1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trước Ngày Em Đến - Me Before You

Chủ đề trong 'Album' bởi doctruyen, 08/06/2016.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 9

    Đêm đó tôi đã không ngủ được. Tôi nằm thao thức trên căn gác lửng, chằm chằm nhìn lên trần nhà từ từ hình dung lại hai tháng qua dựa trên những gì bây giờ tôi mới hiểu. Cứ như thể mọi thứ đã thay đổi, cắt đoạn và chắp nối ở một vị trí khác, thành một câu chuyện mà tôi hầu như không thể nhận ra.

    Tôi cảm thấy bị lừa dối, thấy mình như một kẻ đồng lõa ngu ngốc không hiểu điều gì đang diễn ra. Tôi nghĩ bọn họ chắc hẳn đã phải cười thầm khi tôi cố gắng cho Will ăn rau hay cắt tóc cho anh - những điều nho nhỏ giúp anh cảm thấy thoải mái hơn. Rốt cuộc, ý nghĩa của chúng là gì chứ?

    Tôi lật đi lật lại cuộc nói chuyện đã nghe trộm, cố gắng để hiểu nó theo một cách khác, cố gắng để thuyết phục bản thân mình là tôi đã hiểu nhầm những điều họ nói. Nhưng Dignitas hoàn toàn không phải một nơi để nghỉ mát. Tôi không tin nổi Camilla Traynor có thể nghĩ tới chuyện làm điều đó cho con trai bà. Phải, tôi đã nghĩ bà ấy thật lạnh lùng và phải, rất gượng gạo khi ở bên cạnh anh ta. Thật khó có thể tưởng tượng việc bà âu yếm anh ta, giống như mẹ tôi đã âu yếm chị em tôi - mãnh liệt, vui sướng - cho đến khi chúng tôi vùng vằng, đòi mẹ thả cho chúng tôi đi mới thôi. Thật tình, tôi chỉ nghĩ đơn giản đó là cách những người thuộc tầng lớp trên đối xử với con cái họ. Nói cho cùng tôi vừa đọc xong cuốn Love in a Cold Climate (Yêu trong giá lạnh) ở nhà Will. Nhưng còn chuyện đóng một vai trò tích cực, tình nguyện trong cái chết của chính con trai bà ấy thì sao?

    Nhìn lại mới thấy dường như thái độ của bà còn lạnh lẽo hơn, hành động của bà còn thấm đẫm một ý đồ độc ác hơn nữa. Tôi tức giận với bà ta và tức giận với Will. Tức giận với họ vì đã đẩy tôi vướng vào một màn kịch. Tôi tức giận vì tất cả những lần đã ngồi suy nghĩ xem phải làm thế nào để khiến mọi thứ tốt đẹp hơn cho anh, làm thế nào để anh cảm thấy thoải mái, hay vui vẻ. Khi thôi không tức giận, tôi cảm thấy buồn. Tôi nhớ lại chút nghẹn ngào trong giọng nói của bà khi bà cố gắng an ủi Georgina và cảm thấy xiết bao buồn đau cho bà. Tôi biết, bà đang ở trong tình thế tuyệt vọng.

    Nhưng trên tất cả, tôi thấy mình ngập chìm trong nỗi sợ hãi. Tôi ám ảnh với những gì tôi mới biết. Làm sao để có thể sống mỗi ngày khi biết rằng mình chỉ đang tồn tại qua ngày đoạn tháng để chờ đến cái chết của chính mình? Làm sao người đàn ông mà sáng nay làn da còn mang lại cảm giác dưới tay tôi - ấm áp và sinh động - lại chọn con đường hủy diệt bản thân? Làm sao trong sáu tháng nữa chính làn da ấy sẽ mục nát dưới lòng đất, với sự đồng thuận của tất cả mọi người?

    Tôi không thể nói với ai cả. Đó có lẽ là điều tồi tệ nhất. Bây giờ tôi là kẻ đồng lõa trong bí mật nhà Traynor. Mệt mỏi bơ phờ, tôi gọi cho Patrick để bảo với anh tôi cảm thấy không được khỏe nên sẽ ở nhà. Không vấn đề gì đâu, anh đang lập chạy 10 km, anh ấy nói. Dù thế nào thì chắc anh cũng không thể xong việc ở câu lạc bộ thể hình trước chín giờ được. Tôi sẽ gặp anh vào thứ Bảy. Giọng anh nghe rất sao lãng như thể tâm trí anh đang ở đẩu đâu, trôi theo đường đua huyền thoại nào đó.

    Tôi nhịn bữa tối. Tôi nằm trên giường cho đến khi những ý nghĩ của tôi tối sầm và đông cứng lại đến nỗi tôi không chịu đựng được sức nặng của chúng nữa, thế là tới tám rưỡi tối tôi xuống gác và ngồi lặng lẽ xem ti-vi bên cạnh ông ngoại, người duy nhất trong gia đình chắc chắn sẽ không hỏi tôi câu nào. Ông ngồi trên chiếc ghế yêu thích của mình, chằm chằm nhìn vào màn hình với đôi mắt hết sức vô hồn. Tôi không bao giờ dám chắc ông có xem ti-vi không hay tâm trí ông hoàn toàn đang ở một nơi nào khác.

    "Con chắc là không muốn ăn gì chứ, con yêu?" Mẹ đến bên cạnh tôi với một tách trà. Chẳng có gì trong gia đình tôi không thể giải quyết được bằng một tách trà, chắc chắn là vậy.

    "Không. Con không đói, cảm ơn mẹ."

    Tôi nhìn cách mẹ liếc sang bố. Tôi biết lát nữa sẽ có những tiếng thì thầm rằng nhà Traynor bắt tôi làm việc quá vất vả, sự căng thẳng khi chăm sóc một người tàn phế như vậy đang thể hiện quá rõ ràng. Tôi biết bố mẹ sẽ tự trách mình vì đã hối thúc tôi nhận công việc này.

    Tôi sẽ phải làm cho họ nghĩ là họ đúng.

    Trái ngược lại, ngày hôm sau Will ở trong tình trạng rất tốt - nói nhiều, ưa trêu chọc, hiếu chiến một cách khác thường. Chắc chắn anh nói nhiều hơn bất kỳ ngày nào trước đó. Dường như anh rất muốn tranh cãi với tôi và cảm thấy thất vọng khi tôi không tham gia.

    "Thế cô định khi nào thì kết thúc trò bêu riếu này đây?"

    Tôi đang dọn dẹp phòng khách. Tôi ngước mắt lên nhìn khi đang làm phồng mấy cái nệm sofa. "Trò gì cơ?"

    "Tóc tôi. Mới cắt được một nửa thôi. Trông tôi cứ như một đứa trẻ ở trại mồ côi thời Victoria vậy. Hay một thằng ngố Hoxton nào ấy." Anh quay đầu lại để tôi có thể nhìn thấy công việc thủ công của tôi rõ hơn. "Trừ phi đây là sự trình diễn một phong cách khác của cô."

    "Anh muốn tôi cắt tiếp?"

    "Phải, có vẻ như nó làm cô cảm thấy thích thú. Mà chắc là sẽ tốt hơn khi trông tôi không giống như đang sống trong nhà thương điên."

    Tôi lặng lẽ lấy khăn và kéo.

    "Giờ chắc Nathan sung sướng hơn rồi khi trông tôi đã ra dáng một anh chàng," anh nói. "Tuy nhiên ông ấy cũng chỉ ra rằng để khôi phục gương mặt tôi về trạng thái ban đầu, từ nay tôi cần phải cạo râu mỗi ngày."

    "Ồ," tôi nói.

    "Cô không phiền hà gì chứ? Những ngày cuối tuần tôi sẽ phải chịu đựng bộ râu lởm chởm."

    Tôi không thể trả lời anh. Tôi thấy thậm chí rất khó để nhìn mắt anh. Nó gần giống như cảm giác khi phát hiện ra bạn trai không chung thủy. Thật kỳ lạ, tôi cảm thấy như thể anh đã phản bội tôi.

    "Cô Clark?" "Ừm?"

    "Cô lại có thêm một ngày im lặng mệt mỏi nữa. Điều gì đã xảy ra làm 'cô nàng lắm điều' trở nên bực bội vậy?" "Tôi xin lỗi," tôi nói.

    "Lại ông Chạy ấy à? Anh ta đã làm gì vậy? Anh ta vẫn chưa chịu thôi chạy đi à?"

    "Không phải." Tôi kẹp một lọn tóc mềm của Will giữa ngón trỏ và ngón giữa của tôi rồi đưa lưỡi kéo tỉa lớp tóc nhô ra phía trên. Những sợi tóc vẫn nằm trong tay tôi. Họ làm việc đó bằng cách nào được chứ? Họ sẽ tiêm cho anh? Hay dùng thuốc uống? Hay họ cứ thế vứt người ta trong một căn phòng có hàng đống dao lam?

    "Trông cô rất mệt mỏi. Tôi không định nói gì lúc cô đến, nhưng - quái quỷ - trông cô thật khủng khiếp."

    "Ờ."

    Họ làm gì để trợ giúp người bị liệt tứ chi? Tôi nhìn xuống hai cổ tay anh, luôn luôn bị che lấp dưới ống tay áo dài. Suốt nhiều tuần tôi đã tưởng rằng đó là bởi vì anh cảm thấy lạnh hơn người bình thường. Thêm một sự dối trá nữa.

    "Cô Clark?" "Sao cơ ạ?"

    Tôi thấy thật may mắn vì mình đang ở phía sau anh. Tôi không muốn anh nhìn thấy gương mặt tôi.

    Anh chần chừ. Ở phía sau cổ anh nơi có tóc che phủ, làn da còn nhợt nhạt hơn những phần da khác. Trông nó rất mềm, trắng bợt và hết sức dễ bị tổn thương.

    "Nghe này, tôi xin lỗi về chuyện em gái tôi. Nó đã... nó đã rất đau khổ, nhưng điều đó không cho nó quyền được thô lỗ. Đôi khi nó hơi thẳng thắn. Không biết được là nó làm người khác bực bội đến mức nào." Anh ngừng lại. "Đó là lý do vì sao nó thích sống ở Úc, tôi nghĩ vậy."

    "Ý anh là, họ nói với nhau sự thật?" "Sao cơ?"

    "Không có gì. Anh ngẩng đầu lên một chút."

    Tôi tỉa bằng kéo rồi lấy lược chải, cẩn thận xén vòng quanh đầu anh cho đến khi từng sợi tóc đã được cắt tỉa và tất cả những gì còn lại là một thảm tóc nằm rải rác quanh chân anh.

    Cuối ngày hôm đó, tôi đã nghĩ thông mọi chuyện. Trong khi Will đang ngồi xem ti-vi với bố, tôi lấy một tờ giấy A4 từ máy in và một chiếc bút trong hộp bên cửa sổ phòng bếp rồi viết ra những điều tôi muốn nói. Tôi gấp tờ giấy lại, tìm một cái phong bì rồi để nó lại trên bàn bếp, thư đề gửi cho mẹ anh.

    Buổi tối khi tôi ra về, hai bố con Will đang ngồi nói chuyện. Sự thực thì lúc đó Will đang cười. Tôi dừng lại ở hành lang để lắng nghe, chiếc túi vẫn khoác trên vai. Làm sao anh có thể cười chứ? Cái gì có thể gợi lên niềm vui đó khi mà chỉ còn mấy tuần nữa là anh tự kết thúc đời mình?

    "Tôi về đây," tôi gọi với lại từ cửa chính rồi bắt đầu bước ra.

    "Này, cô Clark..." anh cất tiếng nhưng tôi đã đóng lại cánh cửa ở phía sau lưng mình.

    Tôi dùng thời gian trên chuyến xe buýt ngắn ngủi để cố lên kế hoạch sẽ nói với bố mẹ tôi như thế nào. Bố mẹ sẽ giận dữ vì tôi đã bỏ công việc mà họ cho là một công việc hoàn toàn phù hợp và được trả hậu hĩnh. Sau cơn sốc ban đầu, mẹ sẽ tỏ ra đau khổ và bênh vực tôi, sẽ nói rằng tất cả những chuyện đó đã là quá đủ rồi. Bố có thể sẽ hỏi sao tôi không thể giống em gái hơn một chút. Bố luôn luôn như vậy, dù tôi chẳng phải là kẻ đã phá hoại cuộc đời của cô em gái bằng việc làm nó mang thai rồi phải dựa dẫm vào tất cả những người khác trong gia đình về tài chính và chuyện chăm sóc con. Không ai được nói những lời đó ra trong ngôi nhà của chúng tôi bởi vì với mẹ, nói như vậy là có ý ám chỉ Thomas không phải là một phúc lành. Tất cả trẻ em đều là phúc lành Chúa ban, bất chấp bọn nó luôn mồn nói bậy chết tiệt và bất chấp sự có mặt của đứa trẻ đó đồng nghĩa một nửa nhân lực tiềm năng của gia đình tôi chắc chắn không thể ra ngoài kiếm một công việc tử tế.

    Tôi chẳng thể nói với mọi người sự thật. Tôi biết tôi chẳng nợ Will và gia đình anh điều gì nhưng tôi không thể để hàng xóm nhìn anh bằng con mắt tọc mạch được.

    Tất cả những suy nghĩ đó xáo trộn trong đầu tôi khi tôi rời xe buýt đi bộ xuống chân đồi. Lúc về đến góc con ngõ nhà mình, tôi nghe thấy tiếng la hét, cảm thấy những rung chấn nhẹ trong không khí rồi tất cả yên lặng trong thoáng chốc.

    Một nhóm người đang tụ tập quanh nhà tôi. Tôi rảo bước nhanh, lo sợ đã có điều gì đó xảy ra, nhưng tới khi thấy bố mẹ đang đứng ở thềm chăm chú nhìn sang ngôi nhà ấy thì tôi mới nhận ra đó không phải chuyện nhà tôi. Đó chỉ là cuộc chiến tranh mới nhất trong một chuỗi dài những cuộc chiến lặt vặt đã trở thành đặc thù trong cuộc sống hôn nhân của hàng xóm nhà tôi.

    Chuyện Richard Grisham là ông chồng không chung thủy chẳng phải là tin gì mới với phố chúng tôi. Nhưng có lẽ chỉ cô vợ ấy mới chọn cách làm ầm mọi chuyện ở ngay vườn trước nhà anh ta.

    "Chắc anh đã nghĩ tôi là một con điên. Cô ta mặc áo phông của anh! Đúng cái áo mà tôi mua cho anh hôm sinh nhật!"

    "Em yêu... Dympna... không phải như em nghĩ đâu."

    "Tôi vào hàng mua trứng bọc thịt chiên chết tiệt cho anh! Và thấy cô ta ở đó, mặc áo của anh! Thật trơ trẽn! Tôi thậm chí còn chẳng thèm cái món trứng bọc thịt chiên đó!"

    Tôi bước chậm lại, đi len qua đám người đang tụ tập đến khi vào được cổng nhà mình, theo dõi cảnh Richard cúi xuống để né chiếc đầu đĩa DVD. Rồi sau đó là một đôi giày.

    "Vợ chồng họ cãi nhau bao lâu rồi?"

    Mẹ tôi đang quàng tạp dề gọn gẽ ngang thắt lưng, buông khoanh tay xuống để nhìn đồng hồ. "Ít ra cũng phải bốn lăm phút rồi. Bernard, anh nói có phải là ít ra cũng bốn lăm phút rồi không?"

    "Còn tùy em tính thời gian từ lúc cô ta ném quần áo ra ngoài hay từ khi cậu ta về và thấy đống quần áo."

    "Em tính từ khi cậu ấy về nhà."

    Bố tôi tính toán lại thời gian. "Thế thì chỉ khoảng nửa tiếng thôi. Nhưng mà trong mười lăm phút đầu cô ta đã ném rất nhiều thứ ra khỏi cửa sổ."

    "Bố con nói là nếu lần này cô ấy thật sự ném anh chồng ra khỏi nhà thì ông ấy sẽ tham dự vụ đấu giá chiếc máy khoan Black and Decker của Richard."

    Đám người đã đông thêm nhưng Dympna Grisham chẳng có dấu hiệu gì sẽ dừng lại. Nói đúng hơn cô ta dường như được khích lệ bởi sự gia tăng số lượng khán giả.

    "Anh có thể mang tặng cô ta đống tạp chí khiêu dâm này đây," cô vợ rú lên, quẳng một cơn mưa tạp chí ra khỏi cửa sổ.

    Đống tạp chí đó khiến đám đông khẽ ồ lên.

    "Xem coi cô ta có thích anh ngồi trong nhà tắm với cái đống này suốt nửa chiều Chủ nhật không nhé?" Cô ta biến mất vào trong, rồi lại quay ra cửa sổ, hất mạnh tất tật quần áo trong một chiếc giỏ đựng đồ xuống chỗ trống còn sót trên bãi cỏ. "Cả đống đồ lót nhơ bẩn của anh nữa. Xem coi cô ta có nghĩ anh là một - cái gì nhỉ? - anh chàng nóng bỏng khi ngày nào cô ta cũng phải giặt mấy thứ này cho anh nữa không!"

    Richard vô vọng ôm quần áo của mình lên khi cô vợ đổ chúng xuống bãi cỏ. Anh ta thét một câu gì đó lên phía cửa sổ nhưng giữa tiếng ồn ào và chòng ghẹo của đám đông thật khó để nghe rõ anh ta nói gì. Như bỗng chấp nhận sự thất bại, anh ta lao ra khỏi đám đông, mở khóa xe, ôm một đống đồ dùng ném vào ghế sau rồi đóng sầm cửa xe lại. Lạ lùng là dù bộ sưu tập CD và video game trên bãi cỏ khá đáng ngưỡng mộ, chẳng ai rời mắt khỏi đống đồ dơ của anh ta.

    Rầm. Tất cả im bặt trong một thoáng khi dàn âm thanh nổi của anh ta rơi xuống đường.

    Anh ta ngước nhìn lên với ánh mắt kinh ngạc. "Cô là con chó cái điên!" "Anh ngủ với con mắt lác bệnh hoạn đó trong gara mà tôi là con chó cái điên hả?"

    Mẹ tôi quay sang bố: "Bernard, anh muốn một tách cà-phê không? Em thấy trời có vẻ hơi lạnh rồi đấy."

    Bố tôi không rời mắt khỏi nhà hàng xóm. "Tuyệt đấy, em yêu. Cảm ơn em."

    Đúng khi mẹ tôi quay gót vào nhà tôi nhìn thấy chiếc xe hơi đó. Tôi ngạc nhiên tới nỗi thoạt đầu không nhận ra nó - chiếc Mercedes của bà Traynor, màu xanh nước biển, gầm thấp và trang nhã. Bà dừng xe lại, nhìn ra khung cảnh khu phố rồi chần chừ một phút trước khi xuống xe. Bà đứng đó, chằm chằm nhìn vào rất nhiều ngôi nhà khác nhau, có lẽ đang đếm xem có bao nhiêu ngôi nhà. Rồi sau đó bà nhìn thấy tôi. Tôi vụt ra khỏi cổng và đi xuống con ngõ trước khi bố kịp hỏi tôi định đi đâu. Bà Traynor đứng trước đám đông, chăm chú theo dõi cuộc cãi vã giống như Hoàng hậu Marie Antoinette đứng nhìn một cuộc nổi loạn của nông dân.

    "Tranh cãi gia đình," tôi nói.

    Bà quay đi, gần như ngượng ngùng khi bị phát hiện đang theo dõi trận cãi cọ. "Tôi hiểu."

    "Theo tiêu chuẩn của họ thì đây là một cuộc tranh luận khá mang tính xây dựng đấy. Họ vừa đi gặp tư vấn hôn nhân."

    Bộ suit lịch lãm, bộ trang sức ngọc trai và mái tóc sang trọng của bà đủ để làm bà trở nên khác biệt trong khu phố của tôi với toàn những bộ đồ nỉ thể thao, những thứ vai rẻ tiền sáng màu, những bộ quần áo sản xuất hàng loạt lòe loẹt. Trông bà rất nghiêm khắc, kinh khủng hơn cả buổi sáng khi bà trở về nhà thấy tôi đang ngủ trong phòng Will. Ở đâu đó trong đầu mình, tôi đã đinh ninh rằng sau này tôi sẽ không nhớ nhung gì Camilla Traynor cả.

    "Tôi băn khoăn không biết liệu cô có thể nói chuyện với tôi một lúc được không." Bà phải nói to lên để át tiếng ồn ào.

    Cô vợ Grisham đang ném những chai rượu vang của Richard ra ngoài. Mỗi chai rượu vỡ choang lại được chào đón bởi những tiếng la hét thích thú của đám đông và tiếng cầu xin khẩn khoản của anh chồng. Một sông rượu đỏ chảy qua chân đám đông trôi xuống rãnh nước.

    Tôi nhìn lướt qua đám người rồi nhìn về sau phía nhà tôi. Tôi không thể tưởng tượng nổi việc đưa bà Traynor vào phòng khách nhà mình với những chiếc tàu hỏa đồ chơi bừa bộn, ông ngoại đang ngáy o o trước ti-vi, mẹ xịt nước khử mùi khắp xung quanh để át đi mùi tất chân của bố và Thomas lầm bầm chết tiệt với vị khách lạ.

    "Ờ... đây không phải thời điểm thích hợp."

    "Chúng ta nói chuyện trong xe của tôi nhé? Nghe này, chỉ năm phút thôi,

    Louisa. Chắc chắn cô phải làm điều đó cho chúng tôi."

    Một vài người hàng xóm liếc nhìn về phía tôi khi tôi leo lên xe. Tôi thật may mắn khi câu chuyện nhà Grisham đang là chủ đề nóng hổi tối nay nếu không tôi chắc đã trở thành trung tâm của cuộc đàm tiếu. Trong khu phố nhà tôi, khi có ai leo lên một chiếc xe đắt tiền đều có nghĩa là người đó hoặc đã quyến rũ được một anh chàng cầu thủ bóng đá hoặc đang bị cảnh sát mặc thường phục bắt.

    Những cánh cửa xe đóng lại với tiếng phập nhẹ nhàng, sang trọng rồi đột nhiên không gian trở nên im lặng như tờ. Chiếc xe hơi đầy mùi da thuộc, chẳng có gì trong đó ngoài tôi và bà Traynor. Không vỏ kẹo, bùn, đồ chơi hay những đồ vật đẫm hương nước khử mùi để giấu đi mùi hộp sữa bị đánh đổ từ ba tháng trước.

    "Tôi cứ nghĩ cô và Will đã rất hòa hợp." Bà nói như thể đang nói với ai đó ở trước mặt. Khi không thấy tôi trả lời, bà nói," Có vấn đề gì liên quan đến tiền à?"

    "Không phải."

    "Cô có cần nghỉ trưa dài thêm không? Tôi thấy nó có vẻ hơi ngắn. Tôi có thể hỏi Nathan xem ông ấy..."

    "Không phải vấn đề thời gian. Hay tiền bạc." "Thế là..."

    "Là tôi thật sự không muốn..."

    "Nghe này, cô không thể để lại lời nhắn sẽ nghỉ việc ngay lập tức mà hy vọng tôi thậm chí không hỏi xem đã có chuyện quái quỷ gì xảy ra?"

    Tôi hít một hơi thật sâu. "Tôi đã nghe trộm hai người. Bà và con gái bà. Đêm hôm qua. Và tôi không muốn... tôi không muốn tham dự vào chuyện đó."

    "À."

    Chúng tôi ngồi im lặng. Anh chồng nhà Grisham đang chen lấn để đi ra cửa trước còn cô vợ vẫn tiếp tục ném qua cửa sổ bất cứ thứ gì có thể nhằm vào đầu anh ta. Đồ đạc đang phóng ra - cuộn giấy, những hộp tampon, bàn cọ nhà vệ sinh, những chai dầu gội đầu - cho thấy cô ta đang ở trong nhà tắm.

    "Xin cô đừng bỏ việc," bà Traynor nói khẽ. "Will đang rất thoải mái khi có cô. Hơn hẳn nó từng cảm thấy trước đây. Tôi... sẽ rất khó cho chúng tôi để thay thế người khác."

    "Nhưng bà sẽ... bà sẽ đưa anh ấy đến chỗ mà người ta cho phép tự tử đó. Dignitas."

    "Không. Tôi sẽ làm mọi thứ có thể để chắc chắn nó không làm như vậy." "Ví dụ như điều gì - cầu nguyện ư?"

    Bà nhìn tôi bằng một ánh nhìn mà mẹ tôi vẫn gọi là cái nhìn "cổ điển". "Cô phải hiểu rằng nếu Will quyết định tự rời xa mọi người thì sẽ chẳng có ai làm gì được."

    "Tôi hiểu hết rồi," tôi nói. "Về cơ bản tôi chỉ ở đây để đảm bảo rằng anh ấy không nói dối và thực hiện hành động đó trước khi sáu tháng của anh ấy kết thúc. Chỉ thế thôi, phải không ạ?"

    "Không. Không phải là như vậy."

    "Đó là lý do vì sao bà không quan tâm đến trình độ của tôi."

    "Tôi đã nghĩ là cô hoạt bát, vui tươi và cá tính. Trông cô không giống một y tá. Cô không hành xử... giống như bất kỳ ai khác. Tôi nghĩ... tôi nghĩ cô có thể làm con tôi vui vẻ lên. Và cô thật sự - thật sự làm nó vui lên, Louisa. Hãy nhìn nó không còn mang bộ râu khủng khiếp vào ngày hôm qua... cô có lẽ là một trong rất ít người có thể hiểu được nó."

    Bộ chăn gối bay ra khỏi cửa sổ. Vo thành một đống, những tấm ga khẽ tung ra mềm mại trước khi rơi xuống đất. Hai đứa trẻ con cầm một tấm trùm lên đầu rồi bắt đầu chạy vòng quanh khu vườn nhỏ bé.

    "Bà không nghĩ lẽ ra bà phải nói trước nhiệm vụ chính của tôi là canh chừng việc tự tử thì mới công bằng sao?"

    Tiếng Camilla Traynor thở dài giống như tiếng của một người buộc phải giải thích thật lịch sự điều gì đó cho một thằng đần. Tôi tự hỏi liệu bà có biết bất cứ điều gì bà nói đều khiến người khác có cảm giác mình giống như kẻ ngốc không. Tôi băn khoăn phải chăng đó là một điều bà thật sự đã được nuôi dạy kỹ càng. Tôi không nghĩ tôi đã từng khiến ai đó cảm thấy thấp kém hơn mình.

    "Có thể hoàn cảnh trong thời gian đầu tôi gặp cô là như thế... nhưng bây giờ tôi chắc chắn Will sẽ giữ lời. Nó đã hứa cho tôi sáu tháng và đó là những gì tôi có. Chúng ta cần khoảng thời gian đó, Louisa. Chúng ta cần khoảng thời gian đó để đem đến cho nó ý nghĩ rằng sẽ có một khả năng nào đó. Tôi hy vọng thời gian đó sẽ gieo lên trong nó ý nghĩ về một cuộc sống mà nó có thể hạnh phúc, ngay cả khi đó không phải là cuộc sống mà nó đã hướng tới."

    "Nhưng tất cả chỉ là lừa dối thôi. Bà đang lừa dối tôi và tất cả mọi người trong gia đình bà đang lừa dối nhau."

    Bà dường như không nghe tôi nói. Bà quay lại nhìn vào mặt tôi, rút một tờ ngân phiếu từ túi xách ra cùng với một chiếc bút sẵn sàng trên tay.

    "Nghe này, cô muốn như thế nào? Tôi sẽ tăng gấp đôi số tiền cô muốn. Cho tôi biết đi cô muốn bao nhiêu." "Tôi không muốn tiền của bà."

    "Một chiếc xe hơi. Nhiều phúc lợi. Tặng phẩm..." "Không..."

    "Thế... tôi có thể làm gì để thay đổi được ý định của cô?"

    "Tôi xin lỗi. Chỉ là tôi không..."

    Tôi quay người định xuống xe. Bà giơ tay ra rất nhanh. Đặt ở đó trên cánh tay tôi, lạ lùng và rung động. Hai chúng tôi cùng nhìn vào đó.

    "Cô đã ký một hợp đồng, cô Clark," bà nói. "Cô đã ký một hợp đồng với cam kết sẽ làm việc cho chúng tôi sáu tháng. Theo tôi tính thì cô mới làm được hai tháng. Tôi chỉ yêu cầu cô hoàn thành các nghĩa vụ của cô trong hợp đồng."

    Giọng bà trở nên gắt gao. Tôi nhìn xuống tay bà Traynor và nhận ra nó đang run rẩy.

    "Bà nuốt khan. Xin cô đấy."

    Bố mẹ tôi đang nhìn ra từ phía cổng. Tôi có thể nhìn thấy họ, hai tách trà nằm im trên tay, hai người duy nhất không ngoảnh mặt về phía vở kịch nhà hàng xóm. Họ ngượng ngùng quay đi khi nhận ra tôi đã nhìn thấy họ. Tôi nhận ra bố đang đi đôi dép lê kẻ sọc với những vết sơn loang lổ.

    Tôi đẩy tay cầm cửa xe hơi. "Bà Traynor, tôi thật sự không thể cứ ngồi đó và nhìn... thật quá kỳ dị. Tôi không muốn tham dự vào chuyện này."

    "Cô cứ suy nghĩ đi. Ngày mai là Thứ Sáu Tuần Thánh - tôi sẽ nói với Will cô phải đi lễ cùng gia đình nếu cô thật sự cần một chút thời gian. Hãy dành ngày nghỉ cuối tuần để suy nghĩ về vấn đề này. Nhưng xin cô. Hãy trở lại. Trở lại và giúp đỡ nó."

    Tôi đi về nhà mà không quay đầu lại. Tôi ngồi trong phòng khách, nhìn chằm chằm vào ti-vi, bố mẹ vào theo sau tôi, liếc nhìn nhau và vờ như không nhìn tôi.

    Cuối cùng, khoảng mười một phút sau đó, tôi nghe tiếng xe bà Traynor khởi động và phóng đi.

    Em gái tôi chạy tới gây sự với tôi chỉ năm phút sau khi về nhà, ầm ầm bước lên cầu thang, lao vào mở cửa phòng tôi.

    "Đây rồi, vào đi," tôi nói. Tôi đang nằm trên giường, hai chân duỗi lên tường, mắt nhìn chằm chằm lên trần nhà. Tôi đang mặc quần tất cùng với quần soóc sequin màu xanh ôm quanh hai đùi chẳng chút hấp dẫn.

    Katrina đứng trước cửa phòng tôi. "Đó là sự thật sao?"

    "Cô Dympna Grisham cuối cùng đã tống cổ anh chồng bội bạc tệ hại đó và..."

    "Đừng có đánh trống lảng. Em hỏi công việc của chị cơ."

    Ngón chân cái của tôi vẽ theo những họa tiết trên giấy dán tường.

    "Phải, chị đã đưa đơn xin thôi việc. Phải, chị biết bố mẹ chẳng vui mừng gì cho lắm về chuyện đó. Phải, phải và phải với tất cả những gì mà em sắp ném vào chị."

    Nó đóng chặt cánh cửa phía sau lưng, rồi ngồi phịch xuống giường và chửi thề thật to. "Em đếch tin nổi điều chị nói."

    Nó hất mạnh hai chân tôi khiến tôi trượt khỏi tường, nằm bẹp xuống giường.

    Tôi ngồi bật dậy. "Ôi."

    Mặt nó đỏ dừ. "Em không tin được. Mẹ đang ngồi đau khổ dưới nhà kia kìa. Bố thì giả vờ không cảm thấy như vậy nhưng thật ra bố cũng thế đấy. Bố mẹ phải làm gì với chuyện tiền bạc đây? Chị biết là bố đang rất hoảng hốt về vấn đề công việc rồi còn gì. Cái quái quỷ gì đã khiến chị vứt một công việc tốt tuyệt vời vậy?"

    "Đừng có lên lớp chị, Treen."

    "Ồ, phải có ai làm điều đó chứ! Chị sẽ không bao giờ kiếm được số tiền như thế ở một nơi nào khác nữa. Còn cái hồ sơ xin việc của chị rồi nó sẽ trông ra sao?"

    "Ôi, đừng cỏ giả vờ điều này là vì bất kỳ cái gì khác ngoài em và những thứ em cần."

    "Cái gì cơ?"

    "Em chẳng quan tâm chị làm cái gì, miễn là em có thể đi tìm lại công việc đầy tham vọng của em. Em chỉ cần chị ở đó chống đỡ kinh tế gia đình và làm nhiệm vụ chăm sóc trẻ em chết tiệt. Mọi người khác cũng vậy." Tôi biết mình nói như thế thật ghê gớm và kinh khủng nhưng tôi không thể kiềm chế bản thân được. Xét cho cùng chính tại hoàn cảnh của em gái tôi đã đẩy cả gia đình vào đống bế tắc này. Sự phẫn uất dồn nén nhiều năm trong tôi bắt đầu trào ra. "Tất cả mọi người trong gia đình đã phải bám lấy những công việc mà mọi người rất ghét chỉ để cô Katrina bé nhỏ hoàn thành những tham vọng chết tiệt của cô ta."

    "Đó không phải là vì em." "Không phải hả?"

    "Không, đó là vì chị không thể giữ được công việc duy nhất phù hợp mà chị đã phải tìm trong nhiều tháng."

    "Em chẳng biết tí gì về công việc của chị, đúng không?"

    "Em biết đó là công việc được trả lương cao với thời gian làm việc ít nhất.

    Đó là tất cả những gì em cần biết về nó."

    "Không phải mọi thứ trong cuộc đời này đều liên quan đến tiền bạc đâu, em biết chứ."

    "Thật thế hả? Chị xuống tầng nói với bố mẹ câu đó đi."

    "Em mà dám lên lớp chị về chuyện tiền bạc trong khi chưa từng chu cấp một thứ chết tiệt nào cho gia đình này trong suốt bao nhiêu năm qua hả." "Chị biết em không thể chu cấp được gì nhiều bởi vì có Thomas mà."

    Tôi đẩy cô em gái ra khỏi cửa. Tôi không thể nhớ lần cuối cùng tôi thật sự đặt tay lên người nó là khi nào, nhưng chính xác là lúc này tôi đang rất muốn đấm ai đó thật mạnh và tôi sợ việc tôi có thể sẽ làm nếu nó vẫn cứ ngồi trước mặt tôi. "Biến ra ngoài đi, Treen. Okay? Ra ngoài và để chị yên một mình."

    Tôi đóng sầm cửa trước mặt em gái. Khi cuối cùng tôi nghe tiếng nó đi chậm chậm xuống cầu thang, tôi quyết định không suy nghĩ về việc nó sẽ nói gì với bố mẹ, về cách họ xem việc lần này như một minh chứng rõ ràng hơn nữa về sự vô dụng khiếp khủng của tôi khi làm bất cứ công việc dù ở trình độ nào. Tôi quyết định không nghĩ về anh chàng Syed ở trung tâm giới thiệu việc làm, không nghĩ xem tôi sẽ phải giải thích lý do bỏ công việc được trả lương cao nhất trong số những công việc giúp việc gia đình này ra sao. Tôi quyết định không nghĩ về lò giết mổ gà hay chuyện ở đâu đó sâu trong lòng khu xưởng ấy, có thể vẫn có một bộ đồ yếm bảo hộ bằng nhựa và cả một chiếc mũ chụp vệ sinh còn ghi tên tôi.

    Tôi lại nằm xuống giường và suy nghĩ về Will. Tôi nghĩ về sự giận dữ và nỗi buồn của anh. Tôi nghĩ về những gì mẹ anh đã nói - rằng tôi là người duy nhất có thể hiểu được anh. Tôi nghĩ đến lúc anh cố gắng không bật cười với bài "Bài hát Molahonkey" vào buổi đêm khi tuyết bay vàng rộm ngoài ánh đèn cửa sổ. Tôi nghĩ về làn da ấm áp, mái tóc mềm mại và đôi tay của một con người còn đang sống, một con người thông minh và vui tính hơn nhiều so với tôi, con người đến giờ vẫn không thấy một tương lai nào sáng sủa hơn cách tự chấm dứt cuộc đời mình. Rồi cuối cùng, đầu tôi nặng trĩu vùi vào gối, tôi bắt đầu khóc bởi vì đột nhiên giờ đây cuộc đời tôi trở nên tăm tối và phức tạp hơn tôi từng có thể tưởng tượng ra rất nhiều, tôi ước tôi có thể quay lại, quay lại thời gian khi nỗi lo lắng lớn nhất của tôi là liệu Frank và tôi đã đặt đủ bánh mì ngọt Chelsea chưa.

    Có một tiếng gõ cửa.

    Tôi hừ mũi. "Cút đi, Katrina." "Em xin lỗi."

    Tôi nhìn chằm chằm ra ngoài cửa.

