1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trung đoàn 66 Hai Râu

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi maseo, 04/05/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Tiếp loạt bài về 66 Hai Râu, Maseo muốn đưa ra 1 số thông tin nhờ các bác, đặc biệt là Chiangshan với mấy quyển sách hay ho kiểm chứng hộ về hành tung của trung đoàn này trong giai đoạn ở riêng hoàn toàn 65 - 72. Theo các tài liệu mà Maseo có được, trung đoàn này ko hề "chiến đấu liên tục ở Tây Nguyên" trong giai đoạn này như lời bác Chiangshan. Ít nhất nó đã 2 lần rời Tây Nguyên vào các năm:
    - 1968 trong chiến dịch Mậu Thân: lẻn vào tận Sài Gòn, cụ tỉ là tấn công Gia Định, chiếm đóng vùng Cây Quéo, Chi Lăng và đánh nhau với đủ loại quân trong đó có cả Delta Force.
    - 1970 bảo vệ Cục R ở Kam chống lại cuộc hành quân Toàn Thắng 43: Khi đó 66 Hai Râu là đơn vị duy nhất bảo vệ Cục R trước cuộc tấn công của SD1 Không vận Hoa Kỳ + Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù và Thiết Ðoàn 2 kỵ binh/VNCH (trận này 66 Hai Râu cũng ko anh hùng cho lắm, thấy địch đến thì cùng với cả Cục R chuồn vào rừng oánh du kích )
    Rất mong được giúp đỡ!
  2. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Các đơn vị của Tây Nguyên được điều vào Nam Bộ thời điểm 1968 là sư bộ sư đoàn 1, trung đoàn 33, 320, 174. Không có trung đoàn 66. Nếu đọc hồi kí tướng Đặng Vũ Hiệp sẽ thấy 1 loạt trận đánh ở địa bàn Tây Nguyên của trung đoàn 66 trong suốt những năm 1969-1970-1971.
  3. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Hề hề, chắc lại phải mở tiếp 1 trận tranh luận với bác Chiangshan, bác đã giúp thì giúp cho chót, check lại giùm từ sách ta xem thế nào vì 2 vụ này quân ta khó mà nói là thắng được nên có thể ko được nhắc đến chăng:
    01. Mậu Thân 68 - Gia Định - Đợt 2: Phía ta có 2 trung đoàn tham chiến, thứ nhất là trung đoàn Đồng Nai thì khỏi nói, trung đoàn thứ 2 tài liệu của Mẽo - VNCH đã rất lộn xộn rồi, lúc thì Quyết Tiến, lúc thì Quyết Thắng, lúc thì 66 mà lúc đó 66/304 còn ở Khe Sanh nên ko nhầm được. Theo Maseo biết thì Quyết Tiến hay Quyết Thắng là 1 loại danh hiệu chứ ko phải tên trung đoàn, thêm nữa 66 Hai Râu cũng đã từng nằm trong sư 1 khi mới vào Tây Nguyên, vậy sư 1 đó và sư 1 từ Tây Nguyên vào Nam Bộ năm 68 có phải là 1 hay ko? Trận này cái trung đoàn "có tài liệu ghi là 66" ấy du kích chiến trong thành phố, toàn chỉ đánh bằng từng tiểu đội hay tổ 3 người thôi và trộn lẫn với trung đoàn Đồng Nai, đặc công, biệt động thành nên thông tin "phía bên kia" đều chỉ căn cứ vào lời khai của tù binh.
    02. Hành quân Toàn Thắng năm 70 - Kam - bảo vệ Cục R: đây là giai đoạn thoái trào Mậu Thân, quân ta gặp khó khăn lớn, ở Tây Nguyên càng khó khăn gấp bội, đến mức phải cho ra Bắc bớt 1 bộ phận, số còn lại phần lớn cũng phải rút qua biên giới Lào - Kam tái xây dựng lực lượng. Năm 70 Lonnon đảo chính Xiha nên Mẽo - VNCH được thoải mái mở hàng loạt đợt tấn công vượt biên giới vào các căn cứ của ta. Trận này cái trung đoàn "có tài liệu ghi là 66" này là đơn vị duy nhất bảo vệ Cục R, do đó khi lực lượng tấn công hùng hậu gồm Sư 1 Kỵ binh bay Mẽo, 1 lữ Dù và 1 Thiết đoàn VNCH xông tới thì cùng cán bộ Cục R sơ tán vào rừng đánh du kích chứ ko đánh trả tử tế. Do trận này chỉ có đụng lẻ tẻ, Mẽo - VNCH chỉ đốt được vài cái lều nát, thu được 1 ít toàn súng cá nhân nên thông tin chủ yếu căn cứ vào vào lời khai của 11 ông "cán binh VC" bắt được.
