Trung Quốc Du Ký II Trung Quốc Du Ký ______________________________________________________Trầm Hương Thắng cảnh và di tích lịch sử tại Bắc Kinh Lời người viết: Ông Trịnh Công Sơn có câu hát "Sau cơn bão qua, im lặng mặt ngườị..". Thế còn "Khi cơn bão đang" thì sao? Mời quý độc giả hãy cùng chúng tôi quên đi những tên khủng bố cuồng tín đang đe dọa nước Mỹ và cả thế giới, sang thăm Trung Quốc một chuyến để biết được một Trung Hoa "đỏ" đang ra sao ở vào đầu thế kỷ 21. 1/ Tử Cấm Thành Với những du khách thích mua sắm ngọc trai, cẩm thạch thì Trung Quốc quả là cái thương xá rộng mênh mông lý tưởng để du khách tha hồ chọn lựa những loại ngọc và đá quý kể trên. Ngọc trai đủ mọi "tuổi", mọi "nước". Cẩm thạch cũng thế. Giá cả theo ... quốc sách thương lươ.ng. Thượng vàng hạ cám, tha hồ mặc cả mà không sợ bị chửi hay ... tẩm quất. Với những du khách thích tìm hiểu về văn hóa, lịch sử của một dân tộc thì Trung Quốc- theo thiển ý của kẻ viết bài- có lẽ là một trong rất ít quốc gia có được một kho tàng văn hóa và di tích lịch sử phong phú cùng vĩ đại đáng kính nể. Sau bữa cơm trưa lạ miệng tại một nhà hàng nằm khuất trong con hẻm quanh co của nội thành Bắc Kinh (đi mà cứ ngỡ mình đang là mu-vi xì-ta của bộ phim kiếm hiệp Kim Dung nào đó), phái đoàn mới bắt đầu check-in khách sạn với lời hẹn quyết liệt của trưởng đoàn là đúng 2 giờ trưa phải có mặt ở tiền sảnh (của khách sạn) để đi thăm Tử Cấm Thành. Bà con nhao nhao lên đòi quyền ... tắm rửa cho trôi bớt 2 ngày bụi đường nhưng cũng chỉ kéo dôi được nửa tiếng phù du. Bác K, người Việt gốc Hoa- national tour guide ở Trung Quốc- cười toe, ôn tồn: Chúng tôi biết quý vị đang rất mệt và chỉ muốn nghỉ ngơi nhưng chúng ta phải tranh thủ đi thăm Tử Cấm Thành vì hôm nay, Chủ Nhật, Tử Cấm Thành chỉ mở cửa đến 4 giờ chiều. Không thăm kịp là chúng ta sẽ không có thì giờ để tham quan đâu! Nghe thế, mọi người đành hăng máu phiêu lưu trở la.i. Đằng nào tiền cũng trao, cháo múc hổng lẽ hổng nếm, hoài của. Và như những người Mỹ chính hiệu (đúng giờ), chúng tôi kéo lên xe buýt vào lúc 2:30 PM, trực chỉ Tử Cấm Thành (Forbiđen City). Người Bắc Kinh đã từng hãnh diện, Muốn biết lịch sử 1,000 năm của Trung Quốc, hãy đến Bắc Kinh. Muốn biết lịch sử 100 năm, hãy đến Thượng Hải. Cấm Thành hay Cố Cung được xây từ năm 1406 đến 1420 dưới thời vua Minh Thành Tổ (Vị vua thứ Ba đời nhà Minh), chiếm một diện tích rộng hơn 720,000m2 (bề ngang hơn 750m và chiều dài hơn 150m). Tường thành chung quanh cao hơn 10m và có khoảng hơn 9,000 phòng. Hai triều đại nhà Minh (từ Minh Thành Tổ) và nhà Thanh đã có tất cả 24 đời vua đã đóng đô tại đây. Vị vua đầu tiên ở Cấm Thành là Minh Thành Tổ Chu Lê.. Vị vua cuối cùng của triều Thanh là vua Phổ Nghi (từ 1420- 1924). Viên Thế Khải, viên võ quan dưới thời Quang Tự , Phổ Nghi cũng có tham vọng xưng đế sau cách mạng Tân Hợi nhưng không được ủng hộ nên uất ức mà chết. Kiến trúc của Cấm Thành được chia làm 2 phần: Phần ngoại đình bao gồm từ cửa Ngọ Môn và 3 điện lớn ở giữa là các điện Thái Hòa, điện Trung Hòa, điện Bảo Hòa. Phía Đông là viện Văn Hóa và phía Tây là điện Vũ Anh. - Ngọ Môn xây theo hình chữ U, hai tầng, sơn màu đỏ tía và vàng của vua. Có 4 tháp canh ở 4 góc. Từ cửa Ngọ Môn đến điện Thái Hòa dài độ 500m. - Thái Hòa Môn: Đượĩc xây trên bệ cao 3 tầng, mỗi tầng độ hơn 10 nấc thang. Chính giữa đường đi là một mặt đá chạm hình rồng dài hơn 50 m. Mặt đá hoa cương này có chiều dầy là gần 2m, chạm thành bức phù điêu vĩ đại mà khi xưa, để chuyên chở được tác phẩm điêu khắc này về đến Bắc Kinh, dân chúng đã phải đợi mùa đông, khi các mặt sông hồ đóng băng, bức phù điêu được kéo đi trên mặt băng nhờ vào những thanh gỗ tròn bên dưới chứ không tàu xe nào đủ sức chịu để mang về kinh đô cho nổi. ĐDi tiếp hơn 