Kon-Horing không?
    Và có 2 vợ chồng đi ra, người chồng là lính Tiểu Đoàn 3/42 cho tôi biết là có một số quân nhân của ta đang bị cộng sản bắt giữ làm tù binh, kể cả Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng 3/42. Đang ngồi trong nhà "rông" của "buôn làng"...
    Ngày mười hai (5 tháng 5 năm 1972)
    Đoàn người lại tiếp tục ra đi... Nơi dự trù đến là làng Kon-Trang. Đi được nhiêu! Hay bấy nhiêu!... Khuya nay, ướt hết. Một trận mưa to đã đánh thức mọi người dậy! Ngủ gà! ngủ gật! Được phút nào hay phút ấy! Giật mình thức dậy. Đồng hồ dạ quang đã chỉ 4 giờ sáng rồi. Mọi người lại lên đường. Cụ K''O mò mẫm bước trước, mọi người âm thầm theo sau...
    Ầm ầm! Ầm! Ầm! ....
    Chết rồi! Dường như B-52! Đúng là B-52 rồi! Thả ở đâu mà ta có cảm giác như là gần lắm! Nằm im như thế này thật là "lảng". Cả đoàn cứ "thấp thỏm" sợ bom ném đến nơi...
    Sáng rồi! Đoàn người lại lên đường. Trước mặt Quốc Lộ 14 hiện lên, nhưng không thể nào nhận xét là khoảng đường nào? Lại tiếp tục đi. Khi mọi người đến một xóm làng, thì chung quanh hoang tàn quá. Dak-Brong ơi! Buồn tênh và vắng teo. Nhà cửa cháy rụi. Chỉ còn một tấm bảng nền trắng, chữ xanh ghi "Nhà Thờ Dak Brong"
    - Yuan! (giặc)
    Bổng nhiên cụ K''O ra dấu im lặng và nói khẻ, rồi chỉ lui về phiá tay phải, hướng trên Quốc Lộ 14. Hú viá! Phúc đức quá! Nếu hồi nãy, cụ K''O không kịp ghì tay ta lại, thì chuyến này chắc chết hết. Trên dốc đổ xuống, một đám cộng sản vũ khí đầy đủ, khoảng 50 tên, đi ngược về phía Bắc....
    Cơm trưa xong, lại tiếp tục lên đường. Vẫn đi bên triền Đông của Quốc Lộ 14.
    Tối nay lại được dừng chân bên khe nước. Tối nay ngủ thật ngon... Đến 3 giờ sáng, mọi người lục đục thức dậy và lên đường đi cho mãi đến 8 giờ sáng, thì cụ K''O chỉ về hướng đàng trước, phiá tay mặt và nói:
    - Võ Định!
    Đi thật lậu! đi thật lâu, và thật là mỏi chân. Mặt trời đã lên cao. Thỉnh thoảng có nghe tiếng L-19 bay trên đầu, có tiếng trực thăng phành phạch...
    Chiều xuống dần... Đã bắt đầu hoàng hôn...
    Ngô Trang! Ngô Trang! Đúng là đồn Ngô Trang trước mắt ta rồi. Nhưng sao hoang vắng thế? Đại Đội Địa Phương Quân đã rút bỏ?! Như vậy ta chỉ còn cách thị xã Kontum độ 10 cây số thôi! Không biết tình hình Kontum ra sao? Đói... khát... bé con lại khóc... Một hai trẻ nhỏ bị sốt đã hai ba hôm rồi! Làm nhớ đến các con mình ở nhà... đoàn người lại lầm lủi đi!
  6. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Lại một lần nữa... suýt vinh thăng nằm...
    Đoàn người tiếp tục đi. Kẻ trước người sau, níu áo nhau mà bước, vì trăng soi mờ mờ. Trong rừng chỉ thấp thoáng thấy hình nhau thôi... Ra đến mem Quốc Lộ 14, mình cản họ không nên đi trên đường, sẽ bị địch đóng chốt chặn bắt, nhưng bây giờ họ trong tình trạng thất vọng và nản chí quá rồi. Họ liều mạng, không kể gì nguy hiểm nữa. Mình đành phải nối đuôi đi theo họ thôi...
