1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trung Quốc bành trướng và tiềm lực quân sự khổng lồ

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi tonykaka, 24/06/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. quynhcx1

    quynhcx1 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/06/2005
    Bài viết:
    28
    Đã được thích:
    0
    LÝ LẼ CỦA KẺ MẠNH
    Dựa trên lý lẽ của kẻ mạnh, người ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Trung Quốc tự cho là có toàn quyền khai thác con sông Mekong với thế thượng phong là quốc gia thượng nguồn mà chẳng kể gì tới tới mối quan tâm lo lắng về thảm họa môi sinh do họ gây ra cho các nước dưới nguồn.
    Năm 1995 Bắc Kinh đã dứt khoát từ chối tham gia Ủy Hội Sông Mekong để vẫn là một nước Trung Hoa "ngoài vòng kiêm tỏa" tự do muốn làm gì thì làm. Ủy Hội Sông Mekong không có Trung Quốc tham gia và hợp tác sẽ trở thành một tổ chức vô hiệu và tê liệt.
    (Tưởng cũng nên mở một dấu ngoặc về lịch sử hình thành Ủy Hội Sông Mekong. Năm 1957, Ủy Ban Sông Mekong / Mekong River Committee được Liên Hiệp Quốc thành lập bao gồm 4 nước Thái, Lào, Cam Bốt và Việt Nam với trụ sở đặt tại Bangkok để có kế hoạch khai thác con sông Mekong không phải chỉ có tiềm năng thủy điện mà còn cả về phát triển thủy lợi, canh nông, ngư nghiệp và giao thông. Nhưng do Chiến Tranh Việt Nam lan rộng mọi nên kế hoạch khai thác sông Mekong phải đình hoãn. Đến tháng 4 năm 1995, bốn nước lại nhóm họp để thành lập Ủy Hội Sông Mekong / Mekong River Commission với trụ sở đặt tại Nam Vang nhưng với điều thay đổi rất cơ bản là không nước hội viên nào có quyền phủ quyết / veto power).
    Đến năm 1997, cho dù Liên Hiệp Quốc đã phê chuẩn công ước liên quan tới vấn đề hợp tác phát triển bền vững và sử dụng nước trên các con sông quốc tế nhưng cũng chính Trung Quốc đã lại bỏ phiếu chống. Tháng 08 năm 2000 có thêm một Hội Nghị "ASEAN Plus Three" họp tại vương quốc Brunei, ngoài các nước thuộc Hiệp Hội Quốc Gia Đông Nam Á, còn có thêm ba nước Trung Quốc, Nhật Bản và Nam Hàn nhưng do thái độ ngang ngạnh của Bắc Kinh nên cũng không đưa tới một kết quả cụ thể nào, phá tan niềm hy vọng hợp tác của các nước hạ nguồn với Trung Quốc trong kế hoạch phát triển Sông Mekong. [4]
    Trong khi đó Trung Quốc vẫn không ngừng "xây thêm - xây thêm" những con đập Vân Nam. Trung Quốc đã tự do lấy nước vào các hồ chứa khổng lồ, làm cạn dòng sông, ngăn chặn nguồn phù sa, hủy hoại nguồn cá, với tác hại lâu dài trên toàn hệ sinh thái ảnh hưởng tới đời sống của hàng trăm triệu cư dân dưới nguồn. Xa hơn nữa họ còn có khả năng đổi dòng sông Mekong để có nước tưới cho những vùng đất mênh mông khô hạn của Trung Quốc và cả dùng chất nổ phá vỡ những khối đá trên sông để mở thủy lộ giao thông đi rất xa về phương nam. Điển hình là vào tháng 4 năm 2001, Trung Quốc đã ký một thỏa hiệp về thủy vận trên sông Mekong nhưng chỉ với 3 quốc gia Miến Điện, Thái Lan và Lào với kế hoạch vét lòng sông, cả dùng cốt mìn chất nổ phá tung những khối đá trên các đoạn ghềnh thác, các đảo nhỏ trên sông để khai thông mở rộng đường sông cho tàu lớn trọng tải từ 500-700 tấn có thể di chuyển từ cảng Simao Vân Nam xuống Chiang Khong Chiang Sean Thái Lan xuống thẳng tới Vạn Tượng thủ đô nước Lào. Trong khi Việt Nam và Cam Bốt là hai quốc gia cuối nguồn, trực tiếp chịu ảnh hưởng của kế hoạch ấy thì bị gạt ra ngoài. [9]
    Trong các chuyến đi khảo sát thực địa bên Lào (12/00) và Cam Bốt (12/01) mới đây, chúng tôi đã tận mắt chứng kiến sự suy thoái của con sông Mekong đang cạn dần - một cách tệ hại và nhanh hơn cả những dự đoán bi quan nhất. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi một giáo sư am hiểu tình hình Trung Quốc đã đưa ra nhận xét là trong bang giao quốc tế "Trung Quốc chưa hề có một hồ sơ theo dõi tốt - good track records".
    TRUNG QUỐC NẮM MỌI CON BÀI.
    Sông Mekong_ con sông Danube của Phương Đông, như một con sông quốc tế lớn thứ 11 thế giới và thứ ba Châu Á ấy đang đứng trước những nguy cơ do những bước phát triển tự phát bừa bãi dẫn tới từng bước hủy hoại toàn hệ sinh thái vô cùng phong phú của con sông [chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon Nam Mỹ].
    Thảm họa lớn nhất cho con sông Mekong là Những Đập Thủy Điện không ngừng được xây thêm - xây thêm trên dòng chính và cả các phụ lưu. Đáng sợ nhất vẫn là Chuỗi 14 Con Đập Bậc Thềm Khổng Lồ Vân Nam khiến nhiều khúc sông bị bóp nghẽn, làm ảnh hưởng trên toàn sinh cảnh của dòng sông và tác hại lâu dài trên hàng trăm triệu cư dân sống hai bên bờ con sông ấy. Witoon Permpongsachareon, chủ tịch nhóm bảo vệ môi sinh TERRA (Towards Ecological Recovery & Regional Alliance) có văn phòng ở Bangkok phát biểu: "Những con đập là mối đe dọa lớn nhất đối với con sông Mekong và sự trong lành của môi sinh. Xây một con đập thì cũng giống như kẹp một động mạch trên một cơ thể khỏe mạnh. Nếu máu không lưu thông chắc chắn cơ thể ấy sẽ bị tổn hại" [8]. Cũng lại chính Witoon tiếp: "Chúng ta phải cùng nhau hợp tác khai thác con sông Mekong như một toàn thể và không để cho bị chia cắt bằng những hàng rào chánh trị".
    Đó chỉ là tiếng kêu cứu trong sa mạc bởi vì trớ trêu thay, tất cả mong ước ấy có thành tựu được hay không lại hoàn toàn do Bắc Kinh định liệu. Và khi mà những con đập thủy điện Vân Nam được coi như yếu tố tích cực tạo sức bật cho các bước canh tân nhảy vọt của Trung Quốc thì theo Dai Qing nhà hoạt động môi sinh nổi tiếng đã có nhận định là "Trung Quốc sẽ không có một thay đổi nào trong kế hoạch khai thác sông Mekong của họ cho dù ảnh hưởng tác hai ra sao đối với các quốc gia dưới nguồn" [8]. Bắc Kinh đã hành động như chính mình đã sở hữu suốt chiều dài con sông - vốn là một con sông quốc tế.
    , là với chuỗi con đập khổng lồ ấy Trung Quốc đang nắm trong tay thứ vũ khí Môi Sinh Chiến Lược cực kỳ lợi hại có khả năng gây hạn hán hay những trận hồng thủy trong toàn lưu vực.
    Phải làm gì khi mà thế liên minh của các quốc gia Đông Nam Á thực sự là chia rẽ và suy yếu. Các nước nhỏ ấy có thể làm khó gây thương tích cho nhau (self-inflicted injury) nhưng lại có chung một thái độ cam chịu trước sự hoành hành của nước lớn Trung Quốc. Mà Trung Quốc thì bao giờ cũng theo chánh sách chia để trị và chỉ chấp nhận những cuộc thương thảo song phương trong các vụ tranh chấp và hiển nhiên không có một nước nào có đủ sức mạnh và tư thế ngoại giao [diplomatic leverage] để khiến Trung Quốc phải lắng nghe tiếng nói của mình.
    Trước mắt, việc đưa Trung Quốc ra trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc về thái độ độc quyền khai thác con sông Mekong như một con sông quốc tế mà bất kể tới hậu quả nơi các quốc gia hạ nguồn sẽ như một báo động cảnh giác ít ra cũng khiến Trung Quốc và cả những đại công ty tư bản tài trợ cho các dự án thủy điện ấy biết là thế giới đang theo dõi họ khiến ở một chừng mực nào đó họ phải làm việc với những phương thức công khai minh bạch và hành sử một cách có trách nhiệm hơn thay vì với thái độ cao ngạo và trịch thượng Sống Chết mặc Bay như hiện nay. Với một cái nhìn toàn cảnh trong mối tương quan chánh trị địa dư của toàn vùng, thì việc tiếp tục xây thêm những con đập trên dòng chính sông Mekong - điển hình là việc khởi công xây thêm con đập mẹ khổng lồ Tiểu Loan / Xiaowan, phải được xem là?7897t hành động thù nghịch, tuy chưa có tiếng nổ của súng đạn nhưng chính đó là một cuộc chiến tranh môi sinh không tuyên chiến của Trung Quốc. Đây cũng là "một vi phạm nhân quyền / human right violation trên quy mô lớn nhất".
  2. quynhcx1

    quynhcx1 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/06/2005
    Bài viết:
    28
    Đã được thích:
    0
    Triệu Tử Dương, một thất bại đáng kính
    http://www.rfa.org/vietnamese/binhluan/2005/01/19/veconomic011805p.mp3
  3. quynhcx1

    quynhcx1 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/06/2005
    Bài viết:
    28
    Đã được thích:
    0
    Loạt bài do anh sonj đưa lên
    1 BÁO MỸ VIẾT VỀ GIỚI LÃNH ĐẠO TRUNG QUỐC
    2 TẠI SAO TRUNG QUỐC THAY ĐỔI THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ HẠT NHÂN CỦA BẮC TRIỀU TIÊN?
    3 SỰ IM LẶNG VỀ NGOẠI GIAO CỦA TRUNG QUỐC
    4 CHỨNG TÂM THẦN PHÂN LẬP CỦA TRUNG QUỐC
    5 TRUNG QUỐC TÌM CÁCH ÁP ĐẶT BÁ QUYỀN Ở ĐÔNG NAM Á
    6 CAMPUCHIA-TRUNG QUỐC: HƠN CẢ NHỮNG NGƯỜI BẠN
    7 SỨC MẠNH QUÂN SỰ TRUNG QUỐC VÀ QUAN HỆ TRUNG-MỸ
    8 TRUNG QUỐC: CHUYỂN QUÂN TỚI BIÊN GIỚI VỚI BẮC TRIỀU TIÊN
  4. quynhcx1

    quynhcx1 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/06/2005
    Bài viết:
    28
    Đã được thích:
    0
    BÁO MỸ VIẾT VỀ GIỚI LÃNH ĐẠO TRUNG QUỐC
    TTXVN (Oasinhtơn 29/5/2003)
    Hơn một năm sau khi Hồ Cẩm Đào được bầu làm ************* và Ôn Gia Bảo được bầu làm Thủ tướng trong cuộc chuyển giao quyền lực trật tự đầu tiên của Trung Quốc, nhiều người vẫn đang tự hỏi ai hiện nắm quyền?