180m là đến điện Thái Hòa, được xây vào năm 1627 và sửa chữa lại vào năm 1765. Đây là điện chính trong Cấm Thành. Bề ngang độ 70m, dài 40m, cao gần 28m, được chống đỡ bằng 32 cây trụ lớn. - Điện Trung Hòa nằm giữa 2 điện Thái Hòa và Bảo Hòa, và cũng là nhỏ nhất trong 3 điện. Đây là nơi vua dừng chân để sửa soạn lại công việc trước khi bước lên diện Thái Hòa để tham dự các buổi lễ quan tro.ng. - Bảo Hòa Điện là điện lớn thứ nhì trong 3 điện, là nơi vua làm việc hàng ngày như lâm triều, đón tiếp các vua chư hầu. Từ cửa Ngọ Môn đến viện Bảo Hòa được gọi là ngoại đình. Phần ngoại đình được dùng trong các dịp lễ lạc lớn cũng như nghi lễ ngoại giao. Từ sau điện Bảo Hòa trở đi gọi là phần nội đình, là nơi sinh hoạt hàng ngày của vua và hoàng gia. Song song với phần ngoại đình, phía đông là Điện Văn Hóa, nơi các quan văn làm việc. Phía Tây là Điện Vũ Anh, nơi các quan võ làm việc. Phía sau của điện Vũ Anh là từ Ninh Hoa Viên, dành cho hoàng gia (Thái hậu). Tiếp đến là Từ Ninh Cung, Thọ Khang Cung... NỘI ĐÌNH hay Đại Nội có 3 điện lớn để đối ứng lại với phần ngoạĩi đình, gồm có Càn Thanh Cung, điện Giao Thái, Khôn Ninh Cung, vườn Ngự Uyển, điện Khâm An, cửa Thần Vũ Môn. Phía Tây và Đông gồm các cung cho các phi tần và hoàng gia như phía tây có Điện Dưỡng Tâm, điện Vũ Thần, cung Vinh Tho.. Phía đông có viện Dưỡng Tính, Khánh Thọ Đường, Trần Bảo Quán, Ninh Thọ Cung. Thần Vũ Môn là cửa cuối của Cấm Thành nhìn ra Cảnh Sơn, nơi vua Minh Sùng Trinh treo cổ tự vẫn. (* Viết theo tài liệu của AV Travel) Chỉ cần đọc qua cách kiến trúc của Tử Cấm Thành, chắc hẳn các bạn đã thấy mỏi cả mắt huống hồ nếu đi bộ một vòng từ trước ra sau, bạn sẽ mất sơ sơ gần 3 tiếng thôi. Kiến trúc cung đình, chùa chiền tại Trung Quốc luôn có sự trạm trổ tinh vi ở từng ngõ ngách và vô cùng vĩ đa.i. Cái vĩ đại nhưng vẫn mang đầy chất nghệ thuật khiến tôi nhiều lúc phải trí phục, tâm ... bái. Nhất là vào những năm tháng xưa như trái đất đó, tất cả đều được tạo dựng bằng đôi tay con người, không có bất cứ sự trợ giúp nào của cơ giới. Chẳng hạn những kiến trúc hoành tráng ấy đã đứng vững từ thế kỷ này sang thế kỷ khác mà không cần đến một cái ... đinh sắt. Kỹ thuật làm những đinh gỗ hoặc những "con mộng" để gắn bó các kèo cột của những "kiến trúc sư " thuở xưa quả là dễ nể. Điều đáng tiếc là Tử Cấm Thành dường như không có được sự bảo quản đúng mức, nhất là khi đã được coi như nơi đáng quan chiêm của du khách. Bụi bậm phủ lên khắp nơi. Tường sơn tróc lở. Nếu các bạn đã từng xem qua cuốn phim nổi tiếng The Last Emperor Ố hình ảnh vào đầu của cuốn phim, chú nhỏ khoan khoái ngồi trên ngai vua đầy bụi, lắng nghe tiếng con dế mèn gáy đâu đây- thì có thể hình dung ra ngay cái tiêu điều của cung vua ngày nay. Có thể biện minh rằng nhà nước muốn bảo tồn tính chất "origin" của một di tích lịch sử & văn hóa nhưng bụi bậm, chẳng lẽ họ cũng muốn giữ nguyên lớp bụi thời gian cho .. quý? 2/ Thiên An Môn Rời Tử Cấm Thành, trời đã xế chiều, chúng tôi đượĩc hướng dẫn đi thăm Thiên An Môn. Có lẽ trong 10 ngày du ... hí Trung Quốc, Thiên An Môn là nơi duy nhất khiến tôi không hào hứng lắm khi đặẽt chân tới. Lẽ thứ nhất, nó làm tôi liên tưởng đến lăng Bác. Và cứ nghĩ tới có một lăng bác (khác) đang ở đó, lòng đã úa sầu. Lẽ thứ hai, cuộc biểu tình đòi tự do dân chủ của cả ngàn sinh viên Trung Quốc cách đây trên 10 năm đã phải trả giá bằng máu và xác chết, tù tội của mấy trăm người ở ngay tại chốn này khiến bước chân tôi ngại ngùng không muốn đến. Xe bus ngừng ven lộ của con đường nhỏ ngợp hai hàng cây thơ mộng chào đón. Đi bộ khoảng gần 10 phút, chúng tôi qua đường, theo bực thang dài, xuống khúc đường hầm ngắn trước khi trồi ra khỏi mặt đất để bước vào khuôn viên Thiên An Môn. Đặc điểm có lẽ khiến du khách khó quên