    Tôi lẻo đẻo đi sau cùng hết. Hai vai nặng chĩu vì mỏi mệt, vì đói... Lại băng qua một hàng kẽm gai "concertina" giăng trên mặt đường... Rồi một hàng kẽm gai khác! Kẽm gai đầu mà nhiều thế? Phúc đức là nãy giờ vẫn qua lọt hết... Khi mọi người chuẩn bị lên một cái dốc dài... thì ... tôi bỗng nghe tiếng "soạt" bên phải, rồi một cục đá được ném ra đường! Địch à? Chết cha rồi! Địch phục kích? Tôi khẽ la lên một tiếng nhỏ, đủ nghe:
    - Yuan! (giặc)
    Và ầm!...ầm!...ầm!... nổ liên tiếp sau đó... Tôi cảm thấy có máu chảy từ cánh tay trái. Máu! Từ trong cơ thể tuông ra... Tôi nằm sấp ngay tại chỗ, và ... đụng nhầm Ch''le với đứa con trai. Cả hai mẹ con run cầm cập! Đủ loại vũ khí thay nhau nổ! Tiếng súng rền vang, như xé cả tai, tung cả óc! Hỏa châu sáng rực một góc trời. Mùi thuốc súng mịt mù khét lẹt... Hồi hộp! Khẩn trương! Nghẹt thở!... Máu tiếp tục chảy! Chịu đựng như thế này... được bao nhiêu nữa nhỉ!? Tai bên trái đã điếc mấy ngày rồi. Tay trái bị thương, như vậy là hai lần liên tiếp! Bị thương lần này có vẻ nặng hơn kỳ mở đường máu ra khỏi Tân Cảnh hôm 24 tháng 4 năm 1972; ...Máu chảy nhiều quá.
    Giờ phút hãi hùng đã qua! Ta vẫn còn sống? Nhìn đồng hồ dạ quang, chỉ 2 giờ 30 sáng. Tiếng súng im rồi! Hết quả châu rồi!
    Rút từ trong túi quần ra gói băng cá nhân. Gói băng này đáng lẽ đã được xử dụng từ chiều 24 tháng 4 năm 1972 khi thoát hiểm ở Tân Cảnh và bị thương bởi các miểng cối 82 ly của địch đó. Gói băng này mà nếu không được giác quan thứ sáu cảng giác, thì nay vào giờ phút bị thương trầm trọng này, còn đâu nữa, để xử dụng "thiết nghi" ... Nghĩ thật hãi hùng...
    Thây kệ nữa! Mìn hay "concertina" gì... cũng mặc! "Chuồn" nhanh đi! Kẻo khi mặt trời mọc, thì mọi phản ứng đều không kịp nữa, muộn màng hết rồi! Và... bò... bò... mạo hiểm bò qua "concertina"! Ch''le ôm bé trai... bò theo! Không biết đã lọt qua mấy lần "concertina" nhỉ? Thật là hy hữu! Kể ra, mình cũng học được... nghề đặc công của cộng sản rồi đó... Ch''le! Bò đi! Tôi nói khẻ với Ch''le và lần hồi... kéo Ch''le và bé trai... bò...bò...bò... trên mặt đường nhựa.
    Chết cha rồi! Mất mẹ khẩu súng Colt rồi! Chuồn nhanh! Lủi nhanh lên! Chứ sáng đến, giặc nó bắt được, thế nào chúng cũng hành hạ thân xác... 9 người kia, đi thất lạc.. không biết họ chạy hướng nào rồi?
    Từ Tân Cảnh lận lội về đây , cũng đã trên 40 cây số rồi, mà toàn là băng rừng, chứ đâu phải ít?... Đã 5 giờ sáng, Ch''le dậy đi! Phải tìm cách "chuồn" nhanh mới được!.. Bỗng nhiên, khi liếc nhìn ngược lại phiá Bắc, tôi thấy thấp thoáng có vài mái "tôle". OK! hãy chuồn vào "buôn" này đã. Liền rồi, kiếm thức ăn, nước uống... lẩn trốn đến tối, sẽ kiếm cách đi nữa! Cần nhất là phải có nước uống kẻo khát, và đã mất máu nhiều quá rồi! Đây là một làng Thượng Công Giáo. Nhưng chẳng còn gì nguyên vẹn... giặc đã đập phá hết rồi! Hoang tàn! Phải chăng đây là làng Plei-Trum? Không có gí ăn cả! Đi kiếm "cái" nước uống! May mắn gặp được cái giếng nước... uống xong, tôi nói:
    - Thôi đi lên cái nhà sàn này!
    Tôi đi trước, xách theo 2 bầu đựng đầy nước uống. Ch''le theo sau, với mấy trái bắp khô... tay ẩm bé trai.
    - Ch''le à! Mình nằm trốn ở đây. Tối sẽ đi. Đi bây giờ thì ********* bắn chết...
    Nếu lỡ mình có chấm dứt cuộc đòi hôm nay ở đây, làm sao cho vợ con biết nhỉ?