    Giọng nói của nó nghe nghèn nghẹt như thể môi nó đã gí vào lỗ chìa khóa. "Em mang theo rượu đây. Nghe này, cho em vào ngay lập tức nếu không mẹ sẽ nghe thấy em nói đấy. Em giấu theo hai cái cốc Bob Thợ xây trong áo chui đây. Chị biết là mẹ sẽ thế nào nếu biết chị em mình uống rượu trên gác rồi đấy."

    Tôi nhảy xuống giường ra mở cửa.

    Nó liếc nhìn lên gương mặt còn dấu nước mắt của tôi rồi nhanh chóng đóng cửa phòng lại. "Được rồi," nó nói, vặn mạnh nút chai rượu rồi rót cho tôi một cốc, "thật sự thì đã có chuyện gì vậy?"

    Tôi nhìn em gái tôi rất nghiêm túc. "Em phải không được nói với ai chuyện chị kể đâu nhé. Không nói với bố. Đặc biệt không nói với mẹ."

    Rồi tôi kể cho nó nghe.

    Tôi phải kể cho ai đó.

    Có rất nhiều điều khiến tôi không thích em gái tôi. Mấy năm trước tôi còn có thể đưa ra những bản danh sách lằng ngoằng toàn bộ các câu chuyện mà tôi đã viết ra về chính chủ đề này. Tôi ghét nó vì nó có mái tóc dài suôn thẳng trong khi tóc tôi chưa dài đến vai đã chẻ ngọn. Tôi ghét nó vì chẳng ai có thể kể cho nó nghe bất cứ chuyện gì mà nó chưa hề biết. Tôi ghét nó vì tất cả giáo viên hướng nghiệp ở trường tôi đều suốt ngày nói với tôi rằng nó vô cùng tài giỏi, cứ như thể chuyện nó tài giỏi không liên quan gì tới việc tôi phải sống trong cái bóng mãi mãi. Tôi ghét nó vì ở tuổi hai mươi sáu tôi sống trong một cái gác lửng trong ngôi nhà liên kế chỉ để nó được ở với đứa con trai vô thừa nhận của nó trong căn phòng ngủ rộng rãi hơn. Nhưng cũng có đôi khi tôi thật sự vui sướng vì nó là em gái của tôi.

    Bởi vì Katrina không kêu lên kinh hãi. Nó không tỏ ra sốc hoặc khăng khăng bắt tôi phải nói với bố mẹ. Nó không hề nói một câu nào rằng tôi đã làm sai khi bỏ đi.

    Nó uống một ngụm lớn. "Ôi chao." "Thế đấy."

    "Chuyện đó cũng là hợp pháp. Họ không thể ngăn cản anh ta được." "Chị biết."

    "Quái thật. Em thậm chí không thể tưởng tượng được ra chuyện như vậy."

    Chúng tôi đặt ly xuống khi kể chuyện đó và tôi có thể cảm thấy hai má mình nóng lên. "Chị ghét cái ý nghĩ mình đã bỏ rơi anh ta. Nhưng chị không thể tham dự vào đó được, Treen. Chị không thể."

    "Ừm." Nó đang suy nghĩ. Em gái tôi thật sự có một "gương mặt đang suy nghĩ". Gương mặt ấy khiến mọi người phải chờ đợi trước khi nói điều gì với nó. Bố tôi nói gương mặt tôi khi đang suy nghĩ trông giống như thể tôi muốn đi vệ sinh.

    "Chị không biết phải làm gì cả," tôi nói.

    Nó nhìn tôi, mặt đột nhiên sáng bừng lên. "Rất đơn giản." "Đơn giản."

    Nó rót thêm rượu vào cả hai ly. "Ồ. Chúng ta dường như vừa xong việc này rồi. Phải. Đơn giản. Họ có nhiều tiền, đúng không?"

    "Chị không muốn tiền của họ. Bà ấy đã đề nghị tăng lương. Nhưng đó không phải là vấn đề."

    "Yên nào. Không phải là cho chị, ngốc thế. Họ sẽ có tiền riêng của mình. Và anh ta có thể có cả đống tiền bảo hiểm từ vụ tai nạn. Phải, chị hãy nói với họ là chị cần một tài khoản và rồi chị sẽ sử dụng số tiền đó, chị sử dụng - làm gì nhỉ? - chị còn lại bốn tháng. Và chị sẽ thay đổi ý định của Will Traynor." "Cái gì cơ?"

    "Chị thay đổi ý định của anh ta. Chị nói anh ta hầu như khi nào cũng ở trong nhà phải không? Được rồi, hãy bắt đầu từ những việc thật nhỏ, sau đó một khi đã đưa được anh ta đi chơi, chị hãy nghĩ ra tất cả mọi thứ thật tuyệt diệu mà chị có thể làm cho anh ta, tất cả mọi thứ khiến anh ta muốn sống - phiêu lưu mạo hiểm, du lịch nước ngoài, bơi với cá heo, bất cứ cái gì - rồi chị thực hiện chúng. Em có thể giúp chị. Em sẽ lên thư viện tra cứu internet. Em cá chúng ta có thể tìm ra những thứ rất tuyệt vời mà anh ta có thể làm. Những thứ thật sự làm anh ta vui vẻ."

    Tôi nhìn nó chằm chằm. "Katrina..."

    "Em biết mà." Nó cười nhăn nhở khi tôi bắt đầu mỉm cười. "Em cực kỳ tài mà."
  2. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0

    Họ tỏ vẻ hơi ngạc nhiên. Thật ra đó là một câu nói giảm. Bà Traynor trông choáng váng, rồi hơi lúng túng, rồi cả gương mặt bà tối sầm lại. Cô con gái đang nằm co người trên sofa cạnh bà thì mặt mũi hằm hằm - mẹ thường cảnh cáo tôi là lúc nào cũng mang bộ mặt kiểu đó khi trời chuyển gió. Đó rõ ràng không phải là phản ứng đầy khích lệ mà tôi đã kỳ vọng.

    "Nhưng thật ra cô muốn làm gì?"

    "Tôi vẫn chưa biết. Em gái tôi rất giỏi tìm kiếm mọi thứ. Nó đang cố tìm ra những thứ khả dĩ cho người bị liệt tứ chi. Nhưng trước tiên tôi muốn biết liệu ông bà có sẵn sàng với kế hoạch đó không đã."

    Chúng tôi đang ngồi trong phòng khách nhà họ. Đây chính là căn phòng tôi từng tới phỏng vấn, chỉ khác là lần này bà Traynor và con gái đang ngồi trên sofa, chú chó già ngồi giữa họ. Ông Traynor đang đứng bên lò sưởi. Tôi mặc chiếc áo khoác vải bông màu chàm quê mùa kiểu Pháp và chiếc váy ngắn, đi đôi bốt kiểu nhà binh. Giờ tôi mới sực nhận ra đáng lẽ tôi nên mặc một bộ đồng phục trông chuyên nghiệp hơn để trình bày phác thảo kế hoạch của mình.

    "Để tôi nói rõ ra nhé," bà Traynor vươn người tới trước. Cô muốn đưa Will rời khỏi nhà.

    "Vâng."

    "Và đưa nó tham gia một loạt 'chuyến phiêu lưu'." Bà nói về điều đó cứ như thể tôi đang đề nghị được biểu diễn màn phẫu thuật nội soi nghiệp dư trên cơ thể anh vậy.

    "Đúng thế. Như tôi đã nói, tôi chưa biết có thể làm những gì. Nhưng kế hoạch này là nhằm đưa anh ấy đi ra ngoài đổi gió, mở rộng chân trời trước mắt anh ấy. Có thể trước tiên chúng tôi sẽ thực hiện vài chuyến phiêu lưu ở ngay trong vùng, sau đó hy vọng không bao lâu sẽ tới một nơi nào đó xa ra bên ngoài."

    "Ý cô là đi nước ngoài ấy hả?"

    "Nước ngoài...?" Tôi chớp mắt. "Tôi đang nghĩ có lẽ sẽ đưa anh ấy tới quán rượu thì đúng hơn. Hoặc đi xem ca nhạc, khởi đầu là thế."

    "Hai năm qua Will hầu như không đi đâu khỏi nhà, trừ những cuộc hẹn khám ở bệnh viện."

    "À, phải... Tôi đã nghĩ tôi sẽ cố thuyết phục anh ấy."

    "Và tất nhiên cô sẽ đi cùng anh ấy trong mọi chuyến phiêu lưu đó," Georgina Traynor nói.

    "Nghe này. Không có gì to tát đâu. Thật ra tôi chỉ nói tới chuyện đưa anh ấy ra khỏi nhà, ban đầu là thế. Một chuyến dạo bộ quanh lâu đài, hoặc vào chơi quán rượu một lát. Nếu cuối cùng chúng tôi đi chơi cùng cá heo ở Florida thì cũng hay lắm. Nhưng thực tình tôi chỉ muốn đưa anh ấy ra khỏi nhà để được nghĩ về những điều khác đi." Tôi không nói thêm rằng chỉ nghĩ tới chuyện một mình lái xe chở Will tới bệnh viện thôi vẫn đủ khiến tôi toát mồ hôi lạnh. Thì ý nghĩ đưa anh ra nước ngoài nghe thật chẳng khác gì chuyện tôi chạy marathon.

    "Tôi nghĩ đó là một ý rất hay," ông Traynor nói. "Tôi cho rằng đưa được Will đi đổi gió thì quá tuyệt vời. Rõ ràng là không hề tốt khi cứ để nó nhìn bốn bức tường ngày này qua ngày khác."

    "Bọn em đã cố gắng đưa con ra ngoài, Steven," bà Traynor nói. "Đâu có phải bọn em để mặc nó ở đó cho tới mục ruỗng. Em đã thử không biết bao nhiêu lần rồi."

    "Anh biết điều đó, em yêu, nhưng chúng ta có thành công gì đáng kể đâu, phải không? Nếu cô Louisa đây có thể nghĩ ra những thứ mà Will sẵn sàng thử thì tốt quá đi chứ còn gì nữa nhỉ?"

    "À, phải, 'sẵn sàng thử' quả là cụm từ thực tế."

    "Đó chỉ là một ý kiến thôi," tôi nói. Bỗng nhiên tôi thấy bực mình. Tôi hiểu những gì bà ta đang nghĩ. "Nếu bà không muốn tôi làm việc đó thì..."

    "... thì cô sẽ bỏ việc?" Bà nhìn thẳng vào mắt tôi.

    Tôi không quay đi. Bà ta không khiến tôi sợ được nữa. Vì giờ tôi biết bà ta không tử tế hơn tôi. Bà ta là kiểu đàn bà có thể ngồi khoanh tay nhìn con trai chết ngay trước mắt mình.

    "Phải, có lẽ là thế."

    "Thế ra đây là một vụ tống tiền." "Georgina!"

    "Ôi, cứ nói toạc móng heo ra thôi bố ơi."

    Tôi ngồi thẳng người lên một chút. "Không. Không phải là tống tiền đâu. Mà là một việc tôi đã sẵn sàng tham dự. Tôi không thể cứ ngồi yên, lặng lẽ chờ thời gian trôi qua cho tới khi... Will... ừm..." Giọng tôi nhỏ dần.

    Tất cả chúng tôi đều nhìn trân trân xuống tách trà.

    "Như tôi đã nói," ông Traynor quả quyết. "Tôi nghĩ đó là một ý kiến rất hay. Nếu có thể làm Will đồng tình với chuyện này thì tôi thấy chẳng có gì phương hại cả. Tôi rất thích ý tưởng đưa nó đi nghỉ. Chỉ cần... chỉ cần cho chúng tôi biết cô muốn chúng tôi làm gì."

    "Mẹ có một ý này." Bà Traynor đặt một tay lên vai cô con gái. "Có lẽ con nên đi nghỉ cùng họ, Georgina."

    "Với tôi thì tốt thôi," tôi nói. Đúng là thế thật. Vì cơ hội đưa Will đi nghỉ của tôi cũng sánh bằng khả năng chiến thắng trong trò Mastermind - thử thách trí thông minh.

    Georgina Traynor nhúc nhích ngại ngùng trên ghế. "Con không thể. Mẹ biết hai tuần nữa con bắt đầu công việc mới rồi mà. Một khi đã nhận việc thì trong một thời gian con sẽ không thể về lại Anh được."

    "Con sắp trở lại Úc à?"

    "Đừng tỏ ra ngạc nhiên thế. Con đã nói với mẹ con chỉ về thăm nhà thôi rồi còn gì."

    "Mẹ chỉ nghĩ rằng... vì... vì những chuyện gần đây, có khi con muốn ở nhà lâu hơn." Camilla Traynor nhìn chằm chằm cô con gái với ánh mắt bà chưa bao giờ chiếu vào Will, dù anh có thô lỗ với bà tới đâu.

    "Việc đó tốt lắm mẹ ạ. Con đã phấn đấu vì công việc ấy suốt hai năm nay." Cô ta liếc nhìn sang ông bố. "Con không thể ngưng trệ cả cuộc đời mình chỉ vì tình trạng tâm thần của Will."

    Một khoảng im lặng kéo thật dài.

    "Như thế thật bất công. Nếu con ngồi xe lăn, mẹ có yêu cầu Will gác mọi kế hoạch của anh ấy qua một bên không?"

    Bà Traynor không nhìn con gái nữa. Tôi liếc xuống bản danh sách, đọc đi đọc lại khổ đầu tiên.

    "Con còn có cuộc đời, bố mẹ biết mà." Câu nói đó thốt ra như một lời biện hộ.

    "Chúng ta sẽ thảo luận chuyện này vào lúc khác." Ông Traynor đặt tay lên vai con gái rồi bóp nhẹ.

    "Vâng, cứ thế đi." Bà Traynor bắt đầu lật giở những trang giấy trước mặt mình. "Thế thôi, được rồi. Tôi nghĩ chúng ta sẽ làm thế này. Tôi muốn biết mọi điều cô đang ấp ủ," bà nói, ngước nhìn tôi. "Tôi muốn lên dự toán chi phí, và nếu có thể, tôi muốn một lịch trình để tôi có thể sắp xếp nghỉ một số buổi để đi cùng hai người. Tôi còn mấy ngày phép chưa dùng nên tôi có thể..."

    "Không."

    Tất cả chúng tôi quay sang nhìn ông Traynor. Ông đang xoa đầu chú chó, vẻ mặt ông rất dịu dàng nhưng giọng thì cương quyết. "Không đâu. Anh nghĩ em không nên đi, Camilla. Will được phép tự mình làm việc này."

    "Will không thể tự mình làm nó, Steven. Có cực kỳ nhiều thứ cần được tính toán khi Will đi đâu. Phức tạp lắm. Em không nghĩ chúng ta cứ thế để nó cho..."

    "Không, em yêu," ông nhắc lại. "Nathan có thể giúp, và Louisa sẽ sắp xếp ổn cả thôi." "Nhưng..."

    "Will cần được phép cảm thấy như một người đàn ông. Chuyện đó sẽ là không thể nếu mẹ nó - hay em gái nó cũng thế - lúc nào cũng khư khư bên cạnh."

    Lúc đó tôi thoáng thấy thương cho bà Traynor. Bà vẫn giữ vẻ mặt kiêu hãnh như thường lệ, nhưng tôi có thể thấy dưới vẻ mặt ấy, bà dường như hơi lạc lối, như thể bà không hiểu nổi chồng bà đang làm gì. Tay bà lướt lên cổ.

    "Tôi sẽ đảm bảo an toàn cho anh ấy," tôi nói. "Và tôi sẽ cho bà biết mọi chuyện chúng tôi định làm sớm nhất có thể."

    Quai hàm bà siết chặt tới nỗi một đường cơ nhỏ hằn lên ngay dưới gò má.

    Tôi tự hỏi có phải lúc này bà thực sự căm ghét tôi. "Tôi cũng muốn Will thấy muốn sống," tôi chốt lại.

    "Chúng tôi rất hiểu điều đó," ông Traynor nói. "Và chúng tôi đánh giá rất cao quyết tâm của cô. Và cả óc suy xét." Tôi tự hỏi phải chăng từ cuối cùng đó là ám chỉ Will, hoặc một điều gì hoàn toàn khác, thế rồi ông đứng dậy và tôi nhận ra đó là dấu hiệu tiễn tôi. Georgina và bà mẹ vẫn ngồi trên sofa, chẳng nói chẳng rằng. Tôi có cảm giác khi tôi rời khỏi phòng sẽ có một cuộc trao đổi toàn diện hơn ở đây.

    "Vâng, được rồi," tôi nói. "Tôi sẽ trình giấy tờ cụ thể ngay khi tôi lên kế hoạch xong xuôi trong đầu. Sẽ sớm thôi ạ. Chúng ta không có nhiều..."

    Ông Traynor vỗ vai tôi.

    "Tôi hiểu. Chỉ cần cho chúng tôi biết cô định làm gì là được," ông nói.

    Treena đang thổi phù phù hai bàn tay, đôi chân thì di chuyển lên xuống một cách vô thức như đang chạy nâng cao gối. Nó đội chiếc mũ bê-rê màu xanh sẫm của tôi, thật bực mình là cái mũ đó ở trên đầu nó trông đẹp hơn rất nhiều so với khi ở trên đầu tôi. Nó vươn người đưa bản danh sách vừa rút từ trong túi áo ra đưa cho tôi.

    "Có lẽ chị sẽ phải gạch mục số ba đi, không thì ít nhất cũng phải đợi khi trời ấm hơn mới thực hiện nó được."

    Tôi kiểm tra bản danh sách. "Bóng rổ cho người liệt tứ chi? Chị còn không dám chắc anh ta có thích bóng rổ không."

    "Chuyện đó đâu có quan trọng. Ôi trời ơi, ở trên này sao mà lạnh thế." Nó kéo mũ bê-rê xuống chụp lấy hai tai. "Vấn đề là nó sẽ cho anh ấy một cơ hội xem coi mình làm được gì. Anh ấy có thể thấy rằng có những người ở trong tình trạng tệ không kém gì anh ấy vẫn chơi được thể thao và làm nhiều thứ khác."

    "Chị không chắc nữa. Anh ta thậm chí không nâng nổi cái ly. Chị nghĩ chắc những người đó chỉ bị liệt hai chân thôi. Chị chẳng hiểu nổi làm sao không dùng tay mà người ta ném bóng được."

    "Chị không hiểu vấn đề rồi. Anh ấy không buộc phải làm thật cái gì cả, mà đây là để mở rộng tầm nhìn của anh ấy thôi, phải không? Chúng ta đang cho anh ấy thấy người tàn tật làm được gì."

    "Cứ cho là vậy đi."

    Đám đông bỗng rì rầm xôn xao. Những tay chạy đua xuất hiện trong tầm mắt, phía xa xa. Nếu bật lên đứng nhón chân, tôi có thể chỉ rõ chỗ bọn họ lúc này, có lẽ cách chừng ba cây số về dưới thung lũng, một cụm nhỏ những đốm trắng lắc lư kéo mình đi trong giá lạnh dọc con đường ướt át xám xịt. Tôi liếc đồng hồ. Tôi đã đứng trên đỉnh ngọn đồi tên là Đồi Gió Lộng này gần bốn mươi phút rồi, hai chân tê cóng không còn cảm giác gì nữa.

    "Em đã tìm kiếm những hoạt động trong vùng, nếu chị không muốn lái xe quá xa thì vài tuần nữa có một trận đấu ở trung tâm thể thao đấy. Anh ta còn có thể cá cược kết quả nữa cơ."

    "Cá cược hả?"

    "Như thế anh ta có thể tham gia trận đấu một chút mà không hề phải chơi. Ô nhìn xem, bọn họ kìa. Chị nghĩ mất bao lâu thì họ tới chỗ bọn mình?"

    Chúng tôi đứng bên vạch đích. Trên đầu chúng tôi là tấm banner bằng vải bạt đề "Vạch Đích Kỳ Thi Ba Môn Phối Hợp Mùa Xuân" bay phần phật trong gió lộng.

    "Ai mà biết. Hai mươi phút à? Hay lâu hơn? Chị có một thanh kẹo Mars cứu đói nếu em muốn chia sẻ."

    Tôi thò tay vào túi. Chỉ giữ bản danh sách bằng một tay nên tôi không thể ngăn nó bay phần phật. "Thế em còn nghĩ ra cái gì nữa?"

    "Chị bảo chị muốn đi xa ra bên ngoài phải không?" Nó chỉ vào tay tôi. "Chị lấy phần to hơn kìa."

    "Thì ăn phần này đi. Chị nghĩ nhà đó cho là chị đang hôi của."

    "Cái gì, chỉ vì chị muốn đưa anh ấy đi chơi lăng quăng vài ngày thôi hả? Chúa ơi. Lẽ ra họ phải thấy biết ơn vì có người nỗ lực làm điều đó chứ. Khác hẳn bọn họ."

    Treena lấy nửa kia thanh Mars. "Thôi kệ họ đi. Số năm, em nghĩ nó được đấy. Có một khóa học vi tính anh ấy có thể tham dự. Người ta đặt một thứ có gắn một cái que lên đầu người bị liệt để họ gật đầu là chạm được vào bàn phím. Có rất nhiều nhóm người liệt tứ chi trên mạng. Anh ấy có thể kết vô khối bạn mới bằng cách đó. Điều đó có nghĩa anh ta không phải thường xuyên ra khỏi nhà. Em thậm chí còn nói chuyện với vài người trong chat-room. Họ có vẻ dễ chịu. Khá..." nó nhún vai "... bình thường."

    Chúng tôi im lặng ăn thanh Mars, quan sát nhóm người chạy đua bơ phờ tiến lại mỗi lúc một gần. Tôi chẳng phát hiện ra Patrick. Tôi chưa bao giờ làm được thế. Anh có kiểu mặt rất dễ lẫn trong đám đông.

    Treena chỉ vào mẩu giấy.

    "Thôi nào, tới phần văn hóa đi. Có một buổi hòa nhạc đặc biệt dành cho những người tàn tật đây này. Chị bảo anh ta đam mê văn hóa phải không? À, anh ta chỉ cần ngồi đó thăng hoa cùng âm nhạc. Thế gọi là đưa tâm hồn thoát khỏi thể xác phải không nhỉ? Ông Derek có bộ ria mép ở chỗ làm bảo với em thế đấy. Ông ta nói buổi hòa nhạc có thể hơi ồn ào vì những người tàn phế hay rên i ỉ, nhưng em chắc anh ấy vẫn sẽ thích nó."

    Tôi nhăn mũi. "Chị không biết nữa, Treen..."

    "Chị lo sợ vì em nói tới từ 'văn hóa' chứ gì. Chị chỉ phải ngồi đó với anh ấy thôi. Và đừng có ăn bim bim xào xạo. Mà nếu chị thích thứ gì đó vui nhộn hơn một chút thì..." Nó cười nhăn nhở với tôi. "Có một câu lạc bộ múa cột. Chị có thể đưa anh ấy tới London xem trò đó."

    "Đưa ông chủ của chị đi xem múa cột ấy hả?"

    "Ồ, chị nói chị làm mọi thứ khác cho anh ta - nào là lau dọn, cho ăn, đủ thứ. Thế thì sao chị không thể ngồi bên cạnh trong khi anh ta cương cứng chứ nhỉ." "Treena!"

    "Ôi, chắc anh ấy nhớ chuyện đó lắm. Thậm chí chị còn có thể mua cho anh ấy một màn múa khiêu dâm."

    Vài người trong đám đông quanh chúng tôi quay đầu lại. Em gái tôi đang cười to. Nó có thể nói về ******** như thế đấy. Như thể đó là một kiểu giải trí. Như thể ******** là chuyện nhỏ.

    "Rồi mặt khác còn có những chuyến đi hoành tráng hơn. Chẳng biết bọn chị thích gì, nhưng bọn chị có thể đi nếm rượu ở Loire... khởi đầu như thế cũng không quá đáng lắm đâu."

    "Người bị liệt tứ chi có được say không?" "Em đâu biết. Hỏi anh ấy xem."

    Tôi cau mày khi xem bản danh sách. "Thế... chị sẽ trở lại nói với nhà Traynor rằng chị định chuốc say cậu con trai bị liệt tứ chi mang ý đồ tự vẫn của họ, dùng tiền nhà họ vào trò múa cột và múa khiêu dâm, sau đó đẩy anh ta tới Paralympics..."

    Treena giật bản danh sách khỏi tay tôi. "Ôi, em nghĩ chị chẳng thể nghĩ ra trò gì gợi cảm hứng hơn được đâu."

    "Chị chỉ nghĩ... chị không biết nữa." Tôi xoa mũi. "Chị chỉ cảm thấy hơi nản, thật đấy. Thuyết phục được anh ấy ra vườn thôi cũng khó lắm rồi."

    "Đó đâu phải chuyện thái độ, đúng không? Ồ, nhìn kìa. Họ tới rồi. Chúng ta nên mỉm cười."

    Chúng tôi chen lên phía trước đám đông và bắt đầu cổ vũ. Chẳng dễ gì hò reo giòn giã được khi mà đôi môi đã cứng đờ vì lạnh.

    Rồi tôi thấy Patrick, đầu anh nhấp nhô giữa biển những tấm thân đang căng ra, gương mặt anh bóng nhẫy mồ hôi, từng thớ gân cổ căng lên và gương mặt khắc khổ như thể anh đang phải chịu đựng một kiểu tra tấn nào đó. Cũng gương mặt đó sẽ bừng sáng ngay khi anh băng qua vạch đích, như thể chỉ khi đo lường được tâm tư cá nhân sâu xa nào đó, anh mới đạt được kết quả cao. Anh không nhìn thấy tôi.

    "Tiến lên, Patrick!" tôi kêu lên, yếu ớt.

    Rồi anh lướt qua, băng về vạch đích.

    Hai ngày sau hôm tôi không thể hiện được mức nhiệt tình cần thiết với bản danh sách "Phải Làm" của Treena, nó không thèm nói chuyện với tôi. Bố mẹ tôi không để ý thấy chuyện đó; họ còn mải vui sướng như điên khi nghe nói tôi quyết định không bỏ việc. Ban quản lý xưởng đồ gỗ gia dụng đã triệu tập một loạt cuộc gặp vào cuối tuần đó, và bố tôi tin rằng ông sẽ nằm trong số bị buộc phải thôi việc. Chưa một ai quá tuổi bốn mươi mà trụ lại được sau cuộc sát hạch.

    "Bố mẹ rất biết ơn về công việc giúp việc của con, con yêu," mẹ tôi nói, thường xuyên tới mức khiến tôi cảm thấy hơi mất thoải mái.

    Đó là một tuần kỳ khôi. Treena bắt đầu đống đồ đi học, thế nên ngày nào tôi cũng phải lẻn lên tầng xem hết lượt những túi đồ nó đóng sẵn để xem thứ đồ dùng nào của tôi mà nó dự định mang đi. Đa số quần áo của tôi được an toàn, nhưng theo những gì mới phát hiện ra thì tôi sắp mất một chiếc máy sấy, cặp kính Prada dởm, và cái túi đựng đồ trang điểm có in hình trái chanh ưa thích. Nếu tôi có hạch sách nó về món nào trong số đó, nó sẽ nhún vai rồi nói, "Ôi, chị có khi nào dùng nó đâu," như thể toàn bộ vấn đề chỉ có vậy.

    Đó quả tình là con người củaTreena. Nó luôn coi bản thân là số một. Dù đã có Thomas, nó chưa bao giờ mất hẳn cảm giác mình là bé cưng trong nhà - cái cảm giác ăn sâu bám rễ rằng cả thế giới thực sự vận hành quanh nó. Khi chúng tôi còn nhỏ, mỗi lần nó nổi cơn điên vì thích một thứ đồ của tôi, mẹ lại ra năn nỉ tôi "thôi cho em thứ đó đi", ít nhất cũng để nhà cửa yên bình một chút. Gần hai mươi năm sau, chẳng có gì thật sự thay đổi. Chúng tôi phải trông Thomas để Treena vẫn được đi chơi, cho thằng bé ăn để nó không phải lo lắng, mua cho nó những món quà Giáng sinh và sinh nhật thật giá trị "vì có Thomas rồi con bé thường không có những món đồ đó khi đi ra dường". Ồ, nó có thể đi mà không có cái túi đựng đồ trang điểm in hình trái chanh của tôi quá đi chứ. Tôi dán một mẩu giấy trên cửa đề: "Đồ của chị là ĐỒ CỦA CHỊ. BIẾN ĐI." Treena giật phăng nó đi rồi bảo với mẹ tôi là đứa trẻ to đầu nhất nó từng thấy, Thomas bé xíu là vậy mà còn người lớn hơn tôi.

    Nhưng tôi vẫn phải nghĩ ngợi. Một tối, khi Treena đã tới lớp học ban đêm, tôi ngồi trong bếp trong khi mẹ sắp xếp những chiếc áo sơ-mi cần là của bố.

    "Mẹ này..." "Sao con."

    "Mẹ nghĩ xem khi nào Treena đi rồi con chuyển vào phòng nó được không?"

    Mẹ ngừng tay, chiếc áo xếp dở ấn trên ngực mẹ. "Mẹ không biết nữa. Mẹ chưa nghĩ tới chuyện đó."

    "Ý con là, nếu nó và Thomas không còn ở đây, thì con phải được phép ở trong phòng ngủ có diện tích hợp lý mới công bằng. Thật vô lý khi để căn phòng trống không khi hai mẹ con nó đi học."

    Mẹ gật đầu, rồi cẩn thận đặt chiếc áo vào giỏ đồ là ủi. "Mẹ nghĩ con nói đúng."

    "Và nói cho đúng, cái phòng đó phải là của con, vì con là chị. Chỉ vì nó có Thomas nên nó mới được cái phòng đó."

    Mẹ thấy tôi nói có lý. "Đúng thế. Mẹ sẽ nói với Treena về chuyện này," bà nói.

    Mãi sau tôi mới hiểu câu đó có nghĩa tốt nhất mẹ nên đề cập chuyện này với em gái tôi trước.

    Ba tiếng sau, nó lao vào phòng khách với vẻ mặt hầm hầm. "Sao chị nhảy vào mồ em nhanh thế?"

    Ông ngoại giật bắn mình trên ghế, tay ông ôm chặt lấy ngực theo phản xạ.

    Tôi ngước mắt lên khỏi ti-vi. "Em đang nói gì thế?"

    "Em và Thomas phải đi đâu vào dịp cuối tuần? Bọn em không thể chui cả hai vào cái phòng gác lửng ấy. Trong đó còn không đủ chỗ cho hai cái giường."

    "Rõ là thế. Vậy mà chị đã phải gắn với nó năm năm trời đấy." Biết mình hầu như chẳng sai chút nào nên giọng tôi nghe cáu bẳn hơn dự định.

    "Chị không thể lấy phòng em được. Như thế thật bất công." "Sắp tới em thậm chí còn không ở đó!"

    "Nhưng em cần nó! Em và Thomas chẳng thể nào ngủ vừa trong phòng gác lửng được. Bố, nói với chị ấy đi!"

    Cằm bố tôi thụt sâu vào đâu đó trong cổ áo, hai tay khoanh lại trước ngực. Ông ghét thấy những lúc chúng tôi cãi nhau và thường để mặc cho mẹ tôi giải quyết. "Bình tĩnh chút đi, hai đứa," ông nói.

    Ông ngoại lắc đầu, như thể chúng tôi hoàn toàn khó hiểu đối với ông. Dạo này ông tôi hay lắc đầu tới kỳ cục.

    "Thật không tin nổi chị. Chẳng trách gì chị hào hứng giúp em đi học thế." "Cái gì? Thế ra chuyện em xin xỏ chị giữ việc để có thể hỗ trợ tiền bạc cho em giờ đây lại thành một phần kế hoạch nham hiểm của chị đấy hả?"

    "Chị quá tráo trở."

    "Katrina, bình tĩnh." Mẹ xuất hiện ở ngưỡng cửa, đôi găng tay cao su nhỏ nước xà phòng xuống thảm phòng khách. "Chúng ta có thể bình tĩnh nói về chuyện này. Mẹ không muốn các con làm ông ngoại quá căng thẳng."

    Mặt Katrina đỏ rần lên, hồi nhỏ mặt nó thường bị thế mỗi khi nó không có được thứ nó muốn. "Thật ra chị ấy muốn con đi. Chuyện rõ rành rành là thế. Chị ấy nóng lòng muốn con đi, vì chị ấy ghen tị khi thấy con đang làm một việc có ý nghĩa với đời mình. Chị ấy chỉ muốn cản trở con quay về nhà."

    "Chẳng có gì đảm bảo em sẽ về nhà vào cuối tuần cả," tôi hét lên tức tối. "Chị cần phòng ngủ, không phải một cái tủ ly, mà bấy nay em luôn có phòng ngủ tốt nhất rồi, chỉ vì em quá ngu ngốc đến nỗi phải dính bầu."

    "Louisa!" mẹ ré lên.

    "Ôi, phải rồi, nếu chị không trì độn tới vậy thì sao chị không thể kiếm nổi một việc tử tế, chừng đó chị có thể có một chỗ chết giẫm cho riêng mình. Chị đủ già rồi đấy. Hay có vấn đề gì à? Cuối cùng chị cũng hiểu ra Patrick sẽ chẳng bao giờ hỏi cưới chị?"

    "Thôi đi!" Tiếng hét của bố khiến mọi người im bặt. "Bố nghe đủ rồi! Treena, đi vào bếp. Lou, ngồi xuống và im miệng lại. Không nghe hai đứa xỉ vả lẫn nhau thì bố cũng có đủ chuyện căng thẳng trong đời rồi."

    "Nếu chị nghĩ giờ đây em đang giúp chị với bản danh sách ngu xuẩn đó thì chị phải nghĩ khác đi rồi," Treena rít lên với tôi khi mẹ lôi mạnh nó ra khỏi cửa.

    "Tốt thôi. Dù sao chị cũng chẳng cần em giúp, đồ ăn bám," tôi nói, rồi cúi đầu xuống né khi bố ném tờ Radio Times vào đầu tôi.

    Sáng thứ Bảy, tôi đi tới thư viện. Có lẽ từ thời đi học tới giờ tôi chưa từng trở lại đó - chắc vì quá sợ họ sẽ nhớ ra cuốn sách của Judy Blume tôi đã đánh mất năm lớp Bảy, sợ rằng khi tôi đi qua cánh cửa giữa những hàng cột kiểu Victoria thì một bàn tay công chức lạnh ẩm sẽ tóm lấy để đòi 3.853 bảng tiền phạt.

    Thư viện không giống như trong trí nhớ của tôi. Nửa số sách dường như đã được thế chỗ bởi CD và DVD, những giá sách khổng lồ đầy nhóc audiobook, rồi còn có cả những kệ để thiệp. Thư viện không yên tĩnh. Tiếng hát và tiếng vỗ tay lan ra từ góc đọc sách của trẻ em, nơi một nhóm mẹ và bé đang đùa vui hết cỡ. Mọi người đọc báo và chuyện trò khe khẽ. Góc phòng nơi các cụ ông thường ngủ vùi trên đống báo miễn phí đã biến mất, thay vào đó là cái bàn ovan lớn với hàng loạt máy tính đặt vòng quanh. Tôi rón rén ngồi xuống bên một chiếc máy tính, hy vọng không ai để ý tới mình. Máy tính, cũng giống sách, là sở trường của em gái tôi. May là có vẻ như người ta đã lường trước được nỗi lo sợ của những kẻ như tôi. Một cô thủ thư dừng lại bên bàn, đưa cho tôi một tấm thẻ và một tờ bìa cứng có in các chỉ dẫn. Cô không đứng sau lưng quan sát tôi, chỉ nói khẽ rằng cô luôn ở bên bàn thủ thư nếu tôi cần giúp đỡ gì thêm, thế rồi chỉ còn lại tôi với chiếc ghế với cái màn hình trống trơn.

    Chiếc máy tính duy nhất tôi từng dùng chút đỉnh trong suốt những năm qua là máy tính của Patrick. Anh chỉ dùng nó để download các kế hoạch tập thể hình, hoặc để đặt mua sách hướng dẫn kỹ thuật các môn thể thao trên Amazon. Nếu anh có làm trò gì khác trên đó thì tôi cũng chẳng muốn biết. Nhưng tôi làm theo hướng dẫn của cô thủ thư, kiểm tra kỹ từng chặng để hoàn thành. Và thật ngạc nhiên, máy tính hoạt động. Không chỉ hoạt động, mà còn thao tác rất dễ.

    Bốn tiếng sau, tôi đã có những dòng đầu bản danh sách.

    Chẳng ai đề cập tới cuốn sách của Judy Blume cả. Nghe này, có lẽ đó là vì tôi đã dùng thẻ thư viện của cô em gái.