    Tờ "Thời báo Lốt Angiơlét" ngày 29/5 có bài "Người lính già nắm khẩu súng lớn trong giới lãnh đạo Trung Quốc", dẫn ý kiến các nhà phân tích đánh giá rằng câu trả lời ngắn gọn là không ai nắm quyền, ít nhất là không nắm quyền hoàn toàn. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo nắm quyền về kinh tế, các vấn đề xã hội và hầu hết các lĩnh vực của chính sách đối ngoại, trong khi Giang Trạch Dân vẫn kiểm soát quân đội và hầu hết các vấn đề liên quan tới Đài Loan và Hồng Công.
    Sự chia rẽ trong giới lãnh đạo cấp cao thường báo hiệu sự rối loạn ở Trung Quốc, đặc biệt là cuộc ***************** 1966-1976 và vụ đàn áp ở Quảng trường Thiên An Môn hồi năm 1989. Vị thế quốc tế ngày càng nổi bật của Trung Quốc về chínhtrị, kinh tế và ngoại giao cũng có nghĩa là sự ổn định của Trung Quốc có ảnh hưởng đáng kể tới thế giới. Tuy nhiên, các nhà phân tích cho rằng tình hình hiện nay có thể duy trì được bởi mặc dù phong cách rất khác nhau, hai nhóm lãnh đạo dường như lại nhất trí với nhau ở nhiều vấn đề then chốt, trong đó có lĩnh vực an ninh quốc gia và quan điểm cứng rắn đối với vấn đề Đài Loan. Thậm chí một số nhà phân tích còn coi sự chia rẽ là một giai đoạn quan trọng trong việc phát triển cách tiếp cận dựa trên sự đồng thuận hơn là trong vấn đề quyết sách.
    Ma Ling, tác giả viết tiểu sử Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, nhận xét: "Giờ không còn kiểu một nhà lãnh đạo một mình đưa ra quyết định. Đây là bước phát triển đối với hệ thống của Trung Quốc". Việc Giang Trạch Dân kiểm soát quân đội là yếu tố rất quan trọng tại một đất nước mà đảng cầm quyền vươn tới quyền lực nhờ các cuộc đấu tranh vũ trang và Quân Giải phóng Nhân dân được xem là "Bức tường sắt vĩ đại bảo vệ tổ quốc". Liu Junning, nhà nghiên cứu thuộc Viện nghiên cứu văn hóa Trung Quốc, nói: "Về cơ bản, quân đội luôn nắm quyền quyết định".
    Tuy nhiên, thời gian không ủng hộ Giang Trạch Dân. Ở tuổi 77, Giang Trạch Dân nhiều hơn Hồ Cẩm Đào 16 tuổi. Ông ta không còn được nhiều người ưa chuộng. Người Trung Quốc đã lặng lẽ chỉ trích Giang Trạch Dân là hơi quá tự phụ và cố níu kéo quyền lực. Cứ mỗi tháng qua đi, Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo lại càng xây dựng được uy tín là những nhà lãnh đạo có khả năng, làm suy yếu những ý kiến cho rằng Giang Trạch Dân vẫn cần phải xuất hiện.
    Việc Giang Trạch Dân vẫn còn nắm quyền là nhờ mạng lưới đồng sự từ Thượng Hải và một số nơi khác. Theo một số ước tính, trong 9 ủy viên Thường vụ Bộ Chínhtrị đảng Cộngsản Trung Quốc có tới 5 hoặc 6 người thuộc phe Giang Trạch Dân. Các nhà phân tích cho rằng chiến lược của Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo là dần tích lũy quyền lực thông qua cương vị lãnh đạo vững vàng, tránh những bước đi sai lầm có thể chọc giận những tư tưởng cứng rắn trong nhóm ủng hộ Giang Trạch Dân, và thay thế hoặc lôi kéo các đồng minh then chốt của Giang Trạch Dân. Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo còn đang tìm cách xây dựng sự ủng hộ trong nhân dân Trung Quốc và các quan chức đảng và chính phủ ở cấp thấp. Mặc dù Trung Quốc khó có thể được coi là một nền dân chủ, nhưng quan điểm của nhân dân ngày càng có tầm quan trọng.
    Những thay đổi tiềm tàng về cơ cấu cũng bắt đầu có hiệu lực. Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình cai trị bằng sức mạnh cá nhân. Giang Trạch Dân không có được uy tín cách mạng và tài thuyết phục, nhưng được hưởng di sản của Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình và cai trị bằng sự chỉ huy nhiều hơn là sự đồng thuận. Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo có thể muốn tìm cách thay đổi cơ cấu chínhtrị để phản ánh tốt hơn một xã hội đa dạng, cải thiện khả năng hoạt động bất chấp ai đang nắm cương vị lãnh đạo cao nhất. Victor Yuan, Chủ tịch Horizon, một công ty nghiên cứu-tiếp thị có trụ sở ở Bắc Kinh thường thực hiện các cuộc thăm dò dư luận phục vụ ngành tư nhân và Đảng Cộngsản, nhận xét: "Về thế hệ lãnh đạo này, việc phác thảo luật lệ được xem là điều quan trọng, chứ không phải các chính sách được xây dựng quanh những "siêu nhân" như Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Tôi cho rằng Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo hiểu rõ điều này".
    Một số nhà phân tích dự báo Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo cuối cùng sẽ để mắt tới việc cải cách quân đội, có thể là hợp tác với Giang Trạch Dân, đưa quân đội trở thành lực lượng chiến đấu hiệu quả hơn, nhưng đồng thời phù hợp hơn với các thành phần còn lại của xã hội. Do Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo được cho là sẽ không hành động bất ngờ chừng nào quyền lực của họ còn chưa được củng cố, các nhà phân tích nhấn mạnh rằng có thể sẽ phải mất nhiều năm nữa người ta mới biết được ý định của họ về vấn đề cải cách.
    Bất kỳ cuộc khủng hoảng nào, như cuộc chiến tranh với Đài Loan hay suy thoái kinh tế, rất có thể sẽ "dọn cỗ" cho Giang Trạch Dân và những tư tưởng cứng rắn. Tuy nhiên, ngoại trừ trường hợp tai họa, các nhà phân tích đoán trước hàng loạt kịch bản mà theo đó Giang Trạch Dân sẽ từ bỏ chức Chủ tịch Quân ủy Trung ương và trao hoàn toàn quyền lực cho Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo.
    Về khả năng sớm nhất, Giang Trạch Dân có thể ra đi trong năm nay hoặc đầu năm 2005, dựa trên tiền lệ Đặng Tiểu Bình quyết định từ bỏ quyền kiểm soát quân đội vào thời điểm giữa nhiệm kỳ đầu của Giang Trạch Dân. Nhưng Giang Trạch Dân cũng có thể tìm cách níu kéo quyền lực cho đến khi ông ta qua đời hoặc bị hất khỏi cương vị này. Một kịch bản mang tính thỏa hiệp dự báo việc chuyển giao sẽ diễn ra vào thời điểm bắt đầu Đại hội Đảng Cộngsản Trung Quốc lần thứ 17 và nhiệm kỳ hai của Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo vào năm 2007./.
    Được quynhcx1 sửa chữa / chuyển vào 23:27 ngày 10/07/2005
  5. quynhcx1

    quynhcx1 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/06/2005
    Bài viết:
    28
    Đã được thích:
    0
    GIANG TRẠCH DÂN - QUAN NHIẾP CHÍNH CỦA TRUNG QUỐC
    TTXVN (Xítni 28/6/2003)
    Giang Trạch Dân, nguyên ************* và tổng bí thư đảng, hiện có thể vẫn là nhà lãnh đạo nhiều quyền lực của Trung Quốc. Ông được gọi với cái tên "quan nhiếp chính trong bóng tối" của Trung Quốc do ảnh hưởng chínhtrị của ông ở cương vị tổng tư lệnh quân đội. Và hiện không có dấu hiệu nào cho thấy ông sẽ từ bỏ chức vụ này. Tờ "Asia Times" ngày 28/6/2004 có bài phân tích dưới đầu đề trên với nội dung như sau:
    Bắc Kinh vừa mới thăng cấp cho 15 sĩ quan quân đội cao cấp lên chức tướng bốn sao, trong đó có nhân vật phụ trách lực lượng bảo vệ của tổng tư lệnh Giang Trạch Dân. Các học giả về chínhtrị nói việc này cho thấy Giang, nguyên ************* và tổng bí thư đảng của nước này, sẽ không từ bỏ chức vụ vào thời điểm sớm sủa và sẽ tiếp tục bám chặt lấy quyền lực.
    Trên thực tế, mới đây Giang đã cử người được ông bảo trợ, phó Chủ tịch Tăng Khánh Hồng, thực hiện một sứ mệnh quan trọng và nhạy cảm tới châu Phi, với mục tiêu thuyết phục Nam Phi ngừng bán nguyên liệu hạt nhân có thể ứng dụng vào lĩnh vực quân sự cho Đài Loan có tư tưởng chống đối và ngả sang độc lập, cô lập hơn nữa hòn đảo này trong cộng đồng quốc tế.
    Giang, 77 tuổi, đã trao chức vụ đứng đầu Đảng cộngsản cho người kế vị ông là Hồ Cẩm Đào vào năm 2002 và chức ************* vào năm 2003, tuy nhiên ông vẫn nắm chặt chức Chủ tịch Ủy ban Quân sự Trung ương (CMC) đầy quyền lực của đảng, tổ chức quân sự cao nhất của nước này.