    - Yuan! (giặc)
    Ch''le hoảng hốt thốt lên tiếng đó, và tôi chưa kịp phản ứng gì... thì Ch''le đã ẩm con, vụt chạy lén xuống nhà sàn...
    - Bắt lấy nó! bắt lấy nó! lục soát!
    Chết cha rồi! tuần tiểu của giặc đã đến! Tiếng quát lên là một giọng Nghệ An hay Hà Tỉnh gì đó...Ừ! Tụi nó bao vây nhà sàn này rồi! Đông lắm! Nói giọng thật khó nghe... Hoặc ta nằm im, hết sức giữ im lặng, tối sẽ tẩu thoát. Hoặc lỡ nếu tụi nó có lên nhà sàn này mà lục soát, thì "sư", "cha" nó, không đầu hàng gì cả! Chửi cha nó một mách để nó "phơ" chết cho rồi!
    - Nè, một tổ đi lấy nước, một tổ đi vo gạo, xong còn hành quân nữa chứ!
    Nghe tiếng được, tiếng mất. Dưới nhà sàn, có hai ba tên gì đó, có vẻ mệt mỏi . Nhưng nói gì, nghe không rõ. Đủ giọng nói, sao lại có giọng Nam nữa nhỉ? Cái gì mà "Gio Linh" nhỉ? À! mà sao không thấy chúng lên lục soát nhỉ? Bây giờ tối đa cũng chỉ 7 hay 8 giờ sáng.
    - Đ.M.! ****** nó!
    Và một tràng văng tục, từ hướng giếng nước lên. Lạ nhỉ? Bắc Việt mà sao chửi tục thế nhỉ? Bạn hay thù?
    - Đ.M.! Sư cha nó! có cái giếng nước mà đ... có "gầu"! ****** nó! làm sao có nước mà nấu cơm?
    - Thù... hay ...bạn?
    Nếu là bạn, thì đám "KBC" (đơn vị quân đội Việt Nam Cộng Hoà) này là ai? Chắc là bạn rồi! Vì Bắc Việt đâu có xổ tiếng Đức dữ vậy? Phải tìm cách liếc xem. Có phải là bạn không?
    Nhè nhẹ... Nhè nhẹ... rút cặp kính "nhốp" mầu, từ túi áo... nhè nhẹ đưa lên mắt. Liếc qua khe hở của tấm liếp! Biệt Động Quân (BĐQ)! Chắc là anh em BĐQ! Liên Đoàn 6 của Bé rồi đấy! Rằn ri nè! Đội nón sắt nè! Xem kỹ, xem thật kỹ đi! May quá, họ đi giày nhà binh hết! Mừng quá! Mừng quá! Lỡ mà chỉ toàn là dép râu Bình-Trị-Thiên thì bỏ mẹ! giặc cộng đó!... Bạn đây rồi! Tim đập thình thịch...
    Tôi nhè nhẹ ... nhè nhẹ ngồi dậy... và nhè nhẹ đưa chân... Két! Một thanh gỗ trên sàn nhà có lẽ không được siết kỹ, phát ra tiếng động như vậy... Từ ngoài, một hìng bóng lao vào, tay trên có súng...
    - Khoan, đừng bắn!
    - Anh là ai? "Dơ" tay lên!
    - Đừng bắn, tôi là bạn đây!
    Liếc nhìn một lần nữa, đúng rồi! Biệt Động Quân của mình rồi!
    - Biệt Động Quân hả? Liên Đoàn 6 phải không?
    - Phải!
    Mừng quá mừng! Không tả cho xiết được. Nước mắt từ đâu nhè nhẹ trào ra. Không còn ngòi bút nào diễn tả hết nỗi xức động. Mùng rỡ đến nghẹn ngào!
    - Tôi là bạn đây! Tôi thuộc Sư Đoàn 22 Bộ Binh đây!
    - Anh là ai? Trung Đoàn nào?
    - Tôi thuộc Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn... để tôi lấy thẻ sĩ quan cho các bạn xem!
    - Không! đưa tay lên! đứng yên!
    - Khoan, anh em xem kỹ. Tôi đang bị thương! Cứ nhìn tay trái tôi thì rõ. Máu ra nhiều rồi!
    - Đúng! Biệt Động Quân này, chuyên môn đánh mìn cơ giới mà!
    - Phải! và mìn đó đã nổ hồi đêm, làm tay trái tôi bị thương...
    Vừa giải thích, bình tỉnh giải thích, tôi lần mò túi áo, lấy "bốp phơi", lấy thẻ sĩ quan ra, trao cho họ...
    - Trời! Đại Tá!
    - Đại Tá! Đại Tá!