nổi Trung Quốc đó là mùi hương ngan ngát của ... xú khí mỗi khi đi gần, đi ngang hay đi vô trung tâm "nghỉ ngơi". Chỉ duy nhất là tại khách sạn, phòng "nghỉ ngơi" đạt được tiêu chuẩn thơm sạch của đế quốc Mỹ. Vì thế, khỏi cần suy nghĩ, vừa bước xuống bực thang cuối để vô "đường hầm", chúng tôi đã vội vận công bế khí, phong tỏa đường hô hấp và gia tăng cước lực để mau ra khỏi địa đạo vì làn "hương Trung Quốc" đầy ấn tượng này. Tất cả đều thở phào nhẹ nhõm với bầu trời khoảng khoát trước mặt và diều, diều bay ngập trời, trông mới an nhàn làm sao! Trong bóng chiều đang nhẹ nhàng phủ xuống, trẻ em và cả người lớn vui chơi hồn nhiên cùng những "đàn diều". Dùng chữ "đàn diều" để giúp các bạn hình dung ra cách chơi diều của người dân Trung Quốc. Những con diều xinh xắn với đủ mọi hình thể, mọi mầu sắc như bươm bướùm, chuồn chuồn, cá v.v được cột nối nhau thành một dây dài, tung tăng quẫy lượn nhịp nhàng trong bầu trời. Độc đáo ở điểm trời không nhiều gió mà sao diều vẫn lên, vẫn vi vu vi vút, vẫn ung dung lả lướt mới tài. Người dân Trung Quốc tràn ra Thiên An Môn, hưởng không khí ... tự do rất thoải mái. Bác K đã hãnh diện nói với chúng tôi, Thiên An Môn có một diện tích lớn hơn cả Quảng Trường Đỏ của Nga. Cùng một lúc, Thiên An Môn chứa nổi 1 triệu người. Những ngày này, Trung Quốc đang rộn ràng chuẩn bị đón chào lễ Quốc Khánh vào ngày 1 tháng Mười. Hoa được mang về, trang trí đủ kiểu tại đây. Kinh hãi nhất là một bồn hoa khổng lồ, đủ mầu rực rỡ đẹp vô cùng, chiếm một diện tích đường kính đến cả hơn chục mét. Nhìn kỹ, đây không phải những khóm hoa mọc từ đất lên mà toàn là những chậu hoa nhỏ, xếp san sát với nhau theo design đã định sẵn. Vì là hoa trong chậu nên không có hệ thống nước tưới tự đô.ng. Sức tay vẫn thay cho sức máy để giúp phần cân bằng nạn nhân mãn của Trung Quốc hiện nay. Cái khó ưa nhất tại Thiên An Môn vẫn là hình ảnh của những chàng công an gầy còm, đồng phục xanh ô-liu đậm, lưng thắt dây nịt chặt, tạo thành cái eo nhỏ xíu không thua cái eo của những cô búp bê Barbie, mặt thì nghiêm nghị hoàn toàn, đứng như hù dọa dân chúng và du khách. Tôi và cô em đã cười rích rích với nhau, "Hình như tiêu chuẩn của công an Trung Quốc là gầy và xấu , cộng thêm ... hầm hè thì phải?". Ui cha, nhưng mà tôi đang làm ký sự đi thăm Trung Quốc chứ có phải đi thăm công an Trung Quốc đâu nà? 3/ Vạn Lý Trường Thành Sáng hôm sau, chúng tôi háo hứùc leo bus từ sớm tinh mơ để đi thăm Vạn Lý Trường Thành . Nói đến Vạn Lý Trường Thành, ai cũng liên tưởng tới vị vua nổi tiếng bạo tàn trong lịch sử Trung Quốc: Tần Thủy Hoàng. Thực sự, bức trường thành này không phải do Tần Thủy Hoàng khởi công mà đã do các nước Tần, Triệu, Yên, đời Chiến Quốc (403- 256 trước Tây lịch) đắp nên. Đời nhà Tần (221- 206 trước Tây Lịch), vị vua khai sáng là Tần Thủy Hoàng vì e ngại giặc Hung Nô phương Bắc sang đánh phá nên đã tiếp tục công trình này cho liên tiếp và cao rộng hơn, chạy dài từ Lâm Triệu (nay là Manh huyện ở Cam Túc) đến Liêu Đông để ngăn giữ. Lộ tuyến trường thành ấy không giống với trường thành hiện thấy vì sau Tần, các nhà Bắc Ngụy, Tùy, Đường, Minh đều góp phần kéo dài hơn ra. Trường thành hiện còn là phần nhiều do công của nhà Minh (1368-1436), bắt đầu từ Thanh Hải, đuôi đến Triều Tiên, bao lấy các tỉnh Cam Túc, Ninh Hạ, Tuy Viễn, Sát cáp Nhĩ, Nhiệt Hà, Liêu Ninh, dài hơn 5,400 dặm, cao từ 15 đến 30 m, chân rộng 25m. Nhìn từ xa, Vạn Lý Trường Thành trông như con bạch xà uốn khúc vòng vèo lên xuống nhịp nhàng. Đến gần, mới thấy cả một công trình vĩ đại không thể nào tưởng tượng nổi. Hai bên Trường Thành là núi ngan ngát hùng vĩ. Một mặt thành là đá xây kín. Mặt kia, có những lỗ châu mai và những tháp canh từng chặng ở những khúc cao để tiện bề quan sát quân đi.ch. Để bảo