    Rất mong nhận được phản hồi sớm.
  4. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Phản hồi rồi đấy. Bác maseo tự đọc kĩ lại bài phía trên và đừng cố gán cho người khác những gì họ không nói.
    Còn nếu bác tin tưởng "phía bên kia" biết rõ về hành tung của các đơn vị ta hơn chính những người trực tiếp chỉ huy đơn vị đó vào thời điểm đó, thì đấy là việc của bác.
  5. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Maseo đang check lại thông tin về vụ Gia Định 68 và Kam 70. Hỏi lão Chiangshan chắc chỉ đến thế, tự kiểm chứng lấy vậy, nếu Maseo ko post tiếp về 2 vụ này nữa thì là tại hắn đúng, ko thực ra là tài liệu của hắn đúng chứ ko phải hắn . Tuy nhiên dù có hay ko 2 vụ này nhất định cũng sẽ đưa 66 Hai Râu tái ngộ cùng quý vị
    Trong thời gian chờ đợi, theo yêu cầu của bác Anhynu, Maseo xin lạc đề tí, post 1 tài liệu khá chi tiết và khách quan từ "phía bên kia" về trận Thường Đức 74 mà 66/304 là chủ công (đôi khi người ta gọi cả 66/304 là Hai Râu, làm lúc đầu Maseo cũng bị lẫn).
    TRẬN THƯỜNG ĐỨC 1974
    Vào khoảng tháng 6 năm 1974, kẻ viết bài nầy có đi với một phái đoàn báo chí ra Đà Nẵng và được đưa lên Thường Đức bằng trực thăng để quan sát mặt trận. Chúng tôi được nghe thuyết trình về các hoạt động của Cộng quân chung quanh quận Thường Đức và cho biết Cộng quân sắp tấn công Thường Đức. Như vậy Quân Đoàn I đã nắm rất vững kế hoạch tấn công của địch và sau đó đã đưa Tiểu Đoàn 79 BĐQ về trấn giữ ở đây.
    Tuy Thường Đức chỉ do Tiểu Đoàn 79 BĐQ và một Tiểu Đoàn Địa Phương Quân trấn giữ, nhưng các Tướng của Cộng quân đã cho rằng ?ođánh Thường Đức còn khó hơn đánh Quảng Trị?, vì vị thế của Thường Đức rất hiểm trở. Vì thế, Bắc Việt phải huy động gần 3 sư đoàn để đánh Thường Đức: Sư Đoàn 2, Sư Đoàn 304, Trung Đoàn 29 của Sư Đoàn 324B và Trung Đoàn 36 của Sư Đoàn 308.
    Ở đây chúng tôi cũng xin mở một dấu ngoặc: Sư Đoàn 308 là một sư đoàn thiện chiến của Bắc Việt, đã từng gây kinh hoàn cho Sư Đoàn 3 VNCH trong Mùa Hè Đỏ Lữa ở Quảng Trị. Phải chăng trong trận này, Cộng quân muốn dùng cái tên Sư Đoàn 308 để uy hiếp tinh thần của Sư Đoàn 3 VNCH?
    Sư Đoàn 2 CQ và Trung Đoàn 36 của Sư Đoàn 308 có nhiệm vụ chận các đường tiếp viện. Trung Đoàn 29 thuộc Sư Đoàn 324B và Sư Đoàn 304, một sư đoàn thiện chiến của Bắc Việt, mở cuộc tấn công thẳng vào Thường Đức. Mặt trận do Tướng Hoàng Đan, Quân Đoàn Phó Quân Đoàn 2 của Cộng Quân làm Tư Lệnh.