    Trên đường về nhà, tôi chui vào tiệm văn phòng phẩm và mua một tờ lịch. Nó không phải kiểu lịch mỗi tháng một trang, kiểu lịch mà cứ giở lên lại lộ ra một tấm ảnh mới của Justin Timberlake hoặc đàn ngựa núi. Nó là lịch tường - kiểu lịch hay thấy trong công sở, trên đó ngày nghỉ phép của nhân viên được đánh dấu bằng bút bi. Tôi mua nó với năng suất mau chóng của một người chẳng thích gì hơn là đẩy bản thân vào những nhiệm vụ hành chính.

    Trong căn phòng riêng nhỏ xíu ở nhà, tôi bóc tấm lịch ra, cẩn thận treo nó lên phía sau cửa ra vào rồi đánh dấu ngày tôi bắt đầu làm việc ở nhà Traynor, trở lại đầu tháng Hai. Sau đó tôi đếm tiến, đánh dấu ngày đó - ngày 12 tháng Tám - giờ chỉ còn chưa đầy bốn tháng trước mắt. Tôi lùi lại một bước, nhìn tấm lịch hồi lâu, cố bắt cái vòng tròn đen bé nhỏ ấy chịu đựng một phần sức nặng của những gì nó báo hiệu trước. Khi nhìn chằm chằm như thế, tôi bắt đầu ngộ ra trọng trách mình đang đảm nhận.

    Tôi sẽ phải lấp đầy những ô chữ nhật màu trắng nhỏ bé đó bằng đủ thứ hoạt động có thể mang lại hạnh phúc, niềm vui, mãn nguyện hoặc sự hài lòng. Tôi sẽ phải lấp đầy chúng bằng mọi trải nghiệm đẹp đẽ mà tôi có thể gợi ra cho một người đàn ông tay chân vô dụng, tức là anh ta không thể tự mình làm nên những trải nghiệm đó nữa. Tôi chỉ có chưa đầy bốn tháng của những ô chữ nhật in trên tấm lịch đó để làm nên những ngày dạo mát ngoài trời, những chuyến đi chơi xa, những buổi tiếp đón khách khứa, hẹn hò ăn trưa và đi nghe nhạc. Tôi phải nghĩ ra mọi phương thức thực tế để khiến chúng diễn ra, phải nghiên cứu kỹ lưỡng để đảm bảo chúng không thất bại.

    Sau đó tôi phải thuyết phục Will thực hiện chúng.

    Tôi nhìn chăm chú tấm lịch, cây bút vẫn ở trên tay. Tấm bìa cứng nhỏ bé này bỗng nặng nề biết bao nhiêu nhiệm vụ.

    Tôi có một trăm mười bảy ngày để thuyết phục Will Traynor rằng anh có một lý do để sống.

  3. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 11

    Có những nơi chuyển mùa đánh dấu bởi những đàn chim di trú, hoặc sự lên xuống của thủy triều. Ở đây, trong thị trấn nhỏ của chúng tôi, dấu ấn ấy là sự trở lại của du khách. Đầu tiên, một lượng nhỏ ngập ngừng ướm thử, bước xuống tàu hoặc xe trong những chiếc áo mưa sắc màu tươi sáng, nắm chặt trên tay sách hướng dẫn và thẻ thành viên Hội Bảo tồn quốc gia; rồi khi thời tiết ấm lên, mùa trườn sang, người ta ùn ùn đổ ra từ những chiếc xe buýt, tụ tập đông nghẹt trên xa lộ, người Mỹ, người Nhật, từng đoàn học sinh nước ngoài đứng rải rác xung quanh bốn phía lâu đài.

    Trong những tháng mùa đông ít cửa hàng mở cửa. Những chủ tiệm giàu có nhân những tháng ảm đạm dài dằng dặc ấy liền biến về nhà ở nước ngoài để nghỉ ngơi, trong khi đó những người kiên trì hơn ở lại làm chủ các sự kiện mùa Giáng sinh, tích lũy tiền bạc từ những buổi hòa nhạc chào đón Giáng sinh thỉnh thoảng được tổ chức trên bãi đất dưới chân tòa lâu đài, hoặc những hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ. Nhưng rồi khi nhiệt độ nhích lên cao hơn, bãi đỗ xe của lâu đài sẽ chật cứng đủ loại phương tiện cơ giới, các quán rượu trong vùng ghi nhận lượng tăng đột biến yêu cầu bữa ăn nhẹ, và trong dăm ngày Chủ nhật rực nắng, chúng tôi lại chuyển từ một phố chợ ngủ im thành một điểm đến du lịch truyền thống của nước Anh.

    Tôi thả bộ lên đồi, tránh né dăm ba du khách vãng lai tới sớm của mùa này, họ nắm chặt túi đeo trước bụng và tờ hướng dẫn du lịch hoen sờn, máy ảnh đã giơ lên sẵn sàng chộp lấy những hình ảnh lưu niệm của tòa lâu đài độ xuân sang. Tôi mỉm cười với mấy người, dừng lại chụp hình cho những ai đưa máy ảnh ra nhờ. Một số người trong vùng cứ phàn nàn về mùa du lịch - kẹt xe, toilet công cộng quá tải, yêu cầu những món ăn lạ ở quán cà phê Bánh Bơ ("Ở đây không có sushi à? Cả temaki cũng không hả?") Nhưng tôi chẳng thấy phiền. Tôi thích bầu không khí mang hơi thở của người nước ngoài, thích được thoáng nhìn cận cảnh những cuộc đời vốn sống rất xa thị trấn quê tôi. Tôi thích nghe những giọng nói lạ rồi đoán coi chủ nhân của chúng đến từ đâu, thích nghiên cứu quần áo của những người chưa từng xem catalogue Next, cũng chưa bao giờ mua một gói năm chiếc quần lót ở hiệu Marks Spencer.

    "Trông cô vui gớm," Will nói, khi tôi thả túi xuống hành lang. Anh nói như thể đó là trò trêu ngươi vậy.

    "Đó là vì hôm nay là hôm nay." "Thì sao?"

    "Ngày chúng ta đi chơi. Chúng ta sẽ cùng Nathan đi xem đua ngựa."

    Will và Nathan đưa mắt nhìn nhau. Tôi suýt phì cười. Tôi đã nhẹ cả người khi thấy trời đẹp; ngay khi nhìn thấy vầng dương ló ra, tôi biết mọi thứ sẽ đâu vào đó.

    "Đua ngựa?"

    "Đúng vậy. Đua ngựa ở..." Tôi lôi cuốn sổ nhỏ từ túi áo ra. "... Longfield. Nếu đi bây giờ chúng ta sẽ tới kịp đợt đua thứ ba. Tôi có năm bảng để đặt cược hai bên cho Man Oh Man đây, thế nên tốt nhất chúng ta khởi hành thôi."

    "Đua ngựa."

    "Đúng thế. Nathan chưa bao giờ được xem đua ngựa cả."

    Vì dịp trọng đại này, tôi mặc chiếc váy mini vải bông xanh, cổ quàng chặt chiếc khăn có tua rua là hình hàm thiếc ngựa, chân đi đôi bốt cưỡi ngựa bằng da. Will quan sát tôi thật kỹ, rồi quay xe chênh chếch để nhìn Nathan rõ hơn. "Đây là mong ước bấy nay của ông, phải không Nathan?"

    Tôi liếc nhìn cảnh cáo Nathan.

    "Phải," ông nói, nặn ra một nụ cười. "Phải, đúng thế. Đi xem lũ ngựa thôi nào."

    Tôi đã phím trước, tất nhiên rồi. Tôi đã gọi cho ông hôm thứ Sáu để hỏi xem tôi có thể mượn ông đi cùng hôm nào. Nhà Traynor đã đồng ý trả tiền làm thêm cho ông (em gái Will đã về lại Úc, và tôi nghĩ nhà họ muốn có người "hiểu biết" đi cùng tôi) nhưng phải đến Chủ nhật tôi mới xác định chắc chắn chúng tôi sẽ làm gì. Đây xem chừng là một khởi đầu lý tưởng - một ngày đẹp trời đi chơi, lái xe chưa tới nửa giờ đồng hồ.

    "Thế nếu tôi nói tôi không muốn đi thì sao?" "Thì anh nợ tôi bốn mươi bảng," tôi nói. "Bốn mươi bảng? Sao cô tính ra số đó?"

    "Tiền thắng cược của tôi. Năm bảng cược hai bên với tỉ lệ một ăn tám." Tôi nhún vai. "Man Oh Man thắng chắc đấy."

    Có vẻ tôi đã làm anh ta nao núng.

    Nathan vỗ tay lên đầu gối. "Nghe hay đấy. Hôm nay lại đẹp trời nữa," ông nói. "Cô muốn tôi mang chút gì ăn trưa không?"

    "Thôi khỏi," tôi nói. "Ở đó có quán ăn đẹp lắm. Khi ngựa của tôi về đích, tôi sẽ được mời ăn trưa."

    "Cô đi đua thường xuyên lắm hả?" Will hỏi.

    Và trước khi anh ta kịp nói thêm điều gì, chúng tôi đã phủ áo khoác lên người anh ta, rồi tôi chạy ra ngoài để quay xe.

    Tôi đã lên kế hoạch đâu ra đấy cả rồi, bạn biết đó. Chúng tôi sẽ tới cuộc đua ấy vào một ngày nắng đẹp. Ở đó sẽ có những chú ngựa thuần chủng chân thon lông bóng, kỵ sĩ trên lưng chúng mặc áo lụa phồng sáng màu, chúi người phi nước đại. Có thể có một hai ban kèn đồng. Khán đài sẽ đầy nhóc người cổ vũ, và chúng tôi sẽ tìm được một khoảng trống để đứng ở đó vẫy vẫy những tờ giấy cược thắng cuộc. Tính ganh đua trong Will sẽ trỗi dậy, anh sẽ không ngừng tính toán điểm đua để đảm bảo mình thắng cược cao hơn cả Nathan lẫn tôi. Tôi đã lên kế hoạch cả rồi. Sau đó, khi đã chán nhìn lũ ngựa, chúng tôi sẽ đi tới nhà hàng nhìn thẳng xuống trường đua để thưởng thức bữa ăn thượng hạng.

    Lẽ ra tôi phải nghe lời bố. "Muốn biết định nghĩa chính xác của câu còn da lông mọc còn chồi xanh cây không?" ông thường nói. "Lên kế hoạch cả nhà đi chơi một ngày thật vui."

    Ngày thật vui ấy bắt đầu từ bãi đỗ xe. Chúng tôi lái tới đó mà không gặp khó khăn gì, giờ tôi đã tự tin hơn một chút rằng tôi sẽ không hất nhào Will nếu chạy xe nhanh hơn mười lăm dặm một giờ. Tôi đã xem trước hướng dẫn chỉ đường ở thư viện, hầu như suốt đường đi tôi không ngừng nói đùa vui vẻ, bình luận về bầu trời xanh tươi đẹp, về khung cảnh miền quê, giao thông thưa thớt. Không có màn xếp hàng vào xem cuộc đua, phải thừa nhận là hơi ít người hơn tôi mong đợi, và bãi đỗ xe lác đa lác đác.

    Không ai cảnh báo tôi rằng mặt bằng bãi đỗ xe đầy cỏ, cỏ mọc rất dày qua cả mùa đông ẩm ướt. Chúng tôi tìm một chỗ trống (không khó, bãi đỗ chỉ kín phân nửa), và ngay khi đường trượt hạ xuống, Nathan lộ vẻ lo lắng.

    "Mềm quá," ông nói. "Cậu ấy bị lún mất."

    Tôi liếc nhìn lên khán đài. "Chắc rồi, nếu chúng ta đưa được anh ấy lên đường mòn kia thì mọi việc sẽ ổn phải không?"

    "Cái xe này nặng cả tấn đấy," ông nói. "Mà từ đây tới đó phải mười mấy mét."

    "Ôi, thôi nào. Người ta làm những cái xe thế này phải trụ được trên đất mềm một chút chứ."

    Tôi thận trọng đẩy xe của Will xuống rồi quan sát khi bánh xe lún xuống bùn dăm phân.

    Will chẳng nói gì. Trông anh không thoải mái, anh hầu như im lặng trong suốt nửa giờ lái xe. Chúng tôi đứng bên cạnh anh, ấn lung tung lên bàn điều khiển xe. Một luồng gió lạnh thổi qua khiến hai má Will ửng đỏ.

    "Thôi nào," tôi nói. "Chúng ta phải dùng tay thôi. Tôi tin hai chúng ta có thể xoay xở tới được đó."

    Chúng tôi đẩy Will ngửa ra sau. Tôi nắm bên này tay xe còn Nathan nắm bên kia, rồi cả hai chúng tôi lôi chiếc xe về phía đường mòn. Tiến trình đó rất chậm chạp, vì tôi liên tục phải dừng do hai cánh tay đau nhức và đôi bốt da dính bùn đất mỗi lúc lại thêm nặng trịch. Khi cuối cùng chúng tôi cũng tới được lối mòn, chiếc mền của Will đã tuột khỏi người anh quá nửa, cuốn vào bánh xe khiến một góc mền rách toạc và bết bùn.

    "Đừng lo," Will nói cộc lốc. "Chỉ là vải cashmere thôi mà."

    Tôi phớt lờ lời mai mỉa của anh. "Phải. Chúng ta tới được rồi. Giờ thì vui vẻ chút đi."

    À phải. Vui vẻ chút đi. Ai nghĩ ra rằng đặt cửa quay vào trường đua là một ý tưởng hay ho nhỉ? Đâu có vẻ gì là để quản đám đông, rõ ràng thế còn gì? Đâu có vẻ gì là có những đám đông cổ động viên đua ngựa hò reo ầm ĩ, những lao nhao đe dọa nếu con Charlie's Darling không về thứ ba, những cô gái chăm ngựa lộn xộn lúc nào cũng thích làm trò thả ngựa ra rồi nhốt ngựa vào. Chúng tôi nhìn cánh cửa quay, rồi nhìn lại xe lăn của Will, rồi Nathan và tôi nhìn nhau.

    Nathan bước tới quầy bán vé và giải thích hoàn cảnh khó khăn của chúng tôi với người phụ nữ ngồi trong quầy. Bà nghiêng đầu để nhìn Will, rồi chỉ chúng tôi đi tít về phía cuối khán đài.

    "Lối vào dành cho người tàn tật ở đằng kia," bà nói.

    Bà nói từ tàn tật như người ta đang tham gia cuộc thi phát âm vậy. Lối vào đó cách chúng tôi không dưới 200 mét. Khi cuối cùng chúng tôi cũng tới được đó, bầu trời xanh đột ngột biến mất, thay vào đấy là một trận mưa theo gió từ đâu quật tới. Tất nhiên tôi không mang theo ô. Tôi vẫn bình luận thao thao không ngớt rằng chuyện này thật buồn cười, thật là ngố, nhưng đến cả tôi cũng nghe thấy giọng mình vô cùng não nề bực dọc.

    "Clark," cuối cùng Will lên tiếng. "Đừng nói nữa, được chứ? Cô đang mệt lả rồi đấy."

    Chúng tôi mua vé vào khán đài, với chút xíu nhẹ nhõm khi rốt cuộc cũng tới được đó, tôi đẩy Will tới khu có mái che, ngay bên cạnh khán đài chính. Trong khi Nathan pha nước cho Will, tôi có chút thời gian để ý những đồng đội tham gia cổ vũ đua ngựa với chúng tôi.

    Hàng dưới cùng của khán đài quả là vui vẻ rộn ràng, dù thỉnh thoảng lại có một vạt mưa tạt vào. Phía trên chúng tôi, trên ban công có mặt tiền làm bằng kính, những người đàn ông mặc vest bảnh bao nâng ly sâm-banh mời những phụ nữ mặc váy đi hội. Trông họ thật ấm áp thoải mái, tôi ngờ rằng đó là Khu Thành viên, được liệt kê bên cạnh tên của khu vực có mức giá bình dân trên tấm bảng trong buồng vé. Họ đeo tấm biển nhỏ treo dưới sợi dây đỏ, thứ đó xếp riêng họ vào hàng đặc biệt. Trong một thoáng tôi tự hỏi có thể tô sợi dây xanh của chúng tôi thành màu khác đi không, nhưng rồi nghĩ lại rằng chắc chúng tôi sẽ dễ bị lộ vì là nhóm duy nhất có người đi xe lăn.

    Bên cạnh chúng tôi, lác đác dọc theo khán đài là những người đàn ông mặc suit vải tuýt và phụ nữ mặc áo khoác bông dài thanh lịch, trên tay nắm chặt ly giấy cà phê hoặc chai rượu nhỏ. Trông họ bình thường như thể hôm nay chẳng khác gì bao ngày khác, và những tấm thẻ đeo trên ngực họ cũng mang màu xanh. Tôi ngờ rằng đa phần họ là huấn luyện viên và người giữ ngựa, hoặc những người có công việc liên quan đến ngựa theo một khía cạnh nào đó. Ở phía dưới gần vòng đua, đứng bên cạnh những tấm bảng trắng nhỏ là mấy ông đếm giờ, cánh tay họ cứ phất lên phất xuống theo một hệ thống kỳ lạ nào đó mà tôi không hiểu nổi. Họ nguệch ngoạc lên bảng những chuỗi minh họa mới rồi lại dùng nẹp tay áo xóa đi.

    Còn nữa, đứng vòng quanh vòng đua là một nhóm đàn ông mặc áo polo sọc, tay ai cũng cầm lon bia và dáng vẻ trông như đi chơi. Cái đầu cạo trọc của họ khiến người ta nghĩ họ đang tham gia nghĩa vụ quân sự. Chốc chốc họ lại cất tiếng hát, chuyện trò ầm ĩ, chen lấn xô đẩy, húc nhau bằng cái đầu nhẵn thín hoặc choàng vai bá cổ nhau. Khi tôi đi qua họ tới nhà vệ sinh, họ huýt sáo inh ỏi trêu chọc cái váy ngắn của tôi (không ngờ tôi là người duy nhất mặc váy trên cả khán đài) và tôi giơ ngón tay thối sau lưng. Rồi họ cũng mất hứng thú trêu chọc khi bảy hay tám con ngựa bắt đầu chạy lờn vờn quanh nhau, thong dong tiến vào khán đài với kỹ thuật điêu luyện, tất cả chuẩn bị cho đợt đua tiếp theo.

    Thế rồi tôi giật bắn người khi xung quanh chúng tôi một đám đông nhỏ la hét cật lực và lũ ngựa lao ra từ cổng xuất phát. Tôi đứng dậy quan sát chúng chạy, bỗng nhiên sững sờ, không thể ngăn được cảm giác phấn khích bùng nổ khi thấy những cái đuôi đột ngột xòe ra phía sau chúng, nỗ lực điên cuồng của những anh chàng mặc đồ sáng màu ngồi trên lưng chúng, tất cả chen nhau giành thứ hạng. Khi con thắng cuộc vượt qua vạch đích, làm sao có thể không reo hò.

    Chúng tôi xem lượt đua Sisterwood Cup, rồi xem Maiden Stakes, và Nathan thắng sáu bảng cho kèo con. Will từ chối cá cược. Anh quan sát từng cuộc đua, nhưng anh im lặng, đầu rụt sâu vào trong cổ áo khoác. Tôi nghĩ có lẽ anh đã ở trong nhà quá lâu tới nỗi chắc hẳn anh cảm thấy tất cả chuyện này hơi kỳ lạ, và tôi nghĩ đơn giản tôi sẽ vờ như không biết điều đó.

    "Tôi nghĩ đó là lượt đua của cô, Hempworth Cup," Nathan nói, liếc nhìn màn hình. "Cô đặt tiền vào đâu? Man Oh Man nhỉ?" Ông cười nhăn nhở. "Tôi không ngờ khi xem đua ngựa mà cá cược lại vui hơn thế này cơ đấy."

    "Ông biết không, tôi chưa nói với ông chuyện này, nhưng quả thực trước đây tôi cũng chưa từng đi xem đua ngựa," tôi nói với Nathan.

    "Cô đang đùa đấy à."

    "Tôi chưa bao giờ ngồi trên lưng ngựa. Mẹ tôi sợ ngựa. Bà thậm chí không dám đưa tôi tới chuồng ngựa."

    "Chị gái tôi có hai con ngựa, chị sống ở ngoại ô Christchurch. Chị ấy coi chúng như con vậy. Tất cả tiền bạc chị ấy đổ hết vào chúng." Ông nhún vai. "Chúng có chết đi thì chị ấy cũng chẳng bao giờ ăn thịt đâu."

    Giọng Will lướt về phía chúng tôi. "Thế phải xem bao nhiêu lượt đua thì mới đảm bảo được rằng chúng tôi đã thỏa mãn tham vọng bấy lâu của ông đây?"

    "Đừng có cộc cằn thế chứ. Người ta nói 'đời có trò gì ta cũng phải thử một lần cho biết'," tôi nói.

    "Tôi cho rằng đua ngựa rơi vào vế sau 'ngoại trừ loạn luân và nhảy mô-rít'." "Anh chính là người lúc nào cũng bảo tôi hãy mở rộng chân trời của mình còn gì. Anh rất thích điều đó cơ mà," tôi nói. "Đừng vờ như không phải thế nhé."

    Đúng lúc ấy họ cán đích. Man Oh Man với nài ngựa mặc đồ lụa tím có hình thoi vàng. Tôi quan sát con ngựa phi nước đại quanh rào chắn trắng, đầu vươn dài ra, đôi chân của tay nài vỗ liên tục, hai cánh tay vụt tới vụi lui trên cổ ngựa.

    "Tiến lên, anh bạn!" Vốn tính điềm đạm nhưng Nathan không kiềm chế được cảm giác phấn khích. Nắm tay ông siết chặt, mắt dán vào đám ngựa chạy tận lực đang xuất hiện lờ mờ ở phía xa trên đường đua.

    "Tiến lên, Man Oh Man!" tôi hét to. "Nhờ mi mà chúng ta được một bữa bít- tết bò đấy!" Tôi nhìn con ngựa nỗ lực tuyệt vọng để giành chiến thắng, cánh mũi phập phồng, hai tai căng ra sau đầu. Tim tôi như bắn lên. Thế rồi khi họ tiến tới hai trăm mét cuối cùng, tiếng hét cửa tôi dần xìu xuống. "Được rồi, một chầu cà-phê," tôi nói. "Tôi đãi một chầu cà-phê là được chứ gì?"

    Quanh tôi cả khán đài đã vỡ òa trong tiếng la hò gào rú. Một cô gái, cùng hàng với chúng tôi cách hai ghế đang nhảy tưng tưng lên xuống, giọng cô ta khản đặc vì la hét. Tôi nhận ra mình cũng đang nhún nhảy trên đầu ngón chân. Thế rồi khi nhìn xuống tôi thấy Will đang nhắm nghiền mắt, một vết hằn mảnh ngăn giữa cặp mày của anh. Tôi thôi để ý tới đường đua, quỳ xuống bên anh.

    "Anh ổn không Will?" tôi nói, xích lại sát anh. "Anh có cần gì không?" Tôi phải gào lên mới nghe được tiếng của chính mình qua tiếng reo ầm ĩ om sòm.

    "Rượu mạnh," anh nói. "Ly đầy."

    Tôi nhìn anh chằm chằm, anh nhấc mi mắt lên nhìn tôi. Trông anh vô cùng tức giận.

    "Chúng ta đi ăn trưa thôi," tôi nói với Nathan.

    Khốn thay Man Oh Man, kẻ lừa tiền bốn chân đó, băng qua vạch đích ở vị trí thứ sáu. Tiếng reo hò lại vang lên, rồi tiếng của người thông báo phát ra từ loa phát thanh: Thưa quý ông quý bà, một chiến thắng mạnh mẽ tới từ chú Love Be A Lady, đứng ở vị trí thứ nhất, tiếp theo là Winter Sun, và Barney Rubble về sau hai ngựa đứng thứ ba.

    Tôi đẩy xe của Will qua đám người mải mê không để ý gì, cố tình đâm sầm vào gót chân họ khi tôi xin đường tới lần thứ hai mà họ chưa kịp tránh.

    Khi chúng tôi vừa tới thang máy thì Will cất tiếng. "Clark, thế này có nghĩa cô nợ tôi bốn mươi bảng nhỉ?"

    Tiệm ăn này đã được tân trang lại, thức ăn được một đầu bếp hay xuất hiện trên ti-vi bảo đảm, mặt ông ta xuất hiện trên khắp các poster quanh trường đua. Tôi đã xem thực đơn từ trước.

    "Món chính là vịt nấu cam," tôi nói với hai người đàn ông. "Rõ ràng là quay lại kiểu cách thập niên bảy mươi."

    "Như bộ đồ cô mặc nhỉ," Will châm biếm.

    Tránh được cái lạnh và rời xa đám đông, anh có vẻ vui lên một chút. Anh bắt đầu đưa mắt nhìn xung quanh thay vì rụt sâu vào thế giới cô độc của riêng mình. Dạ dày tôi sôi lên, háo hức đòi thưởng thức một bữa trưa ngon lành nóng hổi. Mẹ Will đã đưa cho chúng tôi tám mươi bảng để "ăn nhẹ". Tôi đã quyết định từ nhà rằng tôi sẽ tự trả tiền đồ ăn cho mình, rồi đưa hóa đơn cho bà, như thế tôi sẽ không hề phải e ngại khi gọi cho mình món tôi mê mẩn nhất trong thực đơn - vịt quay, hay món gì đó khác.

    "Ông muốn vào tiệm ăn không Nathan?" tôi hỏi.

    "Bản thân tôi thì thường thích mua thức ăn và một chầu bia mang đi hơn," Nathan nói. "Nhưng hôm nay thì vào trong tiệm cũng vui đấy."

    "Lần cuối cùng anh đi ăn tiệm là khi nào hả Will?" tôi nói.

    Anh và Nathan nhìn nhau. "Chưa bao giờ kể từ dạo tôi tới nhà cậu ấy," Nathan nói.

    "Lạ lùng là tôi chẳng mấy thích thú được bón từng thìa trước mặt người lạ." "Thế thì chúng tôi sẽ chọn bàn sao cho có thể quay lưng anh ra cửa," tôi nói.

    Tôi đã suy tính trước chuyện này rồi. "Và nếu có ngôi sao nào xuất hiện thì coi như anh mất phần."

    "Vì có vô khối ngôi sao xuất hiện ở một trường đua nhỏ xíu lầy lội vào giữa tháng Ba mà."

    "Anh đừng làm hỏng bữa ăn này của tôi, Will Traynor," tôi nói khi cánh cửa thang máy mở ra. "Lần gần đây nhất tôi được ra ngoài ăn là tham dự bữa tiệc sinh nhật dành cho đám trẻ lên bốn tại bãi đánh ki trong nhà duy nhất của Hailsbury, và chẳng có thứ gì ở đó không bọc bột. Kể cả lũ trẻ."

    Chúng tôi lăn xe dọc theo hành lang trải thảm. Nhà hàng chạy dọc một bên, phía sau bức tường kính, tôi thấy có rất nhiều bàn còn trống. Ruột tôi bỗng cồn cào vì dự cảm chẳng lành.

    "Xin chào," tôi nói, bước tới quầy tiếp tân. "Tôi muốn một bàn cho ba người." Làm ơn đừng có nhìn Will, tôi nói khẽ với người phụ nữ. Đừng làm anh ấy cảm thấy bản thân kỳ cục. Điều quan trọng là anh ấy thích thú chuyện này.

    "Thẻ, thưa cô," cô ta nói. "Gì cơ?"

    "Thẻ vào Khu Thành viên của cô?" Tôi nhìn cô ta ngơ ngác.

    "Nhà hàng này chỉ dành cho những người có thẻ Thành viên thôi."

    Tôi liếc nhìn lại Will và Nathan. Họ không nghe thấy tiếng tôi, nhưng họ đang ở đó háo hức chờ đợi. Nathan đang giúp Will cởi áo khoác.

    "Ừm... tôi không biết rằng chúng tôi không thể muốn ăn ở đâu cũng được.

    Chúng tôi có thẻ màu xanh."

    Cô gái mỉm cười. "Xin lỗi," cô nói. "Chỉ tiếp người có thẻ Thành viên thôi.

    Điều này ghi rõ trên tất cả phương tiện quảng cáo của chúng tôi mà."

    Tôi hít một hơi thật sâu. "Được rồi. Thế còn hàng ăn ở đâu khác không?"

    "Tôi e rằng The Weighing Room, khu nghỉ ngơi ăn uống của chúng tôi, hiện nay đang sửa chữa, nhưng dọc khán đài có mấy quầy đồ ăn, cô có thể kiếm đồ ăn ở đó."

    Khi thấy tôi xịu mặt, cô nói thêm, "Thịt heo ngon lắm. Bánh bao nhân heo quay. Họ làm cả nước xốt táo đấy."

    "Quầy đồ ăn." "Vâng."

    Tôi cúi sát lại gần cô. "Làm ơn," tôi nói. "Chúng tôi đã đi một chặng đường rất xa, và bạn tôi không khỏe khi ở ngoài lạnh. Chẳng lẽ không có cách nào để chúng tôi được ngồi một bàn ở đây sao? Chúng tôi thật sự cần để anh ấy ở nơi ấm áp. Anh ấy có được một ngày dễ chịu là điều vô cùng quan trọng."

    Cô nhăn mũi. "Tôi thật sự xin lỗi," cô nói. "Tôi sẽ bị mất việc nếu làm sai quy định. Nhưng dưới lầu có một khu dành cho người tàn tật mà cô có thể khép cửa lại đấy. Từ đó cô không thể xem cuộc đua, nhưng nó khá ấm áp. Ở đó có hệ thống sưởi, đầy đủ lắm. Cô có thể ăn ở đó."

    Tôi nhìn cô trân trối. Tôi có thể cảm thấy nỗi căng thẳng len lén trào lên từ gót chân. Tôi nghĩ có lẽ mình đã hóa đá rồi.

    Tôi nhìn bảng tên cô. "Sharon," tôi nói. "Ở đây còn rất nhiều bàn mà. Chẳng phải rõ ràng là có thêm người ăn sẽ tốt hơn là để nửa số bàn trống hay sao? Chỉ vì một quy định phân biệt tầng lớp bí hiểm nào đó trong sách nội quy sao?"

    Nụ cười của cô ta lóe lên dưới ánh sáng của những ngọn đèn âm tường. "Thưa quý cô, tôi đã giải thích tình huống với cô rồi đấy. Nếu chúng tôi thả lỏng quy định với cô, chúng tôi sẽ phải làm như thế với tất cả mọi người."

    "Nhưng như thế thật vô lý," tôi nói. "Lúc này là giờ ăn trưa của một ngày thứ Hai ẩm ướt. Cô còn bao nhiêu bàn trống. Chúng tôi muốn mua bữa ăn. Một bữa ăn đắt đỏ phù hợp, với khăn ăn cùng đủ thứ. Chúng tôi không muốn ăn heo quay, không muốn ngồi trong cái phòng để đồ không nhìn được trường đua, dù nó có ấm thế nào đi nữa."

    Thực khách bắt đầu ngoái cổ lại, tò mò ngó xem cuộc cãi vã bên cửa. Tôi thấy lúc này trông Will có vẻ bối rối. Anh và Nathan đã hiểu có chuyện gì đó không ổn.

    "Thế thì tôi e là cô nên mua thẻ Thành viên."

    "Được rồi." Tôi thò tay vào túi, lục loạn xạ để tìm ví. "Thẻ Thành viên giá bao nhiêu?" Khăn giấy, vé xe buýt cũ, một chiếc ô-tô đồ chơi hàng Hot Wheels của Thomas văng ra. Tôi không bận tâm nữa. Tôi sẽ mua cho Will bữa trưa quyền quý trong một nhà hàng. "Đây. Bao nhiêu nào? Mười bảng nữa. Hay hai mươi?" Tôi dứ dứ nắm tiền ra trước mặt cô.

    Cô nhìn xuống tay tôi. "Tôi xin lỗi, thưa cô, ở đây chúng tôi không bán thẻ.

    Đây là nhà hàng. Cô sẽ phải trở lại quầy bán vé." "Cái chỗ ở tận cùng đầu kia trường đua ấy hả." "Vâng."

    Chúng tôi nhìn nhau trân trân.

    Giọng Will phá tan im lặng. "Louisa, đi thôi."

    Tôi thấy mắt mình đột nhiên cay xè. "Không," tôi nói. "Chuyện này thật kỳ cục. Chúng ta đã đi chừng đó chặng đường. Anh cứ ở đây, tôi sẽ đi mua thẻ Thành viên. Rồi chúng ta sẽ ăn trưa."

    "Louisa, tôi không đói."

    "Ăn xong chúng ta sẽ ổn cả thôi. Chúng ta có thể xem đua ngựa. Mọi chuyện sẽ ổn."

    Nathan bước tới đặt tay lên cánh tay tôi. "Louisa, tôi nghĩ Will thực tình chỉ muốn về nhà."

    Giờ chúng tôi đã trở thành tâm điểm của cả quán ăn. Những ánh mắt chằm chằm của thực khách lướt ngang chúng tôi, băng qua tôi tới chỗ Will, tới đó thì chúng tối sầm lại vì thoáng thương hại hoặc khó chịu. Tôi thấy thương cho anh. Tôi thấy hoàn toàn thất bại. Tôi ngước nhìn cô gái, ít nhất cô ta cũng tỏ ra hơi xấu hổ khi Will lên tiếng.

    "Được rồi, cảm ơn cô," tôi nói. "Cảm ơn vì biết cảm thông đến khốn kiếp." "Clark..." Giọng Will mang theo lời cảnh cáo.

    "Rất mừng là cô linh động tới vậy. Hiển nhiên tôi sẽ giới thiệu về cô với tất cả những ai tôi biết."

    "Louisa!"

    Tôi chộp lấy cái túi rồi cặp vào nách.

    "Cô quên chiếc xe nhỏ này," cô ta gọi với, khi tôi băng qua cánh cửa mà Nathan đã mở sẵn cho tôi.

    "Sao hả, nó cũng cần một cái thẻ chết tiệt hả?" tôi nói, rồi theo họ vào thang máy.

    Chúng tôi im lặng đi xuống. Tôi dành phần lớn khoảng thời gian ngắn ngủi trong thang máy cố giữ đôi tay thôi run bần bật vì giận dữ.

    Khi chúng tôi xuống tới chỗ đám đông dưới lầu trệt, Nathan lầm bầm, "Tôi nghĩ có lẽ chúng ta nên mua gì đó ở mấy cái sạp này, cô biết đấy. Từ lúc chúng ta ăn tới giờ cũng mấy tiếng rồi." Ông liếc xuống Will, thế nên tôi hiểu thật ra ông đang nói tới ai.

    "Đúng thế," tôi cất giọng vui vẻ. Tôi hít vào nhè nhẹ. "Tôi thích ăn chút bì giòn tan. Chúng ta đi ăn heo quay kiểu cũ thôi nào."

    Chúng tôi gọi ba bánh bao nhân thịt heo, da heo quay và nước xốt táo. Tôi ngồi xuống một cái thùng rác nhỏ để có thể đối mặt với Will và giúp anh ăn từng miếng nhỏ, dùng ngón tay đẩy thức ăn vào miệng anh nếu cần.

    Hai cô phục vụ đúng sau quầy vờ như không nhìn chúng tôi. Tôi biết họ đang quan sát Will qua khóe mắt, thỉnh thoảng lại rì rầm với nhau khi họ nghĩ chúng tôi không để ý. Tội nghiệp anh chàng, tôi nghe họ nói rất rõ. Sống thế thì khổ chết đi được. Tôi ném cho họ cái nhìn gay gắt, thách họ dám nhìn anh như thế. Tôi cố không nghĩ quá nặng nề về những gì Will hẳn đang cảm nhận.

    Mưa đã ngừng rơi, nhưng trường đua lộng gió bỗng trở nên hoang vắng lạnh lẽo, rải rác khắp bề mặt cỏ xanh pha lẫn cỏ nâu là giấy cược rách tả tơi, chân trời chừng như trải ra vô tận. Bãi đỗ xe vắng hoe vì trời mưa, và phía xa chúng tôi có thể nghe thấy tiếng loa nghèn nghẹt thông báo một đợt đua nữa đang rầm rầm lao về đích.

    "Tôi nghĩ có lẽ chúng ta nên về thôi," Nathan nói, đưa tay lau miệng. "Ý tôi là trò này vui vẻ cả, nhưng tốt hơn là nên tránh kẹt xe, nhỉ?"

    "Phải," tôi nói. Tôi vò tờ giấy ăn rồi ném vào thùng rác. Will từ chối ăn miếng bánh cuối.

    "Anh ấy không thích món đó à?" cô bán hàng hỏi, khi Nathan bắt đầu đẩy chiếc xe lăn dọc theo bãi cỏ.

    "Tôi làm sao mà biết được. Có lẽ anh ấy sẽ thích nó hơn nếu không phải ăn với món ăn kèm là kẻ tọc mạch," tôi nói, rồi thọc mạnh mẩu bánh thừa vào thùng rác.