vệ sức khoẻ cho đôi chân ngà ngọc của du khách, hiện nay, có những khúc trường thành được đặt trạm xe điện kéo (Cable Cart) để đưa du khách lên đến gần đỉnh (của đoạn trường thành cục bộ thôi), i như những xe kéo cho dân đi trượt tuyết vâ.y. Rồi từ chặng Trường Thành này, muốn trở thành "hảo hớn", du khách chịu khó leo tiếp những bực thang đá dốc ngược cuối cùng, độ 20m, tới trạm canh cao nhất, mua cái bằng biểu dương có hàng chữ "Bất đáo trường thành phi hảo hớn" với giá từ 4$US đến 10$US tùy nơi, tùy kiểu. Tên mình được viết bằng bút ... bi, mẫu tự Trung Quốc đàng hoàng. Thế là cầm mảnh bằng trong tay, tất cả "hảo hớn" vui đều, nhe răng cho máy bấm hình lia lịa và rồi lại khuây khỏa lên xe kéo, xuống núi. 4/ Lăng vua đời nhà Minh (Ming Tombs) Đến khu vực lăng mộ của các vị vua đời nhà Minh ((1368-1436), du khách có ngay cảm giác ... yên nghỉ ngàn thu qua con đường Thần Lộ, con đường chính dành cho Thiên Tử "dạo chơi" một lần cuối cùng rồi thôi ấy. Trưa nắng, Thần Lộ dịu dàng thanh thoát, lung linh những đốm nắng nhẩy nhót qua đám lá buông dài của hàng dương liễu xanh rì dọc theo con đường. Voi quỳ, ngựa phục, lạc đà hiên ngang lẫn quan, lính, nghiêm trang đón vua hai bên. Những bức tượng đá tạc lớn, đơn giản hình khối nhưng không kém phần sinh động cho thấy làm vua đến chết vẫn ... sướng thật, các bạn ạ! Du khách được hướng dẫn đi sâu xuống hơn 20 m đất, vào hẳn hầm táng của một vị vua đời nhà Minh (Tôi quên mất tên) để xem cấu trúc của lăng mộ ngày xưa. Dĩ nhiên, những bậc thang đá này là những phiến đá "din", được đặt để từ gần ngàn năm trước chứ không phải xi măng tân tạo đâu! Hầm táng được ngăn chia như một cung điện nho nhỏ, có cả long sàng cho vua và hoàng hậu, hoàng phi ngư.. Quan tài thật đã được cất đi nơi khác và chỉ có một quan tài giả, đúng mô hình và kích thước nguyên bản, trông thô kệch to đùng, nằm trên bệ đá cao, dưới sàn ngổn ngang là tiền của dân chúng dâng Thiên Tử, cầu xin phước lành. Trần nhà cao vút hình vòng cung tuyệt hảo bằng đá. Vách tường cũng bằng đá. Những người muôn năm cũ. Hồn ở đâu bây giờ? Đang thả hồn theo nỗi ngùi ngùi, tôi bỗng bật cười vì câu diễu dở của "chàng" nào đó trong đoàn, "Mình đúng là ngu! Khi không bỏ cả mấy ngàn bạc để đi coi quan tài và ngửi mùi tử khí của mấy anh vua Tầu. Có gì hay đâu mà tham quan cơ chứ!". Quả là trăm người trăm ý. Riêng cá nhân tôi thì vẫn chắc như đinh đóng cột (đèn): Biếât còn hơn không. Biết còn hơn không ..." 5/ Thiên Đàng Thiên Đàng, tương tự như Đàn Nam Giao tại kinh thành Huế, là nơi vua tế trời đất, được xây dựng cùng thời với Cấm Cung ( 1402). Trên con đường lát đá dài dẫn vào cổng Thiên Đàng buổi sáng hôm sau, tôi tròn mắt ngó từng cặp trung niên đang tiến lên tiến xuống, nhịp nhàng quay lượn theo điệu nhạc phát ra từ chiếc radio đặt trên mặt đất. Té ra dân Trung Quốc văn minh ghê, nhẩy đầm mọi nơi mọi chốn, nào thua gì cảnh trong phim "Toutes la ville dance" tôi được coi thuở còn bé tí xíu ở Saigon khi xưa? Nỗi kinh ngạc của tôi đã được bác K giải ... phóng bằng lời thuyết minh liền một khi: Họ đang tập Taichi đó! À ra thế. Không chỉ một kiểu "múa đôi", đó đây, tôi còn thấy rất nhiều nhóm cao niên luyện Taichi theo đủ thể loại khác nhau: gậy, côn, quạt, khăn, kiếm. Động tác của các cụ khoan thai, nhịp nhàng răm rắp, coi thiên hạ như pha khiến tôi thầm phục lòng yêu đời, chí quả cảm giữ gìn ... sức khoẻ của các cụ quá đỗi. Ngoài ra, còn có những lão trượng khác, tay cầm xô nước, tay bút lông to như cái chổi nhỏ, phóng trên mặt gạch những hàng chữ bằng nước như rồng bay phượng múa. Bác K giải thích thêm, Đây cũng là một cách luyện khí công của người Trung Quốc. Bây giờ, Thiên Đàng đã hiện ra thật gần trước mắt, chia làm hai phần: - Tế Trời (hướùng Nam), còn có tên