    Trước khi đánh Thường Đức, ngày 18.7.1974 Cộng quân cho Trung Đoàn 36 của Sư Đoàn 308 đánh chiếm Nông Sơn, nơi đang do Tiểu Đoàn 78 BĐQ trấn giữ. Cụm phòng thủ Nông Sơn ?" Trung Phước nằm hai bên bờ sông Tỉnh Yên, cách quận lỵ Đại Lộc chỉ 16 cây số. Với sự tăng cường của 2 tiểu đoàn thuộc Sư Đoàn 2 CQ và Tiểu Đoàn 10 Đặc Công, vào trưa 18.7.1974, Cộng quân đã tràn ngập căn cứ Nông Sơn. Sư Đoàn 3 VNCH liền đưa Trung Đoàn 2, một pháo đội 155 ly, một pháo đội 175 ly và một chi đoàn của Thiết Đoàn 11 Kỵ Binh đánh chiếm lại, nhưng không tái chiếm được và bị thiệt hại nặng. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 VNCH phải huy động Liên Đoàn 12 BĐQ (gồm ba tiểu đoàn 21, 37 và 39) vào thay Trung Đoàn 2 mới tái chiếm được.
    Ngày 29.7.1974, Cộng Quân mở cuộc tấn công vào quận Đức Dục do Tiểu Đoàn 21 BĐQ trấn giữ và bắn pháo vào phi trường Đà Nẵng, đồng thời cho Trung Đoàn 29 tấn công vào Chi Khu Thường Đức do Địa Phương Quân trấn giữ. Thông tin với Chi Khu bị mất liên lạc. Từ Đồi 52 gần Đại Lộc, Cộng quân đã pháo kích rất chính xác vào các vị trí phòng thủ của Tiểu Đoàn 79 BĐQ. Hai tiền đồn BĐQ ở phía tây bị mất liên lạc.
    Sáng 30.7.1974, Chi Khu Phó Chi Khu Thường Đức bị thương do pháo kích, nhưng các cuộc tấn công của Cộng quân đều bị đẩy lui. Sau đó, phi cơ quan sát của Không Quân nhìn thấy một đoàn xe của Cộng quân đang di chuyển trên Liên tỉnh lộ 4 ở phía tây Thường Đức, liền gọi phi cơ đến oanh tạc, phá hủy được 3 chiến xa của Cộng quân và nhiều xe vận tải khác. Cũng trong ngày 30.7.1974, Biệt Động Quân đã bắt được một tù binh của Cộng quân và biết được lực lượng của Cộng quân đang mở cuộc tấn công là Trung Đoàn 29 của Sư Đoàn 324B.
    Ngày 31.7.1974, Cộng quân bắt đầu cho bộ đội tấn công vào Thường Đức. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 79 BĐQ gọi pháo binh bắn trọng pháo vào ngay Bộ Chĩ Huy của tiểu đoàn. Điều này chứng tỏ Công quân đã tràn ngập Bộ Chỉ Huy của tiểu đoàn. Được tin này, Tướng Nguyễn Duy Hinh quyết định cho Trung Đoàn 2 thuộc Sư Đoàn 3 đang ở phía tây Đại Lộc tiến theo LTL 4 đến giải cứu Thường Đức, nhưng không tiến được. Tướng Hinh phải đưa đại bác 175 ly vào Hiếu Đức để bắn yểm trợ cho Thượng Đức, trong khi đó Không Quân đến oanh tạc vòng đai quanh Thượng Đức.
    Tiểu đoàn 79 BĐQ có nhiều người bị thương nên đã yêu cầu cho trực thăng đến chuyển thương, nhưng Không Quân trả lời rằng chỉ khi nào diệt xong các ổ súng phòng không của Cộng quân quanh Thường Đức, trực thăng mới có thể hạ cánh được.
    Khi thấy tình hình nguy ngập, Tướng Ngô Quang Trưởng đã ra lệnh cho một Chi Đội Thiết Giáp M-48 đang đóng ở Tân Mỹ, Thừa Thiên, di chuyển ngay vào Đà Nẵng để giải cứu Thường Đức. Ngày 1.8.1974, khi Chi Đội M-48 vừa đến Đà Nẵng, Tướng Hinh liền cho thiết lập một lực lượng đặc nhiệm gồm có Trung Đoàn 2 Bộ Binh và Thiết đoàn 11 Kỵ Binh đi tái chiếm Thường Đức, nhưng lực lượng này không tiến lên được.
    Ngày 5.8.1974, Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 2 bắt được một tù binh. Tù binh này khai thuộc Trung Đoàn 29 và cho biết trung đoàn này đang đóng giữa Thường Đức và Đồi 52. Tướng Hinh liền cho Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 2 và Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 57 tiến chiếm Đồi 52, nhưng khi còn cách đồi này khoảng 4 cây số thì phải dừng lại vì pháo của Cộng quân quá mạnh.