    Nhưng đến được ô-tô, lên lại trên cái đường trượt, thì quả là nói dễ hơn làm. Trong mấy giờ đồng hồ chúng tôi ngồi trong trường đua, bao nhiêu xe đến xe đi đã làm bãi đỗ biến thành biển bùn.

    Ngay cả với sức khỏe ấn tượng của Nathan và bờ vai mạnh nhất của tôi, chúng tôi không thể kéo chiếc xe được lấy nửa đường băng qua thảm cỏ tới ô- tô. Bánh xe lăn cứ xệch xoạc và kêu ken két, mãi không nhích nổi dăm phân. Bàn chân tôi và Nathan trơn tuột trong bùn, vì bùn đã ngập vào bên trong giày.

    "Không được đâu," Will nói.

    Tôi không thèm nghe anh nói. Tôi không chịu được ý nghĩ ngày hôm nay kết thúc như thế này.

    "Tôi nghĩ chúng ta cần giúp đỡ," Nathan nói. "Tôi thậm chí không thể kéo chiếc xe trở lại đường mòn. Dính cứng rồi."

    Will thở dài đánh sượt. Trông anh chưa bao giờ tức giận tới thế.

    "Tôi có thể đưa cậu lên ghế trước ô-tô, Will, nếu tôi ngả nó ra một chút. Sau đó Louisa và tôi nghĩ xem làm sao để đưa được xe lăn lên phía sau."

    Giọng Will rít qua ke răng. "Tôi sẽ không kết thúc ngày hôm nay với trò bế xốc qua vai đâu."

    "Xin lỗi anh bạn," Nathan nói. "Nhưng Lou và tôi sẽ không xoay xở việc này một mình đâu. Này Lou, cô xinh hơn tôi. Chạy đi tìm thêm người giúp đi, được chứ?"

    Will nhắm mắt, siết quai hàm, còn tôi chạy về phía khán đài.

    Tôi không tin có nhiều người mủi lòng trước tiếng cầu xin kéo giúp chiếc xe lăn mắc kẹt trong bùn, dù tiếng kêu đó cất lên từ một cô gái mặc váy ngắn đang nở nụ cười dễ mến nhất của nàng. Tôi không dễ tiếp xúc với người lạ, nhưng nỗi tuyệt vọng làm tôi quên hết sợ hãi. Tôi đi qua hết nhóm khán giả này tới nhóm khác trên khán đài lớn, hỏi xem họ có thể giúp tôi vài phút được không. Họ nhìn tôi rồi nhìn quần áo trên người tôi như thể tôi đang có âm mưu đặt bẫy gì.

    "Xin hãy giúp một thanh niên ngồi xe lăn," tôi nói. "Anh ấy bị mắc kẹt." "Chúng tôi đang đợi đợt đua tiếp theo," họ nói. Hoặc, "xin lỗi." Hoặc, "Phải đợi sau hai giờ ba mươi nhé. Chúng tôi đặt cược ván này."

    Tôi thậm chí còn tính chặn đường một hay hai người trông ngựa. Nhưng khi tới gần, tôi thấy họ còn nhỏ hơn tôi.

    Khi tới khu vực vòng tròn, cả người tôi đã nóng ran vì cơn giận kìm nén. Tôi nghĩ tôi đang cáu lên với mọi người chứ không phải mỉm cười. Và kia, may mắn làm sao cuối cùng cũng thấy những anh chàng mặc áo polo sọc. Lưng áo họ in dòng chữ "Marky's Last Stand", tay họ cầm lon bia Pilsner Tennent cỡ đại. Giọng họ cho thấy họ từ vùng Đông Bắc tới, và tôi biết khá chắc là hai mươi bốn giờ qua họ hầu như không ngừng nốc bia bọt. Họ reo hò khi tôi tiến lại, và tôi lại muốn giơ ngón tay thối lần nữa.

    "Cười lên nào, em yêu. Đây là tiệc tùng cuối tuần của Marky đấy," một gã nói líu nhíu, vỗ bàn tay như búa tạ lên vai tôi.

    "Thứ Hai rồi." Tôi cố không nao núng khi đẩy bàn tay xuống.

    "Em đùa ư. Thứ Hai rồi hả?" Anh ta lảo đảo lùi lại. "Ôi, em nên hôn nó mới phải chứ."

    "Thật ra," tôi cất tiếng. "Tôi tới đây để nhờ các anh giúp đỡ."

    "Tôi đây sẽ giúp em bất kể việc gì, bé con." Kèm theo câu nói này là một cái nháy mắt khêu gợi.

    Đám bạn lờn vờn bên cạnh anh ta như những thân cây mọc ven hồ.

    "Không, không phải vậy đâu. Tôi cần các anh giúp bạn tôi. Ở trong bãi đỗ xe ấy."

    "Tôi xin lỗi, tôi không nghĩ tôi ở trong tình trạng có thể giúp đỡ được bạn em, bé con à."

    "Này này. Đợt đua tiếp theo bắt đầu rồi, Marky. Cậu đặt cược đợt này không? Tớ nghĩ tớ đặt đợt này đấy."

    Họ quay lại đường đua, rõ là đã mất hứng thú với tôi. Tôi liếc nhìn qua vai về phía bãi đỗ xe, thấy dáng người rù rù của Will, thấy Nathan đang tuyệt vọng nắm vào tay xe lăn kéo mạnh. Tôi tưởng tượng ra cảnh tôi trở về nhà và nói với bố mẹ Will rằng chúng tôi đã bỏ chiếc xe siêu đắt của Will lại bãi đỗ xe. Ngay lúc ấy, tôi nghĩ ra kế.

    "Anh ấy là lính," tôi nói thật to. "Cựu chiến binh." Từng người từng người một quay lại.

    "Anh ấy bị thương. Ở Iraq. Chúng tôi chỉ muốn đưa anh ấy đi chơi một ngày vui vẻ. Nhưng chẳng ai giúp chúng tôi cả." Khi tôi thốt ra những lời này, mắt tôi ầng ậc nước.

    "Cựu binh ư? Cô đùa à. Anh ấy đâu?"

    "Trong bãi đỗ xe. Tôi đã nhờ không biết bao nhiêu người, nhưng họ không muốn giúp."

    Dường như phải mất một hai phút để họ tiêu hóa điều tôi vừa nói. Nhưng rồi họ kinh ngạc đưa mắt nhìn nhau.

    "Đi nào các bạn. Chúng ta không thể làm thế." Họ chếnh choáng đi theo sau tôi trên lối mòn. Tôi nghe thấy tiếng họ càm ràm, phàn nàn với nhau. "Dân thường tệ hại... chẳng hiểu nổi ra làm sao nữa..."

    Khi chúng tôi tới bãi đỗ xe, Nathan đang đứng bên cạnh Will, anh rụt đầu vào sâu trong cổ áo khoác vì lạnh, dù Nathan đã phủ một tấm chăn nữa lên vai anh.

    "Đây là những quý ông vô cùng tốt bụng đã đề nghị được giúp chúng ta," tôi nói.

    Nathan nhìn chăm chăm những lon bia cỡ đại. Tôi phải thừa nhận là phải nhìn thật kỹ mới thấy họ có vẻ nhà binh.

    "Cô muốn đưa anh ấy tới đâu?" một người hỏi.

    Những người khác đứng quanh Will, gật đầu chào. Một người đưa lon bia cho anh, rõ ràng không hiểu là Will không thể cầm nó.

    Nathan chỉ về phía ô-tô của chúng tôi. "Phía sau xe, sau cùng. Nhưng để làm được điều đó, chúng ta cần đưa cậu ấy lên khán đài, rồi quay ô-tô lùi lại chỗ cậu ấy."

    "Ông không cần phải làm thế," một người nói, vỗ vai Nathan. "Chúng tôi có thể nhấc anh ấy lên ô-tô, phải không các chiến hữu?"

    Cả đám cùng đồng tình. Họ bắt đầu chọn vị trí cho mình quanh xe lăn của Will.

    Tôi rục rịch ngại ngần. "Khó nghĩ quá... đoạn đường các anh phải nâng anh ấy xa quá," tôi đánh bạo lên tiếng. "Mà cái xe nặng lắm đấy."

    Họ đã say mềm cả rồi. Một số người còn không cầm vững lon bia. Một người dúi lon Tennent vào tay tôi.

    "Đừng lo, bé cưng. Sẽ làm mọi thứ cho đồng đội, phải không các chiến hữu?"

    "Chúng tôi sẽ không để cậu lại đây đâu, anh bạn. Chúng tôi chưa bao giờ bỏ rơi đồng đội, phải không nào?"

    Tôi nhìn mặt Nathan rồi lắc đầu quầy quậy khi thấy vẻ mặt giễu cợt của ông. Will chừng như chẳng muốn nói gì. Nét mặt anh đăm đăm, rồi chuyển sang hơi lo lắng, khi đám thanh niên xúm quanh xe anh, chẳng hô một tiếng, nhấc bổng nó lên giữa bọn họ.

    "Trung đoàn nào vậy, bé cưng?"

    Tôi cố mỉm cười, lật giở ký ức để tìm một cái tên. "Súng trường..." tôi nói. "Súng trường số mười một."

    "Tôi không biết trung đoàn súng trường số mười một đấy," một người khác nói.

    "Trung đoàn mới mà," tôi lắp bắp. "Tuyệt mật. Đóng quân ở Iraq."

    Giày của họ trượt trên bùn, tôi thấy tim mình chao đảo. Xe lăn của Will được nhấc lên khỏi mặt đất chừng mươi phân, như một chiếc kiệu. Nathan chạy đi lấy cái túi của Will, mở cửa chiếc ô-tô trước mặt chúng tôi.

    "Những anh chàng đó luyện tập ở Catterick à?"

    "Chính thế," tôi nói, rồi đổi chủ đề. "Thế... ai trong số các anh kết hôn rồi?"

    Chúng tôi trao đổi số điện thoại khi cuối cùng cũng được chia tay Marky và đồng đội của anh ta. Họ quyên tiền, đưa cho chúng tôi gần bốn mươi bảng gây quỹ phục hồi cho Will, và chỉ thôi khăng khăng bắt chúng tôi nhận khi tôi nói rằng chúng tôi sẽ vui nhất khi thay vì cho tiền, họ uống một chầu để cầu phước cho chúng tôi. Tôi phải hôn từng người bọn họ, không sót một ai. Khi hôn xong, tôi thấy choang choáng với hơi bia. Tôi vẫy tay mãi cho tới khi họ biến mất trở vào khán đài, và Nathan bấm còi giục tôi lên xe.

    "Họ có ích đấy chứ nhỉ?" tôi vừa nói vui vẻ vừa khởi động máy xe.

    "Gã cao cao đổ cả lon bia xuống chân phải tôi," Will nói. "Giờ tôi bốc mùi như nhà máy bia."

    "Ôi không tin nổi," Nathan nói, khi cuối cùng tôi cũng đánh xe được tới lối vào chính. "Nhìn kìa. Có cả một bãi đỗ xe dành cho người khuyết tật ngay kia, cạnh khán đài. Tất cả đều rải nhựa."

    Phần còn lại của ngày hôm đó, Will hầu như chẳng nói gì. Anh tạm biệt Nathan khi chúng tôi thả ông xuống ngang nhà, rồi anh trở nên lặng lẽ khi tôi chật vật chạy xe trên con đường lên lâu đài, con đường giờ đây trở nên vắng vẻ vì trời lại đổ mưa, và cuối cùng tôi đỗ lại bên ngoài khu nhà phụ. Tôi hạ thấp xe lăn của Will, đẩy anh vào trong nhà, pha cho anh một ly nước ấm. Tôi thay giày và quần cho anh, bỏ chiếc quần dính bia vào máy giặt, rồi đỏ lò sưởi để anh sưởi ấm. Tôi bật ti-vi lên, buông rèm cửa để căn phòng quanh chúng tôi trở nên ấm cúng - có lẽ là ấm hơn khoảng thời gian vật vờ bên ngoài trời lạnh. Nhưng chỉ khi ngồi xuống cùng anh trong phòng khách, nhấm nháp tách trà, tôi mới nhận ra nãy giờ anh không nói gì - vì còn quá mệt mỏi, hoặc vì anh muốn xem ti-vi. Chỉ có điều anh không nói chuyện với tôi.

    "Có... có chuyện gì à?" tôi nói, khi anh không buồn đáp câu bình luận thứ ba của tôi về bản tin địa phương.

    "Cô phải nói cho tôi biết mới đúng chứ, Clark." "Là sao?"

    "Ồ, cô biết mọi thứ khác cần biết về tôi cơ mà. Cô nói cho tôi nghe đi."

    Tôi nhìn anh trân trân. "Tôi xin lỗi," cuối cùng tôi cất tiếng. "Tôi biết hôm nay không được như tôi dự tính. Quả tình tôi chỉ định tổ chức một buổi đi chơi vui vẻ. Thực lòng tôi đã nghĩ anh sẽ thích chuyến đi này."

    Tôi không nói thêm rằng anh đang cộc cằn một cách ngang ngạnh, rằng anh chẳng hề hay tôi đã phải đấu tranh chỉ để được giúp anh thử yêu bản thân, rằng anh thậm chí không cố gắng để có một khoảng thời gian vui vẻ. Tôi không nói với anh rằng nếu anh để tôi mua mấy tấm thẻ ngu xuẩn đó, có thể chúng tôi đã có bữa trưa dễ chịu và mọi phiền toái khác sẽ bị lãng quên.

    "Vấn đề nằm ở đó." "Sao cơ?"

    "Ôi, cô chẳng khác gì những người còn lại cả." "Ý anh là gì?"

    "Nếu cô thèm cất tiếng hỏi tôi, Clark. Nếu cô thèm hỏi ý kiến tôi dù chỉ một lần thôi về cái gọi là chuyến đi chơi vui thú này của chúng ta, tôi hẳn đã nói với cô rồi. Tôi ghét ngựa, ghét cả đua ngựa. Luôn luôn như thế. Nhưng cô đâu có thèm hỏi tôi. Cô quyết định cái cô nghĩ cô muốn tôi làm, và cứ thế phăm phăm thực hiện. Cô hành động chẳng khác gì ai. Cô quyết định thay tôi."

    Tôi nuốt khan.

    "Tôi không có ý đó..." "Nhưng cô đã làm thế."

    Anh quay xe ngoảnh lưng về phía tôi, sau vài phút im lặng nữa, tôi nhận ra mình đã bị đuổi đi.
  4. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 12

    Tôi có thể kể chính xác với bạn ngày tôi không còn lòng dũng cảm nữa.

    Đó là gần bảy năm trước, vào những ngày cuối cùng nóng nực, trễ nải của tháng Bảy, khi những con phố nhỏ quanh lâu đài chật ních du khách, không gian đong đầy tiếng bước chân ngập ngừng của họ và tiếng rộn ràng của những chiếc xe tải bán kem xếp hàng thường trực trên đỉnh đồi.

    Bà ngoại tôi mất một tháng trước đó sau thời gian dài đau ốm, thế nên choàng lên mùa hè năm ấy là nỗi u sầu dìu dịu; nó nhẹ nhàng bao phủ lên mọi việc chúng tôi làm, dập tắt tính ưa hò la sinh sự của chị em tôi, trì hoãn lịch trình quen thuộc của mùa hè với những kỳ nghỉ ngắn ngày và những buổi đi chơi. Mẹ tôi đứng hầu như cả ngày bên chậu giặt, lưng bà căng lên với nỗ lực ngăn dòng nước mắt, còn bố thì sáng nào cũng đi làm với vẻ mặt tư lự, nhiều tiếng sau lại về nhà với khuôn mặt bóng nhẫy vì cái nóng và chừng nào còn chưa mở bia thì chưa cất nổi nên lời. Em gái tôi ở nhà nhân dịp nghỉ hè năm nhất đại học, đầu óc nó đã để ở đẩu đâu xa lắc thị trấn nhỏ của chúng tôi. Tôi hai mươi tuổi, ba tháng sau thời điểm này tôi sẽ gặp Patrick. Chúng tôi đang thưởng thức một trong những mùa hè hiếm hoi được tự do tuyệt đối - không gánh nặng tài chính, không nợ nần, không nợ thời gian bất kỳ ai. Tôi có một công việc thời vụ, và có vô khối thời gian để thực tập trang điểm, đi đôi giày cao gót làm bố tôi nhăn cả mặt, và về cơ bản đã hiểu được mình là ai trên đời.

    Những ngày ấy, tôi ăn mặc bình thường. Hay nói đúng hơn, tôi ăn mặc như bao cô gái khác trong thị trấn - tóc dài chấm ngang vai, quần Jean màu chàm, áo phông bó vừa đủ để khoe vòng eo bé tí và bộ ngực nhô cao. Chúng tôi dành hàng giờ để hoàn thiện kỹ thuật tô son bóng và đánh đúng màu khói cho mắt. Trông chúng tôi điểm nào cũng đẹp, thế nhưng chúng tôi vẫn cứ càm ràm suốt ngày về điểm sần không tồn tại và tì vết chẳng thấy đâu trên da dẻ.

    Tôi có nhiều ý tưởng. Những thứ tôi muốn làm. Một anh chàng tôi quen ở trường đã chu du vòng quanh thế giới, để rồi khi trở về trông cậu ta thật khác biệt và lạ lẫm, như thể cậu không phải là cái thằng nhóc mười một tuổi còm nhom chuyên trị thổi bong bóng nước bọt trong suốt hai tiết tiếng Pháp. Tôi đã đặt một chuyến bay giá rẻ tới Úc trong phút bốc đồng, và cố tìm người có thể đi cùng mình. Tôi thích vẻ ngoại lai mà những chuyến đi khoác lên con người cậu ấy, sự xa lạ. Cậu ấy đã mang tới những làn gió nhẹ của một thế giới rộng lớn hơn, và điều đó tạo nên nét quyến rũ lạ lùng. Nói cho cùng, mọi người ở đây đều biết tường tận về con người tôi. Và với một đứa em như em tôi, tôi không bao giờ được phép quên bất cứ điều gì về con người ấy.

    Hôm đó là thứ Sáu, ngày hôm ấy tôi làm công việc hướng dẫn đỗ xe cùng với một nhóm bạn nữ học cùng trường cũ, chỉ dẫn cho du khách tới tham dự một hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ tổ chức trên sân của tòa lâu đài. Ấn tượng về ngày hôm đó là tiếng cười đùa râm ran, đồ uống có ga tu ừng ực dưới mặt trời nóng rẫy, bầu trời xanh ngăn ngắt, ánh nắng xuyên qua những bức tường thành có lỗ châu mai. Hôm đó chẳng có vị du khách nào không mỉm cười với tôi. Làm sao họ có thể không mỉm cười với những cô gái vui vẻ, luôn cười rúc rích cơ chứ. Chúng tôi được trả ba mươi bảng, và vì quá hài lòng với số người tham dự nên nhà tổ chức đã cho mỗi đứa chúng tôi thêm năm bảng. Chúng tôi ăn mừng bằng một chầu say xỉn cùng mấy cậu trai đã làm việc ở bãi đỗ xe phía xa bên cạnh khu đón khách. Họ ăn nói lịch sự, mặc áo polo chơi bóng bầu dục, mái tóc mềm mại. Một cậu có tên là Ed, hai trong số họ đã vào đại học - giờ tôi vẫn chẳng nhớ ra là trường nào - và họ cũng đang đi làm để kiếm tiền vào kỳ nghỉ hè. Họ có rất nhiều tiền mặt sau cả một tuần làm phục vụ, thế nên khi chúng tôi cháy túi, họ rất vui khi được mua đồ uống cho những cô gái địa phương đã ngà ngà, luôn tay vuốt tóc, ngồi trên lòng nhau, không ngừng nô đùa rồi cười ré lên, và cứ gọi họ là quyền quý. Họ nói thứ tiếng rất lạ; họ nói về những ngày tháng bỏ học bỏ làm để đi du lịch, về những mùa hè ở Nam Mỹ, về du lịch bụi ở Thái Lan, về người đang cố thực hiện chuyến đi thực tập ở nước ngoài. Khi chúng tôi đang vừa uống vừa nghe kể chuyện, em gái tôi dừng lại bên quán bia ngoài trời, nơi chúng tôi đang nằm ngả ngốn trên cỏ. Nó mặc chiếc áo cũ rích cũ rơ và không trang điểm, và tôi quên bẵng mất lẽ ra tôi phải đi gặp nó. Tôi bảo với nó về nói bố mẹ là sau ba mươi tuổi tôi mới về nhà. Chẳng hiểu sao tôi thấy ý tưởng này buồn cười kinh khủng. Nó nhướng mày lên, rồi ngang nhiên bỏ đi như thể tôi là kẻ rắc rối nhất từng có mặt trên đời.

    Khi quán Red Lion đóng cửa, tất cả chúng tôi đi vào ngồi giữa trung tâm mê cung của tòa lâu đài. Có đứa xoay xở bò qua cổng, sau khi va đụng tóe lửa và cười rũ rượi, tất cả chúng tôi đều tìm được đường vào chính giữa mê cung để ngồi đó uống rượu táo mạnh, trong khi đó có một đứa chuyền tay một điếu thuốc gai dầu tự quấn. Tôi nhìn chăm chú lên bầu trời đầy sao, cảm thấy mình như biến mất vào chiều sâu vô định của những vì tinh tú, mặt đất dập dềnh chao đảo quanh tôi như một boong tàu khổng lồ. Một người đang chơi guitar, tôi đi đôi giày cao gót sa-tanh hồng, tôi đá văng nó vào bụi cỏ rậm và chẳng bao giờ đi tìm lại. Tôi nghĩ hẳn mình đang làm chủ thế gian.

    Phải nửa tiếng sau tôi mới nhận ra đám con gái đã đi hết.

    Em gái tôi tìm thấy tôi, ở đó giữa trung tâm mê cung, một hồi sau, rất lâu sau khi mây đêm đã thế chỗ những vì sao. Tôi nói rồi đấy, nó rất thông minh. Quả tình là thông minh hơn tôi.

    Nó là người duy nhất tôi từng biết có thể tìm đường ra khỏi mê cung đó một cách an toàn.

    "Chuyện này sẽ khiến anh buồn cười cho xem. Tôi vừa làm thẻ thư viện."

    Will đang ngập giữa bộ sưu tập CD của mình. Anh quay xe lại, chờ đợi cho tôi đặt xong ly nước xuống chỗ để ly trên xe. "Thật sao? Cô đang đọc gì."

    "Tôi chẳng có gì sâu xa cả. Anh sẽ không thích nó đâu. Chỉ toàn chuyện trai gái quen nhau thôi mà. Nhưng tôi thích nó."

    "Hôm nọ cô đã đọc cuốn của Flannery O'Connor." Anh uống một ngụm nước. "Bữa tôi bị ốm đó."

    "Tập truyện ngắn ấy hả? Không tin nổi là anh để ý thấy nó đấy."

    "Làm sao tôi không để ý thấy cho được. Cô để cuốn sách bên cạnh tôi. Tôi không cầm nó lên được."

    "À."

    "Thế nên đừng đọc những thứ vớ vẩn. Mang tập truyện của O'Connor về nhà. Thay vào đó hãy đọc nó."

    Tôi định nói không, nhưng rồi nhận ra mình không biết chắc tại sao lại từ chối. "Được thôi. Đọc xong tôi sẽ mang trả ngay."

    "Bật nhạc cho tôi nhé Clark?" "Anh muốn nghe gì?"

    Anh bảo tôi tên CD, hất đầu chỉ vị trí áng chừng của nó, và tôi lục lọi cho tới khi tìm ra nó.

    "Tôi có một người bạn chơi ở vị trí violin trưởng ở dàn nhạc giao hưởng Albert. Cậu ấy đã gọi báo rằng tuần tới cậu ấy sẽ chơi ở gần đây. Đoạn nhạc này đây. Cô biết nó không?"

    "Tôi chẳng biết gì về nhạc cổ điển cả. Thỉnh thoảng bố tôi vô tình mở nhạc cổ điển trên đài FM, nhưng..."

    "Cô chưa bao giờ đi nghe hòa nhạc hả?" "Chưa."

    Trông anh thực sự kinh ngạc.

    "À, thật tình tôi có đi xem Westlife một lần. Nhưng tôi không chắc như thế có được tính không. Đó là lựa chọn của em gái tôi. Ôi, tôi đã định đi xem Robbie Williams vào sinh nhật hai hai tuổi, nhưng tôi lại bị ngộ độc thức ăn."

    Will nhìn tôi ánh mắt kinh điển ấy - ánh nhìn gợi ra ý nghĩ có lẽ thật tình tôi đã bị khóa trái trong ngục thất của ai đó suốt nhiều năm.

    "Cô nên đi. Cậu ấy cho tôi vé. Buổi biểu diễn này hay lắm đấy. Đưa mẹ cô đi cùng."

    Tôi bật cười và lắc đầu. "Tôi không nghĩ thế đâu. Mẹ tôi chẳng bao giờ đi chơi. Và đó cũng không phải lãnh địa của tôi."

    "Cũng giống như phim có phụ đề không phải lãnh địa của cô chứ gì?"

    Tôi cau có với anh. "Tôi không phải công trình của anh đâu Will. Cái này không phải My Fair Lady. "

    "Pygmalion." "Gì cơ?"

    "Buổi biểu diễn cô đang nói tới đó. Nó là Pygmalion. My Fair Lady chỉ là hàng con cháu tầm thường của nó thôi."

    Tôi liếc nhìn anh. Chẳng ích gì. Tôi bật chiếc đĩa. Khi tôi quay lại, anh vẫn lắc lắc đầu.

    "Cô đúng là kẻ hợm mình kinh khủng nhất, Clark." "Cái gì? Tôi ư?"

    "Cô loại bỏ mọi loại trải nghiệm đó khỏi cuộc đời mình vì cô tự nhủ mình 'không thuộc kiểu người đó'." "Thì đúng là thế mà."

    "Làm sao mà cô biết được? Cô chưa từng làm gì, chưa từng đi đâu. Làm sao cô có thể biết được dù chỉ chút xíu cô là kiểu người gì?"

    Làm sao một người như anh hiểu chút gì về con người tôi. Tôi thấy gần như tức giận với anh vì cứ ngoan cố không chịu hiểu điều đó.

    "Tiến lên. Mở mang trí óc của cô đi." "Không."

    "Tại sao?"

    "Vì tôi thấy không thoải mái. Tôi cảm thấy như thể... tôi cảm thấy như thể người ta sẽ biết."

    "Ai? Biết cái gì?"

    "Mọi người khác trên đời sẽ biết, rằng tôi không thuộc về những thứ đó." "Cô nghĩ tôi cảm thấy thế nào?"

    Chúng tôi nhìn vào mắt nhau.

    "Clark, giờ đây bất cứ nơi nào tôi tới người ta cũng nhìn tôi như thể tôi không thuộc về nơi đó."

    Chúng tôi ngồi yên lặng khi nhạc nổi lên. Bố Will đang nói chuyện điện thoại trong sảnh, tiếng cười cố nén lan theo sảnh vào khu nhà phụ như thể đến từ một nơi xa lắm. Lối đi dành cho người tàn tật ở đằng kia, người phụ nữ ở cuộc đua ngựa đã nói thế. Như thể anh là một giống loài khác.

    Tôi nhìn vào vỏ đĩa. "Tôi sẽ đi nếu anh đi cùng tôi." "Nhưng như thế đâu phải là tự cô đi."

    "Không khác được."

    Chúng tôi ngồi yên trong khi anh suy ngẫm chuyện này. "Chúa ơi, cô đúng là khó chịu thật đấy."

    "Anh cứ việc nói thế đi."

    Lần này chúng tôi không lên kế hoạch. Tôi không mong đợi gì. Tôi chỉ âm thầm hy vọng rằng sau thất bại ở chuyến đi xem đua ngựa, Will vẫn sẵn sàng ra khỏi khu nhà phụ. Bạn anh, người nhạc công, gửi vé miễn phí cho chúng tôi như đã hứa, kèm theo một tờ **** ghi thông tin địa điểm biểu diễn. Nơi đó cách nhà Will bốn mươi phút lái xe. Tôi chuẩn bị sẵn mọi thứ từ nhà, kiểm tra nơi đỗ xe dành cho người tàn tật, gọi trước cho nhà hát để nắm được cách thuận tiện nhất để đưa xe lăn vào ghế của Will. Họ sẽ cho chúng tôi ngồi trước, tôi ngồi ở ghế gấp bên cạnh Will.

    "Đó thực sự là chỗ ngồi tốt nhất đấy," người phụ nữ ở phòng vé vui vẻ nói. "Khi ngồi ở sàn nhà hát, ngay cạnh ban nhạc, cô sẽ thấy âm nhạc tác động mạnh mẽ hơn. Tôi vẫn luôn khao khát được ngồi ở đó."

    Cô thậm chí còn hỏi chúng tôi xem liệu chúng tôi có muốn có người tới gặp chúng tôi trong bãi đỗ xe để giúp chúng tôi tới chỗ ngồi không. Sợ rằng Will sẽ cảm thấy người ta quan tâm quá đáng, tôi cảm ơn cô rồi bảo không cần.

    Khi buổi tối đó tới, tôi không biết ai trở nên căng thẳng hơn ai, Will hay là tôi. Tôi còn cảm nhận rõ nỗi thất bại của chuyến đi chơi gần đây. Bà Traynor thì chẳng giúp đỡ gì, cứ đi ra đi vào khu nhà phụ tới mười bốn lần để xác nhận buổi biểu diễn sẽ tổ chức ở đâu, khi nào, chính xác thì chúng tôi cần gì.

    Sinh hoạt buổi tối của Will phải thực hiện đầy đủ vào một lúc nào đó, bà nói. Bà cần đảm bảo có người ở đấy để giúp đỡ. Nathan thì có việc riêng rồi. Ông Traynor rõ ràng lại đi chơi tối. "Ít nhất nó cũng phải mất một tiếng rưỡi," bà nói.

    "Và nó sẽ chán kinh hồn," Will nói.

    Tôi nhận ra anh đang kiếm cớ thoái thác để khỏi phải đi. "Tôi sẽ làm việc đó," tôi nói. "Nếu Will cho tôi biết phải làm gì. Tôi không phiền nếu phải ở lại giúp đỡ đâu." Tôi nói ra câu đó trước khi kịp nhận ra mình đang đồng ý làm việc gì.

    "Ồ, đó là điều mà cả hai chúng ta đều mong đợi đấy," Will nói nhát gừng, sau khi mẹ anh đã đi ra. "Cô thấy hết mông má của tôi, còn tôi thì được tắm trên giường bởi một cô nàng mà vừa nhìn thấy da thịt trần trụi thì đã chết ngất."

    "Tôi đâu có chết ngất khi thấy da thịt trần trụi."

    "Clark, tôi chưa thấy ai thiếu thoải mái với cơ thể con người như cô. Cô làm như thể nó là phóng xạ không bằng."

    "Vậy thì để mẹ anh làm đi," tôi phản pháo.

    "Được thôi, vì như thế sẽ khiến toàn bộ ý tưởng ra ngoài đi chơi quyến rũ hơn nhiều."

    Rồi lại còn vấn đề với tủ quần áo. Tôi chẳng biết phải mặc gì.

    Bữa đi xem đua ngựa tôi đã mặc không hợp lý. Làm sao tôi dám chắc tôi sẽ không mắc lại lỗi đó lần nữa? Tôi hỏi Will mặc gì là tốt nhất, anh nhìn tôi như thể tôi bị điên. "Đèn sẽ tắt," anh giải thích. "Chẳng ai nhìn cô đâu. Người ta tập trung vào âm nhạc."

    "Anh chẳng biết tí gì về phụ nữ cả," tôi nói.

    Cuối cùng khi đi làm tôi mang theo bốn bộ đồ khác, nhét tất cả vào cái giỏ đựng suit của bố rồi tống lên xe buýt. Rốt cuộc đó là cách duy nhất tôi có thể thuyết phục mình đi.

    Nathan tới vào buổi trà chiều lúc năm giờ rưỡi, và trong khi ông để mắt đến Will, tôi chui vào phòng tắm để chuẩn bị. Đầu tiên, tôi mặc vào bộ đồ mà tôi nghĩ đúng "gu" của mình nhất, chiếc đầm suôn màu xanh có đính những viên cườm bự chảng màu hổ phách. Tôi tưởng tượng kiểu người đi nghe nhạc chắc hẳn phải âm thầm toát ra vẻ nghệ thuật và khoa trương. Will và Nathan cùng nhìn chằm chằm khi tôi bước vào phòng khách.

    "Không," Will nói thẳng thừng.

    "Trông bộ đó như đồ của mẹ tôi ấy," Nathan nói.

    "Sao chưa bao giờ ông nói mẹ ông là ca sĩ Nana Mouskouri nhỉ," Will đế thêm.

    Tôi nghe rõ tiếng hai người họ cười khùng khục khi tôi chui trở vào phòng tắm.

    Bộ thứ hai là chiếc đầm đen tuyền - cắt chéo, đính cổ và nẹp tay màu trắng - mà tôi tự may lấy cho mình. Trông nó vừa sang trọng vừa ra dáng người Paris, ấy là tôi nghĩ thế.

    "Trông cô như chuẩn bị đi bán kem không bằng," Will nói.

    "Ôi, cô bạn, dù sao cô cũng sẽ thành người phục vụ tuyệt vời đấy," Nathan tán thành. "Mặc bộ đó vào ban ngày thì không sao đâu. Thật đấy."

    "Ông sẽ phải đề nghị cô ấy lần tới phủi bụi diềm váy đi rồi hãy mặc." "Cậu nói phải, cái đầm hơi bụi đấy."

    "Hai người," tôi nói. "Ngày mai trong trà của cả hai sẽ có nước lau nhà Mr Muscle cho xem."

    Tôi bỏ qua bộ đồ thứ ba - chiếc quần ống rộng màu vàng - vì biết trước thể nào Will cũng liên tưởng tới chú gấu Rupert, và thay vì thế mặc vào lựa chọn thứ tư, chiếc đầm vintage vải sa-tanh đỏ đun. Nó được may cho một thời đại tiết kiệm hơn, và tôi luôn phải thầm cầu nguyện rằng tôi có thể kéo khóa qua eo, nhưng nó cho tôi vóc dáng của một ngôi sao trẻ thập niên 1950, và nó là chiếc đầm "thắng lợi", một bộ đồ mà khi mặc ta không thể không cảm thấy mình đẹp. Tôi khoác chiếc áo FH màu bạc qua vai, quàng tấm khăn lụa màu xám quanh cổ để che khe ngực, thoa chút son tiệp màu, rồi bước ra phòng khách.

    "Oa oa," Nathan kêu lên tán thưởng.

    Mắt Will lướt lên lướt xuống bộ đầm của tôi. Tới lúc đó tôi mới nhận ra anh đã thay áo sơ-mi và suit. Râu cạo nhẵn, mái tóc đã cắt gọn gàng, trông anh đẹp trai kỳ lạ. Tôi không thể không nở nụ cười khi nhìn thấy anh như thế. Không phải vì ngoại hình của anh; mà đó là vì anh đã cố gắng.

    "Chiếc này được rồi," anh nói. Giọng anh vô cảm và đều đều một cách kỳ cục. Khi tôi cúi xuống chỉnh viền áo, anh nói thêm, "Nhưng bỏ áo FH ra."

    Anh nói đúng. Tôi biết nó không thật phù hợp. Tôi cởi nó ra, gấp cẩn thận rồi đặt lên thành xe lăn.

    "Cả cái khăn nữa."

    Tôi giật tay lên cổ. "Cái khăn? Tại sao?"

    "Nó không phù hợp. Trông cứ như thể cô đang cố giấu cái gì phía sau nó vậy."

    "Nhưng tôi... ừm, nếu không quàng khăn tôi sẽ lộ hết khe ngực."

    "Thế thì sao?" anh nhún vai. "Nghe này, Clark, nếu cô định mặc loại váy này, cô cần phải mặc nó với lòng tự tin. Cô cần phải đong đầy nó bằng cả thể xác lẫn tinh thần."

    "Trên đời chỉ có anh, Will Traynor, là bảo phụ nữ cách mặc một chiếc đầm đỏ."

    Nhưng tôi bỏ cái khăn ra.

    Nathan đi xếp túi đồ cho Will. Tôi đang nghĩ xem nên nói thêm gì về cái tính kẻ cả quá quắt của anh, thì khi quay lại tôi thấy anh vẫn đang nhìn tôi.

    "Trông cô tuyệt lắm, Clark," anh nói khẽ. "Rất đẹp."

    Tôi đã quan sát mấy phản ứng thường gặp của những người bình thường - những người mà có lẽ Camilla Traynor sẽ gọi là người thuộc "tầng lớp lao động" - khi nhìn thấy Will. Đa số sẽ nhìn chằm chằm. Số ít sẽ mỉm cười tội nghiệp, biểu lộ sự thương cảm, hoặc hỏi tôi với giọng thì thầm như trên phim xem chuyện gì đã xảy ra. Tôi thường rất muốn được đáp lại rằng, "Nhân viên Cơ quan Tình báo MI6 không may bị lộ," chỉ để xem phản ứng của họ, nhưng tôi chưa bao giờ nói thế.