là đàn Hoàng Khâu. - Tế Đất (hướng Bắc) Khái niệm của người Trung Hoa ngày xưa là trời tròn đất vuông nên Đàn Hoàng Khâu và Đàn ... Tế Đất (?) được xây theo hai hình vuông tròn khác nhau. Đàn có nền tường son, mái xanh, ngói trúc, kiến trúc của dân tộc Mãn Thanh. Tại khu tế trời, thiên tử thay mặt dân, xin Ngọc Hoàng phù hộ cho xã tắc thái bình, nước giầu dân ma.nh. Vua chúa Trung Quốc tin ở con số 9 là biểu tượng cho quyền lực thiên tử. Đó là số Dương hay Thiên số. Vì thế, kiến trúc cung điện luôn luôn có con số 9 nằm trong đó. Ví dụ những bực thang lên đàn tế trời đất đềụu có 9 nấc thang. Lễ tế Trời Đất được cử hành vào ngày 21 đến 23, tháng 11 Âm li.ch. Vua tin rằng, chỉ ở ngay nơi lập đàn đó, trời gần hơn cả, cách đầu người chỉ 8m (đơn vị của Trung Hoa)] nên tiếng nói con người vang vọng được tới trời. Thực tế, đàn là một mặt tròn rất lớn, xây bằng đá, cao hơn mặt đất khoảng 3m. Giữa đàn là một phiến đá tròn nhỏ khác nhô cao độ 10 cm. Cô em tôi gọi đùa là cái rốn của vũ tru.. Đúng theo nguyên tắc vật lý áp dụng để làm trống, người xưa đã để rỗng bên trong. Vì thế, khi đứng ngay giữa "rốn" để khấn nguyện, không cần micro khuếch đại, tiếng nói đã vang ra tứ phía. Xem thế đủ hiểu ngay từ ngàn xưa, vua chúa cũng biết "mánh" để cai trị dân, phải không các bạn? 6/ Cung Điện Mùa Hạ (Summer Palace) Cung Điện Mùa Hạ hay còn đượĩc gọi là Di Hòa Viên được xây dựng bên cạnh hồ Côn Minh và đồi Vạn Thọ, nằm cách trung tâm thành phố Bắc Kinh khoảng 10 km về hướng Tây Bắc. Di Hòa Viên bắt đầu xây từ năm 1750 dưới thời vua Càn Long. Diện tích của vườn khoảng 290 km2. Kiến trúc bên trong vườn được mô tả theo kiến trúc của Tô Châu. Vào thời Từ Hy Thái Hậu nắm quyền, bà đã dùng tiền của bộ Hải Quân Trung Quốc vào việc xây cất thêm các cung điện ở đây. Từ Hy nghe lời Lý Hồng Chương, mượn danh nghĩa canh tân Hải Quân để lấy tiền xây cất Di Hòa Viên cho bà ở và làm việc (Mặc dù trước đó ít năm, cuộc hải chiến trên biển xẩy ra giữa Nhật và Trung Hoa vào năm 1984, kết quả hạm đội của Trung Hoa hầu như bị tiêu diệt, Trung Hoa thua Nhật một cách nhục nhã trước xứ Phù Tang nhỏ bé). Thực ra, Di Hòa Viên trướùc kia được xây dựng từ đời nhà Kim, đến vua Càn Long được sửa sang thêm. Đến thời Từ Hi, bà cho xây cất thêm và đổi tên là Di Hòa Viên. Di Hòa Viên rất lớn, bên cạnh là hồ Côn Minh và núi Vạn Thọ (Hồ và núi đều là nhân tạo). Phong cảnh rất đẹp. Kiến trúc theo lối "ngoài cảnh có cảnh, trong vườn lại có vườn". Sau cuộc Quang Tự bị Từ Hi Thái hậu giam cầm ở đây. Những kiến trúc để lại "ấn tượng" mạnh cho du khách là: - Trường Lang: Đây là hành lang dài 720m để vua đi dạo dọc theo bờ hồ. Có cả thẩy trên 10,000 bức họa vẽ tay, mỗi bức một hình thái, phong cách khác nhau, trang hoàng theo riềm của hành lang. Thuyền Cẩm Thạch: Kiến trúc theo hình dạng và kích thước của một chiếc du thuyền vĩ đại và được làm bằng đá cẩm thạch, quà tặng của quần thần dành cho Từ Hi Thái Hâ.u. Thập Thất Khổng Kiều: Cầu được kiến trúc theo lối Tô Châu, có 17 khoảng trống ở giữa. Các cung điện nơi Từ Hi Thái Hậu làm việc và nghỉ ngơi. Bài Vân Tự trên đồi Vạn Thọ, nơi dành cho Từ Hi Thái Hậu tĩnh tâm. Phong cảnh nhìn xuống hồ Côn Minh rất hữu tình. Phật Hương Các trên đồi Vạn Thọ: Giữa điện có tượng Phật nhiều tay. (* Viết theo tài liệu của AV Travel) Các bạn có thể "tham quan" qua hình ảnh kế bên để thấy cái tuyệt tác của cổ nhân Trung Quốc khi xây dựng nên Di Hòa Viên. Đừng quên cảnh hồ và núi đều là NHÂN TẠO, các bạn nhé! Winning isn't every thing, it's the only thing!
Thắc mắc với bác despi chút xíu. Hình như Temple of Heaven được gọi là Thiên Đàn (Tiantan) thì chuẩn hơn là Thiên Đàng thì phải? Mà nếu chiều cuối tuần bác có rảnh rổi ghé đến thì còn có các câu lạc bộ phụ lão tụ tập chơi cho nhau nghe từ ca kịch cổ điển cho đến các bài hát cách mạng sôi nổi và vui vẻ lắm đấy. Mà còn có một góc nữa các cụ tụ tập bài bạc sát phạt nhau vô tư lắm. Thích hơn nhiều việc chui vào lăng ngắm cụ Mao nằm.