    Theo hãng tin Tân Hoa Xã do nhà nước quản lý, lễ thăng quân hàm được tổ chức vào ngày 20/6 mới đây tại Trung Nam Hải, khu vực bí hiểm và được canh phòng cẩn mật dành cho các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh. Việc đề bạt này là theo lệnh của Giang và được Hồ Cẩm Đào loan báo. Đây là lần thứ 8 Giang đưa ra những lệnh đề bạt tương tự, cho đến nay lên đến tổng số 79 tướng lĩnh cấp cao, kể từ khi ông trở thành chủ tịch quân ủy trung ương vào năm 1989.
    Nhân vật đáng chú ý nhất trong số những sĩ quan được thăng chức là You Xigui, nguyên trung tướng và là giám đốc Cục Bảo vệ Trung ương chịu trách nhiệm bảo vệ an ninh cho các nhà lãnh đạo chóp bu của đất nước, người đã trông nom công việc bảo vệ an ninh cho Giang trong khoảng 10 năm nay. Các nhà phân tích nói với phóng viên của Tờ "Asia Times" rằng việc cho phép You tiếp tục giữ chức vụ đứng đầu Cục Bảo vệ cho thấy Giang hiện muốn tiếp tục ở lại chức vụ, do ông muốn nhân vật thân tín của mình có nhiều quyền lực hơn.
    Các chuyên gia quân sự chỉ ra rằng việc đề bạt You đi ngược lại với nguyên tắc của đảng: thứ nhất, các quân nhân được thăng cấp đại tướng mà vẫn giữ nguyên chức vụ cũ là rất hạn chế về số lượng; thứ hai, You không đáp ứng được hai đòi hỏi chủ chốt. Thứ nhất là người đó phải nắm những chức vụ trong 1 đến 2 năm ở những quân khu quan trọng ở Trung Quốc và thứ hai là người đó phải ở cấp bậc trung tướng ít nhất trong 4 năm. Điều này làm mọi người đặt câu hỏi liệu phải chăng đây là chủ nghĩa thân quen hay một lý do nào khác cho thấy You đã được vị cựu ************* lựa chọn và đích thân nâng đỡ.
    Thậm chí người bảo vệ của Mao cũng chưa bao giờ được thăng quân hàm. Người ta thậm chí còn lưu ý rằng thậm chí Wang Dongxing, người bảo vệ hàng đầu của Mao Trạch Đông, cũng chưa hề nhận được một tước hàm nào trong quân đội dù là khiêm tốn nhất. Việc thăng cấp cho You do vậy là một bất ngờ đối với những người quen thuộc với những chuẩn mực trong Quân Giải phóng Nhân dân (PLA).
    Theo một nguồn tin chính phủ, Giang đã chọn You để đề bạt trong những năm 1990 sau khi ông này chộp lấy một gói hàng được ném vào xe ô tô của Giang ở Bắc Kinh. Một nguồn tin kể lại với Tờ "Asia Times" với điều kiện giấu tên rằng: "Giang lúc đó run bắn người...nhưng có ấn tượng với sự dũng cảm và lòng trung thành của You." Sau này gói hàng đó, lúc đầu được cho là một quả bom, hóa ra là những đơn từ kiện tụng từ một người đang có oan khuất. Ngay sau đó, viên sĩ quan đứng đầu đơn vị bảo vệ này được thăng chức thiếu tướng vào năm 1990 và trung tướng vào năm 1997.
    Đánh giá từ một số cử chỉ được công bố công khai của Giang trong năm nay, các học giả chínhtrị đoán rằng vị cựu ************* có thể đang tìm cách duy trì quyền kiểm soát đối với quân đội cho đến đại hội toàn quốc lần thứ 17 của đảng sẽ được tổ chức trong 3 năm nữa. Năm ngoái, bất chấp những lời xì xào về việc làm cất nhắc họ hàng thân thích, Giang đã đưa con trai của ông là Giang Cẩm Hằng lên nắm chức phó giám đốc chương trình đưa người lên vũ trụ đầu tiên của Trung Quốc.
    Dường như để thể hiện rõ quyết tâm duy trì ảnh hưởng của mình đối với quân đội, Giang đã thường xuyên xuất hiện công khai kể từ tháng 4/2004 đến nay, như ban lệnh khen thưởng những sĩ quan kỹ thuật trong quân đội. Ngày 9/5/2004, ông đã chấp thuận việc tăng cường sự kiểm soát của đảng đối với các lực lượng vũ trang.
    2
    Trên thực tế, một số quan chức thân Chủ tịch Hồ Cẩm Đào cũng được Giang đề bạt. Một ví dụ nổi bật của việc này là Cát Chấn Phong, phó Tổng Tham mưu trưởng kể từ năm 2002, người có quan hệ gần gũi với Tổng Tham mưu trưởng Lương Quang Liệt, một người ủng hộ trung thành của Hồ Cẩm Đào.
    Cuộc đấu đá nội bộ trong các hành lang quyền lực của Bắc Kinh, như thường lệ, dự kiến sẽ tiếp tục diễn ra. Hồ được nhiều người cho rằng sẽ thay thế Giang giữ chức chủ tịch quân ủy trung ương vào một thời điểm nào đó, tuy nhiên khi nào Giang sẽ chấp nhận thực tế phũ phàng của việc chuyển giao quyền lực cuối cùng và không thể tránh khỏi là điều đang được mọi người phỏng đoán.
    Trong khi đó, việc tranh giành quyền lực cũng liên quan đến phó ************* Tăng Khánh Hồng, người cũng có tham vọng được đề bạt vào hàng ngũ quân đội và cơ quan chỉ huy quân đội. Ngày 20/6/2004, Tăng Khánh Hồng đã bắt đầu một chuyến thăm chính thức tới 4 nước châu Phi - Tuynidi, Tôgô, Bênanh và Nam Phi. Dự kiến chặng dừng chân cuối cùng của ông này, nếu kết thúc với những hiệp định thành công - như chấm dứt sự hợp tác về kinh tế/quân sự của những nước này với Đài Loan - sẽ giúp đưa ông vào ban lãnh đạo quân sự tối cao của Trung Quốc, với tư cách phó chủ tịch mới trong quân ủy của Giang.
    3.
    Vấn đề nhập khẩu nguyên liệu hạt nhân của Đài Loan
    Trong quá khứ, Nam Phi đã duy trì các quan hệ ngoại giao trong một thời gian dài với Đài Loan, một tỉnh nổi loạn mà Bắc Kinh muốn gạt ra ngoài chính trường quốc tế. Hiện tại, Nam Phi có một trong những quân đội mạnh nhất trên lục địa châu Phi. Đài Loan cho đến nay vẫn nhập khẩu từ Nam Phi những nguyên liệu hạt nhân có thể ứng dụng vào lĩnh vực quân sự.
    Hau Pei-tsun, nguyên thủ tướng và bộ trưởng quốc phòng Đài Loan, đã tiết lộ trong cuốn tự truyện của ông - cuốn "Hồi ký tám năm ở cương vị Tổng tham mưu trưởng" rằng Đài Loan đã có khả năng sản xuất vũ khí hạt nhân từ cách đây 18 năm, nhưng đã bị Mỹ gây sức ép buộc phải ngừng việc nghiên cứu hạt nhân của mình vào năm 1988. Nếu điều này là đúng sự thật, thì giờ đây Đài Loan chắc chắn đang ở ngưỡng cửa của một cường quốc hạt nhân, theo tiêu chuẩn đánh giá về nghiên cứu và phát triển vũ khí hạt nhân mà câu lạc bộ những nước có vũ khí hạt nhân đề ra.
    Bắc Kinh từ lâu này vẫn tỏ ra lo ngại về tiềm năng của Đài Loan trong việc phát triển vũ khí hạt nhân. Do vậy, Phó Chủ tịch Tăng Khánh Hồng có thể đã được cử đi thực hiện sứ mệnh thuyết phục Nam Phi ngừng xuất khẩu nguyên liệu hạt nhân cho Đài Loan. Nếu ông này thành công trong sứ mệnh của mình, ông chắc chắn sẽ giành được uy tín và củng cố những tham vọng của ông tham gia bộ máy quân sự chóp bu của Trung Quốc.
    Trong các cuộc thương lượng với Nam Phi, Tăng Khánh Hồng có thể đưa ra một vài con bài quân sự. Vào năm 2001, Chính phủ Dimbabuê, thường xuyên có quan hệ căng thẳng với Nam Phi, đã xác nhận rằng họ đã mua 12 máy bay chiến đấu FC-1 và 100 xe quân sự của Trung Quốc trị giá tổng cộng 240 triệu USD. Trước đó, cựu ngoại trưởng Nam Phi đã tìm cách thuyết phục Trung Quốc không bán vũ khí cho Dimbabuê, nhưng ông này đã không thành công. Do vậy, hiện có nhiều ý kiến phỏng đoán là Trung Quốc sẽ đưa ra thỏa hiệp đối với việc bán vũ khí, đồng ý không bán vũ khí cho Dimbabuê để đối lấy cam kết của Nam Phi không cung cấp nguyên liệu hạt nhân cho Đài Loan.
    Ngoài ra, việc Phó chủ tịch Trung Quốc có thể giải quyết dứt điểm được một thỏa thuận nhập khẩu vũ khí với Nam Phi cũng là một trọng tâm chú ý của quốc tế. Cách đây một số năm, Nam Phi đã đặt xưởng đóng tàu Blohm & Voss ở Đức đóng bốn tàu khu trục nhỏ mà cả Trung Quốc và Đài Loan đều rất thèm muốn. Những tàu khu trục này, do chính Hải quân Nam Phi phát triển, được thiết kế tàng hình và rất khó phát hiện bằng các hệ thống rađa thông thường, hệ thống rađa sử sụng sóng âm hay hệ thống tự định vị của tên lửa cruise: một công nghệ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với hoạt động hàng hải.
    Nếu Tăng Khánh Hồng thuyết phục được Nam Phi chuyển giao công nghệ này cho Trung Quốc thay cho Đài Loan, thì Trung Quốc chắc chắn sẽ củng cố được ưu thế quân sự của họ đối với Đài Loan và họ Tăng sẽ giành được uy tín trong lực lượng vũ trang của Trung Quốc.
    Rõ ràng là Tăng Khánh Hồng từ lâu đã có tham vọng được tham gia ban lãnh đạo quân ủy trung ương. Trong chuyến thăm Thượng Hải tháng Tư mới đây, ông đã tới kiểm tra hai xưởng đóng tàu tàu khu trục và khinh hạm. Năm ngoái, ông đã có các cuộc gặp gỡ với các bộ trưởng quốc phòng Uganđa, Ôxtrâylia và Braxin.