    Còn với tầng lớp trung lưu thì thế này. Họ vờ như không nhìn, nhưng thực chất lại có nhìn. Họ quá lịch sự nên không nhìn chằm chằm. Thay vì thế, họ làm một việc rất kỳ cục là bắt hình Will trong tầm mắt mình nhưng vẫn kiên quyết không nhìn anh. Cho tới khi anh đi qua hẳn, họ sẽ nhìn thẳng về phía anh, dù miệng vẫn tiếp tục trò chuyện với người khác. Nhưng họ không nói về anh. Vì như thế là quá thô lỗ.

    Khi chúng tôi tới sảnh chờ nhà hát Symphony, nơi những nhóm người lịch thiệp đang đứng, tay này cầm túi xách và tờ chương trình, tay kia cầm ly gin và tonic, tôi thấy loại phản ứng này lướt qua họ như một đợt sóng nhẹ nhàng theo chân chúng tôi vào tận chỗ ngồi. Giờ đây khi nghĩ lại, tôi không biết Will có để ý không. Đôi khi tôi nghĩ cách duy nhất để anh đối phó với điều đó là vờ như chẳng thấy gì.

    Chúng tôi ngồi xuống, hai người duy nhất ngồi phía trước khu ghế giữa. Bên phải chúng tôi có một người đàn ông nữa ngồi xe lăn đang trò chuyện rôm rả với hai phụ nữ ngồi hai bên ông. Tôi quan sát họ, hy vọng rằng Will cũng để ý thấy họ. Nhưng mắt anh hướng thẳng phía trước, đầu anh vùi sâu giữa hai vai, như thể anh đang cố để ẩn mình.

    Chuyện này sẽ chẳng đến đâu cả, một giọng nói vang lên trong đầu tôi. "Anh có cần gì không?" tôi thì thầm.

    "Không," anh lắc đầu. Anh nuốt khan. "Thật ra là có. Thứ gì đó đang chui vào cổ áo tôi."

    Tôi cúi lại gần, thò tay vào trong cổ áo anh; một tấm mác còn sót bên trong.

    Tôi lôi nó ra, hy vọng giật được nó đi, nhưng nó ngoan cố trụ lại. "Áo mới. Tấm mác làm anh khó chịu lắm hả?"

    "Không. Tôi chỉ nghĩ tôi mang theo nó cho ngộ thôi." "Anh có mang theo kéo trong túi xách không."

    "Tôi không biết, Clark. Tin hay không tùy cô nhé, tôi chả mấy khi tự mình xếp túi cả."

    Trong túi không có kéo. Tôi liếc ra sau, khán giả vẫn đang dần dần yên vị trên ghế, rì rầm trò chuyện và xem qua tờ chương trình. Nếu Will không thể thư giãn và tập trung vào âm nhạc, buổi đi chơi sẽ thành uổng phí. Tôi không chịu nổi thất bại lần thứ hai.

    "Ngồi yên nhé," tôi nói. "Sao..."

    Trước khi anh kịp dứt câu, tôi vươn người tới, nhẹ nhàng lật cổ áo anh ra, đặt miệng lên đó, kẹp tấm mác phiền toái vào mấy chiếc răng cửa. Mất mấy giây tôi mới cắn đứt được nó, rồi tôi nhắm mắt lại, cố giũ bỏ hương thơm đàn ông sạch mát, giũ bỏ cảm giác da thịt anh ấn vào da thịt tôi, sự vô lý của việc tôi đang làm. Thế rồi cuối cùng, tôi thấy nó rụng ra. Tôi kéo đầu ra và mở mắt, vui mừng, với tấm mác đứt nằm giữa mấy chiếc răng cửa.

    "Được rồi!" tôi nói, lôi tấm mác ra khỏi răng rồi liệng nó xuống dưới ghế. Will nhìn tôi chăm chăm.

    "Gì thế?"

    Tôi quay người trên ghế thì nhận ra khán giả phía sau đột nhiên chúi mắt vào tờ chương trình như thể nó vô cùng hấp dẫn. Rồi tôi quay lại Will.

    "Ôi, thôi nào, đâu thể nào từ trước tới nay người ta chưa từng nhìn thấy một cô gái gặm cổ áo một chàng trai cơ chứ."

    Có vẻ như tôi đã bịt được miệng anh trong thoáng chốc. Will chớp mắt vài cái, khe khẽ lắc đầu. Tôi ngạc nhiên nhận ra là cổ anh đã đỏ dừ.

    Tôi vuốt phẳng váy. "Dù sao," tôi nói, "tôi nghĩ cả hai chúng ta nên biết ơn vì nó không nằm trong quần của anh."

    Thế rồi, trước khi anh kịp đáp trả, ban nhạc bước ra, người mặc vét-tông dạ tiệc, người mặc đầm ****tail, và khán giả im bặt. Trong tôi bỗng trào lên chút phấn khích. Họ bắt đầu chơi nhạc, thế rồi đột nhiên cả khán phòng đong đầy một âm thanh duy nhất - thứ âm thanh ba chiều sống động nhất tôi từng nghe. Nó khiến tôi dựng tóc gáy, hơi thở nghẹn lại trong cổ họng.

    Will nhìn sang tôi, gương mặt anh vẫn mang nét giỡn chơi như mấy phút trước. Okay, vẻ mặt ấy nói. Chúng ta sẽ thưởng thức thứ này.

    Vị nhạc trưởng đứng lên, vỗ hai cái vào bục phát biểu, sự im lặng càng sâu hơn. Tôi cảm thấy sự tĩnh tại, cả khán phòng háo hức chờ mong. Rồi ông đưa cây gậy xuống và đột nhiên tất cả chỉ còn lại âm thanh thuần khiết. Tôi cảm thấy âm nhạc như một thực thể; nó không chỉ nằm trong tai tôi, nó trườn vào trong tôi, bao phủ quanh tôi, khiến mọi giác quan ngân rung. Nó khiến tôi sởn gai ốc và lòng bàn tay tôi ướt đẫm. Will đã không hề mô tả về buổi hòa nhạc như thế này. Tôi đã nghĩ chắc chắn tôi sẽ thấy chán. Không ngờ nó lại là thứ đẹp đẽ nhất tôi từng nghe.

    Và nó khiến trí tưởng tượng của tôi phiêu du ngoài mong đợi; khi tôi ngồi đó, tôi thấy mình nghĩ tới những điều bao nhiêu năm rồi tôi chưa từng nghĩ, những cảm xúc cũ xưa trào sôi trong tôi, những ý tưởng và tâm tư mới dâng lên như thể bản thân tri giác của tôi đang xáo động dữ dội. Nó dường như bao la, nhưng tôi không muốn ngăn nó lại. Tôi muốn ngồi như thế mãi. Tôi lén nhìn sang Will. Anh đang mê ly, bỗng như vô thức. Tôi quay đi, đột nhiên sợ phải nhìn anh. Tôi sợ nghĩ tới những gì anh đang cảm nhận, sự mất mát vô bờ, nỗi sợ hãi khôn dò. Cuộc sống của Will Traynor thật quá xa so với những trải nghiệm trên đời của tôi. Tôi là ai mà có quyền nói với anh rằng lẽ ra anh phải khát sống cuộc đời đó chứ?

    Bạn Will gửi lời nhắn mời chúng tôi cuối buổi vào sau sân khấu gặp anh, nhưng Will không muốn. Tôi giục anh một lần, nhưng nhìn cơ hàm siết chặt của anh, tôi biết chắc anh sẽ không lay chuyển. Tôi không thể trách anh. Tôi nhớ lại cách người bạn làm ăn cũ đã nhìn anh ngày hôm đó - hòa trộn giữa thương hại, khiếp sợ, và đâu đó là cảm giác giải thoát sâu sắc, vì chẳng hiểu sao bản thân họ đã thoát được khỏi cú đòn riêng biệt này của số phận. Tôi nghĩ anh chỉ có thể chịu đựng chừng đó những buổi gặp gỡ kiểu ấy thôi.

    Chúng tôi chờ cho tới khi mọi người về hết, rồi tôi đẩy Will ra, đi thang máy xuống bãi đỗ xe, rồi đưa Will lên ô-tô mà không gặp trở ngại nào. Tôi không nói gì nhiều; đầu tôi vẫn reo vang vì âm nhạc, và tôi không muốn nó phai đi. Tôi vẫn nghĩ hoài về buổi biểu diễn, về cách bạn Will chìm đi trong tiếng đàn anh chơi. Trước đây tôi không nhận ra âm nhạc có thể mở khóa mọi thứ trong ta, có thể đưa ta tới những nơi mà ngay cả người soạn nhạc cũng không lường trước được. Nó để lại dấu chân in hằn trong không khí quanh ta, như thể khi ra về ta mang dư vị của nó theo mình. Một đôi khi, khi chúng tôi ngồi đó giữa khán phòng, tôi đã quên bẵng mất có Will ngồi bên cạnh.

    Chúng tôi từng xe lại bên ngoài khu nhà phụ. Trước mặt chúng tôi, hiện rõ mồn một phía trên bức tường thành, tòa lâu đài đứng đó, tắm đẫm ánh trăng rằm, lặng lẽ nhìn xuống từ đỉnh đồi.

    "Thế cô không thuộc lãnh địa nhạc cổ điển hả." Tôi nhìn gương chiếu hậu. Will đang mỉm cười. "Chẳng thích nó tẹo nào cả."

    "Rõ rồi."

    "Tôi đặc biệt không thích đoạn gần cuối, khi cây đàn violin tự nó ngân lên lời ca."

    "Tôi biết cô không thích đoạn đó. Thực tình, cô ghét nó quá nên mắt cô đầy lệ."

    Tôi cười nhăn nhở với anh. "Tôi thích nó lắm," tôi nói. "Tôi không chắc mình sẽ thích mọi loại nhạc cổ điển, nhưng tôi nghĩ âm nhạc hôm nay quả là kỳ diệu." Tôi xoa mũi. "Cảm ơn. Cảm ơn vì đã đưa tôi đi nghe."

    Chúng tôi ngồi yên lặng, nhìn lên tòa lâu đài. Bình thường vào đêm, nó tắm trong ánh sáng vàng cam của những ngọn đèn lác đác quanh bức tường thành. Nhưng đêm nay, dưới vầng trăng mười sáu, dường như tòa lâu đài ngập một sắc xanh siêu phàm.

    "Anh nghĩ người ta đã chơi loại nhạc nào ở đó?" tôi nói. "Chắc họ đã từng nghe loại nhạc nào đó chứ."

    "Tòa lâu đài ấy hả? Nhạc cụ thời trung đại. Đàn luýt, đàn dây. Không phải thứ tôi rành, nhưng tôi có vài thứ có thể cho cô mượn, nếu cô thích. Cô nên nhét tai nghe vào tai rồi dạo bộ quanh lâu đài, nếu cô muốn trải nghiệm vẹn tròn."

    "Không. Tôi chẳng thích tới lâu đài."

    "Luôn là thế đấy, bụt chùa nhà không thiêng."

    Tôi trả lời vu vơ. Chúng tôi ngồi yên lặng một lát lâu hơn, lắng nghe tiếng máy rù rù nhỏ dần rồi im bặt.

    "Thôi," tôi nói, mở khóa an toàn. "Tốt hơn tôi nên đưa anh vào nhà. Công việc cần làm buổi tối đang chờ."

    "Chờ một phút thôi, Clark."

    Tôi quay người trên ghế. Mặt Will chìm trong bóng tối nên tôi không trông ra.

    "Cứ ngồi yên. Một phút thôi."

    "Anh ổn không?" Tôi thả mắt xuống chiếc xe lăn, lo sợ rằng phần nào đó trên cơ thể anh bị kẹp, bị mắc kẹt, lo sợ tôi đã làm sai điều gì.

    "Tôi ổn. Tôi chỉ..."

    Tôi thấy được cổ áo sáng màu của anh, bộ suit đen tương phản với nó.

    "Chỉ là tôi chưa muốn vào nhà. Tôi chỉ muốn ngồi và không phải nghĩ về..." Anh nuốt khan.

    Dù trong không gian tranh tối tranh sáng, mọi thứ dường như vẫn thật khó nói.

    "Tôi chỉ... muốn là một người đàn ông vừa đi nghe nhạc về cùng một cô gái mặc váy đỏ. Chỉ thêm vài phút nữa thôi."

    Tôi buông tay nắm trên cửa xe. "Được mà."

    Tôi nhắm mắt, ngả đầu lên tấm nệm trên thành ghế, và chúng tôi ngồi cùng nhau thêm một lúc thật lâu, hai con người lạc trong hồi ức âm nhạc, gần như ẩn mình dưới bóng của tòa lâu đài trên đồi trăng.

    Chị em tôi chưa bao giờ nói chuyện rõ ràng về những gì đã xảy ra trong mê cung đêm đó. Mà thực tình tôi không biết chúng tôi phải nói gì nữa. Nó khẽ đỡ tôi dậy, rồi giúp tôi tìm quần áo, sau đó nỗ lực tuyệt vọng tìm kiếm đôi giày của tôi trong bụi rậm cho tới khi tôi bảo nó đừng bận tâm nữa. Dù sao tôi cũng sẽ chẳng bao giờ đi lại đôi giày ấy. Thế rồi chúng tôi chậm rãi đi về nhà - tôi đi chân trần, nó quàng tay qua tay tôi, dù chúng tôi đã không đi với nhau như thế kể từ ngày nó vào lớp một, và mẹ tôi cứ khăng khăng rằng tôi không bao giờ để nó khoác tay.

    Khi về tới nhà, chúng tôi đứng trên thềm, nó vuốt tóc tôi, chùi mắt cho tôi bằng miếng khăn giấy ướt, rồi chúng tôi mở khóa cửa trước và bước vào như thể chẳng có chuyện gì xảy ra.

    Bố vẫn còn thức xem bóng đá. "Hai cô con gái về hơi trễ đấy nhé," ông gọi với ra. "Bố biết hôm nay là thứ Sáu, nhưng mà..."

    "Được rồi bố," chúng tôi đồng thanh đáp to.

    Hồi đó, phòng riêng của tôi là phòng mà hiện nay ông ngoại ở. Tôi đi nhanh lên lầu, và trước khi em gái kịp nói gì, tôi đóng cửa lại sau lưng.

    Tuần sau đó, tôi cắt phéng tóc. Tôi trả vé máy bay. Tôi không đi chơi với đám bạn gái cùng trường cũ nữa. Mẹ quá chìm đắm trong nỗi buồn đau nên chẳng để ý gì, bố thì gọi sự thay đổi tâm trạng trong nhà và thói quen mới thường xuyên khóa cửa trong phòng riêng của tôi là "vấn đề phụ nữ". Tôi đã hiểu ra mình là ai, đó là một người hoàn toàn khác cô gái cười khúc khích say xỉn với đám người lạ. Đó là người chẳng biết mặc cái gì có thể gọi là khêu gợi. Dù sao đi nữa, quần áo cũng chẳng phải là thứ lôi cuốn những gã tới nhậu trong quán Red Lion.

    Cuộc sống trở lại bình thường. Tôi nhận việc ở hiệu cắt tóc, rồi quán Bánh Bơ, bỏ lại mọi điều phía sau lưng.

    Từ ngày ấy tôi đã đi qua tòa lâu đài cả năm ngàn lần. Nhưng tôi không bao giờ đi vào mê cung nữa.
  5. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 13

    Patrick đứng bên mép đường, giậm chân chạy tại chỗ, chiếc áo phông và quần soóc Nike mới cứng của anh ôm sát vào chân tay bóng nhẫy. Tôi phải ghé qua chào để báo cho anh biết tôi không thể tham dự cuộc gặp của hội Triathlon Terrors tại quán rượu tối mai được. Nathan nghỉ làm nên tôi phải làm thay các công việc buổi tối cho Will.

    "Đây là cuộc họp thứ ba mà em vắng mặt rồi." "Thật thế sao?" Tôi đếm ngón tay. "Chắc đúng rồi."

    "Tuần sau em phải có mặt đấy. Sẽ bàn toàn bộ kế hoạch đi lại cho nhóm Xtreme Viking. Mà em cũng chưa nói với anh em muốn làm gì trong ngày sinh nhật." Anh bắt đầu thực hiện các động tác co duỗi, nâng chân lên cao rồi ép ngực vào đầu gối. "Đi xem phim nhé? Anh không muốn ăn uống thịnh soạn, vì đợt này anh đang luyện tập."

    "À. Bố mẹ dự định tổ chức một bữa tối rất đặc biệt rồi." Anh cầm một bên gót chân, hướng đầu gối xuống dưới đất.

    Tôi không thể không để ý thấy cái chân đó của anh bắt đầu trở nên gân guốc một cách lạ lùng.

    "Đó không phải là một bữa đi nhà hàng ăn tối đúng không?"

    "Ôi, thì cũng chẳng phải một buổi xem phim. Nhưng dù sao em vẫn cảm thấy nên như vậy, Patrick. Mẹ đang hơi buồn."

    Treena đã đi từ cuối tuần trước (không thể mang theo chiếc túi du lịch in hình trái chanh của tôi - tôi đã lấy lại cái túi đêm trước hôm nó đi). Mẹ rất đau khổ; lần này thật sự tệ hơn rất nhiều so với lần đầu Treena đi học đại học.

    Mẹ nhớ Thomas như rụng cánh tay. Đồ chơi của nó, vốn dĩ vứt đầy trên nền phòng khách trong suốt thời thơ ấu đã được đóng hộp cất đi. Không còn những thanh sôcôla hay hộp sữa nhỏ trong tủ. Bà không còn lý do để tới trường vào lúc ba giờ mười lăm chiều, không còn ai nói chuyện trên quãng đường ngắn ngủi trở về nhà. Trước đây, đó là khoảng thời gian duy nhất mẹ thật sự ra khỏi nhà mỗi ngày. Bây giờ thì mẹ hoàn toàn chẳng đi đâu nữa, ngoại trừ đi siêu thị hằng tuần với bố.

    Mẹ dật dờ trong nhà suốt ba ngày trông như mất hồn, rồi mẹ bắt đầu dọn dẹp nhà đầu xuân với sự miệt mài khiến ông ngoại cũng phát hoảng. Ông rên khe khẽ phản đối khi mẹ cố gắng hút bụi dưới chiếc ghế mà ông đang ngồi hay khi gạt chổi trúng vào vai ông. Treena nói nó sẽ không về nhà trong vài tuần đầu tiên để Thomas có thời gian làm quen. Mỗi tối khi nó gọi về, mẹ nói chuyện với mẹ con nó rồi sau đó nằm trên giường khóc trọn nửa giờ đồng hồ.

    "Mấy hôm nay em toàn phải làm việc muộn. Anh có cảm giác hầu như không thể gặp được em."

    "Ờ, còn anh thì lúc nào cũng luyện tập. Nhưng mà kiếm được khá tiền Patrick ạ. Em khó mà nói không với việc làm thêm giờ được."

    Anh không thể cãi lại điều đó.

    Tôi đang kiếm được nhiều tiền hơn bất cứ thời điểm nào trong cuộc đời. Tôi đưa cho bố mẹ gấp đôi số tiền trước đây, hằng tháng để một ít vào tài khoản tiết kiệm, thế mà vẫn còn lại số tiền nhiều hơn số tôi cần tiêu. Một phần đó là vì tôi đã làm việc nhiều giờ đến nỗi chẳng bao giờ rời khỏi nhà Granta khi các cửa hiệu còn mở cửa. Một phần khác đơn giản là vì tôi thật sự không có nhu cầu tiêu pha gì nhiều. Những giờ rảnh rỗi có được tôi lên thư viện, tra cứu thông tin trên internet.

    Có cả một thế giới sẵn sàng bày ra trước mắt tôi từ chiếc máy tính cá nhân đó, tầng tầng lớp lớp, và nó bắt đầu đem lại những điều đầy thú vị.

    Bắt đầu là lá thư cảm ơn. Một vài ngày sau buổi hòa nhạc, tôi nói với Will rằng tôi định viết thư cảm ơn anh bạn nghệ sĩ violin của anh.

    "Tôi đã mua một chiếc thiệp rất đẹp trên đường đến đây," tôi nói. "Anh hãy nói cho tôi biết anh muốn nói gì để tôi viết vào. Tôi cũng mang theo cả một cái bút viết rất đẹp nữa."

    "Tôi không nghĩ vậy," Will nói. "Sao cơ?"

    "Cô nghe thấy tôi nói rồi đấy."

    "Anh không nghĩ vậy? Anh ấy đã giúp cho chúng ta ngồi hàng trên. Anh đã nói là thật tuyệt vời mà. Ít ra thì anh cũng có thể cảm ơn anh ấy chứ."

    Quai hàm của Will vẫn bất động, không di chuyển.

    Tôi đặt bút xuống. "Hay anh chỉ quen với vệc người ta làm cho anh còn anh thì không cảm thấy mình phải làm gì cho người ta?"

    "Cô không hiểu gì đâu Clark, cảm giác tức giận đến mức nào khi phải dựa vào một người khác để viết ra những lời của mình. Cái cụm từ 'viết thay mặt cho' thật... quá nực cười."

    "Thật sao? Rõ ràng là vẫn còn tốt hơn hoàn toàn chẳng nói gì mà," tôi càu nhàu. "Dù sao tôi cũng sẽ cảm ơn anh ấy. Tôi sẽ không đề cập đến tên anh, nếu anh thật sự muốn làm một thằng tồi trong chuyện này."

    Tôi viết tấm thiệp rồi gửi đi. Tôi không nhắc gì đến chuyện đó nữa. Nhưng tối hôm đó, những lời nói của Will cứ vang lên trong đầu tôi, tôi vùi đầu trong thư viện, tra cứu trên một chiếc máy tính còn trống, tôi truy cập internet. Tôi tìm kiếm xem có loại thiết bị nào Will có thể sử dụng để tự mình viết ra được không. Trong một tiếng đồng hồ tôi tìm ra được ba loại - một loại là phần mềm nhận biết giọng nói, một loại phần mềm khác dựa trên cái nháy mắt và, như em gái tôi đã từng đề cập, một loại thiết bị gõ đeo trên đầu.

    Tất nhiên anh xem thường chẳng thèm quan tâm đến cái thiết bị gắn vào đầu nhưng thừa nhận rằng phần mềm nhận biết tiếng nói có thể rất hữu ích, thế nên trong vòng một tuần, cùng với sự giúp đỡ của Nathan, chúng tôi đã nỗ lực cài phần mềm này vào máy tính của anh, thiết lập cho anh để với chiếc khay đặt máy tính gắn vào xe lăn, anh không còn phải cần đến một ai đó khác đánh máy giúp mình. Ban đầu anh hơi lúng túng, nhưng sau khi tôi hướng dẫn anh để bắt đầu mọi thứ với nó, "Nhận thư này, cô Clark," anh đã làm được.

    Ngay cả bà Traynor cũng không tìm ra lý do gì để phàn nàn. "Nếu có bất kỳ loại thiết bị nào mà cô nghĩ có thể cần thiết," bà nói, hai môi vẫn mím lại giống như thể bà không tin nó là một thứ thật sự tốt, "hãy nói cho chúng tôi biết." Bà nhìn Will một cách căng thẳng như thể anh sắp vặn món đồ đó ra bằng quai hàm đến nơi.

    Ba ngày sau đó, đúng lúc tôi chuẩn bị đi làm, người đưa thư trao cho tôi một lá thư. Tôi mở thư trên xe buýt, nghĩ rằng nó có thể là một tấm thiệp mừng sinh nhật sớm của một người họ hàng nào đó ở xa. Thư được viết bằng chữ đánh máy:

    Gửi cô Clark,

    Thư này để cho cô thấy rằng tôi không hẳn là một thằng tồi ích kỷ. Và tôi thật sự đánh giá cao nỗ lực của cô.

    Cảm ơn. Will

    Tôi cười lớn tới nỗi bác tài xế xe buýt phải hỏi xem có phải tôi trúng số không.

    Sau những năm sống trong cái gác lửng, quần áo phải treo trên một thanh ngang ở bên ngoài hành lang, căn phòng của Treena mang lại cảm giác như một cung điện. Đêm đầu tiên ở trong căn phòng đó, tôi đã dang rộng tay quay vòng quanh chỉ để hưởng cảm giác sung sướng khi không thể chạm cả hai bức tường cùng một lúc. Tôi đến cửa hàng tự phục vụ để mua sơn và rèm cửa mới, cùng với một chiếc đèn ngủ và vài cái giá mà tôi thấy hợp với mình. Không phải bởi vì tôi giỏi những công việc này; tôi nghĩ chỉ là tôi muốn xem liệu tôi có thể làm được không.

    Tôi bắt tay vào trang trí lại, quét sơn mỗi buổi tối một tiếng đồng hồ khi trở về nhà sau giờ làm việc và đến cuối tuần ngay cả bố tôi cũng phải công nhận tôi đã làm thực sự rất tốt. Ông nhìn chằm chằm một lúc vào những đường sơn tôi quét, chỉ vào những tấm rèm mà tôi đã tự treo và đặt tay lên vai tôi. "Con làm việc này giỏi lắm, Lou."

    Tôi mua một chiếc chăn lông vịt mới, một tấm thảm và vài chiếc gối ôm ngoại cỡ - đề phòng trường hợp có ai đó ghé qua phòng và muốn dựa người. Nói vậy không có nghĩa có người nào muốn ghé phòng tôi. Cuốn lịch được treo ở phía sau cánh cửa mới. Không ai nhìn thấy nó ngoại trừ tôi. Dù sao chẳng có ai khác có thể hiểu được ý nghĩa của nó.

    Tôi cảm thấy mình hơi tệ vì sự thật là một khi đã đặt chiếc giường xếp của Thomas bên cạnh giường của Treena trên căn gác lửng thì sẽ chẳng còn chút không gian nào nữa, nhưng rồi tôi tự giải thích - mẹ con nó thực ra đâu còn sống ở đây. Và gác lửng cũng chỉ là nơi để ngủ thôi. Chẳng có lý do gì để trống căn phòng rộng rãi này suốt cả tuần.

    Hằng ngày đi làm tôi vẫn nghĩ về những nơi khác nữa mà tôi có thể đưa Will đến. Tôi chưa có một kế hoạch lớn nào, tôi chỉ tập trung vào việc mỗi ngày đưa anh ra khỏi nhà đi loanh quanh và cố gắng làm anh cảm thấy hạnh phúc. Cũng có những ngày - những ngày khi mà tay chân anh đau đớn hoặc khi những vết thương nhiễm trùng, anh nằm sốt khốn khổ trên giường - khó khăn hơn những ngày khác. Nhưng trong những ngày khả quan hơn tôi cố gắng đưa anh ra ngoài ngắm ánh nắng mùa xuân nhiều lần. Tôi biết giờ đây một trong những điều mà Will ghét nhất là sự thương hại của người lạ, vậy nên tôi chở anh đến những cảnh đẹp trong vùng, nơi mà có những khi trong khoảng chừng một tiếng đồng hồ chỉ có hai chúng tôi. Tôi tạo ra những cuộc picnic để chúng tôi được ngồi ngoài trời, bên rìa những cánh đồng, chỉ để hưởng những làn gió mát và rời xa khu nhà phụ.

    "Bạn trai tôi muốn gặp anh," tôi nói với anh vào một buổi chiều khi đang cắt nhỏ những mẩu pho mát và sandwich nhân dưa leo muối cho anh.

    Tôi đã lái xe nhiều dặm ra ngoài thị trấn, lên một ngọn đồi, từ đó chúng tôi có thể nhìn thấy tòa lâu đài ở bên kia, cách chúng tôi những cánh đồng chăn cừu.

    "Tại sao?"

    "Anh ấy muốn biết tôi đang ở cùng ai vào tất cả những buổi tối muộn." Thật lạ lùng, tôi có thể thấy anh cảm nhận điều này khá thú vị.

    "Ông Chạy."

    "Tôi nghĩ bố mẹ tôi cũng muốn."

    "Tôi thấy căng thẳng khi có một cô gái nói cô ấy muốn tôi gặp bố mẹ cô ấy đấy nhé. Nhưng mà mẹ cô dạo này thế nào?"

    "Vẫn thế."

    "Công việc của bố cô thì sao? Có gì mới không?"

    "Không. Tuần sau có tin, hiện giờ họ trả lời với ông ấy như vậy. Dù sao bố mẹ tôi vẫn hỏi tôi có muốn mời anh đến tham dự tiệc sinh nhật tôi vào tối thứ Sáu không? Mọi người đều rất thoải mái. Chỉ có gia đình thôi. Nhưng tốt rồi... tôi nói là anh sẽ không muốn đến đâu."

    "Ai bảo tôi sẽ không muốn đến?"

    "Anh ghét người lạ. Anh không thích ăn trước mặt mọi người. Anh cũng không ưa gì bạn trai của tôi. Chẳng cần suy nghĩ nhiều tôi cũng biết rồi."

    Giờ đây tôi đã hiểu được Will. Cách tốt nhất để khiến Will làm một việc gì đó là nói với anh rằng tôi biết anh không muốn làm việc ấy đâu. Phần tính cách bướng bỉnh, chống đối trong anh sẽ không chịu được điều đó.

    Will suy nghĩ một lát. "Không. Tôi sẽ đến dự sinh nhật cô. Phải cho mẹ cô điều gì đó để quan tâm chứ, nếu bà không còn mối quan tâm nào khác nữa."

    "Thật chứ? Ôi Chúa ơi, nếu tôi nói ra mẹ sẽ bắt đầu đánh chùi lau dọn từ đêm nay cho coi."

    "Cô có chắc đó là mẹ đẻ của cô không đấy? Chẳng phải là mẹ con thì phải có tí giống nhau di truyền nào sao? Cho miếng sandwich nữa đi cô Clark. Thêm một ít dưa leo muối nhé."

    Chỉ một nửa trong câu nói của tôi là đùa. Mẹ tôi vô cùng bối rối với ý nghĩ phải tiếp một vị khách bị liệt tứ chi. Bà đưa tay ôm lấy mặt rồi bắt đầu sắp xếp lại đồ đạc trên tủ như thể anh sẽ đến ngay trong vòng vài phút sau khi tôi nói với bà.

    "Nhưng phải làm thế nào nếu cậu ấy muốn đi vệ sinh? Nhà mình làm gì có phòng tắm ở tầng trệt. Mẹ không nghĩ là một mình bố có thể bưng được cậu ấy lên lầu đâu. Mẹ có thể giúp... nhưng mẹ hơi lo không biết đặt tay vào chỗ nào. Patrick làm việc đó được không?"

    "Mẹ không cần phải lo lắng về những việc như vậy đâu. Thật đấy."

    "Thế còn thức ăn cho cậu ấy? Cậu ấy có cần những món nghiền không? Có món gì cậu ấy không ăn được không?"

    "Không, anh ấy chỉ cần đút thức ăn thôi." "Ai làm việc đó?"

    "Con làm. Thoải mái đi mẹ. Anh ấy rất dễ thương. Mẹ sẽ thích anh ấy."

    Và mọi thứ đã được sắp xếp xong. Nathan đưa Will lên xe, chở anh đến rồi quay lại đón anh sau hai tiếng và tiếp tục công việc hằng đêm. Tôi đã đề nghị để tôi làm, nhưng cả hai người khăng khăng tôi nên "thảnh thơi hoàn toàn" trong ngày sinh nhật của mình. Họ rõ ràng là chưa hiểu gì về bố mẹ tôi.

    Đúng chính xác bảy giờ ba mươi phút tối, tôi mở của chính để đón Will và Nathan ở ngoài cổng trước. Will mặc áo sơ-mi và vét-tông lịch sự. Tôi không biết nên vui vì anh đã rất nỗ lực hay nên lo lắng vì mẹ tôi sẽ phải trải qua hai giờ đồng hồ đầu tiên của buổi tối băn khoăn không biết bà ăn mặc đủ lịch sự chưa.

    "Chào anh,"

    Bố chạy vội ra đường ngay sau tôi. "Aha. Các anh xem đường trượt này đã ổn chưa?" Bố đã hì hục suốt cả buổi chiều để làm tấm ván trượt nhỏ cho bậc tam cấp bên ngoài.

    Nathan cẩn thận điều chỉnh chiếc xe lăn của Will lên con đường vào chật hẹp của nhà tôi. "Tốt lắm," Nathan nói khi tôi khép cửa nhà lại sau lưng ông. "Rất tốt. Tôi thấy mấy đường trượt trong bệnh viện đâu có được như vầy."

    "Bernard Clark." Bố đưa tay ra bắt tay Nathan. Ông đưa tay về phía Will rồi vội rút lại với một thoáng giật mình bối rối. "Ber... nard. Xin lỗi, ừm... tôi không biết làm thế nào để chào một... tôi không thể bắt tay cậu..." Ông bắt đầu nói lắp bắp.

    "Một cái cúi chào là tốt rồi."

    Bố tôi nhìn anh chằm chằm rồi sau đó khi nhận ra Will nói đùa, ông cười to đầy nhẹ nhõm. "Haha!" ông vừa nói vừa vỗ vỗ lên vai Will. "Phải, phải. Cúi đầu chào. Ý hay lắm. Haha!"

    Chuyện đó phá tan không khí lạnh lẽo. Nathan rời nhà tôi với một cái vẫy tay chào và nháy mắt, sau đó tôi đẩy Will xuống gian bếp. Mẹ tôi, thật may mắn làm sao, đang bưng một nồi thức ăn nên bà tránh được tình huống bối rối tương tự.

    "Mẹ, đây là Will. Will, mẹ tôi Josephine."

    "Hãy gọi tôi là Josie." Bà tươi cười nhìn Will, đôi găng tay nhắc nồi dài lên tận khuỷu. "Thật vui khi cuối cùng cũng được gặp cậu, Will."

    "Rất vui được gặp bác," anh nói. "Đừng để cháu làm bác gián đoạn."

    Bà đặt chiếc nồi xuống rồi đưa tay vuốt tóc, một hành động quen thuộc của mẹ tôi. Mỗi khi bối rối bà không thể nhớ nổi phải bỏ găng tay ra trước đã.

    "Xin lỗi," bà nói. "Món nướng. Mọi thứ phải làm đúng giờ, cậu biết rồi đấy."

    "Cháu không rõ lắm đâu," Will nói. "Cháu không biết nấu ăn. Nhưng cháu rất thích các món ngon. Đó là lý do vì sao cháu rất chờ tối nay."

    "Thế..." bố tôi mở cửa tủ lạnh. "Chúng ta phải làm thế nào được nhỉ? Cậu có chiếc... cốc uống bia đặc biệt nào không, Will?"

    Tôi nói với Will, nếu phải trường hợp bố, ông sẽ kiếm một chiếc cốc uống bia phù hợp trước khi kiếm xe lăn.

    "Phải hưởng quyền ưu tiên của ta chứ," bố nói. Tôi tìm được trong túi xách của Will chiếc cốc bê-se của anh.

    "Bia sẽ rất tuyệt. Cảm ơn bác."

    Anh uống một ngụm còn tôi đứng trong gian bếp, đột nhiên để ý đến căn nhà bé nhỏ tồi tàn của chúng tôi với những tờ giấy dán tường từ thập niên 80 và những chiếc tủ bếp sứt mẻ. Nhà Will được lắp đặt nội thất sang trọng, không gian rộng rãi và đẹp mắt. Nhà chúng tôi trông giống như 90 phần trăm đồ đạc được lấy ra từ cửa hàng từ thiện trong thị trấn. Những tấm tranh vẽ quăn queo của Thomas dán đầy mọi khoảng trống trên bức tường. Không biết có để ý không, nhưng Will chẳng nói gì. Anh và bố tôi đã nhanh chóng tìm thấy một chuyện quan tâm chung đó là sự vô tích sự của tôi. Tôi không phật lòng. Câu chuyện đó làm cả hai người thích thú.

    "Cậu biết không, nó đã từng lùi xe đâm phải cọc buộc thuyền và thề rằng đó là lỗi của cái cọc..."

    "Bác phải xem cô ấy hạ tấm ván trượt cho cháu ấy. Đôi khi thật chẳng khác gì người ta trượt tuyết từ xe hơi ra vậy..."

    Bố tôi cười phá lên.

    Tôi để mặc hai người với câu chuyện đó. Mẹ theo tôi ra ngoài vẻ bực bội. Bà đặt một khay đựng cốc lên bàn ăn rồi nhìn đồng hồ chằm chằm. "Patrick đâu rồi?"

    "Anh ấy sẽ đến thẳng đây từ chỗ luyện tập," tôi nói. "Có lẽ anh ấy bị kẹt xe." "Nó không thể nghỉ một hôm vào sinh nhật con được à? Món gà sẽ hỏng mất nếu nó còn đến muộn nữa." "Mẹ à, sẽ ổn thôi mà."