    - Cám ơn anh em. Liên lạc với đơn vị đi, và cho tôi xin một điếu thuóc lá... Cám ơn anh!
    Trong khi một hiệu thính viên liên lạc máy PRC-25 về Đại Đội, tôi hàn huyên với các Biệt Động Quân, hút và rít những hơi thuốc lá ngon lạ lùng!...
    - Dạ, Đại Tá thế là may mắn lắm!
    - Sao vậy?
    - Nếu Đại Tá về sớm hơn, chỉ chiều hôm qua thôi, ... là tiêu rồi!
    - Ủa! Sao vậy?
    - Hai, ba hôm trước, tụi ********* nó đánh vào tận Nghỉa Trang Quân Đội, mình phải dội bom quá cỡ, có cả B-52 nữa!
    Ừ! Phải rồi! Hôm mình bị điếc tai trái đó!
    - Dạ, mời Đại Tá theo em về Đại Đội, sẽ có xe Jeep trên Tiểu Đoàn đến đón, đưa Đại Tá về Kontum, để gặp các thẩm quyền. Sau đó có trực thăng đua về Pleiku ngay...
    - À! Hôm nay là mấy tây rồi nhỉ?
    - Thưa Đại Tá, mồng 9 tháng 5 tây!
    - Tính nhẩm, cũng đã mười sáu ngày qua!
    HẾT
    [​IMG]
  7. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Thế hai vị bị chết kia có đeo khẩu M-72 nào không. Khéo mấy ông GP trông gà hoá cuốc, nhìn M-72 thành ĐKZ cũng nên
    u?c chiangshan s?a vo 17:06 ngy 25/05/2006
  8. anhynu

    anhynu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2005
    Bài viết:
    2
    Đã được thích:
    0
    -> Xin được góp chuyện cu?ng anh em. Nhất trí la?m năm 72 Tây nguyên chưa có pháo 130. Mới chi? có D74 cu?a trung đoa?n 675 va? pháo mang vác cu?a trung đoa?n 40. Tuy nhiên theo cuốn Lich sư? Pháo binh tập 2 ma? tôi xem năm 86 thi? có nói rof la? pháo 130 đaf được lưf đoa?n 38 pháo dự bị sư? dụng trong chiến dich Qua?ng trị năm 72. Va?o giai đoạn 2 cu?a chiến dịch, lưf đoa?n na?y được đưa lên phía trước cu?ng F 304 va? F308 đánh va?o tuyến Myf Chánh. Sau đó, do tiến công thất bại, thiếu bộ binh ba?o vê nên đơn vị đaf đê? địch tra?n đến, vư?a phá va? cướp mất 3 khâ?u 130. Trong cuốn ký sự Chân pháo cu?a n?ha? văn Tô Đức Chiêu cufng đê? cập đếṇ việc bộ đội ta pha?i tự hu?y ít nhất 2 khâ?u 130 ma? lính pháo gọi la? Cụ Thượng̣ đê? tránh rơi va?o tay bọn du?.Tiện đây cufng nói thêm la? trong năm 72 đóng góp va?o tha?nh tích la?m mất pháo va?o tay địch co?n có : ơ? Qua?ng trị , trung đoa?n 164, mất gâ?n chục khâ?u, ca? 100 cu?a ta va? 105 chiến lợi phâ?m mới thu được, trung đoa?n 213 pho?ng không mất 2 tiê?u đoa?n pháo 23 va? 37.Đoa?n pháo binh 75 sau khi vây ép An Lộc cufng bị địch nha?y chụp lấy mất 1 khâ?u cối nặng 160. Tây nguyên sau khi đánh Kon tum không tha?nh công, khi rút lui cufng pha?i bo? lại phâ?n lớn DKB va? cối 120 vi? bị B52 đánh. Tất ca? tô?n thất trên la? nôfi đau cu?a cụ Doafn Tuế, tư lệnh pháo binh toa?n quân vư?a la? phó tư lệnh chiến dịch Trị -Thiên 72. Mặc du? tô?n thất lớn nhất cu?a binh chu?ng la? hận mất pháo ơ? Cocava, Ashau ,Aluoi tháng 5 năm 68 cu?a trung đoa?n 368, mất 4 khâ?u 85 va? 8 khâ?u D74 va?o tay địch, cu?ng 1 đống xe ATC va? GAT. Nhưng lâ?n đó la? mất va?o tay bọn Myf ( Du? 101 va? Kỵ binh bay) co?n lâ?n nay la? bị bọn ngụy nó cướp mất. Tất ca? nhưng thông tin đó tôi có đọc trong cuốn Nhớ vê? đô?ng đội, hô?i ký cu?a Thượng tướng Doafn Tuế (NXB QDND khoa?ng 86), bạn na?o ơ? trong nước có thê? xem đuợc ơ? TVQG HN.