    Tăng Khánh Hồng được coi là người được bảo trợ và nhân vật chủ chốt trong nhóm cố vấn của Giang Trạch Dân. Hiện có tin đồn là Giang, được đặt tên là quan nhiếp chính trong bóng tối ở Bắc Kinh, có thể sẵn sàng từ bỏ việc ông nắm quân đội với một điều kiện: Tăng Khánh Hồng được bầu làm phó chủ tịch quân ủy trung ương.
    Tăng Khánh Hồng là con trai đầu trong một gia đình có truyền thống nổi bật về quân sự. Mẹ ông Deng Liujin đã tham gia nhóm sĩ quan đảo chính trong Đảng Cộngsản Trung Quốc năm 1931 và là một trong số 27 phụ nữ còn sống sót trong cuộc Trường Chinh với quãng đường dài 25.000 km trong 2 năm - một cuộc rút lui hay tháo chạy bắt buộc, theo ý kiến một số người, sau khi nhóm sĩ quan này thua trong một trận phá vòng vây của quân Quốc Dân Đảng vào năm 1934.
    Ngoài ra, tất cả những thành viên trong gia đình Tăng, những người nắm những chức vụ trong quân đội, đều đã được đề bạt trong những năm gần đây. Zeng Qingyang, con trai thứ ba, trước đây là trưởng một phòng thuộc Viện Khoa học Quân sự, hiện là giám đốc Khoa Nghiên cứu và Phát triển Khoa học tại viện này. Zeng Qingyuan, con trai thứ tư, trước đây là trung tá thuộc Học viện Không quân Trung Quốc và hiện là chính ủy trong sư đoàn hậu cần của không quân PLA. Zeng Haisheng, con gái thứ năm, trước đây là phó giám đốc trực thuộc Cơ quan Tổng tham mưu PLA, hiện là giám đốc. Ba nhân vật này hiện đều giữ hàm thiếu tướng trong quân đội.
    Và Phó ************* Tăng Khánh Hồng hi vọng sẽ tham gia hàng ngũ những người em của mình, nếu ông thành công trong sứ mệnh tới Nam Phi mà người thày của ông là Giang Trach Dân trao cho, một sứ mệnh nhằm mục tiêu cô lập hơn nữa Đài Loan trên trường quốc tế./
  6. datvn

    datvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    2.981
    Đã được thích:
    1
    Vấn đề sông Mê kông quả là vấn đề phức tạp, các nước đều muốn khai thác dòng sông cho mục đích của mình, và đều phản đối khi người khác ảnh hưởng đến mình. Tất nhiên vì là nước thượng nguồn, Trung quốc luôn là nước lợi thế hơn. Phải nói rằng hiện nay hầu hết thái độ của các quốc gia trong ủy hội sông Mêkong là chưa tích cực. Các nước chỉ biết chăm chăm phản đối nếu quyền lợi của nước mình bị xâm phạm mà không thèm đếm xỉa đến quyền được khai thác dòng sông của các nước khác. Nếu cứ xét trên quan điểm này thì TQ càng có lợi, vì họ ở thượng nguồn mà, họ nắm đằng chuôi.
    Lý lẽ phản đối của các nhà môi trường về 14 đập trên dòng sông là cực đoan và không thuyết phục. Các nhà môi trường này thường rất cực đoan, xây cái gì họ chẳng phản đối. Trong khi đối với những dòng sông nội địa thuộc các nước trong ủy hội Mekong, họ vẫn xây các nhà máy thủy điện, thì không thể ngăn TQ xây các trạm thủy địện trên Lan thương được.
    Các lý luận trên đây có thể được đưa ra để phản đối bất cứ nhà máy thủy điện nào trên thế giới, có nghĩa là nó rất chung chung. Trong khi ở các dòng sông khác, người ta vẫn tiếp tục xây dựng thủy điện thì không thể cấm TQ xây thủy điện trên Lan thương được.
    Trông người lại ngẫm đến ta. Nhìn các dự án thủy điện mạnh mẽ và không lồ của TQ, tôi lại thấy tiếc cho các dự án của chúng ta trên sông Đà. Chúng ta đã không đủ mạnh mẽ để đưa ra quyết định xây dựng nhà máy lớn khai thác hết nguồn thủy năng của sông Đà, mà lại rụt rè, e sợ, xây một đập nho nhỏ. Như vậy là chúng ta đang ném nguồn than trắng của mình xuống biển. Xem ra, so với các quyết sách của nước bạn, chúng ta cũng chỉ là loại cò con thôi.....
  7. quynhcx1

    quynhcx1 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/06/2005
    Bài viết:
    28
    Đã được thích:
    0
    TẠI SAO TRUNG QUỐC THAY ĐỔI THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ HẠT NHÂN CỦA BẮC TRIỀU TIÊN?
    Thông tấn xã Việt Nam (Theo NYT 29/7/2003)
    Theo báo Mỹ "Người hướng dẫn khoa học đạo Cơ đốc" số ra mới đây, những thay đổi địa- chínhtrịsau vụ tấn công khủng bố ngày 11/9/2001 và chiến tranh Irắc cũng như những thay đổi ở Trung Quốc đã khiến Trung Quốc thay đổi thái độ đối với các nước láng giềng Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc, đặc biệt trong những tháng gần đây. Những thay đổi này một phần xuất phát từ 40 tỷ USD buôn bán hàng năm với Hàn Quốc, một phần xuất phát từ những lo ngại về một Bắc Triều Tiên được vũ trang hạt nhân và sự trách cứ ngầm trong giới lãnh đạo cấp cao ở Bắc Kinh về sự vô ơn của Bắc Triều Tiên. Bắc Kinh đã cho phép chỉ trích mạnh mẽ hơn trong các cuộc đối thoại nội bộ với Bắc Triều Tiên. Quan điểm thay đổi của Trung Quốc với Bắc Triều Tiên và quan hệ hợp tác nồng ấm hơn với Hàn Quốc đã góp phần làm cho Bắc Kinh trở thành "người trung gian hòa giải chân thành" giữa Oasinhtơn và Bình Nhưỡng. Một nhà lịch sử hàng đầu của Trung Quốc nói rằng Chính phủ Trung Quốc đã thay đổi thái độ trong một chừng mực nào đó đối với Bắc Triều Tiên. Chính phủ Trung Quốc đã cho phép thảo luận công khai hơn về cuộc chiến tranh Triều Tiên và về quan hệ giữa Trung Quốc với Bắc Triều Tiên.
    Sửa đổi lịch sử là vấn đề cực kỳ nhạy cảm đối với Trung Quốc vì như vậy có nghĩa là chỉ ra những sai lầm của các nhà lãnh đạo vốn được kính trọng hoặc chọc tức các đồng minh quan trọng. Chỉ gần đây, Trung Quốc mới sửa đổi luận điểm vốn đã được dạy cho các học sinh Trung Quốc suốt nhiều thập kỷ nói rằng cuộc chiến tranh Triều Tiên đẫm máu bùng nổ nhưng không chiến thắng và đã làm chết 36 vạn chí nguyện quân Trung Quốc là do Nam Triều Tiên tiến công Bắc Triều Tiên. Sách giáo khoa lịch sử năm thứ 2 trung học của Trung Quốc nay viết rằng vào ngày 25/6/1950, cuộc nội chiến Triều Tiên bùng nổ mà không giải thích nguyên nhân.
    Trong số các trí thức và học giả Trung Quốc, kể từ ngày Mátxcơva mở kho lưu trữ của Liên Xô, ngày càng có nhiều nhiều người biết rõ rằng Bắc Triều Tiên đã tấn công xuống phía Nam sau khi tham khảo ý kiến rộng rãi với Stalin và sau đó là Mao Trạch Đông. Những tiết lộ này đã làm thay đổi rất lớn nhận thức của người Trung Quốc về cuộc chiến tranh. Hai tuần trước đây, Trung Quốc đã tuyên án Dương Bân, một tỷ phú được coi là giàu thứ 2 ở Trung Quốc 18 năm tù giam. Dương là người mà Bắc Triều Tiên tìm kiếm và được Kim Châng In cất nhắc làm Trưởng đặc khu kinh tế mà Bắc Triều Tiên thiết lập ở biên giới Trung Quốc. Trung Quốc đã nói riêng với Bình Nhường rằng đừng có tuyển dụng Dương Bân nhưng Bình Nhưỡng vẫn phớt lờ. Sau đó Dương bị Trung Quốc bắt và đưa ra xét xử với tội danh tham nhũng ở Trung Quốc mặc dù thời điểm và tính chất công khai của vụ xử với mức án nặng như vậy được dư luận cho là một tín hiệu không tế nhị đối với Bắc Triều Tiên.
    Quan hệ Trung Quốc với Bắc Triều Tiên trong nhiều thập kỷ được các phương tiện tuyên truyền hai nước ca tụng mật thiết như "môi với răng" ngày nay đã trở nên phức tạp và nhạy cảm. Việc Trung Quốc chống một lệnh cấm vận của LHQ đối với Bắc Triều Tiên rõ ràng cho thấy họ muốn một Bắc Triều Tiên ổn định và là nước đệm chống lại ảnh hưởng của Mỹ trên toàn bán đảo Triều Tiên.Trung Quốc đã nhiều lần khuyên Kim Châng In tiến hành cải cách kinh tế như Trung Quốc đã làm và đã đem lại cho Trung Quốc một bộ mặt mới ở châu Á. Hai năm trước đây, Kim đã bí mật thăm thị trường chứng khoán Thượng Hải và chứng kiến tương lai xán lạn của thành phố này, một chuyến thăm mà Trung Quốc muốn chứng tỏ tiềm lực của cải cách.
    Nhưng cho đến nay, Kim Châng In vẫn từ chối tiến hành cải cách như vậy. Những người Trung Quốc được giáo dục lòng yêu nước thân Bắc Triều Tiên trong thập kỷ 70 và 80 của thế kỷ trước đã hoàn toàn thất vọng hoặc vỡ mộng khi họ tới thăm nước láng giềng CS này. Họ gặp nhiều phiền phức do sự cứng nhắc của hệ thống chínhtrị, kết cấu hạ tầng bị tàn phá, đặc biệt là sự bần cùng của nhân dân Bắc Triều Tiên. Bắc Triều Tiên ngày nay là hình ảnh của Trung Quốc thập kỷ 70. Bắc Triều Tiên chỉ trích cải cách ở Trung Quốc bất chấp việc họ phụ thuộc vào Trung Quốc về dầu lửa và năng lượng.