    Trong khi đó, Trung đoàn 66 của Sư Đoàn 304 bắt đầu tấn công vào Thường Đức. Tiểu đoàn 79 BĐQ cho biết đạn dược và lương thực bắt đầu cạn. Máy bay đã đến thả đạn dược và lương thực xuống cho Tiểu Đoàn 79, nhưng không may tất cả đã rơi ngoài vòng rào, vì máy bay không dám bay thấp.
    Ngày 6 và đêm 7.8.1974, Cộng quân pháo khoảng 1200 trái pháo vào căn cứ Thường Đức, sau đó cho bộ binh tràn vào. Lúc 8 giờ 30 sáng ngày 7.8.1974, Tiểu Đoàn 79 BĐQ thông báo không còn giữ căn cứ được, phải rút lui và cắt đứt liên lạc. Thường Đức hoàn toàn bị thất thủ.
    LỰC LƯỢNG DÙ THAM CHIẾN
    Năm 1973, sau khi Hiệp Định Paris được ký kết, cuộc chiến Việt Nam tạm ngưng, nhưng hai sư đoàn tổng trừ bị là Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến vẫn còn được Tướng Ngô Quang Trưởng lưu giữ tại Quân khu I.
    Ngày 7.8.1974, sau khi Thường Đức bị chiếm và áp lực của Cộng quân đè nặng ở phía tây Đà Nẵng, Tướng Ngô Quang Trưởng quyết định đưa Lữ Đoàn 1 và Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù từ Thừa Thiên vào Đà Nẵng để tái chiếm Thường Đức.
    Ngày 8.8.1974, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù gồm 3 tiểu đoàn trực thuộc đã được vận chuyển đến Đại Lộc ở phía đông Thường Đức. Ngày 11.8.1974, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù được di chuyển bằng phi cơ xuống phi trường Đà Nẵng sau khi bàn giao khu vực trách nhiệm cho Liên Đoàn 15 BĐQ. Sau đó, Tướng Lê Quang Lưởng cho di chuyển Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù vào đặt bản doanh gần bờ biển Non Nước, phía đông nam thành phố Đà Nẵng để chỉ huy.
    Biết Quân Lực VNCH sẽ tìm cách chiếm lại Thường Đức, Cộng quân cho Trung đoàn 29 chiếm giữ những ngọn đồi thấp ở phía nam của dãy núi núi cao chạy dọc theo sông Vu Gia và Liên tỉnh lộ 4, ngăn chận con đường gồ ghề và ngoẳn nghèo đi vào Thường Đức. Điểm cao nhất của dãy núi nầy là đỉnh 1235 cách Liên tỉnh lộ 4 khoảng 6 cây số về phía bắc. Đỉnh thứ hai là đỉnh 1062 nằm ở phía nam cách đỉnh 1235 khoảng 2 cây số. Cộng quân đã chiếm đỉnh 1062 để có thể kiểm soát đoạn đường từ Đại Lộc đến Thường Đức. Cộng quân cũng cho các tiền sát viên điều chỉnh pháo binh bắn chính xác vào các đơn vị của VNCH ở Đại Lộc. Vì thế, nhiệm vụ đầu tiên của hai Lữ Đoàn Dù là phải chiếm đỉnh 1062 bằng mọi giá.
    Trước hết, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù được giao phó nhiệm vụ ngăn chận địch xâm nhập vùng quận Hiếu Đức. Ngày 18.8.1974, khi ba Tiểu đoàn 1, 8, và 9 Nhảy Dù vừa tiến quân thì đụng đầu ngay với các đơn vị của Trung đoàn 29 ở phía đông đồi 52 gần xã Hà Nha. Sau một tháng đánh nhau, hai bên đều bị thiệt hại nặng. Cộng quân phải điều Trung đoàn 31 thuộc Sư Đoàn 2 vào Thường Đức thay thế Trung đoàn 66 của Sư đoàn 304 để Trung Đoàn 66 phụ lực với Trung đoàn 29 chống lại các đơn vị Nhảy Dù.
    Vì Cộng quân đã cho làm các hầm hố kiên cố quanh đỉnh 1062 bằng những thân cây rừng to lớn nên pháo binh và không quân của VNCH không thể phá vỡ được. Do đó, Lữ Đoàn Dù đã phải quyết định phóng lựu đạn cay và bình E8 để buộc địch phải chui ra khỏi các hầm trú ẩn rồi xin máy bay thả bom lửa Napalm đốt. Nhưng Lữ Đoàn Dù vừa chiếm được các vị trí quan trọng quanh đỉnh 1062 được ít lâu, Cộng quân đã dùng một lực lượng đông đảo hơn để chiếm lại. Hai bên bị tiêu hao rất nặng.