    Tôi có 1 thắc mắc nho? la? vê? phía bên kia chiến tuyến, ?ocác ngươ?i anh em bên kia? có ve? ngán T54 va? pháo 130 cu?a Băc Việt, cứ bị ăn pháo la? kêu â?m la? bị pháo kích 130. Tuy nhiên ơ? phía bên na?y, ta có ve? đánh giá cao D 74 hơn. Trong cuốn Lịch sư? pháo binh T2 khi nói vê? 130 chi? đê? cập sơ sa?i đến chuyện ta du?ng 130 đê? đánh ta?u chiến va? đấu pháo với bon TQLC Myf ơ? Cô?n Tiên, Dốc Miếu, 241 he? năm 67 vi? có tâ?m bắn xa, hi?nh như đến 21km. Trong khi đó sách lại nhấn manh đến sự xuất hiện cu?a D74, kê? tư? chuyện E 675 năm 67 chuyê?n sang du?ng D74 do chuyên gia LX huấn luyện ơ? Vụ Ba?n, Nam Ha?, sau đó cuối năm 67 va?o B4,B5 đánh Khe sanh , La?ng Vây đâ?u năm 68. Đây la? lâ?n đâu tiên pháo xe kéo va?o Nam. E 675 được huân chương vi? đưa được xe pháo va?o Tây Qua?ng trị an toa?n. Cuốn sách cufng ca ngợi E 675 với truyê?n thống "Đi lâu, đi sâu , trụ bám Tây Nguyên" nhưfng năm sau đó, nhất la? khi chị viện cho F320 đánh bọn Du? ơ? Sacly, Denta , chi viện cho chu? lực B3 đánh Đắc tô -Tân ca?nh năm 72.
    Anh em na?o có thông tin vê? vấn đê? na?y xin ba?n thêm nhé,D 74 va 130, cái na?o hiệu qua? hơn ? Không rof sau nay? mi?nh có D30 rô?i thi? có xa?i 130 nưfa không ??
    Trơ? lại chu? đê? chính la? E66, bác na?o có điê?u kiện xin vui lo?ng cho biết danh sách cán bộ chi? huy qua tư?ng thơ?i ky? cu?a E66(F10) va? E66(304) ? tôi rất quan tâm đến chiến dich Thượng Đức năm 74, trong đó F304 có E 66 la? chu? công. Có bạn na?o có thông tin chi tiết vê? E66 trong chiến dịch na?y ko a ? ta?i liệu cu?a phía bên kia trên net chi? tập trung đến trận 1062 va? việc túm được đến 40 tu? binh cu?a F 304. Không rof thực hư thế na?o ?
    Khi nói đến giai đoạn cuối 74-75 thươ?ng sách cu?a ta chi? nói đến trận Phước long 1.75 ma? ít nói đến Thượng Đức. Theo tôi vê? mặt quân sự đây la? 1 sự kiện đáng lưu ý vi? chu? lực cu?a ta giao chiến tay bo với quân du? ngụy. Qua trận na?y ta mới khă?ng định la? chu? lực cu?a ta có kha? năng đánh quị̣ quân tô?ng dự bị cu?a ngụy. Hi?nh như chi? huy 304 lúc đó la? ông Hoa?ng Đan pha?i ko a ? Ông Đan na?y la? ngươ?i rất xông xáo, năm 75 la? Phó tư lệnh QĐ đaf đi cu?ng với mufi đột kích cu?a QĐ2 đánh suốt tư? duyên ha?i va?o đến SG. Nhưfng ngươ?i chi? huy như ông Đan, ông An QĐ 2 cufng như ông Hô? Đệ, Laf Ngọc Châu F10 đaf góp phâ?n la?m nên tha?nh tích cu?a E 66. Cufng như vai tro? cu?a ông Đa?m văn Ngụy ơ? F 316, Kim Tuấn ơ? F 320A. Nó hoa?n toa?n tương pha?n với các tướng nướng quân như Hoa?ng Câ?m QĐ 4,Nguyêfn Ho?a, Hoa?ng Minh Thi QĐ 1, Trương Công Câ?n, Đa?o Đinh Sung F 308 năm 72 hay như ông Trâ?n văn Trân chi? huy F 341 năm 75 đánh Xuân lộc.