THIÊN ĐÀNG HẠ GIỚI Mộng Đài Tô Châu - thành phố nổi tiếng này - nằm trong tỉnh Giang Tô, phía Đông giáp Thượng Hải, Tây giáp Thái Hồ, Nam giáp Triết Giang và Bắc giáp Trường Giang, con sông dài gần như bất tận, xinh đẹp như mùa Xuân, rực rỡ như nắng Hạ, thơ mộng như màu vàng Thu và bàng bạc tợ cảnh sơn khê phủ màu tuyết trắng... Tô Châu, có đến 2400 năm lịch sử, khởi đầu vốn là cố đô của nước Ngô thời cổ đại, do nhà vua Hạp Lư xây dựng lên, dưới thời Đông Châu Liệt Quốc. Thời Tần, Tô Châu mang tên Ngô Huyện, qua thời Đông Hán cải sang Ngô Quận. Đến năm 1276 mới bắt đầu gọi Tô Châu,lấy tên từ ngọn núi Cô Tô. Trong bài "Phong Kiều Dạ Bạc" của nhà thơ Trương Kế đời Đường Túc Tông đã ghi lên thắng cảnh độc nhất vô nhị này: Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên, Giang phong ngư hỏa đối sầu miên. Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự, Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền. Mà nhà thơ Tản Đà đã dịch: Trăng tà, chiếc nhạn kêu sương, Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ. Thuyền ai đậu bến Cô Tô, Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San. Phong Kiều ở Ngô Huyện, thuộc tỉnh Giang Tô, còn Cô Tô thì ở Tô Châu, nên cũng còn gọi là Cô Tô Thành. Nếu khách lãng du đã đến một lần viếng các thắng cảnh thành Tô Châu, ắt đến lúc ra đi ắt không khỏi phải bùi ngùi tấc dạ. Còn gì đẹp bằng cảnh bóng trăng xế tà chênh chếch bóng, lại có tiếng quạ kêu và sương phủ đầy trời... Trước cảnh tượng này khách làm sao ngủ được khi mắt trông vời ra trước cảnh buồn của đèn chài leo lét và lùm phong phơ phất theo cánh gió chẳng khác nào như hàng trăm ngàn con rắn bạc lăn tăn trên mặt nước về đêm! Lại nữa, từ ngoại thành Cô Tô có tiếng chuông chùa Hàn San thánh thót vang lên vọng đến chiếc thuyền nan chở khách, đang gác mái chèo nghỉ tạm qua đêm để thưởng thức cảnh đẹp của thành Tô Châu đầy thơ mộng... tưởng không còn cảnh nào còn hơn thế nữa. Và cũng chính vì bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc đã viết: "Dạ bán chung thanh..." đã một thời có cuộc tranh cãi làm gì mà có tiếng chuông chùa nửa khuya vắng vẻ ấy?!", vì vậy mới có giai thoại về một sự trùng hợp...khá lạ lùng và cũng thật thơ mộng như sau: "...Một đêm neo thuyền lại tại bến Phong Kiều, Trương Kế nhìn thấy cảnh đẹp, mà hồn thơ bỗng dưng lai láng, bèn cất tiếng cao ngâm: "Nguyệt lạc, ô đề,sương mãn thiên Giang phong, ngư phủ đối sầu miên. Nhưng, sau hai câu tuyệt cú này, Trương Kế nằm trằn trọc mãi vẫn không thể nào gợi thêm ra được hai vần thơ kế tiếp nữa... Và cũng chính trong đêm này, ngoài thành Cô Tô, sư cụ chùa Hàn san - một trong các nhà sư nổi tiếng sính thơ nhất cũng xúc cảnh khi nhìn thấy mấy trăng lưỡi liềm vắt vẻ trên vòm trời xanh thẳm mà ngâm lên: "Sơ tam,sơ tứ nguyệt mông lung Bán tự ngân câu, bán tự cung. (Mồng ba,mổng bốn trăng mờ Nửa dường móc bạc,nửa ngờ vành cung) Hai câu này cũng chẳng kém gì mấy so với hai câu của Trương Kế, song nhà sư Hàn San tự cũng không thể nào tìm ra thêm tứ để làm cho xong bài thơ tứ tuyệt này, nên cứ trằn trọc thao thức mãi không dỗ được giấc ngủ... Nhìn thấy sư cụ thao thức mãi, chú tiểu hầu cạnh bèn lên tiếng hỏi, được sư cụ kể lại nỗi khổ tâm của mình về hai vế thơ sau cùng để hoàn tất bài thơ đang bỏ dở. Chú tiểu mỉm cười cúi đầu xin thầy cho phép mình được nối tiếp bài thơ trên. Đó là hai câu: Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn, Bán cầm thủy để, bán phù không." (Hồ xanh kia xẻ đôi vùng Nửa chìm đáy nước,nửa ***g chân mây). Đồng thời lúc bấy giờ sau đó không bao lâu ở bến Phong Kiều có tiếng chuông vọng đến tận trong thuyền, khiến Trương Kế giật mình choàng ngồi dây kết thúc ngay bài thơ mình: Cô Tô thành ngoại Hàn San tự Dạ bán chung thiên đáo khách thuyền. Chính tiếng chuông của chùa Hàn San kia đã giúp cho Trương Kế có cảnh để hoàn tất bài thơ bất hủ của mình, nhờ sư cụ chùa Hàn San sai chú tiểu đi dộng chuông tạ ơn Phật...