    Vào đầu tháng 9/1974, Cộng quân cho thêm Trung Đoàn 24 của Sư Đoàn 304 đến trợ chiến với Trung Đoàn 29 và Trung Đoàn 66. Nhưng vào chiều ngày 19.9.1974, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù báo cáo đã chiếm được đỉnh 1062.
    Ngày 2.10.1974, Tiểu đoàn 2 và Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù mở cuộc lục soát ở khu vực quanh đồi 1062 và dãy Sơn Gà, bắt sống được 7 tù binh thuộc Sư Đoàn 304. Một tuần sau, Sư Đoàn 304 lại mở cuộc tấn công tái chiếm đỉnh 1062. Nhưng nhờ pháo binh và phi cơ yểm trợ, các đơn vị Dù vẫn giữ vững đồi 1062.
    Tính đến trung tuần tháng 10/1974, sau gần 2 tháng quần thảo với Sư Đoàn 2 và Sư Đoàn 304 của Cộng Quân, Lữ Đoàn 1 Dù gồm 4 tiểu đoàn đã bị tổn thất khoảng 500 chiến sĩ vừa chết vừa bị thương.
    Ngày 29.10.1974, Trung đoàn 24 của Sư Đoàn 304 đã dùng súng phóng hỏa đốt đồi 1062 khiến các lực lượng Dù phải rút khỏi đỉnh đồi. Ngày 1.11.1974 Cộng quân lại chiếm giữ đồi 1062 một lần nữa.
    Trung Tướng Ngô Quang Trưởng liền ra lệnh cho Tướng Lê quang Lưỡng, Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, phải lấy lại đồi 1062 với bất cứ giá nào. Ngày 8.11.1974, lực lượng Dù lại bắt đầu mở cuộc phản công và 3 ngày sau đã chiếm lại được đồi 1062,
    Kể từ ngày 11.11.1974, Lực Lượng Dù đã ngự trị trên toàn ngọn đồi máu 1062 ở phía đông Thường Đức và thành lập tuyến phòng thủ trên các triền núi quanh đồi này. Công quân bị tiêu hao quá nhiều, không dám trở lại tấn công nữa. Tuy nhiên, Sư Đoàn 304 và Trung Đoàn 29 của Cộng quân đã thành lập một hệ thống phòng thủ vững chắc quanh Thường Đức để bảo vệ con đường 14, Quân Lực VNCH không thể tái chiếm Thường Đức được.
    Vào cuối năm 1974, Lực Lượng Dù chỉ để lại trên đồi 1062 Tiểu Đoàn 1 và Tiểu Đoàn 7, và đặt Bộ Chỉ Huy tại đỉnh Đông Lâm cách đồi 1062 khoảng 4 cây số về phía đông, để ngăn chận không cho Cộng quân tái chiếm đồi 1062.
    KẾT QUẢ TRẬN CHIẾN THƯỜNG ĐỨC
    Những trận đánh ác liệt quanh Thường Đức kéo dài từ ngày 18.7.1974 đến ngày 11.11.1974 đã đem lại những kết quả như sau:
    Về nhân mạng: Theo sự ước tính của cơ quan tình báo Hoa Kỳ, khoảng 2000 Cộng quân đã bị thiệt mạng và 5000 bị thương. Về phía VNCH, Tiểu Đoàn 79 BĐQ không còn nữa. Lực lược Nhảy Dũ cả chết lẫn bị thương gần đến 50%.
    Về lãnh thổ: Lực Lượng Nhảy Dù đã chiếm lại được đồi 1062 ở phía đông Thường Đức, nhưng không tái chiếm được Thường Đức.
    Năm 1965 cũng đã xẩy ra một trận đánh lớn ở đây. Cộng quân đã tập trung một lực lượng khá lớn để mở cuộc tấn công vào quận Thường Đức. Lực lượng này gồm có Mặt Trận 44 Quảng Đà, Trung Đoàn Q.82 và Nông Trường 2 Sao Vàng. Trận đánh diễn ra tại Ba Khe, Hà Nha và đồi Tétonon (1062). Trung Đoàn 51 Bộ Binh biệt lập của Việt Nam Cộng Hòa phải chiến đấu một cách anh dũng và vất vả mới có thể giữ được phần đất này. Sau trận đánh đó, hầu hết nhà cửa trong quận đều bị thiêu rụi, xác chết trôi đầy sông. Những trận đánh lớn như thế lại tiếp diễn vào tháng 1 năm 1972. Nhưng chưa lần nào Thường Đức bị mất hẵn vào tay Cộng quân như lần này.