    E 66(F 10) khi đánh trận Yadrang tháng 11.65 cufng có vâfn đê? vê? chi? huy, E trươ?ng chă?ng thấy đâu, ơ? D9 thi? Chính trị viên dát chết, chạy cu?ng với thương binh, góp phâ?n la?m tiê?u đoa?n tan nát. Cufng ơ?? D9 na?y, hi?nh như năm 66 lại có D trươ?ng ra chiêu hô?i địch. Bạn na?o xem cuốn Ký ức Tây Nguyên cu?a ông DV Hiêp co thê? sef thấy. Có lef vi? thế nên ơ? E 66, chu? công la? D7 hay 8 thi? pha?i, D9 cha? thây có gi? đặc biệt. Có bạn na?o có thông tin gi? vê? việc na?y không ?́
  9. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Xài mạnh chứ bác. M-46 130mm chưa bao giờ không được coi trọng hết, kể cả về sau này. Em không rõ đạn M-46 có mạnh hơn nhiều so với D-74 không (chắc chắn là không kém hơn) nhưng tầm bắn của M-46 thì hơn hẳn (khoảng 30km, hiệu quả nhất 27km, so với khoảng gần 20km của D-74). Đọc hồi kí các tướng lĩnh có thể thấy trước tháng 3-75 việc sử dụng, dù chỉ 1 tiểu đoàn hay đại đội M-46 cũng phải thông qua Bộ Tổng tư lệnh mới được phép.
    Theo em cuốn LS pháo binh nhấn mạnh về D-74 vì đó là lần đầu tiên ta đưa pháo tầm xa (xe kéo) vào Nam chiến đấu chứ không phải vì nó được đánh giá cao hơn M-46. Do đó trong giai đoạn đấu pháo năm 66-67 có những loại mạnh hơn như M-46 130mm, D-20 152mm, hay pháo phản lực BM-14-16 nhưng không đưa qua giới tuyến thì cũng không được chú ý nhiều.
    Như vậy là em đã sai khi cho rằng ở Tây Nguyên năm 72 không có D-74. Nếu nhầm giữa D-74 và M-46 thì không đáng trách.
    Xin lỗi đã làm loãng topic của bác maseo
    u?c chiangshan s?a vo 19:37 ngy 25/05/2006
  10. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Maseo: Để cho đủ bộ các trận đánh trong chiến dịch Đăktô - Tân Cảnh 1972, xin giới thiệu tiếp với các bác trận đánh tiêu diệt căn cứ cuối cùng trong các mục tiêu mà VC đề ra trong chiến dịch này, căn cứ Lệ Minh hay Polei Kleng. Trận này ít được phía ta nhắc tới do đây là 1 căn cứ nhỏ chỉ có 1 tiểu đoàn BĐQ trấn giữ nhưng ta đã phải rất vất vả mới hạ được. Đây là 1 trận đánh thực sự khốc liệt, BĐQ phần lớn là dân địa phương sống cùng gia đình ngay trong căn cứ kiên cố đặt trên đồi cao nên đã chống trả quyết liệt, vì vậy tổn thất về phía ta đương nhiên ko thể nhỏ, lại thêm nguồn "phía bên kia" nên nếu các MOD cảm thấy chỗ nào ko ổn thì cứ xóa. Và bây giờ, xin bắt đầu:
    Polei-Kleng là tên một ngọn đồi cách thị trấn Kontum 22 cây số theo đường chim bay về hướng tây-bắc. Vào tháng ba năm 1966, Lực-Lượng Đặc-Biệt Hoa-Kỳ thiết lập trại Dân-Sự Chiến Đấu trên đỉnh đồi, đặt tên là trại Polei-Kleng (ám số A-241), tiếng Việt là Lệ-Khánh. Nhiệm-vụ của trại là ngăn chặn sự bành trướng và áp-lực của địch vào thành phố Kontum. Đến ngày 31 tháng tám năm 1970, trại được bàn giao cho Biệt-Động-Quân Việt Nam và trở thành tiểu-đoàn 62 BĐQ Biên-Phòng.
    Trong trận chiến mùa hè đỏ lửa vào tháng ba năm 1972, trước sức tấn công của địch, vùng Tân Cảnh, Dakto rồi Charlie lần lượt thất thủ. Trại Lệ-Khánh là tiền đồn cuối cùng ngăn chặn hướng tiến quân của địch vào thành phố Kontum, do đó bằng mọi giá, quân cộng sản Bắc Việt phải san bằng căn cứ này.