    Trong bối cảnh này, ngày càng nhiều thanh niên Trung Quốc có quan hệ chặt chẽ với Hàn Quốc. Kinh tế ven biển của Trung Quốc với lao động rẻ và trình độ công nghiệp cao từ Thượng Hải đến Thâm Quyến đã tạo ra khả năng hợp tác với Nhật Bản và Hàn Quốc trong tương lai. Các nhóm nhạc pop, chương trình truyền hình, thời trang, quần áo, văn hóa và nghệ thuật Hàn Quốc đã hấp dẫn lớp thanh niên Trung Quốc.
    Hai mươi năm trước đây, lễ kỷ niệm chiến tranh Triều Tiên thường được chú ý với những tuyên bố báo chí, các nghi lễ đầy cờ hoa và các cuộc mít tinh quần chúng ủng hộ Bắc Triều Tiên. Hai năm trước đây, Trung Quốc còn tổ chức lễ kỷ niệm lớn 50 năm bùng nổ chiến tranh Triều Tiên. Nhưng năm nay, với vai trò trung tâm của Bắc Kinh trong cuộc khủng hoảng hạt nhân và chuyến thăm dài ngày của Tổng thống Hàn quốc Rô Mu Hiên tới Bắc Kinh để gặp Hồ Cẩm Đào, việc kỷ niệm 50 năm ký hiệp định đình chiến, như một cố vấn cấp cao của Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói, sẽ chỉ "mang tính chất nội bộ và trong hội trường". Các cựu chiến binh Trung Quốc của chiến tranh Triều Tiên đã phàn nàn rằng không có biểu tượng Trung Quốc tại Đài tưởng niệm chiến tranh Triều Tiên ở Bình Nhưỡng. Năm 2002, họ phàn nàn rằng không có cờ Trung Quốc tại làng đình chiến Bàn Môn Điếm bên phía Bắc Triều Tiên. Tuần trước, thậm chí Bắc Triều Tiên còn đòi hủy bỏ việc kỷ niệm ngày ký hiệp định đình chiến vì coi đó là trò hề.
    TTXVN (Bắc Kinh 30/7)
    Mạng "Xinhuanet" ngày 30/7 viết: Sau khi chiến tranh Irắc kết thúc, mọi người phần lớn cho rằng mục tiêu chiến tranh tiếp theo của Mỹ là Iran hoặc Bắc Triều Tiên.
    Nhìn từ động thái điều chỉnh bố trí quân sự của Mỹ gần đây cho thấy, động thái quân sự của Mỹ ở khu vực vùng Vịnh không lớn, chủ yếu là duy trì sự chiếm đóng Irắc, một bộ phận binh lực bắt đầu được điều về nước hoặc sang khu vực Đông Á. Quân đội Mỹ đóng ở Hàn Quốc bắt đầu chuyển đến các căn cứ ở xa vĩ tuyến 38. Quân Mỹ cũng đang cố gắng tìm kiếm các căn cứ quân sự mới ở Đông Nam Á và phía Bắc Ôxtrâylia. Những động thái trên chứng tỏ hoạt động quân sự trong giai đoạn tiếp theo của Mỹ có thể diễn ra ở khu vực Đông Á.
    Tại Trung Đông, tuy Mỹ mạo hiểm giành được thắng lợi tạm thời trong cuộc chiến tranh Irắc, nhưng sau khi chiếm được Irắc, Mỹ đang phải đối phó với Xyri và Iran. Xyri và Ixraen đã bế tắc trong vấn đề cao nguyên Gôlan, nếu Mỹ tiến công Xyri sẽ dấy lên làn sóng phản đối trong thế giới Arập. Đồng thời Mỹ đã đưa ra "Lộ trình hòa bình Trung Đông", nên trong thời gian này không thể tự lộ mặt phá hoại hòa bình ở Trung Đông. Trong khi đó Iran mạnh hơn Irắc cả về sức mạnh tổng hợp quốc gia và sức mạnh quân sự, Mỹ "tiêu hóa" Irắc còn đòi hỏi thời gian vài năm, nếu vào thời điểm này Mỹ đánh Iran mà thất bại có thể cũng không giữ nổi cả Irắc. Cho nên Mỹ gần đây chủ yếu lợi dụng mâu thuẫn giữa phái cải cách và phái bảo thủ ở Iran để làm tan rã nội bộ Iran; cho dù chính sách này thành công hay không cũng đòi hỏi thời gian vài năm mới thấy có hiệu quả. Trong thời gian "diễn biến hòa bình" này, nếu Mỹ sử dụng sức mạnh quân sự thì chỉ làm tăng thêm sức mạnh cho phái bảo thủ mà thôi, thực tế đã sớm chứng minh điều này. Do vậy có thể thấy Bắc Triều Tiên càng có thể trở thành mục tiêu quan trọng mà Mỹ cần đối phó trong giai đoạn tiếp theo.
    Vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên là lý do chủ yếu để Mỹ kiếm cớ làm cho tình hình bán đảo Triều Tiên trở nên căng thẳng. Trước hết cần phải tỉnh táo nhận thức "vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên" chỉ là một danh từ mà bộ máy tuyên truyền của Mỹ nặn ra, sau đó báo chí tung ra và trở thành "điểm nóng".
    Về khả năng phát triển hạt nhân của Bắc Triều Tiên, có thể nói Bắc Triều Tiên không có khả năng độc lập xây dựng lò phản ứng hạt nhân. Lò phản ứng hạt nhân của Bắc Triều Tiên là do Liên Xô giúp đỡ chế tạo. Công suất của mấy lò phản ứng hạt nhân của Bắc Triều Tiên không lớn, tính năng lạc hậu, khó có thể đưa Bắc Triều Tiên trở thành nước lớn về hạt nhân. Tình hình hiện nay là Bắc Triều Tiên nói có vũ khí hạt nhân, một số nước hoài nghi về điều này. Các chuyên gia Nga đã từng giúp đỡ Bắc Triều Tiên xây dựng lò phản ứng đã nói rằng về cơ bản không thể có khả năng Bắc Triều Tiên có vũ khí hạt nhân.
    Từ năm 1991 khi Liên Xô tan rã đến nay, tình hình an ninh ở bán đảo Triều Tiên có nhiều thay đổi: một mặt hiệp ước ký kết giữa Bắc Triều Tiên với Liên Xô và Trung Quốc liên tiếp mất hiệu lực; mặt khác đồng minh quân sự Mỹ-Nhật-Hàn không ngừng tăng cường. Xu thế này đã làm cho cán cân hòa bình của bán đảo Triều Tiên bắt đầu bị nghiêng đi. Mất đi ô bảo hộ hạt nhân của Liên Xô, sự lựa chọn hiện nay của Bắc Triều Tiên là duy trì lực lượng quân đội chính quy lớn, nhưng việc duy trì lâu dài tình trạng chuẩn bị chiến tranh cho một đội quân lớn là điều mà Bắc Triều Tiên không chịu đựng nổi, cho nên Bắc Triều Tiên hy vọng xây dựng lực lượng hạt nhân để răn đe. Nhưng cho dù Bắc Triều Tiên lựa chọn thủ đoạn nào thì việc dựa vào sức mạnh của nước mình cũng không thể đơn thương độc mã chống lại được sức mạnh của Mỹ-Nhật-Hàn. Cuối cùng Bắc Triều Tiên lại phải dựa vào sự giúp đỡ của láng giềng, hơn 1000 năm nay tình hình diễn ra đều như vậy.
    Thắng lợi của cuộc chiến tranh Irắc như tiêm một liều thuốc kích thích vào bộ máy chiến tranh của Mỹ, hiện nay Mỹ ngày càng có khuynh hướng sử dụng biện pháp chiến tranh để giải quyết vấn đề. Quân Mỹ không thể hy vọng Bắc Triều Tiên giống như Liên bang Nam Tư "đánh mà không bị trả đũa", cho nên quân Mỹ đóng ở Hàn Quốc đã di chuyển xuống phía Nam rút ra khỏi tầm pháo và tên lửa tầm ngắn của Bắc Triều Tiên. Rất có thể đây là hành động quân sự chuẩn bị cho một cuộc không kích với quy mô nhỏ vào các cơ sở hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Nhưng cho dù là hoạt động quân sự có hạn, thì hậu quả của nó vẫn rất nghiêm trọng.
    Do Mỹ tập kích các cơ sở hạt nhân rất có thể gây ô nhiễm nghiêm trọng giống như sự kiện Chécnôbin mà Trung Quốc và Nga đều bị ảnh hưởng. Cho dù Mỹ có sử dụng tên lửa mang đầu đạn hạt nhân hay không thì việc Mỹ tiến công cơ sở hạt nhân của Bắc Triều Tiên đều là vượt ra khỏi hàng rào của chiến tranh hạt nhân. Sau đó là sự phản kích của Bắc Triều Tiên và sự báo thù của Mỹ sẽ khiến chiến tranh leo thang thành chiến tranh hạt nhân với quy mô vừa và nhỏ; có thể lại xảy ra một sự kiện "11/9" nhưng bằng hạt nhân đối với đất Mỹ và có thể xảy ra một cuộc tiến công toàn diện bằng hạt nhân đối với các thành phố chủ yếu của Bắc Triều Tiên.
    Nếu nổ ra xung đột quân sự giữa Mỹ và Bắc Triều Tiên, Trung Quốc rất khó đứng ngoài cuộc, vì bán đảo Triều Tiên là "chiếc cầu nối" với Trung Quốc. Muốn kiềm chế cuộc chiến tranh có thể nẩy sinh ở khu vực này, các nước xung quanh nếu vận dụng hành động răn đe thì có thể bao gồm trên hai mặt lực lượng quân chính quy và lực lượng hạt nhân. Hành động răn đe có thể chia thành ba tầng thứ: 1-sức mạnh; 2-quyết tâm sử dụng sức mạnh; 3-khả năng tự phòng vệ. Hàng năm Mỹ đều tiến hành tập trận với quy mô lớn ở bán đảo Triều Tiên, cho dù không nổ ra khủng hoảng, Trung Quốc cũng nên tăng cường sức mạnh quân sự của mình.
    Thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh Triều Tiên năm 1950, Mỹ đã từng có bài học cay đắng về vấn đề quyết tâm chi viện Bắc Triều Tiên của Trung Quốc. Đối với sự kiện bắn tên lửa vào sứ quán Trung Quốc ngày 8/5/1999 trong cuộc chiến tranh Côxôvô, dư luận cho rằng đây là sự thăm dò của Mỹ đối với Trung Quốc, nếu Trung Quốc không phản ứng sẽ khiến Mỹ đưa ra phán đoán sai lầm về quyết tâm tự bảo vệ mình của Trung Quốc, có thể tạo nên khủng hoảng lớn hơn.