Theo sử sách ghi lại:"...Trong và ngoài thành Tô Châu có đến cả ngàn chiếc cầu bắc ngang sang sông,suối trông vô cùng thơ mộng, nhưng rồi vì chiến tranh tàn phá và thời gian đã tước mất đi một số lớn, nên đến ngày nay chỉ còn giữ được 168 chiếc cầu xây bằng đá hoặc bằng các loại gỗ quí... Tô Châu đúng là một dải đất có lắm danh lam thắng cảnh: xa xa có dảy Thiên Đình, Linh Nham ngút ngàn khói tỏa đầu non, có gò Hổ, có Hàn San Tự, có vườn hoa Sư Tử, có hoa viên Chuyết Chính...và nhất là vườn Lưu Viên, Thương Lăng Đình có lắm loài kỳ hoa dị thảo... Cảnh đẹp nhất của Tô Châu là ngôi Hàn San tự, xây từ thời Nam Triều vào thế kỷ thứ Vl - Hàn San tự có lối kiến trúc khá độc đáo gồm nhiều điện như Đại Hùng Bảo điện, hoặc Tàng Kinh các, hay Phong Giang Lâu và lầu Chuông...Càng đi sâu vào Hàn Han tự càng cảm thấy mình đang chiêm ngưỡng một danh lam thắng cảnh thu nhỏ lại nơi Cửa Phật trang nghiêm. Theo tương truyền một nhà sư đời Đường có tên là Hàn Sơn từng trụ trì ở ngôi chùa này - lúc ấy chưa có tên chính thức cho mãi đế khi ngài viên tịch người đặt là Hàn San tự... Nếu đi xa hơn lối ba dặm, về phía Tây Bắc, ắt khách lãng du sẽ nhìn thấy "gò Hổ" - một gò được mệnh danh là đệ nhất danh lam thắng cảnh của đất Ngô. Sở dĩ gọi thắng cảnh này là "gò Hổ" vì cách đấy lối 2500 năm, khi vua Hạp Lư băng hà, được Ngô Phù Sai mang thân phụ mình táng tại gò này. Chỉ trong vòng ba ngày bỗng tự dưng có con "Bạch Hổ" từ đâu đến nằm phục bên cạnh mộ...Và, cũng từ đó người đời gọi là "Gò Hổ". Phía trước mặt gò là một cái hồ nhỏ có tên Kiếm Trì. Ngay lăng mộ của vua Hạp Lư có chôn nhiều của cải báu vật, còn phía trên đỉnh gò lại có một ngọn tháp xây vào đời nhà Tùy và sau đó được trùng tu vào thời Bắc Tống. Ngôi tháp được sắp xếp vào hàng thắng cảnh, cao đến bảy từng và có tám cạnh. Tháp được xây bằng cả gạch lẫn gỗ quí. Nói đến Tô Châu là y như mọi người đều nghĩ đến nhiều hoa viên với muôn vạn cánh hoa, đầy hương sắc, với hàng ngàn cánh **** rực rỡ đủ màu chập chờn vào những buổi sáng tinh sương trông hệt những một bức tranh thiên nhiên tuyệt kỷ... Hiện nay không còn đến hàng ngàn hoa viên nữa mà chỉ còn võn vẹn 180 vườn hoa mang phong cách của thời Tống và Minh, Nguyên lưu truyền...Người Tây phương thích xây dựng hoa viên theo hình kỷ hà trong lúc người Trung Hoa thì chuộng cảnh sơn thủy hữu tình... Đặc biệt người Trung Hoa thích mô phỏng theo cảnh sắc thiên nhiên, thu nhỏ lại các cảnh hiện thực như núi non, hồ ao, lâu đài, chùa chiền cùng với cỏ cây hoa lá v.v...mà mà dựng nên một cảnh trí hoặc bằng những mô hình thu nhỏ,hoặc bằng những bức tranh sơn thủy hòa nhập với ý thơ, từ phú của các đời Đường,Tống... Nếu ta xuôi về phía Nam thành Tô Châu sẽ được chiêm ngưỡng vườn Thương Lãng Đình, một hoa viên được xem là cổ nhất, có nhiều ngọn núi đất và được diểm xuyết thêm các tảng đá trắng trông thật ngoạn mục. Càng vào sâu vào các ngọn thổ sơn khách lãng du cứ ngở rằng mình đang lạc lõng vào các động nơi tiên cảnh. Khách viếng thăm Thượng Lãng Đình có khi quên quay gót trở về khi lần theo các hẻm luồng hang, trèo núi, qua ghềnh... hoặc băng theo các hành lang nhìn các khung cửa sổ hình thù khác nhau: cái tròn, cái vuông, cái hình bán nguyệt, không cái nào giống với cái nào...mà khách lãng du tùy theo góc độ mà chiêm ngưỡng cảnh thiên nhiên kỳ thú... Hoặc đi về phía bắc Tô Châu, ta sẽ thấy ngay một khu vườn