    Tôi chờ mẹ đặt khay cốc xuống rồi vòng tay ôm bà. Người mẹ đang gồng lên vì lo lắng. Tôi đột nhiên cảm thấy trỗi lên lòng cảm thương với mẹ. Cuộc sống của mẹ tôi thật chẳng dễ dàng gì.

    "Ừ phải. Sẽ ổn thôi."

    Mẹ buông tôi ra, hôn lên đầu tôi rồi cọ hai bàn tay vào tạp dề. "Mẹ ước gì có em gái con ở đây. Thật buồn khi lễ sinh nhật mà không có nó."

    Với tôi thì không có nó chẳng sao hết. Chỉ một lần thôi, tôi được hưởng trọn vẹn cảm giác làm trung tâm của sự chú ý. Nghe quá trẻ con nhưng đó lại là sự thật. Tôi hạnh phúc khi Will và bố cười đùa về chuyện của tôi. Tôi hạnh phúc vì tất cả các món ăn của bữa tối - từ món gà rán đến kem sô-cô-la - đều là món yêu thích của tôi. Tôi thích cảm giác mình có thể làm con người mình muốn mà không có giọng nói của cô em gái gợi nhắc rằng tôi đã như thế nào.

    Chuông cửa vang lên, mẹ tôi vỗ vỗ hai tay. "Cậu ấy đến đây rồi. Lou, sao con không bắt đầu dọn bàn ăn đi?"

    Patrick mặt vẫn còn đỏ bừng vì những nỗ lực trên đường tập. "Chúc mừng sinh nhật, em yêu," anh nói, cúi người hôn tôi. Anh toát ra mùi nước hoa cạo râu, lăn khử mùi và hương thơm ấm áp của làn da mới tắm xong.

    "Tốt nhất là anh nên đi vào luôn đi." Tôi hất đầu về phía phòng khách. "Mẹ sắp hết kiên nhẫn với chuyện thời gian rồi đấy."

    "Ồ." Anh nhìn xuống đồng hồ. "Xin lỗi. Chắc quên để ý thời gian." "Dù sao thì cũng không phải thời gian của anh, nhỉ?"

    "Sao cơ?"

    "Chẳng có gì."

    Bố đưa chiếc bàn xếp lớn ra phòng khách. Dưới sự hướng dẫn của tôi, bố cũng kéo một trong những chiếc sofa áp sang bức tường khác để Will có thể vào phòng mà không gặp trở ngại nào. Anh điều khiển xe lăn vào vị trí mà tôi đã chỉ rồi tự nâng xe lên một chút để có chiều cao ngang với tất cả mọi người. Tôi ngồi phía bên trái anh còn Patrick ngồi đối diện. Anh và Will và ông ngoại gật đầu chào nhau. Tôi đã nhắc nhở Patrick từ trước là không được bắt tay. Dù đã ngồi xuống, tôi vẫn có thể cảm thấy Will đang dò xét Patrick và tôi thoáng băn khoăn tự hỏi không biết anh có cuốn hút được bạn trai tôi giống như anh đã tạo được với bố mẹ tôi không.

    Will quay đầu về phía tôi. "Nếu cô tìm ở phía sau lưng xe, sẽ có một thứ nho nhỏ cho bữa tối đấy."

    Tôi dựa người ra sau và với tay vào chiếc túi của anh. Tôi ngồi thẳng lại, lấy ra một chai sâm-banh Laurent-Perrier.

    "Cô luôn phải có sâm-banh trong ngày sinh nhật của mình đấy nhé," anh nói. "Ôi, xem kìa," mẹ thốt lên khi bưng những đĩa thức ăn vào. "Tuyệt quá!

    Nhưng chúng ta không có ly uống sâm-banh."

    "Những chiếc ly này là được rồi ạ," Will nói.

    "Để tôi mở." Patrick với tay lấy chai rượu, tháo dây sắt quanh cổ chai rồi đặt hai ngón tay cái bên dưới nút chai. Anh vẫn liên tục liếc về phía Will như thể anh chẳng chờ đợi sự có mặt của Will chút nào.

    "Nếu anh làm như thế," Will nói, "nó sẽ tóe ra khắp nơi đấy." Anh nâng cánh tay lên được khoảng vài phân, làm một cử chỉ mơ hồ. "Tôi thấy nên giữ chiếc nút rồi quay quay chai rượu xem ra sẽ an toàn hơn."

    "Phải có ai đó biết cách mở chai sâm-banh này chứ," bố nói. "Cháu làm đi, Patrick. Cậu nói gì nhỉ, quay quay cái chai đúng không? Ai biết cách làm?"

    "Cháu biết," Patrick nói. "Cháu đã định làm như vậy mà."

    Chai sâm-banh nổ bốp và phun lên một cách an toàn, buổi sinh nhật của tôi được nâng cốc chúc mừng.

    Ông ngoại gọi to lên một tiếng gì đó nghe như là, "Nghe nào, nghe nào."

    Tôi đứng dậy cúi đầu. Tôi đang mặc chiếc váy chữ A màu vàng của thập niên 1960 kiếm được ở cửa hàng từ thiện. Cô bán hàng cho rằng nó có thể là đồ của hãng Biba tuy nhiên mác váy đã bị cắt.

    "Chúc cho năm nay cuối cùng Lou của chúng ta cũng trưởng thành," bố nói. "Tôi muốn nói là 'làm được điều gì đó với cuộc đời của nó' nhưng hình như sau cùng nó đã làm rồi. Tôi phải nói với cậu, Will ạ, kể từ khi làm việc cho cậu nó đã - phải, nó đã thật sự thoát ra được khỏi chính mình."

    "Hai chúng tôi rất tự hào," mẹ nói. "Và biết ơn. Tới cậu. Vì đã tuyển nó, ý tôi là vậy."

    "Cháu phải biết ơn mới phải chứ ạ," Will nói. Anh liếc về phía tôi. "Chúc mừng Lou," bố nói. "Chúc con tiếp tục thành công."

    "Chúc cả những thành viên gia đình vắng mặt," mẹ nói.

    "Ôi trời ơi," tôi nói. "Con phải tổ chức sinh nhật thường xuyên hơn mới được. Hầu như ngày nào tất cả mọi người cũng chỉ biết mắng mỏ con thôi."

    Mọi người bắt đầu nói chuyện, bố kể cho mọi người nghe vài câu chuyện khác nữa về tôi làm cả bố và mẹ cười rất to. Thật vui khi được nhìn bố mẹ cười. Mấy tuần vừa rồi trông bố đã rất suy sụp còn mẹ thì hai mắt trũng sâu và thẫn thờ giống như đang ở một nơi nào khác. Tôi muốn hưởng thụ những giây phút này khi bố mẹ thoáng quên đi những nỗi niềm của mình, được chia sẻ những chuyện đùa vui và tình thương mến gia đình. Trong một lát tôi nhận ra tôi sẽ không chút phiền lòng nếu Thomas có mặt ở đây. Hay cả Treena nữa.

    Tôi đã quá chìm vào ý nghĩ của mình đến nỗi phải mất cả phút đồng hồ mới nhận ra cảm xúc của Patrick. Tôi đang đút cho Will ăn trong lúc nói chuyện với ông ngoại, nhón một miếng cá hồi xông khói đặt vào miệng Will. Giờ đây đó là một phần vô thức trong cuộc sống thường nhật của tôi, thế nên tôi chỉ giật mình nghĩ tới cử chỉ gần gũi đó khi tôi nhìn thấy vẻ kinh ngạc trên gương mặt Patrick.

    Will đang nói chuyện gì đó với bố còn tôi nhìn chằm chằm vào Patrick, hi vọng anh sẽ dừng lại. Bên tay trái anh, ông ngoại ăn từng miếng trên đĩa rất thích thú, phát ra những tiếng nhai mà gia đình tôi vẫn gọi là "tiếng kêu của thức ăn" - những tiếng rột roạt và chóp chép khe khẽ vui tai.

    "Món cá hồi ngon lắm," Will nói với mẹ tôi. "Mùi vị rất tuyệt vời."

    "Vậy à, đây không phải là món ăn mà gia đình tôi có thể ăn hằng ngày đâu," mẹ tôi mỉm cười nói. "Nhưng tôi rất muốn ngày hôm nay thật đặc biệt."

    Thôi nhìn đi, tôi âm thầm ra hiệu cho Patrick.

    Sau cùng, anh nhìn vào mắt tôi rồi quay đi. Trông anh rất tức giận.

    Tôi đút cho Will một miếng nữa rồi thêm một ít bánh mì khi tôi thấy anh liếc nhìn mẩu bánh. Trong giây phút đó tôi nhận ra mình đã nắm bắt được toàn bộ nhu cầu của Will đến mức tôi hầu như không cần nhìn mà vẫn biết được anh muốn gì. Patrick, ngồi đối diện, đang cúi đầu ăn, cắt cá hồi xông khói thành những miếng nhỏ rồi xiên chúng bằng dĩa. Anh trừ miếng bánh mì lại.

    "Anh Patrick," Will nói, có lẽ anh cảm nhận được sự không thoải mái của tôi. "Louisa nói với tôi anh là một người luyện tập chuyên nghiệp. Anh làm những gì?"

    Tôi mong ước làm sao anh đừng hỏi câu đó. Patrick bắt đầu bài diễn văn quảng cáo bất tận của anh, về chuyện vận động cơ thể, rồi chuyện một cơ thể khỏe mạnh sẽ tạo ra một trí tuệ khỏe mạnh như thế nào. Rồi sau đó anh chuyển sang lịch luyện tập của anh cho nhóm Xtreme Viking - nhiệt độ của vùng Biển Bắc, tỉ lệ mỡ trong cơ thể thích hợp cho chạy marathon, những thời gian thích hợp nhất cho từng phương pháp luyện tập.

    Tôi thường làm ngơ trước chủ đề này nhưng bây giờ, có Will ngồi bên cạnh, tất cả những gì tôi có thể nghĩ là chủ đề ấy không thích hợp đến mức nào. Tại sao anh không thể chỉ nói sơ sơ rồi bỏ qua chủ đề đó?

    "Sự thật lúc Lou nói với tôi anh đến đây, tôi đã nghĩ tôi nên đọc qua mấy cuốn sách của tôi để xem coi có phương pháp vật lý trị liệu nào tôi có thể giới thiệu cho anh không."

    Tôi sặc rượu sâm-banh. "Đó là việc chuyên môn, Patrick. Em không chắc anh hiểu rõ được đâu."

    "Anh có thể làm chuyên gia mà. Anh đã gặp những chấn thương trong thể thao. Và đã được huấn luyện về trị thương."

    "Đây không phải là việc trẹo mắt cá chân, Pat. Không phải."

    "Có một người tôi đã làm việc cùng vài năm trước có khách hàng bị liệt hai chân. Anh ấy nói là bây giờ ông ta đã hoàn toàn bình phục. Có thể tham gia cuộc thi ba môn phối hợp và làm mọi việc."

    "Tuyệt thế," mẹ tôi nói.

    "Anh ấy chỉ cho tôi nghiên cứu mới này ở Canada cho rằng cơ bắp cũng có thể luyện tập để hồi nhớ lại những hoạt động trước đây. Nếu anh khiến chúng hoạt động đầy đủ, hằng ngày, thì cũng sẽ giống như một khớp thần kinh - có thể hồi phục được. Tôi cá với anh là nếu chúng ta chuẩn bị cho anh một chế độ luyện tập thật sự tốt, anh có thể thấy khác biệt trong việc gợi nhớ hoạt động của cơ bắp. Rốt cuộc, Lou cũng có nói với tôi trước đây anh đúng là một người đàn ông hành động mà."

    "Patrick," tôi nói to lên. "Anh đâu có biết gì về chuyện này." "Anh chỉ cố gắng để..."

    "Thôi không cần. Thật đấy."

    Cả bàn ăn rơi vào im lặng. Bố tôi ho một tiếng rồi xin lỗi mọi người. Ông ngoại nhìn xung quanh bàn với sự im lặng đầy cảnh giác.

    Mẹ làm bộ mời mọi người ăn thêm bánh mì rồi sau đó lại thôi.

    Khi Patrick cất tiếng trở lại, có một thoáng ân hận mơ hồ trong giọng nói của anh. "Đó chỉ là nghiên cứu mà tôi nghĩ có thể sẽ có ích. Nhưng tôi sẽ không nói thêm gì nữa."

    Will ngước lên mỉm cười, gương mặt anh không cảm xúc, rất lịch sự. "Tôi chắc chắc sẽ lưu ý điều này."

    Tôi đứng dậy để dọn những chiếc đĩa, muốn thoát ra khỏi bàn ăn. Nhưng mẹ quát tôi, bắt phải ngồi xuống.

    "Con là chủ buổi lễ sinh nhật," bà nói như thể bà chịu để cho ai đó khác nhúng tay vào việc gì không bằng. "Bernard. Sao anh không vào mang món gà ra nhỉ?"

    "Ha ha. Hy vọng là nó không còn bay phành phạch vòng quanh nữa nhỉ?" Bố mỉm cười, hàm răng nhe ra thành một nụ cười nhăn nhở.

    Phần còn lại của bữa ăn trôi qua mà không gặp rắc rối nào. Tôi có thể nhận thấy bố mẹ tôi đã hoàn toàn bị Will chinh phục. Patrick thì không. Anh và Will hầu như không nói với nhau thêm câu nào. Vào khoảng lúc mẹ đem món khoai tây nướng ra - bố đang làm trò quen thuộc là cố gắng chôm thêm ít miếng - tôi đã thôi lo lắng. Bố hỏi Will đủ thứ chuyện trên đời, về cuộc sống của anh trước đây, thậm chí cả về vụ tai nạn và anh dường như rất thoải mái trả lời thẳng thắn. Thực sự tôi đã biết được thêm khá nhiều điều mà anh không bao giờ nói với tôi. Ví như công việc của anh dường như hết sức quan trọng, dù anh đã nói giảm bớt đi. Anh mua bán các công ty và đảm bảo tạo ra lợi nhuận trong khi mua bán. Bố phải ép anh mới nói ra mức lợi nhuận lên tới sáu, bảy chữ số. Tôi nhìn Will chằm chằm, cố dung hòa con người mà tôi biết với thương nhân thành thị ghê gớm mà anh đang mô tả. Bố nói với anh về công ty sắp thâu tóm xưởng đồ gỗ gia dụng, khi bố nói tên của công ty đó Will đã gật đầu đầy vẻ thông cảm và nói vâng, anh có biết những công ty đó. Vâng, anh lẽ ra có thể cũng đã nhảy vào vụ đó. Qua cách anh nói thì dường như không có chút hy vọng nào cho công việc của bố tôi.

    Mẹ chỉ thủ thỉ với Will và vô cùng quan tâm tới anh. Khi nhìn nụ cười của bà, tôi nhận ra, từ một lúc nào đó trong bữa ăn này anh đã trở thành chàng thanh niên hấp dẫn trước mắt mẹ tôi. Chẳng có gì lạ khi Patrick rất tức giận.

    "Bánh sinh nhật đâu rồi?" ông ngoại hỏi khi mẹ bắt đầu dọn chén đĩa.

    Câu hỏi đó thật bất ngờ và đáng ngạc nhiên, thế nên bố con tôi nhìn nhau sửng sốt. Cả bàn ăn rơi vào im lặng.

    "Không có," tôi chạy vòng qua bàn tới hôn ông. "Không có ông ạ. Cháu xin lỗi. Nhưng có kem sô-cô-la. Ông thích món này mà."

    Ông gật đầu đồng ý. Mẹ nở nụ cười rạng rỡ. Tôi không nghĩ có ai trong chúng tôi có thể có được một món quà ý nghĩa hơn nữa.

    Kem sô-cô-la được đưa ra bàn cùng với một hộp quà lớn, vuông vắn, có kích cỡ khoảng bằng một cuốn danh bạ điện thoại, bọc trong giấy gói quà.

    "Đến lúc mở quà rồi, phải không?" Patrick nói. "Đây. Đây là quà của anh." Anh mỉm cười với tôi rồi đặt nó vào giữa bàn.

    Tôi mỉm cười lại với anh. Xét cho cùng đây không phải lúc để tranh cãi. "Tiếp tục đi nào," bố nói. "Mở quà đi."

    Tôi mở quà của bố mẹ trước tiên, tôi bóc lớp giấy bọc thật cẩn thận để không làm rách nó. Đó là một cuốn album ảnh mà trên mỗi trang có một tấm hình của mỗi năm trong cuộc đời tôi. Tôi lúc sơ sinh; tôi và Treena khi còn là những cô bé tiểu học mũm mĩm; tôi trong ngày đầu tại trường trung học, những chiếc kẹp tóc và chiếc váy rộng thùng thình. Gần đây hơn có một tấm hình của tôi và Patrick, thật tình trước khi chụp tấm hình đó tôi vừa nói anh cút đi. Và tôi, trong chiếc váy màu xám, ngày đầu tiên làm công việc mới. Ở giữa những trang ảnh đó là những tấm hình của gia đình tôi do Thomas chụp, những lá thư mẹ còn giữ từ những chuyến dã ngoại của trường học, những bản viết tay của tôi lúc còn bé kể về những ngày đi tắm biển, làm rơi những chiếc kem bị lũ mòng biển chôm mất. Tôi giở lướt qua và chỉ dừng lại một thoáng khi tôi nhìn thấy cô gái với mái tóc đen dài, thổi bồng phía sau. Tôi lật sang trang sau.

    "Tôi có thể xem được không?" Will nói.

    "Đây không phải là... năm tốt nhất," mẹ tôi nói với anh khi tôi lật giở từng trang ảnh cho anh xem. "Ý mẹ là, chúng ta vẫn ổn cả. Nhưng, con biết đấy, mọi việc đã diễn ra như thế. Tuy nhiên ông ngoại con đã xem chương trình gì đó trên truyền hình về chuyện tự làm quà tặng, mẹ nghĩ đây là một thứ có thể... con biết đấy... thật sự có một ý nghĩa."

    "Nó rất ý nghĩa mà mẹ." Mắt tôi rưng rưng. "Con thích lắm. Cảm ơn bố mẹ." "Ông đã chọn một số tấm hình trong đó đấy," mẹ nói.

    "Rất đẹp bác ạ," Will nói. "Con thích lắm," tôi nói lại.

    Ánh nhìn nhẹ nhõm như trút được mọi gánh nặng mà bố mẹ trao nhau là điều buồn bã nhất mà tôi từng thấy.

    "Đến quà của anh nhé." Patrick đẩy chiếc hộp nhỏ qua bàn. Tôi mở thật chậm, cảm thấy mơ hồ lo sợ khi mở ra nó sẽ là một chiếc nhẫn đính hôn. Tôi chưa sẵn sàng. Tôi chẳng mấy khi nghĩ được gì xa hơn việc có cho riêng mình một gian phòng ngủ. Tôi mở chiếc hộp nhỏ, và đây, nổi trên nền nhung xanh thẫm là một sợi dây chuyền vàng mỏng với mặt hình sao nhỏ xíu. Nó thật ngọt ngào, thanh nhã và chẳng có gì quen thuộc đối với tôi. Tôi không đeo loại trang sức đó, chưa bao giờ.

    Tôi dừng đôi mắt lại trên món quà trong lúc cố nghĩ ra câu gì để nói. "Dễ thương quá," tôi nói khi anh vươn người qua bàn và đeo vào cổ tôi.

    "Thật vui vì em thích nó," Patrick nói khi hôn vào môi tôi. Tôi thề trước đây anh chưa bao giờ hôn tôi như vậy trước mặt bố mẹ tôi.

    Will nhìn tôi, gương mặt không cảm xúc.

    "Rồi, bây giờ bố nghĩ chúng ta ăn kem sô-cô-la được rồi," bố nói. "Trước khi nó bị nóng quá." Bố cười to với câu đùa của chính mình. Rượu sâm-banh đã làm tinh thần bố phấn chấn lên không tả nổi.

    "Tôi cũng có quà cho cô ở trong túi," Will khẽ nói. "Túi treo sau xe tôi. Bọc giấy màu cam."

    Tôi lấy món quà ra khỏi túi Will.

    Mẹ tôi ngưng lại, thìa kem nằm im trên tay bà.

    "Cậu cũng mang quà cho Lou nữa hả Will? Cậu thật tốt quá. Cậu ấy thật tử tế đúng không Bernard?"

    "Đúng như vậy."

    Tờ giấy gói quà có màu sắc rực rỡ như bộ váy truyền thống của người Trung Quốc. Tôi chẳng cần phải nhìn nó cũng biết rằng tôi sẽ giữ nó lại. Có thể thậm chí còn phải dùng nó để may cái gì đó mặc được nữa. Tôi tháo dây ruy băng, đặt sang một bên để sử dụng lần sau. Tôi mở giấy bọc rồi giấy lót trong đó, và đây, đập vào mắt tôi là hai đường sọc vàng đen quen thuộc một cách lạ lùng.

    Tôi lôi miếng vải từ trong hộp ra và trong tay tôi là hai chiếc quần bó sọc vàng đen. Cỡ người lớn, óng ả, bằng chất len mềm đến nỗi chúng gần như trượt khỏi các ngón tay tôi.

    "Không thể tin nổi," tôi nói. Tôi bắt đầu cười lớn - một tiếng cười đầy vui sướng, món quà ngoài mong đợi. "Ôi Chúa ơi! Anh đã mua ở đâu ra vậy?"

    "Tôi đã đặt làm đấy. Cô sẽ rất vui khi biết là tôi đã mô tả sản phẩm cho người ta qua phần mềm nhận dạng giọng nói mới tinh của tôi."

    "Quần bó?" Bố và Patrick đồng thanh nói. "Những chiếc quần bó tuyệt vời nhất trên đời."

    Mẹ nhìn chúng chằm chằm. "Con biết không, Louisa, mẹ nhớ chắc chắn là con đã từng có một đôi đúng y như thế này hồi con còn bé tí."

    Will và tôi trao cho nhau một cái nhìn.

    Tôi không thể thôi cảm thấy vui sướng. "Để tôi mặc thử nó luôn nhé," tôi nói.

    "Chúa Jesus ơi, nó sẽ trông giống Max Wall chui trong một cái tổ ong," bố tôi nói, lắc lắc đầu.

    "Này anh Bernard, đây là sinh nhật con. Chắc chắn nó có thể mặc thứ gì nó muốn."

    Tôi chạy ra ngoài sảnh và mặc một chiếc quần bó vào. Tôi nhón chân, thích thú trước sự ngộ nghĩnh của chiếc quần. Tôi chưa bao giờ nghĩ một món quà có thể làm tôi hạnh phúc đến mức như vậy trong suốt cuộc đời mình.

    Tôi quay trở lại phòng khách. Will reo lên một tiếng hoan hô khe khẽ. Ông ngoại đập mạnh hai tay xuống bàn. Bố mẹ tôi cười vang lên. Patrick chỉ nhìn chằm chằm.

    "Tôi thậm chí không biết làm sao để nói với anh tôi thích những chiếc quần này đến mức nào," tôi nói, "Cảm ơn. Cảm ơn anh." Tôi đưa tay ra và chạm vào vai anh. "Rất thật lòng."

    "Có một tấm thiệp trong đó nữa," anh nói. "Lúc khác hãy mở." Bố mẹ tôi săn sóc Will rất ân cần khi anh ra về.

    Bố trong lúc đã say, cứ cảm ơn anh mãi vì đã tuyển tôi và bắt anh phải hứa

    sẽ quay lại nhà chơi. "Nếu tôi mà mất việc, có thể một ngày nào đó tôi sẽ đến xem bóng đá với cậu," bố nói.

    "Cháu mong như vậy," Will trả lời, mặc dù tôi chưa bao giờ thấy anh xem bóng đá.

    Mẹ tôi cố ép anh lấy một ít kem sô-cô-la còn dư lại để trong một chiếc hộp nhựa, "Tôi thấy cậu rất thích món này."

    Thật là một người đàn ông lịch thiệp, bố mẹ tôi vẫn nói mãi suốt một giờ đồng hồ sau khi anh đã ra về. Một quý ông thực thụ.

    Patrick đi ra sảnh, hai tay thọc sâu vào túi quần, như thể để ngăn ý muốn bắt tay Will. Đó là suy luận sâu xa của tôi.

    "Thật vui được gặp anh, Patrick," Will nói. "Và cảm ơn anh vì... lời khuyên."

    "Ồ, đó chỉ là giúp đỡ bạn gái của tôi hoàn thành tốt nhất công việc của cô ấy thôi," anh nói. "Chỉ vậy thôi." Có một sự nhấn mạnh rất rõ ràng trong từ của tôi.

    "Anh là một người đàn ông may mắn đấy," Will nói trong lúc Nathan bắt đầu đẩy xe lăn ra ngoài. "Cô ấy thật sự biết tắm tại giường cho bệnh nhân giỏi lắm." Anh nói nhanh đến mức cánh cổng đã đóng sầm lại trước khi Patrick kịp nhận ra anh đã nói gì.

    "Em chưa bao giờ nói với anh là em có tắm cho anh ta."

    Chúng tôi cùng đi về nhà của Patrick, một căn hộ mới nằm ở ngoại vi thị trấn. Kiểu căn hộ này được quảng cáo là "phong cách loft", mặc dù nó nhìn ra bãi đỗ xe và không cao quá ba tầng.

    "Như vậy có nghĩa là sao - em rửa hạ bộ cho anh ta à?"

    "Em không rửa hạ bộ cho anh ấy." Tôi cầm lọ sữa rửa mặt vốn là một trong số rất ít đồ đạc mà tôi được phép để ở nhà Patrick lên rồi bắt đầu rửa mặt để loại bỏ lớp trang điểm.

    "Anh ta vừa nói em làm đó thôi."

    "Anh ấy chọc tức anh đấy. Nhưng mà sau khi anh cứ liên tục, liên tục nói về việc anh ấy đã từng là một chàng trai hành động em cũng chẳng trách gì anh ấy."

    "Thế em làm gì cho anh ta? Rõ ràng là em không kể đầy đủ cho anh nghe."

    "Thật sự thì em có rửa cho anh ấy, đôi khi thôi, nhưng chỉ từ trên xuống đến ngang thắt lưng thôi."

    Cái nhìn chòng chọc của Patrick đã nói lên tất cả suy nghĩ của anh. Cuối cùng, anh quay mặt đi, lột đôi tất chân ném vào giỏ đồ giặt. "Công việc của em lẽ ra đâu có phải làm những việc đó. Nó đã ghi rõ không có vấn đề y tế. Không giúp việc cá nhân. Trong mô tả công việc không hề có thứ đó." Một suy nghĩ bất ngờ đã đến trong đầu anh. "Em có thể phản đối. Từ chối khéo, anh nghĩ 1à như vậy, khi họ thay đổi các điều khoản trong công việc của em."

    "Đừng có buồn cười thế chứ. Em làm việc ấy bởi vì Nathan không thể luôn luôn có mặt ở đó và thật khổ sở cho Will khi có ai đó hoàn toàn xa lạ từ trung tâm dịch vụ đến để giúp cho anh ấy. Hơn nữa, bây giờ em cũng quen với việc đó rồi. Thật sự em không thấy phiền."

    Tôi làm sao có thể giải thích cho anh - cơ thể một con người có thể trở nên thân thuộc với mình như thế nào. Tôi có thể thay ống thông tiểu cho Will với sự khéo léo thành thạo, tắm bằng bọt khắp nửa thân trên của anh mà không làm gián đoạn cuộc trò chyện của chúng tôi. Giờ đây tôi thậm chí cũng không e sợ trước những vết sẹo của Will. Trong một khoảng thời gian, tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là một vụ tự tử tiềm ẩn. Bây giờ anh chỉ là Will - Will hay chọc tức, lanh lợi, thông minh và vui tính - người luôn luôn tỏ vẻ kẻ cả với tôi và thích làm giáo sư Higgins dạy cho tôi là Eliza Doolittle(1). Cơ thể của anh chỉ là một phần của toàn bộ con người anh, một thứ để lau chùi trong những lúc tạm ngừng nghỉ, trước khi chúng tôi quay lại tiếp tục tán gẫu. Tôi nghĩ, thân thể chính là phần ít hấp dẫn nhất của con người anh.

    "Anh chỉ không thể tin nổi... sau tất cả những gì chúng ta đã trải qua... một thời gian dài biết bao nhiêu em đã để anh ở cạnh em bất cứ nơi nào... thế mà giờ có một người lạ khiến em rất thích thú được ở gần và thân mật..."

    "Chúng ta có thể không nói về chuyện này đêm nay được không, Patrick? Hôm nay là sinh nhật em."

    "Anh đâu phải là người khơi mào, với mấy cái chuyện tắm rửa gì gì đó." "Đó là bởi vì anh ấy trông bảnh trai phải không?" tôi hỏi. "Có phải vậy không? Chắc sẽ dễ hơn rất nhiều cho anh nếu anh ấy trông giống như - anh biết đấy - giống như một củ khoai?"

    "Thế là em thực sự nghĩ anh ta bảnh trai đấy."

    Tôi kéo chiếc váy qua đầu, rồi bắt đầu cởi chiếc quần bó thật cẩn thận ra khỏi đôi chân, chút niềm vui còn sót lại trong tôi cuối cùng cũng bốc hơi bay đi mất. "Em không thể tin nổi anh lại như thế đấy. Em không tin anh lại ghen với anh ấy."

    "Anh không ghen với anh ta." Giọng anh lãnh đạm. "Làm sao anh có thể ghen với một người tàn phế được cơ chứ?"

    Đêm đó Patrick ******** với tôi. Có thể "********" là nói hơi quá lên một chút. Chúng tôi quan hệ với nhau, một cuộc giao hợp kiểu marathon, trong đó anh dường như quyết định phải phô trương hết năng lượng dồi dào, sức mạnh và sự cường tráng của bản thân. Nó kéo dài hàng giờ đồng hồ. Nếu có thể treo ngược tôi lên chiếc đèn chùm thì có lẽ anh cũng đã làm như vậy. Thật vui khi cảm nhận được niềm khao khát ấy, khi thấy mình trở thành trung tâm chú ý của Patrick sau nhiều tháng nửa như chia tay. Nhưng một phần nhỏ trong tôi vẫn ở đâu đó thật xa tất cả cuộc ******** này. Tôi ngờ rằng rốt cuộc nó không phải là vì tôi. Tôi đã hiểu ra điều đó rất nhanh. Màn trình diễn nhỏ này là vì Will.

    "Em thấy thế nào, hả?" Sau đó anh vòng người quanh người tôi, da thịt chúng tôi chạm nhẹ vào nhau nhớp nháp, rồi anh hôn lên trán tôi.

    "Tuyệt," tôi nói. "Anh yêu em, cưng."

    Thế rồi lòng đầy mãn nguyện, anh cuộn người lại, đặt một cánh tay lên đầu rồi ngủ say trong vòng ít phút.

    Khi giấc ngủ mãi không tới, tôi bật dậy khỏi giường và đi xuống lầu lấy chiếc túi của tôi. Tôi thọc tay vào túi, tìm tập truyện ngắn của Flannery O'Connor. Đúng lúc tôi kéo nó ra khỏi túi, chiếc phong bì rớt theo.

    Tôi nhìn nó chằm chằm. Tấm thiệp của Will. Tôi đã không mở lúc ở bàn ăn. Bây giờ tôi mới mở, cảm thấy một cái gì mềm xốp khó đoán ở bên trong... Tôi cẩn thận kéo tấm thiệp ra khỏi phong bì rồi mở ra. Bên trong là mười tờ 50 bảng mới cứng. Tôi đếm đi đếm lại hai lần, không thể nào tin vào những gì mình đang nhìn thấy. Trên tấm thiệp viết:

    Thưởng cho ngày sinh nhật. Đừng nghĩ ngợi gì. Đây là mệnh lệnh. W

    Chú thích:

    (1) Hai nhân vật trong phim My Fair Lady (1964).
  6. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 14

    Tháng Năm quả là một tháng lạ lùng. Báo chí và ti-vi đầy ắp những chuyên mục nói về cái mà họ gọi là "quyền được chết". Một bà phải chịu đau đớn vì bệnh thoái hóa đã đề nghị luật pháp bảo vệ chồng bà, để ông được cùng bà đi tới Dignitas khi cơn đau trở nên quá sức chịu đựng. Một cầu thủ bóng đá trẻ đã được phép tự tử sau khi thuyết phục được bố mẹ đưa tới đó. Cảnh sát cũng có liên quan. Một cuộc tranh luận nổ ra ở Thượng viện Anh.

    Tôi xem bản tin và nghe những cuộc tranh luận pháp lý từ những người bảo vệ sự sống và những nhà đạo đức học đáng kính, mà chẳng biết tôi có theo quan điểm của ai trong số đó hay không. Thật lạ lùng là tất cả dường như đều chẳng liên quan gì tới Will.

    Trong khi đó, chúng tôi ngày càng gia tăng số lần đưa Will đi chơi, và quãng đường mà anh sẵn sàng đi. Chúng tôi đã tới nhà hát, xuống đường xem nhảy mô-rít (Will cố không phì cười khi thấy chuông và khăn tay của họ, nhưng mặt anh ửng đỏ vì nỗ lực đó), lái xe tới xem hòa nhạc ngoài trời tổ chức cạnh tòa lâu đài vào một buổi chiều (ý tưởng của anh thì đúng hơn là của tôi), một lần tới rạp chiếu phim để rồi cuối cùng xem bộ phim về một cô gái bị bệnh ác tính vì tôi chọn phim không đúng.

    Nhưng tôi biết anh cũng thấy những tít báo đó. Anh bắt đầu sử dụng máy tính nhiều hơn kể từ khi chúng tôi có phần mềm mới, và anh đã học được cách di chuyển con chuột bằng cách trượt ngón cái qua bàn rê. Bài tập thể dục nặng nhọc này giúp anh đọc được báo mạng hằng ngày. Một sáng tôi mang trà vào thì thấy anh đang đọc về cầu thủ bóng đá trẻ đó - mô tả chi tiết về những bước cậu ta đã trải qua để đưa mình tới cái chết. Anh tắt màn hình khi nhận ra tôi đang đứng sau lưng. Hành động nhỏ ấy để lại trong lòng tôi một tảng đá nặng nề, phải nửa giờ sau mới tan đi được.

    Tôi xem bài báo đó trong thư viện. Dạo này tôi hay đọc báo. Tôi đã nhận ra mọi người tham gia sôi nổi nhất vào cuộc tranh luận nào trong số các cuộc tranh luận xung quanh chuyện đó - thông tin ấy không phải lúc nào được trình bày đơn giản nhất với những sự kiện rõ ràng, trần trụi.

    Bố mẹ người cầu thủ đã bị báo lá cải chỉ trích thậm tệ. Sao họ lại để anh ấy chết? các bài báo giật tít. Tôi không thể không cảm thấy tương tự. Leo McInerney mới hai tư tuổi. Cậu sống chung với thương tật trong gần ba năm, không lâu hơn Will là bao. Rõ ràng là cậu còn quá trẻ để có thể khẳng định rằng đời chẳng còn gì đáng sống phải không? Rồi tôi đọc bài báo Will đã đọc - không phải bài báo nêu quan điểm, mà là bài báo nghiên cứu tỉ mỉ về những gì thực sự đã chiếm lĩnh cuộc đời cậu kể từ sau vụ tai nạn. Người viết dường như đã gặp gỡ trực tiếp cha mẹ cậu.

    Bố mẹ Leo cho biết cậu đã chơi bóng đá từ năm lên ba. Cả cuộc sống của cậu là bóng đá. Cậu bị thương trong vụ tai nạn mà người ta gọi là "triệu người có một" khi trượt ngã trong một pha truy cản đối phương. Họ đã làm mọi cách để vực cậu dậy, cho cậu cảm giác rằng cuộc đời vẫn còn giá trị. Nhưng cậu cứ chìm sâu vào tuyệt vọng. Cậu là một vận động viên không chỉ không còn được chơi thể thao, mà còn không thể di chuyển, và đôi khi thậm chí không thở được nếu không có máy trợ thở. Cậu chẳng tìm được niềm vui từ điều gì. Cuộc đời toàn là đau đớn, lở loét vì nhiễm trùng, thường xuyên phải dựa dẫm người khác từ những việc nhỏ nhặt nhất. Cậu nói với bạn gái là cậu sẽ không gặp lại cô nữa. Ngày nào cậu cũng nói với bố mẹ rằng cậu không muốn sống. Cậu bảo họ rằng nhìn người khác sống dù chỉ được phân nửa cuộc đời mà bản thân cậu đã dự định sống thôi cũng là quá sức chịu đựng của cậu, một hình thức tra tấn.