    Mọi người đều biết Bắc Triều Tiên tiếp giáp với Trung Quốc, bất kỳ sự tồn tại nào của quân đội nước ngoài ở Bắc Triều Tiên đều đe dọa Trung Quốc. Trong thời gian diễn ra cuộc chiến tranh Triều Tiên, Mỹ đã từng bố trí vũ khí hạt nhân chiến thuật ở bán đảo Triều Tiên, cho nên có thể nói việc "phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên" chỉ là câu nói trống rỗng trước khi Mỹ rút khỏi bán đảo Triều Tiên.
    Nếu "vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên" đưa tới chiến tranh thì nhiều năm sau mọi người chỉ nhớ đến hậu quả của cuộc chiến tranh này mà không nhớ tới nguyên nhân. Cũng như hiện nay mọi người không nhớ tới lý do vì sao Triều Tiên bị xâm lược, họ chỉ nhớ kết quả của cuộc chiến tranh: hoặc Triều Tiên bị nước ngoài xâm chiếm, an ninh Trung Quốc bị đe dọa lâu dài, hoặc Trung Quốc xuất quân chi viện, đánh đuổi bọn xâm lược, bảo vệ an ninh của mình. Dân tộc Trung Hoa có thể đứng vững 5000 năm trên thế giới mà không đổ, chính là do các bậc tiền bối của chúng ta vận dụng những kế sách ứng phó tích cực./.
  8. qwertzy2

    qwertzy2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/01/2005
    Bài viết:
    612
    Đã được thích:
    0
    Tôi cực lực phản đối những cách gọi có tính mỉa mai, khinh bỉ người nước khác, mà điển hình là: Khựa, bọn Ba Tào, bọn này, bọn nọ, lũ này, lũ kia... Chưa biết người ta xấu đến đâu, nhưng việc các anh các chị gọi tên người ta như thế đã ít nhiều phản ánh mức độ tốt đẹp của các anh các chị đấy.
    Người Việt Nam quá nhiều hằn học và tinh thần phe phái. Từ bọn *********, phản cách mạng cho đến bọn Ba Tào, bọn Mỹ, bọn Pháp, bọn Nhật, rõ ràng người Việt Nam cần học cách đánh giá một cách trung dung hơn, sát sự thực hơn. Người Hoa (tôi luôn luôn dùng người Hoa) họ có tinh thần đoàn kết nội bộ cao, tuy tinh thần này thường ảnh hưởng xấu đến nhiều nước khác, còn hơn người Việt chuyên gia ăn bám, tơ tưởng hão huyền đến những miền đất Âu Mỹ thiên đường hạ giới rồi tìm cách lẻn qua đó, ở luôn. Người Âu Mỹ có sợ người Hoa thì cũng phải PHỤC người Hoa rất nhiều, còn người Việt thì sao ??????????? Thôi cái trò chỉ trích trẻ con này đi.
    Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người nước ngoài đã đưa ra nhận xét: tất cả mọi người Việt Nam đều là racist.
    Được qwertzy2 sửa chữa / chuyển vào 04:02 ngày 14/07/2005
  9. quynhcx1

    quynhcx1 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/06/2005
    Bài viết:
    28
    Đã được thích:
    0
    SỰ IM LẶNG VỀ NGOẠI GIAO CỦA TRUNG QUỐC
    Tạp chí "Le Monde Diplomatique" số ra gần đây viết: Hôm qua còn rất tích cực trên trường quốc tế, nay Bắc Kinh dường như tỏ ra kín đáo hơn. Từ cuối những năm 1970, nhà cầm quyền Trung Quốc đã gắn chính sách đối ngoại của họ vào chiến lược mở cửa kinh tế. Phụ thuộc phương Tây về thương mại, Trung Quốc đã phác thảo một chính sách ngoại giao dựa trước hết vào những quan hệ tốt đẹp với Mỹ. . Chính hệ tư tưởng, chứ không phải lợi ích quốc gia, đã chỉ đạo việc thảo ra chính sách đối ngoại của Trung Quốc từ năm 1949, khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, cho đến năm 1972 khi hai kẻ tử thù Trung Quốc và Mỹ bắt tay nhau chống Liên Xô. Sự xích lại gần nhau này đã góp phần mở rộng phạm vi chiến lược của Trung Quốc, trong khi việc hủy bỏ cấm vận buôn bán đã cho phép Trung Quốc nhập các nông phẩm và công nghệ mũi nhọn. Các quan hệ ngoại giao của Trung Quốc với các nước công nghiệp hóa phương Tây đã đem lại cho Trung Quốc những điều kiện mở cửa về kinh tế vào cuối những năm 1970. Sử dụng một cách khéo léo mối đe dọa Liên Xô, Bắc Kinh đã thiết lập được một sự cân bằng mong manh giữa chủ nghĩa thực dụng về ngoại giao và hệ tư tưởng cách mạng.
    ***************** đã tàn phá nền kinh tế và gây thiệt hại nghiêm trọng đến những lợi ích của hệ thống quan liêu và của nhân dân. Đặng Tiểu Bình trở lại cầm quyền, một thỏa thuận chung đã được thực hiện trong bộ máy quan liêu để thay thế hệ tư tưởng cực đoan của Mao Trạch Đông, dựa trên cuộc đấu tranh giai cấp, bằng một đường lối thực dụng hướng vào phát triển kinh tế. Phương hướng này, nhằm mục tiêu nâng cao mức sống của nhân dân, đã được nhân dân cả nước ủng hộ. Vậy là Trung Quốc đã tiến hành một cuộc cải cách kinh tế có định hướng của họ và mở cửa cho các công nghệ và vốn nước ngoài.
    Chiến lược này, xuất phát từ niềm tin vào chủ nghĩa thực dụng không phải mới có hôm qua. Sự trống rỗng về tư tưởng sau Mao đã được lấp đầy một cách dễ dàng bằng học thuyết mới của đảng -"Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất kiểm nghiệm chân lý". Luận điểm này rất phù hợp với hai câu châm ngôn mà Đặng Tiểu Bình ưa thích: "Bất kể mèo trắng hay mèo đen miễn là bắt được chuột" và "Dò đá qua sông". Đối với nhân dân Trung Quốc, chịu cảnh khổ cực từ nhiều thập kỷ nay, hình ảnh này về một nước Trung Hoa mà người ta sắp biến thành một Nhà nước phồn vinh thật là quyến rũ. Theo lôgích của Đặng Tiểu Bình, sự phát triển kinh tế là nhân tố xác định mọi phần còn lại, hoặc, như chính những lời ông nói: "Sự phát triển là chân lý cuối cùng".
    Quan niệm cơ bản này có hai hậu quả đối với chính sách đối ngoại. Thứ nhất, nó buộc Trung Quốc phải chấp nhận một lập trường ngoại giao thân phương Tây và giảm bớt sự thù địch về tư tưởng của Trung Quốc đối với chủ nghĩa đế quốc quốc tế. Đảng Côngsan đã từ bỏ định nghĩa của Lênin về chủ nghĩa đế quốc để đưa ra một cách gọi mới: "Chủ nghĩa bá quyền", nhằm trước tiên vào Liên Xô. Bắc Kinh đã tách dần khỏi các đồng minh truyền thống của họ trong thế giới thứ ba bằng cách giảm dần viện trợ và thể hiện một thái độ phản đối ngày càng mập mờ đối với "Trật tự quốc tế phi lý" do phương Tây chi phối.
    Thứ hai, chiến lược mở cửa nhằm trước tiên tới Mỹ. Bởi vì Mỹ nắm công nghệ tiên tiến mà Trung Quốc rất thiếu, nhưng cũng bởi vì, đối với Oasinhtơn, Trung Quốc có một tầm quan trọng chiến lược trong cuộc tranh đua giữa Mỹ và Mátxcơva. Sự chi phối của Mỹ ở Đông Á và sự cần thiết cấp bách phải vực dậy về kinh tế đã thúc đẩy Đặng Tiểu Bình chấp nhận những thỏa hiệp đối với những vấn đề đụng chạm đến những lợi ích sống còn của đất nước, như việc Mỹ có thể tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan. Đối với các cuộc xung đột giữa họ với Nhật Bản và các nước ASEAN về đảo Điếu Ngư và biển Nam Trung Hoa, Bắc Kinh đã đề nghị "gác lại và tiến hành một sự phát triển phối hợp".
    Đặt cược vào phát triển kinh tế
    Trong những năm 1980, sự hòa hoãn đã củng cố cảm giác an ninh của Trung Quốc, khiến họ giảm bớt nhịp độ hiện đại hóa quân sự. Ban lãnh đạo đất nước khi đó đã kết luận rằng "Khẩu hiệu của thế giới hiện nay là hòa bình và phát triển". Tình hình đã đột ngột thay đổi vào năm 1989, với việc kết thúc Chiến tranh Lạnh và sự lên ngôi của một trật tự thế giới đơn cực do Mỹ chi phối. Cơ sở của sự liên minh chiến lược Trung-Mỹ, sự thù địch đối với Liên Xô, không còn nữa. Những ảo tưởng về một nền hòa bình thế giới lâu dài đã đổ vỡ. Việc Mỹ tăng cường can thiệp vào các "điểm nóng" như Trung Đông và củng cố sự có mặt quân sự ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương đã làm lung lay những niềm hy vọng của Bắc Kinh về một nền hòa bình trong phạm vi chiến lược của họ. Luận thuyết của Trung Quốc về "hòa bình và phát triển" cũng được thử thách bằng những sự trừng phạt kinh tế và cuộc Thập tự chinh của hệ tư tưởng Mỹ ngay hôm sau các sự kiện ở quảng trường Thiên An Môn, tháng 6/1989.
    Tuy nhiên, Đặng Tiểu Bình không chịu phủ nhận tuyên bố trước đây của mình, vì muốn giữ thể diện, song nhất là vì sợ rằng một cuộc đối đầu Trung-Mỹ sẽ có hại cho sự phát triển của đất nước. Nhận thức được sự chuyển hóa cơ bản của trật tự quốc tế, Đặng vẫn đặt hy vọng vào một sự thiết lập lại quan hệ hữu nghị Trung-Mỹ, được coi là một "sự cần thiết cho hòa bình và sự ổn định thế giới".
    Hơn nữa, vì tính chính đáng chínhtrịcủa hệ tư tưởng Côngsan đã trở nên nghiêm trọng sau khi Liên Xô và các chế độ Đông Âu sụp đổ mà ông ta cho rằng chỉ có sự tăng trưởng kinh tế thường xuyên mới có thể đảm bảo được sự sống còn của chế độ. Vì vậy, đất nước cần có một môi trường hòa bình. Và giành hòa bình bằng cách nào nếu không phải là bằng cách xoa dịu phương Tây?