với phong cách của đời Nguyên lưu dấu lại. Đó là khu Rừng Sư Tử có từ cuối đời nhà Nguyên do nhà sư Thiên Như dựng lên. Khách lãng du khi vào đến bên trong khu rừng sẽ nhìn thấy nhiều cảnh núi non, và cũng nhiều tảng đá giống như hình sư tử nằm khắu tạo nên những mọi ngõ ngách, cũng như các tảng đá lớn được chồng chất lên nhau tạo thành những hang động âm u kỳ kỳ ảo ảo... Tương truyền, từ ngày có Rừng Sư Tử có nhiều Tiên Ông cùng các Nữ Tiên đưa nhau đến hang du ngoạn, lạc lối không trở về được cõi tiên nên cuối cùng bị hóa thạch... Đặc biệt Rừng Sư Tử có lối kiến trúc bao quanh như Nhạn Dự Đường, Ngũ Tùng Viên v.v..bao quanh như trấn ngữ...Có điều các hành lang tại khu rừng này còn bút tích của Tô Thức, Hoàng Đình Kiên, Mễ Phất, Thái Nhượng...là Tứ đại gia đời Tống... Vẫn còn chưa hết, Tô Châu còn lắm khu vườn khiến cho người chiêm ngưỡng phải ngẩn ngơ về công trình tuyệt kỷ vừa của thiên nhiên mà cũng vừa của người thiên nhiên hóa những hình ảnh khác thường...Như khu Chuyết Chính Viên chẳng hạn. Cảnh tái ở đây được lấy hồ ao làm trung tâm điểm mà các lâu đài, chùa đình trở thành một trùng vi cho cảnh tượng thiên nhiên đó. Đặc điểm nhất trong các khu vườn ổ thành Tô Châu là Lưu Viên. Lưu Viên là tên một vười hoa nổi tiếng. Đây là một hoa viên thời đại, vì nó được xây cất vào đời nhà Thanh - triều đại không bao xa so với ngày nay. Nhờ vậy mà lối cấu trúc có đầy đủ từ cầu đương, hành lang, có tường hoa, có sông suối v.v. Đi phương Đông sẽ gặp đình,quán, sảnh đường...kiến trúc vô cùng hùng vĩ... Đến khu Tây sẽ chiêm ngưỡng được cảnh những hòn giả sơn, trên núi có rừng phong, nên mỗi độ thu về toàn thể khu vườn đều rực lên một màu vàng trông thật thơ mộng... Đó là chưa nói cảnh hồ, ao, sông suối, lâu đài soi mình dưới bóng nước lung linh... Hoặc ngắm cảnh đào liễu mà mỗi độ xuân về rực lên muôn hồng nghìn tía... Rồi đến núi Linh Nham - mà khách ngang qua đều thốt nhiên nhớ đến một mối tình lãng mạn nhưng đầy son sắt của Phạm Lãi, Tây Thi...Theo sử chép: "Quan đại phu nước Việt là Phạm Lãi nhân lúc nhàn du bất ngờ gặp được nàng Tây Thi - một trang sắc nước hương trời. Thế là hai người yêu nhau và thề sẽ sống cho đến răng long đầu bạc. Tình đang nồng, duyên đang ưa thì bỗng vua Phù Sai mang quân sang báo thù nước Việt đ trả mối hận cho cha mình. Việt Vương Câu Tiễn bại trận ra hàng. Phạn Lãi cùng vợ chồng vua nước Việt cũng bị bắt để làm con tin. Ba năm sau, vợ chồng Câu Tiễn cùng Phạm Lãi được thả về...Nuôi chí báo thù, Câu Tiển chịu nằm gai nếm mật suốt 10 năm trường. Một hôm Phạm Lãi tâu với nhà vua là phải dùng mỹ nhân kế mới có thể mong phục lại được cơ đồ. Phạm Lãi mang kế hoạch của mình bàn với nàng Tây Thi, Tây Thi nhận lời hiến thân cứu nước bèn sang nước Ngô thi hành nhiệm vụ. Phù Sai không thể cầm lòng trước sắc đẹp của Tây Thi nên đêm ngày chìm đắm trong cảnh hoang dâm, quên cả chuyện an nguy của đất nước. Phù Sai thấy Tây Thi thường xót xa thương nhớ quê hương thường gửi gắm lòng mình qua tiếng đàn nỉ non ai oán. Ngô Vương muốn cho nỗi buồn của Tây Thi dịu bớt đi bèn cho đào ao Vân Nguyệt, giếng Ngô Vương ở tận đỉnh núi Linh Nham hầu cho người yêu dạo chơi tắm mát...Tây Thi thường lén đưa tin tức về cho Việt Vương...Nhờ đó mà Việt Vương trả được mối thù xưa cho nước Việt. Và cũng từ sau ngày chiến thắng, Phạm Lãi cùng Tây Thi sum họp cùng chu du Ngũ Hồ để đền bù lại những tháng năm xa cách... ( Có sách ghi rằng Tây Thi bị chết, còn Phạm Lãi chỉ một mình ôm mối hận tình chu du chốn Ngũ Hồ mà thôi). Một ngôi đền Sùng Bảo được cất lên trên ngọn Linh Nham để tưởng nhớ chiến công của nàng Tây Thi . Ngày nay các di tích lịch sử giữa hai nước Ngô - Việt vẫn còn tồn tại trên ngọn Linh Nham... Tô Châu đúng là cảnh thiên đường của hạ giới... Mộng Đài