    Cậu đã hai lần cố tự tử bằng cách nhịn đói nhưng rồi được đưa vào bệnh viện. Khi trở về nhà, cậu cầu xin bố mẹ cho cậu ra đi trong giấc ngủ. Khi đọc tới chuyện này, tôi ngồi trong thư viện, dúi hai nắm tay vào mắt cho tới khi tôi thở được mà không nấc lên.

    Bố mất việc. Bố khá bình tĩnh trước chuyện này. Chiều hôm ấy ông về nhà, thay sơ-mi, thắt cà-vạt, rồi trở vào thị trấn trên chuyến xe buýt tiếp theo để đăng tên ở Trung tâm Giới thiệu việc làm.

    Bố bảo mẹ, bố đã quyết định sẽ xin bất cứ việc gì, dù ông là một thợ thủ công giỏi với nhiều năm kinh nghiệm. "Anh nghĩ lúc này chúng ta không có tiền để mà kén cá chọn canh," bố nói, bỏ qua lời phản đối của mẹ.

    Nhưng nếu tôi thấy khó tìm việc, thì một người đàn ông 55 tuổi cả đời chỉ làm duy nhất một công việc lại càng thấy khó hơn bội phần. Bố thậm chí không kiếm được việc giữ kho hoặc bảo vệ, bố nói thế với giọng chán chường khi trở về nhà sau một vòng phỏng vấn nữa. Họ thường chọn những thằng nhóc mười bảy tuổi vắt mũi chưa sạch không đáng tin cậy vì chính phủ sẽ trả lương thay họ, chứ không đời nào nhận một người đàn ông trưởng thành có hồ sơ lao động tốt. Sau hai tuần bị từ chối, bố mẹ thừa nhận họ sẽ phải làm đơn xin trợ cấp, chỉ để sống được qua giao đoạn này, thế nên tối nào họ cũng đánh vật với những mẫu đơn khó hiểu dài năm mươi trang đặt những câu hỏi kiểu như trong nhà bạn có bao nhiêu người dùng máy giặt, lần cuối bạn đi nước ngoài là khi nào (bố nghĩ có lẽ là năm 1988). Tôi đặt tiền mừng sinh nhật của Will vào chiếc hộp thiếc đựng tiền mặt trong tủ ly ở bếp. Tôi nghĩ nó có thể giúp bố mẹ cảm thấy dễ thở hơn khi biết họ có một chút bảo đảm.

    Sáng hôm sau khi thức dậy, tôi thấy nó được cho vào phong bì nhét trở lại dưới khe cửa phòng tôi.

    Khách du lịch tới, thị trấn bắt đầu trở nên đông đúc. Giờ đây ông Traynor mỗi lúc một ít ghé qua; thời gian làm việc của ông kéo dài thêm khi số lượng người tới lâu đài tăng lên. Tôi thấy ông trong thị trấn một chiều thứ Năm, khi tôi đi từ hiệu giặt khô về nhà. Bản thân chuyện đó chẳng có gì bất bình thường, chỉ có điều ông đang ôm một cô gái tóc đỏ rõ ràng không phải là bà Traynor. Khi thấy tôi, ông thả cô ta ra như phải bỏng.

    Tôi quay mặt đi, vờ như đang nhìn vào ô kính của một cửa hàng, không chắc tôi có muốn ông biết rằng tôi đã trông thấy họ không, và cố hết sức không nghĩ về chuyện này nữa.

    Thứ Sáu sau hôm bố tôi mất việc, Will nhận được một thiệp mời - thiệp mời đám cưới của Alicia và Rupert. À, nói cho chuẩn thì thiệp mời ấy là ông Colonel và bà Timothy Dewar, bố mẹ của Alicia, mời Will tới chúc mừng hôn lễ của con gái họ với Rupert Fleshwell. Thiệp mời nằm trong chiếc phong bì da nặng trịch kèm theo lịch trình buổi lễ, một bản danh sách gấp rất dày liệt kê những thứ mà mọi người có thể mua cho cô dâu chú rể từ những cửa hàng tôi chưa từng nghe tên.

    "Cô ta hơi thần kinh nhỉ," tôi nhận xét, nghiên cứu tấm thiệp dày viền vàng với những dòng chữ mạ vàng. "Muốn tôi vứt nó đi không?"

    "Tùy cô." Cả cơ thể Will chìm đắm trong suy nghĩ mông lung vô định.

    Tôi nhìn chằm chằm vào tờ danh sách. "Mà cái chỗ Ả-rập là cái của nợ gì vậy?"

    Có thể vì cách Will vội vã quay đi rồi vờ bận lộn bên bàn phím máy tính. Có thể vì giọng nói của anh. Tóm lại là vì một lý do nào đó, tôi không ném cái phong bì đi. Tôi đặt nó cẩn thận vào tập hồ sơ của anh trong bếp.

    Will cho tôi mượn một cuốn truyện ngắn nữa, một cuốn anh vừa đặt mua trên Amazon, và cuốn The Red Queen. Tôi biết nó không hề thuộc gu sách vở của tôi. "Nó chả có chuyện gì cả," tôi nói, sau khi nhiên cứu bìa sau.

    "Thế thì sao?" Will trả lời. "Thử thách bản thân một chút đi."

    Tôi thử đọc - không phải vì tôi thích thú gì di truyền học - mà vì tôi không chịu được ý nghĩ rằng anh sẽ không ngừng lên lớp tôi nếu tôi không đọc. Dạo này anh như thế đấy. Thật tình anh hơi bị đầu gấu. Cứ đưa cuốn nào cho tôi là anh liên tục vặn vẹo một cách cực kỳ khó chịu xem tôi đã đọc tới đâu, chỉ để đảm bảo tôi đã đọc thật.

    Chừng đó tôi sẽ gầm gừ, "Anh đâu phải giáo viên của tôi." "Ơn trời," anh sẽ trả lời với giọng tự ái.

    Cả cuốn sách này - không ngờ nó thật sự rất đáng đọc - dành viết về một kiểu cạnh tranh sinh tồn: Nó khẳng định rằng phụ nữ chọn đàn ông hoàn toàn không phải vì họ yêu người đó. Nó nói rằng nữ giới luôn tìm kiếm người đàn ông mạnh nhất, để cho con cái họ cơ hội tốt nhất. Nữ giới chẳng làm gì khác được. Đó là con đường của tự nhiên.

    Tôi không đồng ý với điều này. Và tôi không thích luận điểm đó. Có một ẩn ý thật khó chịu khuất dưới những gì anh đang cố thuyết phục tôi tin. Trong con mắt tác giả này, Will ốm yếu về thể chất, đáng bỏ đi. Điều đó khiến cuộc đời anh trở nên vô giá trị.

    Tôi lên tiếng khi anh cứ nhai đi nhai lại chuyện này suốt cả buổi chiều. "Có một điều mà anh bạn Matt Ridley này không phát hiện ra," tôi nói.

    Will ngước nhìn lên khỏi màn hình. "Là gì vậy?"

    "Nếu gã đàn ông có ưu thế ấy lại là một kẻ đầu đất thì sao?"

    Vào thứ Bảy tuần thứ ba của tháng Năm, Treena và Thomas về nhà. Mẹ tôi ùa ra cửa, chạy lên con ngõ băng qua vườn khi hai mẹ con nó mới tới được nửa đường. Mẹ tôi la lên, ôm Thomas vào lòng, nó đã cao thêm dăm phân kể từ ngày đi. Nó thay đổi nhiều, lớn lên trông thấy, trông ra dáng một anh chàng lắm rồi. Treena đã cắt tóc ngắn, trông sành điệu lạ lùng. Nó mặc chiếc áo khoác tôi chưa từng trông thấy và đi đôi xăng-đan nhiều quai. Tôi thấy mình tự hỏi một cách nhỏ mọn rằng nó lấy tiền ở đâu ra.

    "Mọi chuyện thế nào?" tôi hỏi, trong khi mẹ dắt Thomas ra vườn chỉ cho nó xem lũ ếch trong cái ao nhỏ. Bố đang xem bóng đá với ông ngoại, kêu ca tức giận vì một cơ hội nữa bị bỏ lỡ.

    "Tuyệt. Rất tốt. Thật ra không có ai giúp trông Thomas thì cũng cực lắm, mất một thời gian nó mới ngoan ở nhà trẻ." Nó cúi sát tôi. "Nhưng chị không được nói gì với mẹ đâu đấy. Em đã bảo với mẹ là thằng bé ổn cả."

    "Nhưng em thích khóa học chứ."

    Mặt Treena cười tươi như hoa. "Thích vô cùng. Lou à, em không sao diễn tả nổi niềm sung sướng khi lại được sử dụng bộ não của mình. Em cảm thấy như phần cơ thể quan trọng này trong em đã bị lãng quên suốt bao nhiêu năm... và dường như em vừa tìm lại được nó. Nói thế nghe có ngố không?"

    Tôi lắc đầu. Tôi thực sự mừng cho nó. Tôi muốn kể cho nó nghe về thư viện, về máy tính, về những gì tôi đã làm với Will. Nhưng tôi nghĩ có lẽ nên để dành khoảnh khắc này cho nó. Chúng tôi ngồi trên ghế gập, dưới tấm bạt tơi tả, nhấm nháp tách trà. Tôi để ý thấy bàn tay nó đỏ da thắm thịt.

    "Chị nhớ em," tôi nói.

    "Từ giờ hầu như cuối tuần nào bọn em cùng sẽ về nhà. Em đã cần... Lou à, vấn đề không chỉ có chuyện ổn định cuộc sống của Thomas đâu. Em đã cần một chút thời gian rời xa tất cả mọi thứ. Em chỉ muốn có lúc được làm một người khác."

    Trông nó giờ hơi giống một con người khác. Điều này thật lạ lùng. Chỉ mấy tuần đi xa nhà là có thể xóa bỏ sạch mọi vẻ quen thuộc từ ai đó. Tôi cảm thấy nó đang trên con đường trở thành một người tôi không hề hiểu. Thật lạ lùng, tôi có cảm giác như mình bị tụt lại phía sau.

    "Mẹ kể anh bạn tàn tật của chị đã tới ăn tối."

    "Anh ấy không phải anh bạn tàn tật của chị. Anh ấy là Will."

    "Xin lỗi. Will. Thế việc thực hiện bản danh sách cũ đó vẫn ổn cả chứ?" "Tàm tạm. Chuyến thì thành công, chuyến thì hơi trục trặc." Tôi kể cho nó về vụ đi xem đua ngựa thất bại, và lần đi nghe nhạc thành công ngoài mong đợi.

    Tôi kể với nó về những buổi đi chơi của chúng tôi, nó phì cười khi tôi kể về bữa tối sinh nhật tôi.

    "Chị có nghĩ...?" Tôi biết nó đang tìm cách tốt nhất để đặt câu hỏi ấy. "Chị có nghĩ chị sẽ chiến thắng?"

    Cứ như thể đó là một cuộc chiến vậy.

    Tôi bẻ một cành kim ngân và bắt đầu vặt lá trên cành. "Chị không biết. Chị nghĩ mình sẽ cần cố gắng hơn nữa." Tôi nói với nó rằng bà Traynor đã đề cập với tôi về chuyện đi nước ngoài.

    "Nhưng em không tin nổi chị đã đi nghe violin. Chị chứ chẳng phải ai khác!" "Chị rất thích buổi hòa nhạc ấy."

    Nó nhướng mày.

    "Không đâu. Thật lòng chị rất thích. Nó... đầy cảm xúc." Nó nhìn tôi thận trọng. "Mẹ nói anh ấy rất tử tế."

    "Anh ấy tử tế lắm." "Đẹp trai nữa."

    "Tổn thương tủy sống đâu có nghĩa là biến người ta thành Quasimodo."

    Làm ơn đừng nói đó là một sự uổng phí trời đày, trong lòng tôi thầm bảo nó.

    Nhưng có lẽ em gái tôi thông minh hơn thế. "Ừ. Mẹ ngạc nhiên lắm. Em nghĩ mẹ đã tưởng sắp gặp Quasimodo."

    "Vấn đề là thế đấy, Treen," tôi nói, hất phần còn lại của tách trà xuống thảm hoa. "Mọi người toàn nghĩ thế."

    Suốt bữa ăn khuya hôm đó, mẹ rất vui vẻ. Mẹ đã nấu lasagna, món yêu thích của Treena, và Thomas được phép ngủ muộn, xem như làm quà. Chúng tôi ăn uống cười đùa trò chuyện miên man về những chủ đề an toàn, như đội bóng đá, công việc của tôi, và hỏi han xem bạn bè Treena ở trường ra sao. Mẹ phải hỏi Treena đến một trăm lần rằng nó có chắc nó tự mình xoay xở ổn thỏa cả không, nó có cần bất cứ thứ gì cho Thomas không - như thể bố mẹ có cái gì dư thừa để cho nó vậy. Tôi mừng là đã báo trước cho Treena biết bố mẹ thiếu thốn ra sao. Nó nói mẹ con nó không cần gì cả, với vẻ biết ơn và sự tự tin. Mãi sau này tôi mới nghĩ mình phải hỏi xem nó nói có thật không.

    Nửa đêm hôm đó, tôi thức giấc khi nghe tiếng khóc. Đó là Thomas, ở trong gác lửng. Tôi nghe Treena cố dỗ dành nó, nghe tiếng tắt và bật đèn, tiếng sắp xếp lại giường chọng. Tôi nằm trong bóng tối, nhìn ánh đèn vàng võ lọt qua song cửa chiếu lên trần nhà mới sơn, chờ đợi thằng bé nín khóc. Nhưng tới hai giờ sáng tiếng rên hờ đó lại cất lên. Lần này tôi nghe tiếng bước khẽ trên hành lang, rồi tiếng rì rầm nói chuyện. Cuối cùng, Thomas lại yên lặng.

    Tới bốn giờ, tôi choàng tỉnh khi nghe cửa phòng bật mở. Tôi chớp chớp mắt, quay mặt về phía ánh sáng. Thomas đứng đó, bóng ngả trên lối cửa, bộ pyjama rộng thùng thình của nó tụt xuống, chiếc chăn thoải mái sà cả xuống sàn. Tôi không thấy mặt nó, nhưng nó cứ đứng đó ngập ngừng, như thể không biết phải làm gì tiếp.

    "Lại đây, Thomas," tôi thì thầm. Khi nó rón rén đi lại gần tôi, tôi thấy nó vẫn còn gà gật. Bước chân nó xiêu vẹo, ngón tay cái đút trong miệng, chiếc chăn yêu quý của nó quấn chặt một bên người. Tôi mở chiếc chăn ra, nó trèo lên giường bên cạnh tôi, cái đầu dày tóc của nó vùi xuống chiếc gối còn lại, rồi nó cuộn tròn như cái bào thai. Tôi phủ chăn lên mình nó rồi nằm đó, ngắm nhìn thằng bé, ngạc nhiên thấy nó lập tức chìm vào giấc ngủ ngon lành.

    "Ngủ ngon, ngủ ngon, bé yêu," tôi thì thầm, hôn lên trán nó. Một bàn tay mũm mĩm bé nhỏ vươn ra nắm lấy vạt áo tôi, như thể để tự mình đảm bảo rằng tôi sẽ chẳng thể đi đâu hết.

    "Nơi đẹp nhất anh từng tới là đâu?"

    Chúng tôi đang ngồi trong lán, chờ cơn mưa bất chợt tạnh để có thể dạo quanh khu vườn phía sau lâu đài. Will không thích đi vào khu vực chính - quá nhiều người trố mắt nhìn anh. Nhưng những vườn cây này quả là một trong những kho báu bí mật của lâu đài, rất ít người lai vãng. Những vườn cây ăn trái hẻo lánh này được chia tách bởi những lối đi rải sỏi dễ thương khiến xe của Will có thể xử lý khá dễ dàng.

    "Tiêu chí là gì? Cái gì đây?"

    Tôi đổ ít súp từ bình ra thìa rồi đưa lên môi anh. "Cà chua."

    "Ừ. Trời ơi, nóng thế. Để tôi nghĩ một phút nhé." Anh nhìn ra xa xăm. "Tôi đã trèo núi Kilimanjaro năm tròn ba mươi. Khá phi thường đấy." "Cao bao nhiêu?"

    "Lên đỉnh Uhuru thì gần năm ngàn chín trăm mét. Khoảng ba trăm mét cuối cùng tôi hầu như phải bò. Độ cao so với mực nước biển gây chóng mặt kinh khủng."

    "Trên đó lạnh không?"

    "Không..." anh mỉm cười. "Nó không giống Everest. Nhưng mà tôi cũng không đi vào đông." Ánh mắt anh nhìn vào vô định, thoáng chìm trong hoài niệm. "Nó đẹp lắm. Người ta gọi nó là mái nhà của châu Phi. Khi lên tới đó, có cảm giác như mình nhìn thấy được tận cùng thế giới vậy."

    Will im lặng một hồi. Tôi quan sát anh, tự hỏi lúc này thực sự anh đang ở đâu. Khi chúng tôi nói những chuyện như thế, anh như một cậu học trò trong lớp tôi, cậu bé đã để hồn mình phiêu du thật xa khỏi lớp học.

    "Thế còn nơi nào nữa mà anh thích?"

    "Vịnh Trou d'Eau Douce, Mauritius. Con người đáng mến, bãi biển đẹp mê hồn, đi lặn rất tuyệt. À... Công viên quốc gia Tsavo, Kenya, đất đỏ và động vật hoang dã. Công viên quốc gia Yosemite. Ở California. Vách đá cao tới nỗi con người khó mà thấu hiểu được quy mô của chúng."

    Anh kể với tôi một đêm anh trèo vách đá, trú lại trên một gờ đá cao khoảng nghìn mét, anh đã phải nhét mình vào túi ngủ, gắn nó vào vách đá, vì nếu đang ngủ mà lăn xuống thì chẳng còn gì để nói.

    "Thật tình anh vừa mô tả cơn ác mộng tồi tệ nhất của tôi ở ngay đây đấy." "Tôi cũng thích những đô thị Sydney, yêu lắm. Bắc Úc. Iceland. Có một nơi cách không xa sân bay là mấy, ở đó ta có thể tắm trong những dòng suối nước nóng. Nó giống như một cảnh tượng hạt nhân kỳ lạ. Ồ, cả cưỡi ngựa trên miền trung Trung Quốc nữa. Tôi đã tới nơi này sau hai ngày phi ngựa từ thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, ở đó người dân địa phương nhổ nước bọt vào tôi vì họ chưa từng nhìn thấy người da trắng bao giờ."

    "Có nơi nào anh chưa tới không?"

    Anh húp một ngụm súp nữa. "Bắc Triều Tiên chăng?" Anh ngẫm nghĩ. "A, tôi chưa từng tới Disneyland. Nói thế được không? Cả Disneyland ở châu Âu cũng chưa."

    "Có một lần tôi đặt vé đi Úc. Nhưng chưa bao giờ đi." Anh ngạc nhiên quay sang nhìn tôi.

    "Có chuyện. Ổn rồi. Có thể ngày nào đó tôi sẽ đi."

    "Không được nói 'có thể'. Clark, cô phải đi khỏi nơi này. Hứa với tôi cô sẽ không dành cả phần đời còn lại luẩn quẩn quanh cái chốn khỉ ho cò gáy này."

    "Hứa với tôi ư? Thế là sao?" Tôi cố nói giọng vui vẻ. "Anh định đi đâu à?" "Tôi chỉ... không chịu nổi ý nghĩ cô sẽ sống mãi ở đây suốt đời." Anh nuốt khan. "Cô quá thông minh. Quá thú vị." Anh nhìn sang chỗ khác. "Cô chỉ có một cuộc đời. Cô thực sự có nhiệm vụ làm cho nó phong phú hết mức."

    "Được rồi," tôi nói thận trọng. "Thế hãy cho tôi biết tôi nên đi đâu. Anh sẽ đi đâu, nếu anh có thể đi?"

    "Ngay lúc này hả?"

    "Ngay lúc này. Và anh không được phép nói Kilimanjaro. Phải là một nơi nào đó tôi có thể tưởng tượng bản thân tôi tới được."

    Khi mặt Will giãn ra, trông anh như một người hoàn toàn khác. Giờ đây một nụ cười lướt qua mặt anh, mắt anh nheo nheo vui thú. "Paris. Tôi sẽ ngồi bên ngoài một quán cà-phê ở Le Marais, uống cà-phê, ăn một đĩa bánh sừng bò nóng với bơ không muối và mứt dâu."

    "Le Marais hả?"

    "Đó là một quận nhỏ ở trung tâm Paris. Ở đó có rất nhiều con phố rải sỏi, những khu nhà xập xệ, những cô chàng, người Do Thái chính thống, những phụ nữ trung niên có vẻ như một thời hấp dẫn như Brigitte Bardot. Đó là một nơi đáng để dừng chân."

    Tôi quay lại nhìn thẳng vào mặt anh, hạ thấp giọng. "Chúng ta đi chứ," tôi nói. "Chúng ta có thể đi bằng tàu cao tốc Eurostar. Mọi chuyện dễ thôi. Tôi nghĩ chúng ta thậm chí chẳng cần nhờ Nathan đi cùng. Tôi chưa bao giờ được tới Paris. Tôi thích tới đó lắm. Vô cùng thích. Đặc biệt khi được đi cùng một người thạo đường quen phố. Anh nghĩ sao, Will?"

    Tôi như thấy mình ở quán cà-phê ấy. Tôi ngồi đó, tại chiếc bàn ấy, có thể đang thầm ngưỡng mộ một đôi giày Pháp mới mua được từ một cửa hàng nhỏ, hoặc đang nhón một chiếc bánh nướng bằng bộ móng tay đỏ chót ra dáng người

    Paris. Tôi như nếm được vị cà-phê, ngửi được mùi thuốc lá Gauloises từ bàn bên cạnh.

    "Không."

    "Sao cơ?" Mất một chốc tôi mới lôi được mình ra khỏi cái bàn ven đường ấy.

    "Không đâu."

    "Nhưng anh vừa nói với tôi..."

    "Cô không hiểu rồi, Clark. Tôi không muốn tới đó với... với thứ này." Anh chỉ vào chiếc xe, giọng anh chùng xuống. "Tôi muốn tới Paris như con người tôi, tôi của ngày xưa. Tôi muốn ngồi xuống một chiếc ghế, dựa lưng, mặc bộ quần áo ưa thích, những cô gái Paris xinh đẹp đi ngang sẽ trao tôi ánh mắt mà họ trao cho bất cứ anh chàng nào ngồi ở đó. Không vội quay đi khi chợt nhận ra tôi là một gã lớn tướng ngồi trong chiếc xe đẩy khốn nạn."

    "Nhưng chúng ta có thể thử mà," tôi đánh liều. "Đâu cần..."

    "Không. Không, chúng ta không thể. Vì ngay lúc này nhắm mắt lại, tôi có thể hình dung chính xác cảm giác khi ngồi trên phố Rue des Francs Bourgeois ấy, thuốc lá trên tay, ly cao đựng nước cam mát lạnh trước mặt, mùi bò bít-tết khoai tây nhà ai, tiếng một chiếc xe moped từ xa đưa lại. Tôi biết từng cảm giác một."

    Anh nuốt khan. "Cái ngày chúng ta đi tới đó mà tôi mắc kẹt trong thứ kinh dị này, mọi ký ức, mọi cảm giác ấy sẽ ùa ra, rồi bị xóa bỏ bởi nỗ lực xoay xở để ngồi được vào sau chiếc bàn đó, để lên xuống những lề đường Paris lát đá, gặp những tay tài xế taxi từ chối chở chúng ta, rồi cái pin chết tiệt của chiếc xe lăn này sẽ không cắm được vào ổ điện ở Pháp. Thế nhé?"

    Giọng anh đã trở nên nặng nề. Tôi vặn nắp cái bình chân không lại. Khi vặn, tôi nhìn giày mình thật lâu, vì không muốn anh nhìn thấy mặt tôi.

    "Rồi," tôi nói.

    "Rồi." Anh hít một hơi thật sâu.

    Phía dưới chúng tôi, một chiếc xe khách dừng lại, túa ra một đoàn khách tham quan nữa bên ngoài cổng lâu đài. Chúng tôi lặng lẽ quan sát họ chui ra khỏi xe, xếp thành một hàng trật tự đi vào tòa lâu đài cổ, nghiêm trang ngắm nhìn di tích của một thời đại khác.

    Có lẽ anh nhận ra tôi im ắng, thế nên anh vươn lại gần tôi một chút. Mặt anh dịu lại. "Clark này. Hình như mưa tạnh rồi. Chiều nay chúng ta đi đâu. Mê cung nhé?"

    "Không." Câu trả lời buột ra nhanh hơn tôi muốn, tôi thấy Will nhìn tôi dò hỏi.

    "Chứng sợ không gian hẹp của cô à?"

    "Đại loại thế." Tôi bắt đầu thu xếp mọi thứ. "Chúng ta về nhà thôi."

    Kỳ cuối tuần sau đó, nửa đêm tôi xuống dưới lầu để lấy ít nước. Dạo bấy giờ khó ngủ, tôi mới nhận ra rằng thà thức hẳn còn hơn nằm vật vã trên giường cố xua đi bao ý nghĩ hỗn loạn tơi bời.

    Tôi không thích tỉnh giấc giữa đêm. Tôi không thể thôi tự hỏi ở phía bên kia tòa lâu đài Will còn thức không, và trí tưởng tượng của tôi cứ tìm đường vào suy nghĩ của anh. Đi vào lối ấy quả là tăm tối.

    Sự thật về nó là thế này: Tôi sẽ chẳng đi được đâu cùng anh cả. Thời gian sắp hết. Tôi thậm chí không thuyết phục nổi anh đi Paris. Và khi anh nêu lý do, tôi thật khó mà tranh cãi. Anh có lý do xác đáng để khước từ mọi chuyến đi chơi xa mà tôi gợi ý với anh. Và dù không nói với anh tại sao tôi vô cùng lo âu khi đưa anh đi chơi, tôi cũng chẳng làm gì để khích lệ anh được.

    Tôi đang đi qua phòng khách thì nghe tiếng động - một tiếng ho nghèn nghẹt, cũng có thể là một tiếng than. Tôi dừng lại, bước thụt lui rồi đứng ở khung cửa. Tôi mở nhẹ cửa. Trên sàn phòng khách, nệm sofa được xếp lại thành kiểu giường dã chiến, bố mẹ tôi nằm trên đó dưới tấm chăn dự phòng, đầu họ cao ngang cái lò sưởi bằng ga. Chúng tôi nhìn nhau một chốc trong ánh sáng lờ mờ, ly nước bất động trên tay tôi.

    "Bố mẹ... bố mẹ làm gì thế?"

    Mẹ tôi nhổm người dậy trên khuỷu tay. "Suỵt. Đừng nói to thế. Bố mẹ..." mẹ nhìn sang bố. "Bố mẹ thích thay đổi một chút."

    "Sao cơ?"

    "Bố mẹ thích thay đổi." Mẹ liếc sang bố cầu viện.

    "Bố mẹ cho Treena giường của bố mẹ," bố nói. Bố mặc chiếc áo phông xanh cũ có vết rách trên vai, tóc bố tùa qua một bên. "Nó với Thomas, hai mẹ con ở gác lửng không ổn lắm. Bố mẹ bảo nó xuống phòng bố mẹ."

    "Nhưng bố mẹ không thể ngủ ở dưới này được! Ngủ thế này làm sao bố mẹ thoải mái."

    "Bố mẹ ổn cả, con yêu," bố nói. "Thật đấy."

    Rồi khi tôi đứng đó, sững sờ câm lặng cố hiểu cho ra chuyện, bố nói thêm, "Chỉ cuối tuần thôi mà. Đằng nào con cũng không ngủ được trong gác lửng. Con cần ngủ, vì..." Bố nuốt vào. "Vì con là người duy nhất trong nhà làm việc mà."

    Bố tôi không nhìn vào mắt tôi.

    "Quay về giường đi Lou. Đi đi. Bố mẹ không sao đâu." Mẹ thực sự xua tôi đi.

    Tôi bước lên cầu thang, chân trần lặng lẽ trên thảm, loáng thoáng nghe cuộc trò chuyện rì rầm ngắn ngủi dưới nhà.

    Tôi ngập ngừng ngoài phòng bố mẹ, nghe một âm thanh mà tôi chưa bao giờ nghe thấy - tiếng ngáy nghèn nghẹt của Thomas. Rồi tôi bước chậm lại, đi qua chiếu nghỉ về phòng mình, cẩn thận đóng cửa lại sau lưng. Tôi nằm trên chiếc giường rộng thênh, nhìn chằm chằm ra ánh đèn đường vàng vọt ngoài cửa sổ, cho tới khi rốt cuộc, may mắn làm sao, rạng đông cũng mang tới cho tôi vài giờ ngủ quý báu.

    Còn bảy mươi chín ngày trên lịch của tôi. Tôi lại bắt đầu cảm thấy lo lắng. Mà không chỉ có mình tôi như thế.

    Một hôm vào giờ ăn trưa, bà Traynor đợi cho tới khi Nathan tới chăm sóc

    Will, rồi mới bảo tôi đi cùng bà lên nhà chính. Bà ngồi xuống trong phòng khách và hỏi xem tôi cảm thấy mọi chuyện thế nào.

    "Dạo này chúng tôi hay đi chơi hơn," tôi nói. Bà gật gù ra chiều đồng ý.

    "Anh ấy nói nhiều hơn trước đây."

    "Với cô thì có lẽ đúng vậy." Bà khùng khục một tiếng, khó có thể gọi đó là tiếng cười cho được. "Cô đã đề cập chuyện đi nước ngoài với nó chưa?"

    "Chưa. Tôi sẽ nói. Có điều... bà biết anh ấy thế nào rồi đấy."

    "Tôi thực sự không lăn tăn gì cả," bà nói, "nếu cô muốn đi đâu đó. Tôi biết có thể chúng tôi đã không cổ vũ nhiệt tình ý tưởng của cô, nhưng vợ chồng tôi đã trò chuyện rất nhiều, hai chúng tôi đồng tình..."

    Chúng tôi ngồi đó trong yên lặng. Bà đã pha cho tôi một tách cà-phê đặt trên đĩa nhỏ. Tôi nhấp một ngụm. Khi đặt đĩa đựng tách trong lòng, tôi luôn cảm giác mình đã sáu mươi.

    "À... Will kể với tôi nó đã tới nhà cô."

    "Vâng, hôm sinh nhật tôi. Bố mẹ tôi đã làm một bữa tối đặc biệt." "Hôm ấy nó thế nào?"

    "Tuyệt. Tuyệt lắm. Anh ấy rất tốt với mẹ tôi." Tôi không thể ngăn một nụ cười khi nghĩ về đêm đó. "Hôm đó mẹ tôi hơi buồn vì em gái tôi và con trai nó đi xa. Mẹ nhớ tụi nó. Tôi nghĩ anh ấy... anh ấy chỉ muốn giúp mẹ tôi nguôi ngoai."

    Bà Traynor tỏ vẻ kinh ngạc. "Nó thật... biết nghĩ quá." "Mẹ tôi cũng nghĩ vậy."

    Bà Traynor khuấy tách cà-phê. "Tôi không nhớ nổi lần cuối cùng Will đồng ý ăn tối cùng chúng tôi."

    Bà hỏi han thêm một chút nữa. Không bao giờ hỏi thẳng, tất nhiên rồi, đó không phải cách của bà. Nhưng tôi không thể cho bà câu trả lời mà bà mong đợi. Có những ngày tôi nghĩ Will đang cảm thấy hạnh phúc hơn - anh đi chơi với tôi mà không cau có, anh trêu chọc tôi, khơi gợi tâm trí tôi, dường như gắn kết hơn một chút với thế giới bên ngoài khu nhà phụ - nhưng thật tình tôi thì biết gì chứ? Ở Will tôi cảm thấy một vùng nội tâm ẩn khuất mênh mông, một thế giới anh sẽ không để tôi được hé mắt vào. Hai tuần vừa rồi tôi có cảm giác bất an là vùng sâu thẳm ấy đang mỗi lúc một lớn thêm.

    "Nó có vẻ vui hơn một chút," bà nói. Lời nghe như thể bà đang cố tự trấn an bản thân.

    "Tôi cũng nghĩ vậy."

    "Thật vô cùng..." ánh mắt bà lướt về phía tôi "... thỏa mãn khi được thấy giống con người của nó trước đây hơn một chút. Tôi nhận thấy rõ ràng rằng mọi tiến bộ này đều là nhờ có cô."

    "Không phải tất cả đâu."

    "Tôi không thể động vào nó. Tôi không thể gần gũi nó được." Bà đặt bộ tách đĩa lên đầu gối. "Will nó là một đứa khác thường. Từ hồi nó sang tuổi vị thành niên, tôi luôn phải chống chọi với cảm giác trong mắt nó tôi đã làm điều gì đó không hay không phải. Tôi chưa bao giờ biết rõ điều ấy là gì." Bà cố cười nhưng chẳng giống tiếng cười chút nào, liếc nhìn tôi một cái rồi quay đi.

    Tôi vờ nhấp một ngụm cà-phê, dù trong tách chẳng còn gì.

    "Cô với mẹ có hòa hợp không, Louisa?"

    "Có," tôi nói, rồi nói thêm, "Em gái tôi mới là người làm tôi bực mình."

    Bà Traynor nhìn chăm chăm ra cửa sổ, nơi khu vườn quý giá của bà đang bắt đầu đơm bông, những cánh hoa mang màu hồng, màu hoa cà, màu xanh dương phơn phớt trang nhã.

    "Chúng ta chỉ còn hai tháng rưỡi nữa." Bà nói mà không quay đầu lại nhìn tôi.

    Tôi đặt tách cà-phê lên bàn. Tôi đặt thật cẩn thận để không tạo ra tiếng lách cách. "Tôi sẽ làm hết sức, bà Traynor."

    "Tôi biết, Louisa." Bà gật đầu. Tôi đi ra ngoài.

    Leo McInerney chết ngày 22 tháng Năm, trong một căn phòng ẩn mật tại một căn hộ ở Thụy Sĩ, mặc chiếc áo phông đá bóng yêu thích, có cả bố và mẹ bên cạnh. Em trai cậu không chịu tới, nhưng đưa ra thông báo nói rằng chẳng ai giàu tình yêu thương và sức chịu đựng hơn anh trai cậu. Leo uống dung dịch sữa hòa thuốc an thần gây tử vong vào 3:47 chiều, bố mẹ cậu cho biết sau vài phút cậu chìm vào giấc ngủ sâu. Người quan sát thông báo cái chết của cậu ngay sau bốn giờ chiều hôm đó, người này đã chứng kiến toàn bộ sự việc, cùng với một máy quay để giải quyết sớm mọi thắc mắc liên quan tới việc thực hiện sau quy trình.

    "Trông nó rất thanh thản," báo chí dẫn lời mẹ cậu. "Đó là thứ duy nhất tôi có thể bấu víu vào." Bố mẹ Leo bị cảnh sát thẩm vấn ba lần và đối mặt với nguy cơ bị kiện. Thư khủng bố gửi tới nhà họ. Trông mẹ Leo già hơn hai mươi tuổi so với tuổi thực. Thế nhưng có một biểu cảm gì đó trên nét mặt bà khi bà nói; một biểu cảm cho thấy, bên cạnh buồn đau, giận dữ, lo sợ, rã rời, còn có một sự giải thoát tột cùng.

    "Cuối cùng trông nó lại đúng là Leo."
  7. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 15

    "Này, tình hình là sao đây Clark? Cô lên kế hoạch làm trò thú vị gì cho tối nay rồi?"

    Chúng tôi đang ở trong vườn. Nathan đang trị liệu cho Will, nhẹ nhàng kéo đầu gối của anh lên xuống ngực, trong khi Will nằm trên một tấm chăn, mặt anh hướng lên trời, hai tay dang ra như đang tắm nắng. Tôi ngồi trên bãi cỏ bên cạnh họ, ăn sandwich. Giờ đây buổi trưa tôi chẳng đi đâu nữa.

    "Có chuyện gì à?"

    "Tò mò thôi. Tôi hứng thú muốn biết khi không ở đây thì cô tiêu thời gian thế nào."

    "À tối nay sẽ ghé xem biểu diễn kungfu một lát, rồi trực thăng sẽ lái tôi tới Monte Carlo để ăn tối. Sau đó trên đường về nhà tôi sẽ ghé qua Cannes làm một ly ****tail. Nếu chừng... ừm... hai giờ sáng, anh nhìn lên trời, tôi sẽ vẫy tay chào khi bay qua," tôi nói. Tôi tách hai miếng vỏ bánh ra để kiểm tra nhân. "Có lẽ tôi sẽ đọc cho xong cuốn sách."

    Will liếc lên nhìn Nathan. "Mười bảng," anh nói, cười tươi rói. Nathan thò tay vào túi. "Lần nào cũng thế," ông nói.

    Tôi nhìn họ chăm chăm. "Lần nào cũng thế cái gì?" tôi nói khi Nathan dúi tờ tiền vào tay Will.