    Trong vòng một tuần lễ, cộng quân pháo kích vào trại hàng ngàn đạn súng cối 82 và hỏa tiễn 122 lỵ Đến ngày 7 tháng 5, địch gia tăng mức độ pháo kích từ sau tám giờ tối cho đến nửa đêm rồi sau đó ào-ạt xung phong tấn công vào hướng đông của căn cứ. Các chiến sĩ Biệt-Động-Quân giữ vững phòng tuyến, đẩy lui nhiều đợt xung phong của địch. Đến sáu giờ sáng, cộng quân phải tạm ngưng tấn công để chỉnh đốn lại hàng ngũ.
    Một tiếng đồng hồ sau, địch bắt đầu đợt tấn công mới bằng trận điạ pháo vào căn cứ, sau đó 20 chiến xa T-54 dẫn đầu cho bộ binh theo sau. Mặc dù đã chiến đấu liên tục từ nửa đêm rất mệt mỏi, các binh sĩ Biệt-Động-Quân đã chuẩn bị cho đợt tấn công mới với các súng phóng hỏa tiễn M-72. Kết quả năm chiến xa T-54 bị hạ và nhờ pháo binh bạn yểm trợ hữu hiệu nên quân cộng sản phải tạm thời rút lui. Theo tài liệu tịch thu được của địch, cộng quân đã chọn căn cứ Lệ-Khánh để đánh chiếm làm quà kỷ niệm mừng chiến thắng Điện Biên Phủ.
    Đến ngày thứ 20 của trận chiến, các binh sĩ tiểu đoàn 62 BĐQ sống dưới giao thông hào để tránh những trận mưa pháo của quân cộng sản. Lúc này trên đỉnh đồi Polei-Kleng và khu vực xung quanh không còn vẻ đẹp thơ mộng của miền cao nguyên nữa Căn cứ Lệ Khánh tan nát vì đạn pháo binh của địch, kho đạn bị cháy, trung-tâm hành quân bị xập. Đại Tá Nguyễn văn Đương, chỉ huy trưởng BĐQ / QK2 lo lắng cho số phận TĐ62.
    - Các anh còn chịu được không?
    Thiếu tá Bửu Chuyển, tiểu-đoàn trưởng trả lời.
    - Chúng tôi vẫn chiến đấu...!
    Thực sự, tình hình lúc này đang nguy khốn, TĐ 62 BĐQ và căn cứ Lệ Khánh có thể bị địch tràn ngập không biết vào lúc nào. Các phi tuần phản lực của Hoa Kỳ được gọi đến yểm trợ cho trực thăng vào đem các cố vấn Hoa Kỳ ra khỏi trại đến một nơi an toàn, để lại các binh sĩ BĐQ và một số đàn bà, trẻ con, vợ con binh sĩ gốc người Thượng.
    TĐ 62 vẫn tiếp tục kháng cự, những người bị thương nhẹ được băng bó xong trở lại phòng tuyến chiến đấu. Vợ con binh sĩ cũng được phát súng, phụ giúp việc canh phòng, tải đạn, tải thương v/v... Ban đêm hỏa châu soi sáng bầu trời Lệ Khánh, bên dưới tan hoang, nồng nặc mùi tử khí làm cho khung cảnh thêm phần khiếp đảm, như cõi âm-tỵ
    Từ ngày thứ 20 trở về sau, tình hình coi bộ hết thuốc chữa, bộ tư lệnh QĐ2 cho căn cứ Lệ Khánh được toàn quyền xử trí tùy theo trường hợp. Liên lạc với bên ngoài cũng trở nên khó khăn, các loại ăng-ten dù căng lên đều bị bắn trúng bằng súng đại bác không dật 57, 75 ly từ các cao điểm xung quanh căn cứ mà cộng quân đã chiếm. Đến ngày thứ 25, thiếu tá Bửu Chuyển tiểu đoàn trưởng và đại úy Phan Thái Bình tiểu đoàn phó bàn luận với nhau và quyết định rút mặc dù biết chắc ra là sẽ đụng nặng.
    Tiểu đoàn được lệnh chuẩn bị, kể cả gia đình binh sĩ, hành trang gọn, nhẹ và súng đạn. Đúng bốn giờ sáng, xen lẫn vào tiếng đạn pháo kích của giặc, các binh sĩ Biệt-Động-Quân dùng bộc phá (bangalo) phá hủy lớp hàng rào phòng thủ phía lô-cốt số 13 và bắt đầu rút đi trong màn đêm. Thiếu úy Kchong, người thượng, dẫn đại đội 1 mở đường máu ra trước, rồi đến thiếu tá Chuyển cùng bộ chỉ huy tiểu đoàn theo sau, cánh này đi về hướng đông. Đại úy Bình dẫn một cánh khác đem theo gia đình binh sĩ đi về hướng bắc, sự tách rời ra này để tránh tổn thất trường hợp bị địch phát hiện trong khi di tản.