    KHÔNG TRI BỈ TRI KỶ
    Ngày xưa, khi đến cai trị Đông Dương, người Pháp đã nhận ra ngay tầm quan trọng của cái chốt Thường Đức trên đường 14, nên đã lập một đồn tại đó để kiểm soát. Chính phủ Ngô Đình Diệm cũng đã nhận ra tầm quan trọng của Thường Đức trên đường tiến quân của Bắc Việt, nên đã biến Thường Đức thành một quận và hình thành Chi Khu Thường Đức để trấn giữ. Mỹ can thiệp vào Đông Dương cũng đã đánh giá cao tầm quan trọng của Thường Đức, nên đã tìm cách khóa chặt chốt này, không cho Cộng quân di chuyển xuống miền Nam. Cộng quân phải xử dụng con đường Tây Trường Sơn trên đất Lào rất vất vã.
    Điều đáng tiếc là sau khi cuộc chiến được ?oViệt Nam hóa?, các nhà lãnh đạo quân sự của miền Nam đã không nhận ra được tầm quan trọng của cái chốt Thường Đức, không thấy được chiến lược và chiến thuật của Cộng quân là khai thông đường Đông Trường Sơn để đưa quân xuống đánh thẳng vào Sài Gòn, nên không quan tâm đến Thường Đức.
    Nếu các tướng lãnh VNCH nhận ra được tầm quan trọng của Thường Đức, đưa khoảng một Liên Đoàn Biệt Động Quân đến thiết lập những nút chặn quanh Thường Đức, Cộng quân khó có thể khai thông con đường Đông Trường Sơn được.
    Tướng Ngô Quang Trưởng chẳng những không nhận ra được tầm quan trọng của việc cắt ngang con đường Đông Trường Sơn ở Thường Đức mà còn muốn mở thông con đường này cho Cộng quân chuyển xuống miền Nam để Vùng I của ông khỏi bị áp lực nặng!
    Một phi công A-37 đã cho chúng tôi biết khi đi tuần tra trên vùng Thường Đức, anh thấy một đoàn xe của Cộng quân đang di chuyển trên đường 14, anh đã cho máy bay lao xuống bắn cháy, nhưng sau đó anh đã bị phạt trọng cấm. Trong cuốn ?oCảnh Sát hóa, quốc-sách yểu tử của Việt Nam Cộng Hòa? xuất bản 2002, ông Lê Xuân Nhuận cũng đã kể lại một câu chuyện tương tự:
    ?oNgồi ở phòng giấy của đại tá Đáng, chúng tôi có dịp nghe + thấy thêm được đôi điều. Tỷ như có lần, đầu năm 1975, nghe điện thoại xong, ông bảo bên kia chờ máy, để ông vào trình Trung Tướng. Ông qua phòng giấy Tướng Ngô Quang Trưởng, trình xong, về trả lời người bên kia:
    ?" Trung tướng chỉ thị anh em Không Quân, khi thấy xe tăng, xe tải, bộ đội của chúng di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh, dù ở trong tầm oanh kích của ta thì cũng đừng hành động gì, cứ để cho chúng tiếp tục chuyển quân vào Nam...?
    Cổ nhân nói: ?oTri bỉ tri kỷ, bách chiến bách thắng?. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuy có mã rất tốt, nhưng lại yếu kém cả về quân sự lẫn chính trị, lại độc đoán nên đã làm hỏng đại cuộc. Ông không nhận ra được địch đang tính toán gì, không biết rõ chính sách của Đồng Minh trong từng giai đoạn, cứ suy nghĩ và hành động theo cảm tính, hỏi ý kiến của các cấp chỉ là hỏi lấy lệ, rồi làm theo ý riêng của mình. Nhưng khi ra lệnh thường nói theo kiểu mập mờ để khỏi bị trách nhiệm. Một tường được cử làm Cố Vấn An Ninh Phủ Tổng Thống là Trung Tướng Đặng Văn Quang thì chỉ lo đi kiếm tiền và nói hùa theo ông Thiệu để lấy lòng!