    Để chống lại tình trạng bị cô lập về ngoại giao sau năm 1989, Đặng Tiểu Bình đã quyết định rằng Trung Quốc không nên "Vác cờ đi đầu" trên mặt trận hệ tư tưởng mà phải "Giấu mình chờ thời". Sự rút lui về tư tưởng nhằm làm dịu sự thù địch của Mỹ, nay đã khiến Trung Quốc mất đi một vũ khí tinh thần hữu hiệu mà Đặng Tiểu Bình đã sử dụng một cách khôn ngoan vào giữa những năm 1980 để thực hiện sự thống nhất chínhtrịvới các nước đang phát triển chống chủ nghĩa bá quyền và một trật tự quốc tế do phương Tây chi phối. Hơn nữa, một cảm giác tự ti đã ăn sâu vào tiềm thức ban lãnh đạo Trung Quốc. Và do đó, Trung Quốc luôn ở tư thế thụ động đối với phương Tây.
    Chiến thuật này đã thu hẹp phạm vi hoạt động chiến lược và làm tổn hại đến những lợi ích địa chínhtrịcủa Trung Quốc, như cuộc khủng hoảng Bắc Triều Tiên năm 2002-2003 đã chứng tỏ. Bắc Triều Tiên đã gây ra cuộc khủng hoảng này mà không tham khảo ý kiến cũng không báo trước "đồng minh" Trung Quốc của họ. Việc Bắc Kinh bị mất ảnh hưởng đã làm tổn hại nghiêm trọng đến những lợi ích của Trung Quốc trong lĩnh vực an ninh ở Đông Bắc Á. Bị mất sự ủng hộ chiến lược của nhiều đồng minh cũ trong số các nước đang phát triển, Trung Quốc lại bị rơi vào tình trạng cô lập chưa từng thấy trong các cuộc xung đột khác nhau với Mỹ từ giữa những năm 1990.
    Tuy nhiên, thái độ nhún nhường này-trong các cuộc thương lượng với Oasinhtơn về việc gia nhập thị trường Mỹ hay việc bỏ phiếu trắng tại Hội đồng bảo an LHQ về vấn đề Irắc năm 1991-đã khiến cho Trung Quốc được lợi trong ba lĩnh vực: những trừng phạt sau năm 1992 được huỷ bỏ, được Mỹ dành cho điều khoản tối huệ quốc và đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) tăng mạnh. Hoạt động xuất khẩu và FDI tăng vọt đã khuyến khích tính năng động của sự tăng trưởng kinh tế.
    Việc làm dịu bớt tình hình căng thẳng với phương Tây và tiến lên trên con đường tiến bộ về kinh tế đã khôi phục lại một chút lòng tin của đất nước, khi thế hệ thứ ba kế tục các lãnh tụ cách mạng vào các chức vụ lãnh đạo. Các nhà lãnh đạo này ít quan tâm đến hệ tư tưởng so với những người tiền nhiệm của họ. Là những nhà kỹ trị được đào tạo nghiêm chỉnh, họ biết giải quyết những vấn đề thuộc những lĩnh vực cụ thể, nhưng lại không có những vốn hiểu biết về khoa học con người và xã hội để hiểu được những thách thức của các vấn đề đối nội và đối ngoại. Họ chỉ tiếp tục chính sách phát triển do Đặng Tiểu Bình để lại.
    Từ giữa những năm 1990, sức mạnh kinh tế ngày càng lớn của Trung Quốc đã gây nên mối lo ngại, thậm chí thù địch, của Mỹ và một số Nhà nước Đông Á. Trong khuôn khổ chính sách có hệ thống của mình nhằm ngăn chặn các cường quốc mới nổi lên, Oasinhtơn đã tăng cường triển khai quân sự ở Trung Đông và tăng cường liên minh quân sự với Nhật Bản và các nước ASEAN. Chính sách này đã hạn chế chính sách của Trung Quốc.
    Về mặt đối nội, tăng trưởng kinh tế đã diễn ra bất chấp môi trường, sự công bằng xã hội và thậm chí cả an ninh quốc gia. Những cải cách kinh tế đầu những năm 1990 đã làm cho tình trạng mất cân bằng càng thêm nghiêm trọng. Nạn tham nhũng, khoảng cách ngày càng lớn giữa các mức thu nhập và nạn thất nghiệp tăng đã làm sụt giảm rõ rệt nhu cầu chung. Một chính sách công nghiệp không cụ thể và sự thất bại của việc áp dụng chiến lược đổi công nghệ lấy "thị trường nội địa" đã không cải thiện được những khả năng nghiên cứu và phát triển của các ngành công nghiêp của đất nước, phần lớn đã bị thay thế bởi các ngành công nghiệp đa quốc gia.
    Trung Quốc đã phải tranh giành với các nước đang phát triển khác để có được những khoản vốn đầu tư đa quốc gia, như vậy làm giảm vai trò trước đây của họ trong thế giới thứ ba. Ý chí cùng chung sống với trật tự bá quyền bằng cách trở thành một "cường quốc có trách nhiệm" trong cộng đồng các quốc gia đã được thể hiện chẳng hạn, bằng quyết định không phá giá đồng nhân dân tệ, trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998, để giảm bớt sự thù địch của các Nhà nước xung quanh và đồng nhất hóa với phương Tây.
    Trước sức mạnh quân sự vượt trội của Mỹ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cảm thấy bất lực. Chính sách đồng cam kết của Mỹ-ngăn chặn và cam kết-dưới thời Chính quyền Clintơn đã đưa ban lãnh đạo Trung Quốc tới chỗ theo đuổi một mục tiêu kép: tìm kiếm sự hòa giải với Oasinhtơn trong khi vẫn tìm cách sử dụng các cường quốc phương Tây này chống lại các cường quốc phương Tây khác và kết nối các quan hệ với Nga để chống lại những mối đe dọa có thể có của Nhật Bản và Mỹ ở Đông Bắc Á. Đó là điều mà ông Giang Trạch Dân, người kế tục Đặng, gọi là"chính sách ngoại giao cường quốc lớn".
    Nhưng liệu sự lựa chọn này có ý nghĩa gì? Trung Quốc không thể nghĩ tới việc phá một góc trong liên minh Nhật-Mỹ cũng như trong sự thống nhất xuyên Đại Tây Dương giữa Mỹ và châu Âu. Các quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn không nhất thiết dẫn tới một sự đồng nhất về chínhtrị, ngay dù Trung Quốc đã làm giảm bớt được những lời chỉ trích chínhtrịtừ phương Tây bằng cách sử dụng con bài kinh tế. Sự cạnh tranh gay gắt giữa Mỹ, Liên minh châu Âu và Nhật Bản để chiếm được thị trường Trung Quốc đã đem lại cho nước này một phạm vi hoạt động, nhưng hạn chế, trong lĩnh vực kinh tế.
    Trước sự giảm bớt những nhu cầu trong nước, các nhà lãnh đạo đã làm mọi cái để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới(WTO), tháng 12/2001, để thu hút vốn đầu tư nước ngoài mới và duy trì sự tăng trưởng. Thái độ nôn nóng và chấp nhận có những nhượng bộ lớn của họ đã nâng ngưỡng các điều kiện lên cao hơn nữa. Tệ hại hơn, lẽ ra trước hết phải thương lượng với Liên minh châu Âu (EU) và Nhật Bản để buộc Oasinhtơn-đối thủ "rắn" nhất của Trung Quốc trong các cuộc đàm phán tay đôi phải ôn hoà hơn trong những đòi hỏi, thì Trung Quốc đã làm ngược lại. Do đó, Oasinhtơn đã tăng cường sức ép và buộc Bắc Kinh phải tiếp tục lùi hơn nữa, và chuốc lấy cơn giận dữ của EU với những đòi hỏi riêng cứng rắn hơn . Chính phủ Trung Quốc cũng có lối hành động như vậy đối với những vấn đề chiến lược: Thủ tướng Chu Dung Cơ đã bay tới Oasinhtơn đúng vào thời điểm NATO can thiệp ở Côxôvô. Giả sử có một quan hệ hợp tác địa chínhtrịTrung- Nga, thì chuyến thăm này đã xác nhận việc chấm dứt sự hợp tác đó.
    Những tính toán sai lầm này đủ để loại Trung Quốc khỏi vai trò là nước có ảnh hưởng. Vụ Mỹ bắn tên lửa vào sứ quán Trung Quốc tại Bêôgrát ngày 7/5/1999, chỉ một tháng sau thất bại của chuyến thăm Oasinhtơn của ông Chu Dung Cơ, đã làm tiêu tan hoàn toàn giấc mơ của Trung Quốc về một "nền ngoại giao cường quốc lớn". Điều nhục nhã này không phải là do sự thiển cận trong chính sách đối ngoại, mà là do tình trạng kém phát triển của nền kinh tế nước này. Để phòng ngừa một phản ứng mang tính chất dân tộc chủ nghĩa, chính phủ đã làm sống dậy sách lược "giấu mình chờ thời" của Đặng Tiểu Bình. Cho rằng "một quốc gia suy yếu không có nền ngoại giao", do đó phải tuyệt đối tránh một sự đối đầu với Mỹ, vì điều này sẽ cản trở sự phát triển kinh tế của đất nước. Đây là một sự quay trở lại chính sách phát triển sau mưu toan ngắn ngủi cũng như vô ích, hành động như một cường quốc lớn.
    Một ảnh hưởng quốc tế giảm sút
    Nếu họ cầu viện đến chủ nghĩa dân tộc để củng cố tính hợp pháp của họ, thì các nhà lãnh đạo thuộc "thế hệ ba" không phải là những người theo chủ nghĩa dân tộc cuồng nhiệt. Thất bại của những cố gắng phát động lại các nền công nghiệp quốc gia và ảo tưởng cho rằng mọi người đều thắng trong công cuộc toàn cầu hoá đã dấy lên một tình cảm thất bại chủ nghĩa và làm xuất hiện một "chủ nghĩa mại bản" văn hoá. Hiện tượng này tương phản mạnh mẽ với ý thức tự hào dân tộc ăn sâu vào những nước như Hàn Quốc. Hơn nữa, cuộc khủng hoảng xã hội chínhtrịtrong nước đã lên tới mức khiến các nhà lãnh đạo phải dành ưu tiên cho việc bảo đảm ổn định nội bộ và nắm tình hình trong tay. Chính vì thế mà chính phủ bỏ qua những lời chỉ trích của những người dân tộc chủ nghĩa Trung Quốc về chính sách đối ngoại. Chính phủ vẫn tỏ ra kín đáo đối với những công việc của thế giới, thậm chí im lặng trước các sự kiện đụng chạm đến những lợi ích chiến lược chủ yếu của mình, dù ở Đài Loan hay ở Trung Á, điểm dễ bị tổn thương về mặt địa lý kinh tế.
    Cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa khủng bố do Mỹ phát động ngay sau khi xảy ra vụ khủng bố ngày 11/9/2001 đã giảm bớt căng thẳng giữa Bắc Kinh và Oasinhtơn. Tuy nhiên, Mỹ đã lợi dụng nó để đẩy mạnh bao vây chiến lược Trung Quốc. Việc Mỹ tăng cường liên tục sự có mặt quân sự ở Đông Á và vươn tới Trung Á, việc Nhật Bản chiếm trên thực tế đảo Điếu Ngư và trào lưu đẩy Đài Loan tới độc lập là bấy nhiêu nhân tố gây tổn hại nghiêm trọng tới nền an ninh nội bộ của Trung Quốc và đe dọa sự tăng trưởng kinh tế của nước này. Tất nhiên, ASEAN, đáp ứng nguyện vọng của Trung Quốc đưa ra cách đây 20 năm, đã tán thành loại bỏ các cuộc xung đột lãnh thổ ở biển Nam Trung Hoa nhân danh sự hợp tác kinh tế khu vực. Nhưng tổ chức này dự kiến xem xét những yêu sách về chủ quyền của nước này hay nước kia trong một khuôn khổ đa phương. Hiện nay, trước chủ nghĩa đơn phương của Mỹ, Trung Quốc đang tìm cách "dân chủ hóa những quan hệ quốc tế". Nhưng họ không thể trở lui và cố liên kết với các nước đang phát triển để chống lại chính sách cường quốc của phương Tây. Bởi vì chỉ có sức mạnh, chứ không phải khả năng thuyết phục, mới có thể đánh bại được sự độc quyền của Mỹ hiện nay, niềm hy vọng của Trung Quốc tỏ ra quá hão huyền./.
  10. quynhcx1

    quynhcx1 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/06/2005
    Bài viết:
    28
    Đã được thích:
    0
    AI HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH TRUNG QUỐC CHO BUSH
    Trung Quốc là một ưu tiên trong chính sách châu Á của các đời tổng thống Mỹ từ trước tới nay. Chính sách Trung Quốc của Mỹ được điều chỉnh liên tục qua mỗi đời tổng thống. Sự thay đổi, điều chỉnh chính sách Trung Quốc của Mỹ tuỳ thuộc vào người am hiểu về tình hình Trung Quốc. Tờ "Trung Quốc thời báo" của Đài Loan số ra ngày 11/7/2003 có bài bình luận về chính sách Trung Quốc hiện hành của Bush như sau:
    Trong số các Tổng thống Mỹ nắm quyền hơn 30 năm qua, có hai tổng thống được coi là "người am hiểu tình hình Trung Quốc". Đó là Tổng thống Nixon và Tổng thống Bush (cha). Còn các tổng thống khác của Mỹ ít am hiểu về tình hình Trung Quốc, vì vậy chính sách của họ phần lớn do các chuyên gia, cố vấn về Trung Quốc hoạch định. Cố vấn an ninh hiện nay là bà Condoleezza Rice, một chuyên gia về vấn đề Liên Xô trước đây và hiện nay là Nga. Còn chính sách Trung Quốc hiện nay do hai chuyên gia của Ban châu Á thuộc Hội đồng an ninh quốc gia hoạch định. Người thứ nhất là James Moriarty, một người có kiến thức sâu rộng và am hiểu tình hình Trung Quốc. Ông từng làm việc lâu năm trong Ban châu Á và hiện nay là Chủ nhiệm của Ban này. Người thứ hai là Ford Hart, mới về làm việc ở Ban nay hơn một năm.
    Moriarty từng là Tổ trưởng Tổ Nghiên cứu chínhtrịtrong Hiệp hội Mỹ-Đài Loan (AIT), sau đó là Tham tán chínhtrịtrong Đại sứ quán Mỹ ở Bắc Kinh, Trung Quốc. Tất cả những thông tin và đánh giá về Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Công đệ trình lên Tổng thống hầu như đều do Moriarty đảm nhiệm.Còn Hart từng là Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Mỹ ở Bắc Kinh, hiện là phụ tá của Moriarty về các chính sách Trung Quốc của Mỹ. Tất cả những quan điểm và nội dung chủ yếu mà Tổng thống Bush đưa ra thời gian qua đều do hai người soạn thảo.
    Chính sách Trung Quốc hiện hành của Mỹ có những điểm chính như sau:
    1-"Một Trung Quốc".
    2-"Không ủng hộ Đài Loan độc lập".
    3-Hai bờ eo biển (tức Trung Quốc đại lục và Đài Loan) phải kiềm chế, không khiêu khích nhau hoặc không nên đưa ra biện pháp gây ra tình hình căng thẳng hai bờ.
    4-Việc Mỹ bán trang bị vũ khí cho Đài Loan là do Trung Quốc đe dọa Đài Loan, chứ không phải do Chính phủ Mỹ muốn mưu lợi cho tổ hợp quân sự Mỹ để bán vũ khí cho Đài Loan.
    Các quan chức Mỹ gần gũi với Tổng thống Bush cho biết Bush hầu như đọc thuộc lòng mấy dòng chữ này để tùy cơ ứng biến trong gặp gỡ cấp cao với lãnh đạo Trung Quốc. Thời gian qua, dư luận Đài Loan cho rằng đại diện của Mỹ ở Đài Loan là Boucher không ủng hộ lập trường của Đài Loan trên một số lĩnh vực chínhtrịquan trọng, như:
    1-Tổ chức trưng cầu ý kiến toàn dân bỏ phiếu cho "Đài Loan độc lập".
    2-Đài Loan tranh thủ gia nhập Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
    3-Cho phép Đài Loan xây dựng nhà máy điện hạt nhân thứ 4.
    Nhưng cố vấn về vấn đề Trung Quốc của Mỹ đã giải thích rất rõ rằng: trên thực tế chính sách Đài Loan của Mỹ hầu như vẫn nhất quán là không can thiệp sâu vào công việc nội bộ của Đài Loan. Trong buổi gặp gỡ với nhà lãnh đạo Đài Loan Trần Thủy Biển, Boucher từng nói: "Đài Loan là nước dân chủ mới trỗi dậy, có quyền tự do quyết định công việc của mình. Mỹ hoàn toàn ủng hộ Đài Loan tham gia WHO vì đây là nguyện vọng chung của dân chúng Đài Loan, nhưng hiện chưa rõ phải làm cách nào. Về việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân thứ 4 do nguyên nhân thương mại nhiều hơn, vì xây dựng nhà máy như vậy tốn kém và không cần thiết đối với Đài Loan.
    Ngày 1/6/2003, trong buổi gặp gỡ với Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào tại Evian (Pháp), Tổng thống Bush đã nhắc lại lập trường chính sách Trung Quốc của Mỹ là dựa trên cơ sở: Ba bản "Thông cáo chung" giữa hai nước, "Luật quan hệ Đài Loan của Mỹ" và "Không ủng hộ Đài Loan độc lập". Lãnh đạo Đài Loan lo ngại rằng trong cuộc gặp riêng với Hồ Cẩm Đào, Bush có thể thay đổi lập trường, nhất là nêu lại việc Mỹ "không ủng hộ Đài Loan độc lập". Nhưng các quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ nói rằng chính sách Trung Quốc của Mỹ không có gì thay đổi mà chỉ thay đổi cách nói trong từng trường hợp mà thôi. Lập trường "Không ủng hộ Đài Loan độc lập" của Mỹ được đưa ra từ năm 1971 ngay khi chuẩn bị chuyến thăm Trung Quốc cho Tổng thống Nixon. Khi đó Phó cố vấn an ninh quốc gia Haig đi tiền trạm tới Bắc Kinh trao cho Thủ tướng Trung Quốc khi đó là Chu Ân Lai văn kiện về "5 nguyên tắc chính sách Trung Quốc" của Mỹ, trong đó có "Không ủng hộ Đài Loan độc lập". Ngày 22/2/1972 trong hội đàm giữa Tổng thống Nixon với Thủ tướng Chu Ân Lai tại Bắc Kinh về "5 nguyên tắc" này, hai bên khẳng định đây là cơ sở quan hệ hai nước, nhưng nguyên tắc "không ủng hộ Đài Loan độc lập" được hai bên giữ bí mật không công bố. Bởi vậy, trong Tuyên bố chung về thiết lập quan hệ ngoại giao cũng như các bản thông cáo chung sau này đều bao gồm nguyên tắc "không ủng hộ Đài Loan độc lập". Sau chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch Giang Trạch Dân vào tháng 10/1997, chính phủ của Tổng thống Clinton mới công khai nguyên tắc này trong chính sách " 3 không" của Mỹ: 1-Không ủng hộ hai Trung Quốc hoặc một Trung Quốc, một Đài Loan. 2-Không ủng hộ Đài Loan tham gia Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế của quốc gia có chủ quyền. 3-Không ủng hộ Đài Loan độc lập.
    Khi lên nắm quyền, Tổng thống Mỹ Bush từng tuyên bố "chính sách 3 không" của Mỹ trước đây không hẳn là "ngôn ngữ có hiệu quả" đối với chính quyền mới. Nhưng đây chỉ là tuyên bố lập lờ, còn trên thực chất Bush vẫn thi hành chính sách Trung Quốc của các đời tổng thống trước đây, trong đó có "không ủng hộ Đài Loan độc lập".
    Bởi vậy, việc lãnh đạo Trung Quốc hoặc lãnh đạo Đài Loan cho rằng Bush thay đổi chính sách Trung Quốc, Đài Loan hay Hồng Công là không đúng. Trên thực tế, Chính quyền Bush không thay đổi nội dung cơ bản trong chính sách Trung Quốc đã được ấn định từ trước tới nay mà chỉ thay đổi lời nói trong trường hợp khác nhau. Có thể dự đoán rằng chừng nào mà Đài Loan chưa thống nhất với Trung Quốc đại lục thì cho dù ai là Tổng thống hoặc ai là người hoạch định chính sách Trung Quốc của Mỹ thì họ vẫn giữ nguyên những nội dung cơ bản đã được hoạch định./.

Chia sẻ trang này