    Trong khi đó, phi cơ quan sát L19 đang bay trên bầu trời Lệ Khánh vẫn liên lạc với các cánh quân ở dưới.
    - Nam Bình (tên ngụy trang của đại úy Bình), anh ở đâu rồi?
    - Tôi vừa ra khỏi trại...
    - Tăng tụi nó đã vào trại, đông như kiến!
    - Cho bom dập xuống!
    - Nhận rõ! Chờ xem.
    Các phi tuần phản lực được gọi đến dội bom xuống đám cộng quân và chiến xa T-54 đang reo hò ở phiá dưới tưởng rằng đã dứt điểm tiểu đoàn 62 BĐQ. Căn cứ Lệ Khánh lần này thực sự chìm trong biển lửa... Bỗng dưng, cánh quân Biệt-Động-Quân mất liên lạc với phi cơ quan sát L19, nhìn lên chiếc máy bay đã trúng đạn phòng không đang cháy, và một chiếc dù bung ra trên không gian.
    Họ mới đi được chừng năm cây số, vì còn đem theo đàn bà, trẻ con nên di chuyển rất chậm. Địch quân đang đuổi theo phiá sau, tất cả phải ráng lên, còn chừng hai cây số nữa mới đến bờ sông Pơ-Kô (Dak Poko). Qua được bên kia sông là thoát, quân bạn và các cấp chỉ huy đang chờ sẵn. Có tiếng súng nổ ở phiá cánh của thiếu tá Chuyển, đại úy Bình nói vào máy truyền tin PRC-25.
    - Anh đụng nặng không?
    - Tôi bị tụi nó vây rồi!
    - Cần tôi đến tiếp không?
    - Không! Dẫn anh em đi gấp đi!
    Đó là những lời cuối cùng mà hai ông trưởng và phó trao đổi với nhau... Bây giờ đến phiên cánh của đại úy Bình bị đuổi kịp, dường như đâu cũng chạm địch. Đoàn người vẫn phải tiếp tục di chuyển để tìm lối thoát trong cái chết. Đại úy Bình ra lệnh, vừa chiến đấu vừa lui dần về phiá bờ sông Pơ-Kô... người chết phải bỏ lại, lo cho người sống nhất là những người đàn bà và trẻ con.
    Ra tới bờ sông Pơ-Kô, nhằm mùa khô nước chỉ ngang đến ngực. Đại úy Bình và một số Biệt-Động-Quân còn sống sót dừng lại để ngăn cản địch cho đàn bà, trẻ con và các quân nhân bị thương lội qua trước.
    Qua được bên kia sông, đại úy Bình được đại tá Đương, chỉ huy trưởng BĐQ vùng II, ôm chầm lấy khen ngợi, hỏi thăm. Cánh quân của đại úy Bình lúc bắt đầu rút có 360 người gồm cả đàn bà, trẻ con, qua được sông còn lại 97 người, phần chết, bị bắt và một số thất lạc trong rừng. Sau đó đàn bà, trẻ con và thương binh được đưa về Kontum. Đại úy Bình và một số Biệt-Động-Quân xin ở lại để chờ đón các quân nhân thất lạc đang tìm đường thoát.
    Mặc dầu pháo địch vẫn bắn qua, các Biệt-Động-Quân vẫn cương quyết nằm lại dọc theo bờ sông đón các chiến hữu thất lạc. Đã ba ngày qua, không có tin gì thêm... chán nản, thất vọng, màn đêm xuống, một làn sương lạnh từ mặt sông dâng lên... bỗng có tiếng lội dưới nước, một, hai, ba, tất cả bốn bóng đen hiện ra đang đi lên từ phiá bờ sông. Tất cả mọi người nín thở, súng đạn sẵn sàng rồi hỏi nhỏ.
    - Ai?
    - Biệt-Động-Quân.
    Tất cả mọi người rời chỗ nấp chạy lại ôm chầm lấy bốn người mới qua sông, quân phục vẫn còn ướt. Bốn quân nhân này thuộc cánh quân đi theo thiếu tá Chuyển, họ cho biết là Thiếu tá Chuyển bị thương, bị bắt dẫn đi, ông không chịu nên bị giết tại chỗ.
    Câu chuyện về tiểu đoàn 62 Biệt-Động-Quân và căn cứ Lệ-Khánh đến đây chấm dứt. Đại úy Phan Thái Bình, sau năm 1975 đi cải tạo ngoài bắc 11 năm, ông cùng gia đình đến định cư tại Los Angeles vào tháng mười năm 1993.
    HẾT

Chia sẻ trang này