  6. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Bác maseo cứ kiểm chứng tiếp nhé. Nhân tiện nếu bác có tư liệu gì của phía bên kia về trận đánh ở Mađrắc-đèo Phượng Hoàng tháng 3-1975 mà E66 HR tham gia thì post tiếp đi cho bà con coi.
    Về trận Thượng Đức 1974, trận ta phía ta thương vong nhiều chủ yếu do chủ quan.
    Trung đoàn trưởng 66/304 không tổ chức bộ đội đào công sự nên thiệt hại nặng vì phi pháo. Theo cuốn tiểu thuyết "Thượng Đức" bộ phận làm nhiệm vụ mở cửa bằng tên lửa phá rào FR bị pháo bắn nên chạy vung mạng, đến lúc lắp để bắn thì bộ thiếu đầu, bộ thiếu đuôi, không phá được hàng rào và bãi mìn, bộ đội hy sinh rất nhiều, có người xác vắt lên dây thép gai, đến mấy ngày sau đồng đội mới đưa ra được.
    Pháo binh 304 chủ quan, trước trận đánh chủ nhiệm pháo binh tuyên bố "cạo đầu Thượng Đức" (tiểu thuyết "Thượng Đức") nhưng vào trận không chế áp được hoả lực địch. Sau cùng phải chuyển sang đem pháo vào gần bắn thẳng theo kinh nghiệm của sư đoàn 2 (mà trước đó 304 có nhiều pháo hơn nên bỏ qua không để ý đến), thì hiệu quả cao hơn hẳn.
    Có thời điểm BCH định rút sư 304 ra để sư 2 vào đánh. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng sư 2 là chủ lực quân khu, chưa có nhiều kinh nghiệm đánh quy mô lớn như 304, lại sợ sư 2 không đủ tự tin vì thấy "đến cả chủ lực Bộ còn chưa đánh được" nên lại thôi.
    Trong cuốn tiểu thuyết này có 1 chi tiết khá hài hước : quân đoàn phó Hoàng Đan lên đài quan sát xem pháo bắn. Thấy tệ quá ông nổi điên gọi lính thông tin đánh điện về sở chỉ huy trung đoàn pháo binh. Lính hỏi nội dung điện, ông quát : "** thằng pháo binh bắn như c..."
    u?c chiangshan s?a vo 17:13 ngy 05/06/2006
  7. Khikho007

    Khikho007 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/04/2004
    Bài viết:
    1.810
    Đã được thích:
    3
    Hai bác Sơn và Maseo có tài liệu về trận Sa Huỳnh post lên coi với. Tài liệu của Nam quân có đọc qua, nhưng chưa đọc được tài liệu nào của Bắc quân về trận này.
  8. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Khặc khặc khặc cụ Đan mà cũng phát ngôn bừa bãi vậy sao. Còn nhớ bài viết của Mr. Hùng Râu về trận thất thủ Tân Cảnh có nói 1 trong những tiêu chí phân biệt địch - ta của Mr. là bên nào nói tiếng Đức nhiều thì tất là VNCH, ko ngờ lãnh đạo VC gộc cũng nói năng kiểu đó. Mà pháo binh VC trong trận này lại được VNCH nhận định ngược lại đấy, cụ tỉ là nó khen pháo binh ta trong quân sử VNCH như sau:
    "Theo những người lính Việt Nam Cộng Hòa sống sót ở Đà Trạch và Thường Đức thì họ đã đối diện hỏa lực pháo binh chính xác với ưu thế vượt trội của Bắc quân ở một mực độ ác liệt chưa từng thấy. Theo tướng Hinh, chủ lực Bắc quân đã lớn mạnh và tự tin đến mức họ được cơ giới hóa nhanh chóng vào khu vực tập trung trên hệ thống đường chiến dịch mà họ đã bỏ công ngày đêm xây dựng trong năm 1973. Bắc quân chỉ tấn công vào ban ngày, dưới sự yểm trợ hỏa lực hùng hậu của pháo binh, thiết giáp và phòng không theo lối đánh hiệp đồng kỹ thuật ở qui mô lớn. Xác Bắc quân bỏ lại trên chiến trường cho thấy được trang bị lương khô và phương tiện cứu thương hiện đại."
    P/S: Trận Sa Huỳnh đã có 1 topic trước đây rồi, bác Chiangshan có thời gian tìm lại hộ cái.
  9. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Theo yêu cầu của bác Chiangshan, Maseo xin post tài liệu "phía bên kia" về trận đèo Mađrak - Phụng Hoàng do Sư 10 tiến hành, chỉ huy là Mr. Hồ Đệ, 66 Hai Râu chủ công phá tuyến phòng thủ của Lữ 3 Dù. VNCH gọi khu vực này là Khánh Dương chứ ko như ta, báo hại Maseo tra bản đồ toét mắt, tuy nhiên tài liệu về trận này cũng như phần lớn những trận đánh năm 75 của phía VNCH rất sơ sài và nhiều điểm thiếu rõ ràng hoặc mâu thuẫn lẫn nhau, lý do chắc các bác hiểu, thêm nữa "cánh cửa thép" này cũng bị mở nhanh quá nên cũng chả có nhiều để mà nói. Đây là tất tật những gì Maseo có được:
    Trận Chiến ở Khánh Dương
    Trong hai ngày 1 và 2 tháng 4/1975, nhiều vị trí phòng thủ của các đơn vị Quân Lực VNCH tại Khánh Hòa bị tấn công. Tại Khánh Dương, Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù do Trung Tá Lê Văn Phát chỉ huy đã kịch chiến với 4 trung đoàn (thuộc hai sư đoàn khác nhau) Cộng quân. Lực lượng của lữ đoàn này gồm có một tiểu đoàn Pháo Binh và 3 tiểu đoàn bộ-chiến Dù đã giao tranh quyết liệt với các đơn vị thuộc Sư Ðoàn F-10 và F-320 Bắc Việt. Các tiểu đoàn Nhảy Dù đã chống trả dữ dội và bất chấp đạn pháo binh của Cộng quân bắn khá chính xác. Nhiều vị trí mất rồi được chiếm lại, rồi lại bị mất, nhiều lần như vậy nhưng các tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 3 Dù vẫn cố giữ vững vị trí chiến đấu.
    Cũng cần ghi nhận rằng đã có nhiều tài liệu và hồi ký viết về cuộc chiến đấu của Lữ đoàn 3 Nhảy Dù, tuy nhiên những ghi nhận về diễn tiến thời gian có nhiều điểm khác nhau: Tài liệu của Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu ghi rằng Lữ đoàn 3 Nhảy Dù rút khỏi Khánh Dương vào ngày 2 tháng 4/1975. Trong khi đó, một tài liệu ghi lại theo trí nhớ của Trung Tá Lê Văn Phát, Lữ Ðoàn Trưởng Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù, viết rằng cuối tháng 3/1975, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù đã mở đường máu về Phan Rang. Ngược lại, nhật ký của Thiếu Tá Phạm Huấn, sĩ quan báo chí của tướng Phú, ghi rõ từng giờ, từng ngày tình hình chiến sự tại Khánh Dương, thì đã ghi lại như sau: đến 2 giờ 10 phút chiều ngày 1/4/1975, Tướng Phú liên lạc lần cuối với Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù.
    Theo nhật ký của Thiếu Tá Phạm Huấn, sĩ quan, trong tình hình sôi động và trước áp lực nặng của Cộng quân, vào lúc 8 giờ 10 phút ngày 1 tháng 4/1975, Trung Tá Phát trình với Thiếu Tướng Phú là nếu không có tăng viện và không được cấp phát thêm hỏa tiễn TOW chống chiến xa thì tuyến Khánh Dương sẽ bị Cộng quân tràn ngập. Tướng Phú yêu cầu Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù cố gắng để chờ quân của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh từ Qui Nhơn rút vào cùng với một trung đoàn của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh được tái chỉnh trang. Đến 2 giờ 10 chiều ngày 1 tháng 4/1975, khi đang bay trên không phận Khánh Dương thì Tướng Phú chỉ liên lạc được với một sĩ quan của Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù. Tướng Phú được báo vắn tắt là Cộng quân đã tràn ngập nhiều vị trí của các đơn vị Nhảy Dù, tuyến phòng thủ đã bị cắt nhỏ. Sau đó phía dưới đất tắt máy.
    [​IMG]
  10. Vo_Quoc_Tuan

    Vo_Quoc_Tuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/03/2002
    Bài viết:
    2.374
    Đã được thích:
    11
    Ghét nhất là bác dùng từ Nam quân với Bắc quân. Chả có vẻ gì là người Quốc gia cả. Quốc gia thì phải hô hào đoàn kết dân tộc chớ. Hừ.

Chia sẻ trang này