    "Cậu ấy nói cô sẽ đọc sách. Tôi thì bảo cô sẽ xem tivi. Cậu ấy luôn thắng."

    Chiếc sandwich cứng đờ trên môi tôi. "Luôn? Hai người đánh cược xem cuộc sống của tôi tẻ nhạt tới mức nào đấy hả?"

    "Chúng tôi sẽ không dùng từ đó đâu," Will nói. Thoáng có lỗi trong mắt anh nói với tôi điều ngược lại.

    Tôi ngồi thẳng dậy. "Để tôi nói rõ ra nhé. Hai người đánh cược bằng tiền tươi xem vào tối thứ Sáu tôi sẽ ở nhà đọc sách hay xem ti-vi hả?"

    "Không," Will nói. "Chúng tôi còn đoán xem cô có đứng nhìn Ông Chạy tập luyện dưới đường không."

    Nathan thả chân Will ra. Ông kéo tay Will thẳng lên rồi bắt đầu massage từ cổ tay trở lên.

    "Nếu tôi nói tôi sẽ làm một việc hoàn toàn khác thì sao?" "Có bao giờ như thế đâu," Nathan nói.

    "Thật ra tiền này phải là của tôi." Tôi rút tờ tiền ra khỏi tay Will. "Vì tối nay anh sai rồi."

    "Cô đã bảo cô sẽ đọc sách mà!" anh phản đối.

    "Tối nay tôi sẽ đi xem tranh. Thế nhé. Luật hậu quả ngoài ý muốn đấy, hoặc hai người thích gọi sao cũng được."

    Tôi đứng dậy, đút tờ tiền vào túi, nhét phần còn lại của bữa trưa vào cái túi giấy màu nâu của nó. Tôi mỉm cười khi đi khỏi chỗ họ, nhưng thật kỳ lạ, vì một lý do nào đó tôi chưa thể hiểu ra ngay, mắt tôi chợt đẫm nước.

    Sáng đó tôi đã dành một tiếng mần mò bên tờ lịch. Có những ngày tôi cứ ngồi trên giường nhìn nó chăm chăm, chiếc bút lông trên tay, cố nghĩ xem mình có thể đưa Will tới đâu. Tôi chưa dám tin tôi có thể đưa Will đi đâu đó xa xa, và dù có Nathan giúp đỡ đi nữa thì ý nghĩ đi chơi qua đêm cũng khiến tôi thấy nản lòng.

    Tôi xem báo địa phương, liếc nhìn những trận bóng đá và hội chợ trong làng, nhưng sau thất bại hôm đi xem đua ngựa, giờ tôi cứ sợ xe của Will lại bị mắc kẹt trong cỏ. Tôi lo chốn đông người sẽ khiến anh có cảm giác bị phơi bày. Tôi phải bỏ qua mọi trò liên quan tới ngựa, với một vùng như quê chúng tôi thì điều đó đồng nghĩa với việc loại bỏ một lượng lớn bất ngờ những hoạt động ngoài trời. Tôi biết anh sẽ không muốn xem Patrick chạy, còn xem cricket hoặc bóng bầu dục thì anh sẽ bị lạnh. Có những ngày tôi cảm thấy suy sụp vì chẳng nghĩ được ý tưởng gì mới.

    Có lẽ Will và Nathan đúng. Có lẽ tôi thật tẻ nhạt. Có lẽ tôi là người kém khả năng nhất thế giới trong nỗ lực nghĩ ra những thứ có thể thắp lại tình yêu cuộc sống trong Will.

    Sách, hoặc ti-vi...

    Đặt như thế, thật khó tin chúng có gì khác nhau.

    Khi Nathan đi rồi, Will tìm tôi trong bếp. Tôi đang ngồi bên chiếc bàn nhỏ, gọt khoai tây để chuẩn bị bữa tối cho anh, tôi không ngước lên khi anh dừng xe lăn bên khung cửa. Anh nhìn tôi lâu tới nỗi hai tai tôi đỏ ửng lên vì bị quan sát.

    "Anh biết không," cuối cùng tôi lên tiếng, "tôi cũng có thể tàn nhẫn lại với anh đấy. Tôi có thể chỉ ra rằng anh cũng chẳng làm gì cả."

    "Biết đâu Nathan sẽ đánh cược thật cao xem tôi có đi nhảy không thì sao," Will nói.

    "Tôi biết đó chỉ là trò đùa," tôi tiếp tục, bỏ một đoạn vỏ khoai tây dài ngoằng xuống. "Nhưng anh khiến tôi cảm thấy mình thật tầm thường. Nếu anh định đánh cược về cuộc sống buồn tẻ của tôi, sao anh phải cho tôi biết chứ? Anh và Nathan không thể xem nó là một trò đùa riêng tư thôi sao?"

    Anh im lặng một lát. Khi cuối cùng tôi cũng nhìn lên, anh nhìn kỹ gương mặt tôi. "Xin lỗi," anh nói.

    "Trông anh chẳng có vẻ có lỗi gì cả."

    "À... ừ... có lẽ tôi đã muốn cô nghe thấy chuyện đó. Tôi muốn cô nghĩ tới những việc cô sẽ làm."

    "Sao cơ, tôi đang để đời mình trôi đi...?" "Phải, chính thế."

    "Chúa ơi, Will. Tôi mong anh đừng bao giờ nói tôi phải làm gì nữa. Tôi thích xem ti-vi thì sao nào? Tôi không thích làm gì hơn ngoài đọc sách thì sao?" Giọng tôi vút lên. "Tôi thấy mệt mỏi khi về tới nhà thì sao? Tôi không muốn lấp đầy ngày tháng bằng những hoạt động điên rồ thì sao?"

    "Nhưng biết đâu một ngày nào đó cô sẽ ước mình đã sống như thế," anh nói lặng lẽ. "Cô có biết nếu là cô tôi sẽ làm gì không?"

    Tôi đặt dao gọt xuống. "Tôi cho là anh sắp nói với tôi."

    "Phải. Và tôi hoàn toàn không ngượng khi nói ra đâu. Tôi sẽ đi học bổ túc ban đêm. Tôi sẽ học để trở thành thợ may hoặc người thiết kế thời trang hoặc bất cứ việc gì liên quan tới thứ mà cô thực sự yêu thích." Anh ra dấu về phía chiếc váy ngắn của tôi, chiếc váy kiểu Pucci mang phong cách thời trang thập niên sáu mươi, được may từ tấm vải một thời là đôi rèm cửa của ông ngoại tôi.

    Lần đầu tiên nhìn thấy nó, bố tôi đã chỉ vào tôi và la lên, "Này, Lou, tỉnh lại đi nhé!" Mất năm phút bố mới thôi cười được.

    "Tôi sẽ tìm xem tôi có thể làm thứ gì đó không quá đắt đỏ - tham gia lớp thể dục thẩm mỹ, bơi lội, đi tình nguyện, đại loại thế. Tôi sẽ tự dạy mình nghe nhạc, dắt chó nhà người khác đi dạo, hoặc..."

    "Được rồi, được rồi, tôi hiểu ý anh rồi," tôi bực dọc đáp. "Nhưng tôi không phải là anh, Will."

    "May cho cô."

    Chúng tôi ngồi im lặng một lúc. Will đưa xe vào, nâng xe lên để chúng tôi đối diện nhau qua bàn.

    "Được rồi," tôi nói. "Thế trước đây xong việc thì anh làm gì? Chắc việc đó giá trị lắm nhỉ?"

    "Thật ra xong việc thì cũng chẳng còn mấy thời gian, nhưng ngày nào tôi cũng cố làm một việc gì đó. Tôi trèo núi ở một trung tâm trong nhà, chơi bóng quần, đi nghe nhạc, thử thưởng thức nhà hàng mới..."

    "Có tiền thì làm những việc ấy khó gì," tôi phản đối.

    "Tôi cũng chạy nữa. Phải, thật đấy," anh nói, khi tôi nhướng mày.

    "Tôi cố học ngôn ngữ mới của những nơi tôi nghĩ một ngày kia mình sẽ tới. Tôi gặp gỡ bạn bè - hay đúng hơn là những người tôi đã nghĩ là bạn bè tôi..." Anh chùng lại một lát. "Tôi lên kế hoạch cho những chuyến đi. Tôi tìm kiếm những nơi tôi chưa từng tới, những thứ khiến tôi e sợ hoặc đẩy tôi tới giới hạn của mình. Có lần tôi đã bơi ở eo biển Manche. Tôi đi nhảy dù. Tôi đi bộ lên núi rồi lại trượt tuyết xuống. Phải..." anh nói, khi tôi định ngắt lời, "... tôi biết nhiều hoạt động trong số này cần tiền, nhưng cũng nhiều hoạt động đâu cần tiền. Vả lại, cô nghĩ tôi kiếm tiền bằng cách nào?"

    "Lừa tiền người thủ đô à?"

    "Tôi nghĩ xem điều gì khiến mình hạnh phúc, tôi nghĩ xem tôi muốn làm gì, tôi tự học tập để làm một công việc có thể đưa lại hai điều đó."

    "Anh nói nghe dễ quá."

    "Dễ thật mà," anh nói. "Vấn đề là mình cũng phải làm cực kỳ vất vả. Mà con người thường chẳng thích phải làm việc cực nhọc."

    Tôi đã gọt xong khoai tây. Tôi bỏ vỏ vào thùng rác, đặt chảo lên lò sẵn sàng để lát nữa nấu. Tôi quay lại, chống tay đẩy người ngồi lên bàn đối diện anh, hai chân đung đưa.

    "Anh đã có một cuộc sống rất hoành tráng phải không?"

    "Phải, đúng thế." Anh xích lại gần hơn một chút, nâng xe lên để chúng tôi mắt đối mắt. "Đó là lý do vì sao cô bực mình với tôi, Clark. Bởi vì tôi nhìn thấy tất cả tài năng này, tất cả..." Anh nhún vai. "Năng lượng, sự tươi sáng, và..."

    "Đừng nói tiềm năng."

    "... tiềm năng. Đúng thế. Tiềm năng. Thế nên trong chừng mực cuộc đời mình, tôi không thể tưởng tượng làm sao cô có thể hài lòng với cuộc sống chật hẹp này. Cuộc sống này chỉ xoay quanh bán kính năm dặm, ở đó chẳng có ai có thể khiến cô ngạc nhiên, thúc đẩy cô, cho cô thấy những thứ để đến đêm đầu cô quay mòng mòng không sao ngủ được."

    "Anh đang tìm cách nói tôi nên làm một việc gì có ý nghĩa hơn nhiều so với ngồi gọt khoai tây cho anh."

    "Tôi đang nói với cô là cả thế giới còn ở ngoài kia. Nhưng tôi rất biết ơn nếu cô vẫn gọt khoai tây cho tôi trước." Anh mỉm cười với tôi, và tôi không thể không mỉm cười lại.

    "Anh có nghĩ..." tôi cất tiếng, rồi bỏ dở chừng. "Nói đi."

    "Anh không nghĩ anh thực sự phải vất vả hơn rất nhiều để... hòa hợp sao? Vì anh đã làm mọi việc đó?"

    "Cô đang hỏi tôi rằng tôi có ước mình chưa từng làm những việc ấy?"

    "Tôi chỉ tự hỏi nếu thế thì mọi chuyện có dễ dàng hơn với anh không. Nếu anh đã sống một cuộc đời nhỏ hẹp hơn. Sống như cuộc sống ở đây, ý tôi là thế."

    "Tôi sẽ không bao giờ, không bao giờ hối tiếc về những gì tôi đã làm. Vì nếu ta mắc kẹt trong một thứ như thế này, thì hầu hết mọi ngày, tất cả những gì ta có là những miền đất trong ký ức mà ta có thể đi tới." Anh mỉm cười. "Thế nên nếu cô hỏi tôi rằng tôi có muốn nhớ về cảnh tòa lâu đài nhìn từ cửa hàng tạp hóa kia không, hay về dãy cửa hàng xinh xắn dưới con đường quanh co, thì xin thưa là không. Cuộc đời của tôi rất ổn, cảm ơn."

    Tôi trượt xuống khỏi bàn. Tôi không chắc vì sao, nhưng một lần nữa tôi lại cảm thấy mình bị dồn vào chân tường. Tôi với cái thớt trong rổ.

    "Lou à, tôi xin lỗi. Chuyện đánh cược bằng tiền."

    "Ừ." Tôi quay đi, bắt đầu rửa cái thớt dưới bồn. "Đừng nghĩ nói thế thì anh sẽ lấy lại được mười bảng."

    Hai ngày sau Will vào bệnh viện để điều trị nhiễm trùng. Phương pháp phòng ngừa, người ta nói vậy, dù ai cũng thấy rõ là anh đang rất đau. Một số người liệt tứ chi không có cảm giác gì, nhưng với Will thì dù không cảm nhận được nhiệt độ, phía dưới ngực anh vẫn biết đau và biết xúc động. Tôi vào thăm anh hai lần, mở nhạc và đưa món ngon cho anh ăn, đề nghị được ngồi lại bên anh, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng Will thực sự không muốn có thêm sự quan tâm ở đó nữa. Anh bảo tôi về nhà nghỉ ngơi mấy ngày.

    Nếu là một năm về trước, tôi hẳn sẽ lãng phí những ngày nghỉ ấy, tôi sẽ lê la qua mấy cửa hàng, có thể chạy qua ăn trưa với Patrick. Có lẽ tôi sẽ xem chương trình tivi ban ngày, và dành chút nỗ lực xếp lại quần áo. Chắc tôi sẽ ngủ nướng nữa.

    Nhưng lúc này, tôi cảm thấy bất an và mất phương hướng một cách kỳ lạ. Tôi nhớ cảm giác có một lý do để dậy sớm, một mục đích trong ngày. Mất nửa buổi sáng tôi mới nghĩ ra rằng phải sử dụng thời gian này một cách có ích. Tôi đi tới thư viện và bắt đầu nghiên cứu. Tôi đọc mọi website về người bị liệt tứ chi mà tôi có thể tìm kiếm, cố nghĩ ra những việc chúng tôi có thể làm khi Will khá hơn. Tôi viết ra các danh sách, viết thêm vào từng mục những đồ đạc thiết bị có thể cần xem xét cho mỗi sự việc.

    Tôi phát hiện ra các chat room của người bị tổn thương tủy sống, và nhận ra có hàng ngàn người, cả đàn ông lẫn đàn bà, bị giống như Will - sống ẩn dật ở London, Sydney, Vancouver, hoặc ngay dưới phố này - có người được bạn bè, gia đình giúp đỡ, có người cô đơn đến đau lòng.

    Tôi là người chăm sóc duy nhất tham gia vào những website này. Có những người bạn gái hỏi xem họ phải làm sao để giúp người yêu có lại sự tự tin để đi ra ngoài, có những người chồng tìm tư vấn về dụng cụ y tế mới nhất. Có những mục quảng cáo về xe lăn có thể đi trên cát hoặc đường gồ ghề, về cần cẩu thông minh hoặc nệm tắm có thể bơm phồng.

    Các cuộc thảo luận cung cấp nhiều mật mã. Tôi hiểu ra rằng SCI là chấn thương cột sống, AB là người khỏe mạnh, UTI là bị nhiễm trùng. Tôi nhận biết chấn thương tủy sống mức C4/5 nghiêm trọng hơn nhiều so với mức C11/12, ở mức C11/12 thì hầu hết bệnh nhân vẫn sử dụng được hai tay hoặc bán thân. Có những câu chuyện về tình yêu và mất mát, vợ chồng con cái phải nỗ lực hòa hợp với cuộc sống của người tàn phế. Có những người vợ cảm thấy có lỗi khi trước đây họ cứ cầu trời cho chồng không đánh được họ nữa - để rồi nhận ra giờ đây người chồng ấy sẽ chẳng bao giờ còn làm được thế. Có những người chồng muốn rời bỏ người vợ tàn tật nhưng lại sợ phản ứng của gia đình bè bạn. Có nỗi mệt mỏi rã rời và sự tuyệt vọng, có vô số lời bỡn cợt chua chát - những câu đùa về chuyện vỡ túi đựng nước tiểu, sự nhiệt tình ngu dốt của người khác, hoặc tai nạn bất ngờ do say rượu. Rơi khỏi xe lăn là chuyện xảy ra như cơm bữa. Có nhiều lời dọa tự vẫn - có người muốn làm ngay, có người khích lệ mình cho bản thân thêm một chút thời gian để học cách nhìn cuộc đời mình theo một cách khác. Tôi đọc từng lời đe dọa đó, cảm thấy như thể mình đang âm thầm thấu hiểu cách não bộ của Will vận hành.

    Tới giờ ăn trưa, tôi rời khỏi thư viện và đi bộ một đoạn quanh thị trấn cho thảnh thơi đầu óc. Tôi đãi mình sandwich tôm, rồi ngồi lên bức tường quan sát thiên nga bơi lội trong hồ nước dưới lâu đài. Trời ấm nên tôi bỏ áo khoác, nghênh mặt về phía mặt trời. Cảm giác thật thanh thản lạ thường khi quan sát phần còn lại của thế giới vẫn mải mê bận rộn với việc riêng. Sau khi dành cả buổi sáng ngồi trong một thế giới đóng khung, được đi ra ngoài ăn trưa mới tự do làm sao.

    Khi ăn xong, tôi trở lại thư viện, khởi động lại máy tính. Tôi hít một hơi thật sâu rồi gõ một tin nhắn.

    Chào - Tôi là bạn/người chăm sóc của một anh chàng 35 tuổi liệt tứ chi mức C5/6. Anh ấy rất thành công và năng động trong cuộc sống trước đây nên rất khó thích ứng với cuộc sống mới này. Thật ra, tôi biết anh ấy không muốn sống, và tôi đang nghĩ mọi cách để làm anh ấy thay đổi ý định. Xin mọi người làm ơn chỉ cho tôi cách làm việc này. Có ý kiến gì về những thứ biết đâu anh ấy sẽ thích, hoặc những cách giúp tôi làm anh ấy nghĩ khác đi không ạ? Vô cùng biết ơn trước mọi lời khuyên nhận được.

    Tôi gọi mình là Ong Chăm Chỉ. Rồi tôi dựa lưng ra ghế, nhai móng tay cái một chút, cuối cùng nhấn "Gửi".

    Buổi sáng của hai ngày sau, khi ngồi xuống máy, tôi nhận được mười bốn tin nhắn trả lời. Tôi đăng nhập vào chat room, chớp mắt khi nhìn thấy một loạt cái tên, câu trả lời đến từ mọi người trên khắp thế giới, bất kể ngày đêm. Tin nhắn đầu tiên viết:

    Ong Chăm Chỉ thân mến,

    Chào mừng vào room của chúng tôi. Tôi chắc người bạn của bạn sẽ rất thoải mái khi có một người chăm sóc anh ấy.

    Tôi không dám chắc về điều đó đâu, tôi nghĩ.

    Hầu bết chúng tôi trên đây đều có giai đoạn vô cùng tuyệt vọng trong cuộc sống. Có lẽ anh bạn ấy đang gặp phải giai đoạn này. Đừng để anh ấy đẩy bạn ra xa. Hãy tích cực lên. Nhắc nhở anh ấy rằng cả hai quyết định xuất hiện và biến mất trên thế gian này đều không thuộc về anh ấy, mà thuộc về Chúa. Ngài quyết định thay đổi cuộc sống của anh ấy, bằng ý chí của riêng Ngài, và có lẽ có một bài học trong đó là Ngài...

    Tôi đọc tin nhắn tiếp theo.

    Ong thân mến,

    Chuyện này chẳng có cách gì đâu, bị liệt tứ chi tuyệt vọng lắm. Nếu anh bạn ấy ham mê thể thao thì anh ấy sẽ càng thấy khó khăn hơn. Có một số thứ đã giúp được tôi. Nhiều người bên cạnh, ngay cả khi tôi chẳng thích thú gì điều này. Thức ăn ngon. Bác sĩ giỏi. Thuốc tốt, cả thuốc chống trầm cảm nếu cần. Bạn không nói bạn sống ở đâu, nhưng nếu bạn có thể bảo anh ấy nói chuyện với mọi người trong cộng đồng SCI thì chắc có ích đấy. Dạo đầu tôi chẳng thích thú gì đâu (tôi nghĩ phần nào đó trong tôi không muốn thừa nhận mình thực sự bị liệt tứ chi) nhưng khi biết mình không cô độc trên đời thì quả thực có ý nghĩa lắm.

    À, nhớ ĐỪNG cho anh ấy xem những phim như phim The Diving Bell And The Butterfly (Tiếng chuông lặng và cánh ****). Thuốc giảm đau nguy hại!

    Cho chúng tôi biết mọi chuyện tiến triển ra sao nhé. Chúc mọi điều tốt đẹp. Richie

    Tôi tìm phim The Diving Bell And The Butterfly. "Câu chuyện kể về một người đàn ông bị liệt sau khi đột quỵ, và nỗ lực của ông để giao tiếp với thế giới bên ngoài," lời giới thiệu phim đề. Tôi viết tên bộ phim vào sổ, không chắc liệu tôi làm thế để đảm bảo Will không xem nó, hay để tôi nhớ mà xem.

    Hai tin nhắn tiếp theo là từ một người theo đạo Cơ đốc Phục lâm An Thất Nhật, và từ một người đàn ông đề xuất những cách thức làm Will vui lên mà chắc chắn không nằm trong hợp đồng lao động của tôi. Tôi đỏ mặt, vội vã lướt xuống, sợ có ai ở sau lưng liếc vào màn hình của tôi. Rồi tôi nán lại tin nhắn tiếp theo.

    Chào Ong Chăm Chỉ,

    Tại sao bạn nghĩ anh bạn/ông chủ/ gì gì đó của bạn cần phải thay đổi ý định? Nếu tôi có thể tìm được một cách chết bảo toàn được phẩm giá, nếu tôi không biết cái chết sẽ khiến cả nhà tôi suy sụp, tôi sẽ chọn nó. Tôi đã mắc kẹt trong xe lăn tám năm nay rồi, cả cuộc đời tôi quẩn quanh mãi trong bẽ bàng tuyệt vọng. Bạn có hiểu thấu nỗi niềm của anh ấy? Bạn có biết người ta cảm thấy thế nào khi đến giải tỏa cái ruột già của mình cũng không làm được nếu chẳng có ai giúp không? Khi biết rằng vĩnh viễn từ đây người ta phải nằm bẹp giường/không thể ăn, mặc, giao tiếp với thế giới bên ngoài mà không có ai giúp đỡ? Khi biết không bao giờ được ******** nữa? Khi phải đối mặt với những cơn đau tiềm ẩn, bệnh hoạn, và thậm chí là máy trợ thở? Bạn có vẻ là người đáng mến, và tôi tin bạn có ý đồ tốt. Nhưng tuần tới bạn không nên chăm sóc anh ấy. Hãy để việc ấy cho một người thường làm anh ấy khó chịu, hoặc thậm chí một người không ưa gì anh ấy. Chuyện đó, như bao chuyện khác, nằm ngoài kiểm soát của anh ấy. Nhóm người SCI chúng tôi biết rất ít thứ nằm trong tầm kiểm soát của mình - người ta bón cho ăn, mặc quần áo cho, tắm rửa, chuẩn bị thuốc thang nữa. Sống với ý thức đó cơ cực lắm.

    Thế nên tôi nghĩ bạn đang đặt câu hỏi sai rồi. AB là ai mà được quyền quyết định xem cuộc sống của chúng tôi nên thế nào chứ? Nếu đây là cuộc đời không dành cho bạn của bạn, chẳng phải nên đặt câu hỏi thế này ư: Làm sao để giúp anh ấy kết thúc chuyện này?

    Thân ái,

    Gforce, Missouri, US

    Tôi nhìn tin nhắn đó trân trân, ngón tay tôi thõng trên bàn phím một thoáng. Rồi tôi lướt xuống dưới. Mấy tin nhắn tiếp theo đến từ những người bị liệt khác, chỉ trích Gforce vì lời lẽ yếm thế của anh ta, phản pháo rằng họ đã tìm được con đường để đi tiếp, rằng cuộc đời của họ đáng sống. Cuộc tranh luận tiếp diễn một hồi chừng như chẳng liên quan gì tới chuyện của Will.

    Thế rồi topic tự nó kéo mình trở lại câu hỏi của tôi. Có mấy người gợi ý về thuốc chống suy nhược, massage, những cuộc phục hồi thần diệu, câu chuyện về những cuộc đời được trao gửi giá trị mới. Có ít người gợi ý những việc cụ thể: thưởng rượu, âm nhạc, nghệ thuật, đặc biệt là bàn phím lắp đặt.

    "Một người yêu," Grace 31 ở Birmingham viết. "Nếu anh ấy có người yêu, anh ấy sẽ đi tiếp được. Không có người yêu, tôi hẳn đã tuyệt vọng gấp ngàn lần."

    Dòng chữ ấy cứ vang vọng trong đầu tôi rất lâu sau khi tôi rời khỏi thư viện.

    Thứ Năm, Will ra viện. Tôi đón anh bằng chiếc xe hơi đa dụng, đưa anh về nhà. Anh nhợt nhạt và kiệt sức, bơ phờ nhìn ra cửa kính trong suốt chuyến đi.

    "Không ngủ được ở những chỗ đó," anh giải thích khi tôi hỏi xem anh có ổn không. "Lúc nào giường bên cũng có người rên rỉ."

    Tôi bảo anh sẽ có hai ngày cuối tuần để hồi phục, nhưng sau đó tôi có một loạt buổi đi chơi đã lên kế hoạch. Tôi nói tôi đang nghe theo lời khuyên của anh mà thử những thứ mới, và anh sẽ phải đi cùng tôi. Đó là sự thay đổi tinh vi về vị trí người trung tâm, nhưng tôi biết đó là cách duy nhất tôi có thể bắt anh đi cùng mình.

    Thật tình, tôi đã lập ra một bản danh sách chi tiết cho hai tuần tới. Từng sự kiện được đánh dấu cẩn thận bằng mực đen trên tờ lịch của tôi, vạch ra những thứ nên đề phòng bằng mực đỏ, và ghi lại phụ kiện cần mang theo bằng mực xanh. Mỗi lần nhìn vào phía sau cánh cửa tôi lại thấy lòng dâng lên thoáng phấn khích, vừa vì thấy mình thật tài tổ chức, vừa vì ý nghĩ biết đâu một trong những sự kiện đó sẽ thực sự là thứ thay đổi cái nhìn của Will với thế giới.

    Như bố tôi luôn nói, em gái tôi là bộ não của cả nhà.

    Chuyến đi tới khu triển lãm tranh kéo dài chưa tới hai mươi phút. Mà đó là bao gồm cả chạy xe ba vòng quanh tòa nhà để tìm chỗ đỗ thích hợp. Chúng tôi vào khu triển lãm, và tôi vừa đóng cửa lại sau lưng anh thì anh đã bảo tác phẩm ở đây tệ hại quá. Tôi hỏi tại sao thì anh đáp nếu tôi chẳng nhận ra điều đó thì anh có giải thích cũng vô ích. Chúng tôi phải bỏ qua rạp chiếu phim sau khi nhân viên ở đó cho biết với vẻ có lỗi rằng thang máy bị hỏng. Những kế hoạch khác ví như nỗ lực đi bơi bất thành, cần nhiều thời gian hơn và phải sắp xếp trước - gọi tới bể bơi trước, đề nghị Nathan làm thêm giờ, rồi khi chúng tôi tới đó, Will lặng lẽ uống sô-cô-la nóng trong bình chân không ở bãi đỗ xe vắng tanh rồi kiên quyết từ chối vào trong.

    Tối thứ Tư tiếp theo, chúng tôi đi nghe một ca sĩ anh từng nghe ở New York. Buổi hôm đó rất trôi chảy. Khi nghe nhạc, nét mặt anh luôn biểu lộ sự tập trung cao độ. Hầu như khi nào Will cũng để một phần hồn ở đẩu đâu, như thể anh đang phải chống chọi với cơn đau, với ký ức, với những ý nghĩ tăm tối. Nhưng với âm nhạc thì khác hẳn.

    Sang thứ Năm, tôi đưa anh đi nếm rượu, một phần của sự kiện quảng bá do một chủ vườn nho tổ chức tại một cửa hàng rượu đặc biệt. Tôi phải hứa với Nathan là không để anh say. Tôi nâng từng ly lên cho Will ngửi, và chưa uống anh đã biết hết tên loại rượu. Tôi cố không khịt mũi khi Will nhổ rượu vào ly bê-se (chuyện đó buồn cười chết đi được), còn anh thì trợn mắt nhìn tôi và bảo tôi đúng là đồ trẻ con. Ông chủ quán thoạt đầu thấy bối rối lạ lùng khi có một anh chàng ngồi trên xe lăn trong cửa hàng của mình, sau đó thì tỏ ra rất ấn tượng. Khi chiều sang, ông ngồi xuống và bắt đầu mở những chai khác, thảo luận về vùng miền và các loại nho với Will, trong khi tôi lang thang, nhìn xuống những miếng nhãn dán, và nói thật ra là thấy hơi chán.

    "Lại đây Clark. Nghe giảng giải này," anh nói, gật đầu ra hiệu cho tôi ngồi xuống bên anh.

    "Không được đâu. Mẹ tôi bảo nhổ như thế là thô lỗ."

    Hai người đàn ông nhìn nhau như thể tôi là kẻ điên. Thế nhưng anh không nhổ rượu liên tục nữa. Tôi quan sát anh. Anh nói nhiều một cách kỳ lạ suốt phần còn lại buổi chiều - hay cười, thậm chí hiếu chiến hơn thường lệ. Thế rồi, trên đường về nhà, chúng tôi lái xe qua một thị trấn mà chúng tôi ít tới, rồi khi chúng tôi ngồi bất động vì kẹt xe, tôi liếc sang thì thấy Cửa hàng xăm.

    "Tôi luôn thích có một hình xăm," tôi nói.

    Lẽ ra tôi phải biết là không được nói những thứ như thế trước mặt Will. Anh không tán gẫu hay chuyện trò đôi chút về chuyện đó. Anh lập tức muốn biết vì sao tôi chưa từng xăm.

    "Ôi... Tôi không biết. Vì nghĩ tới chuyện mọi người sẽ nói gì, tôi nghĩ thế." "Sao chứ? Họ sẽ nói gì nào?"

    "Bố tôi ghét hình xăm." "Thế cô mấy tuổi rồi?"

    "Patrick cũng ghét hình xăm."

    "Và anh ấy chưa từng làm việc gì cô không thích nhỉ."

    "Có thể khi xăm tôi sẽ bị chứng sợ không gian hẹp. Có thể khi nào hết sợ tôi sẽ thay đổi ý định."

    "Rồi sau đó cô sẽ xóa vết xăm bằng tia laser, phải chứ?" Tôi nhìn anh qua gương chiếu hậu. Mắt anh vui lấp lánh. "Thôi nào," anh nói. "Cô định xăm gì?"

    Tôi nhận ra mình đang mỉm cười. "Tôi không biết nữa. Không phải rắn.

    Không phải tên ai đó."

    "Tôi không nghĩ sẽ là hình một trái tim với chữ 'mẹ' bên trong đâu." "Anh hứa không cười chứ?"

    "Cô biết tôi không thể làm thế mà. Ôi Chúa ơi, cô không định xăm một câu tục ngữ bằng tiếng Phạn hay đại loại thế đấy chứ? Cái gì không khuất phục được tôi sẽ khiến tôi mạnh lên."

    "Không. Tôi sẽ xăm một chú ong. Một chú ong nghệ nhỏ sọc vàng sọc đen.

    Tôi thích nó."

    Anh gật đầu, như thể muốn một hình xăm như thế là cực kỳ có lý. "Thế cô muốn xăm vào đâu? Hay tôi không được phép hỏi đây?"

    Tôi nhún vai. "Chẳng biết. Ở vai chăng? Môi dưới?" "Dừng xe lại," anh nói.

    "Sao, anh có ổn không?"

    "Cứ dừng lại đi. Có một chỗ trống kia kìa. Nhìn xem, phía bên trái đó." Tôi tấp xe vào vỉa hè và liếc nhìn lại anh.

    "Nào, đi đi," anh nói. "Hôm nay chúng ta không cần gì khác nữa." "Đi đâu?"

    "Tới cửa hàng xăm."

    Tôi phá lên cười. "À. Phải." "Sao không?"

    "Anh đã nuốt rượu chứ không nhổ." "Cô chưa trả lời câu hỏi của tôi."

    Tôi quay người trên ghế. Anh đang rất nghiêm túc. "Tôi không thể cứ thế đi xăm được. Chỉ vậy thôi." "Sao không?"

    "Vì..."

    "Vì bạn trai cô nói không. Vì cô vẫn là gái ngoan, mới mười bảy tuổi. Vì xăm thì kinh khủng lắm. Thôi nào Clark. Sống một chút đi. Cái gì ngăn cản cô vậy?"

    Tôi nhìn xuống khoảng đất trước cửa hàng xăm ven đường. Trên ô cửa sổ hơi cáu bẩn có hình trái tim lớn gắn đèn nê-ông, ngoài ra còn có khung ảnh của Angelina Jolie và Mickey Rourke.

    Giọng Will cắt ngang dòng suy tính của tôi. "Được rồi. Nếu cô xăm, tôi cũng xăm."

    Tôi quay lại nhìn anh. "Anh định xăm hả?"

    "Nếu điều đó thuyết phục được cô, dù chỉ một lần, vượt qua giới hạn nhỏ hẹp của mình."

    Tôi tắt máy. Chúng tôi ngồi đó, lắng nghe động cơ lịm dần, tiếng rì rì của những chiếc xe lướt qua chúng tôi trên đường.

    "Vết xăm gần như là vĩnh cửu." "Không phải 'gần như' đâu."

    "Patrick sẽ ghét lắm." "Cô cứ nói mãi thế nhỉ."

    "Và có thể chúng ta sẽ bị nhiễm trùng vì mũi kim bẩn. Và chết một cái chết từ từ, rùng rợn, đau đớn." Tôi quay sang Will. "Có khi giờ họ không thể xăm được. Không thể làm ngay lúc này."

    "Có thể là không. Nhưng chúng ta cứ đi vào kiểm tra xem sao chứ?"

    Hai giờ sau đó, chúng tôi rời khỏi cửa hàng xăm, tôi như nhẹ mất ba chục ký và đang phải chịu đựng vết thương trên hông, nơi mực đang dần khô. Kích thước của nó tương đối nhỏ, tay nghệ sĩ xăm hình nói, nên tôi có thể xăm rồi tô màu luôn một lần, thế nên tôi chọn nó. Xong xuôi. Đã xăm. Hay như về sau Patrick có nói, vết sẹo cuộc đời. Dưới chiếc áo đầm trắng là một chú ong nghệ nhỏ mũm mĩm, được chọn ra từ trong một tập bìa còng nhựa màu chứa hình ảnh mà tay nghệ sĩ xăm đưa cho chúng tôi khi chúng tôi bước vào. Tôi cứ lật tới lật lui để lén nhìn nó cho tới khi Will bảo tôi thôi lật, nếu không tôi sẽ làm hỏng mọi thứ.

    Thật lạ lùng là Will cảm thấy rất thư giãn và thoải mái khi ở đó. Họ chẳng nhìn ngó gì anh. Họ bảo họ đã từng xăm cho mấy người bị liệt tứ chi, thế nên họ đối xử với anh hết sức thoải mái. Họ ngạc nhiên khi Will nói anh cảm nhận được mũi kim. Sáu tuần trước đó họ đã tô mực cho một người bị liệt yêu cầu vẽ kiểu tranh như thật lên những bộ phận điện tử lắp ráp trên suốt một bên chân của anh ta.

    Người xăm có xăm hình tia chớp trên tai đã đưa Will tới phòng tiếp theo, và với sự giúp đỡ của người xăm cho tôi, anh ta đặt Will nằm trên một chiếc bàn đặc biệt, thế nên tất cả những gì tôi có thể thấy qua cánh cửa để mở là cẳng chân của anh. Tôi nghe thấy tiếng hai người đàn ông rì rầm trò chuyện cười đùa qua tiếng sột soạt của kim xăm, mùi chất khử trùng vảng vất trong cánh mũi tôi.

    Khi mũi kim đầu tiên đâm vào da tôi, tôi cắn môi, quyết không để Will nghe tôi la. Tôi để tâm trí nghĩ xem anh đang làm gì trong cánh cửa mé bên, cố nghe lỏm cuộc trò chuyện của anh, tự hỏi anh đang xăm cái gì. Khi cuối cùng anh cũng xuất hiện trở lại, sau khi hình xăm của tôi đã hoàn thành, anh không chịu cho tôi xem. Tôi ngờ nó là thứ gì đó liên quan tới Alicia.

    "Anh ảnh hưởng xấu tới tôi lắm đấy nhé, Will Traynor," tôi nói, mở cửa xe rồi hạ thấp đường trượt. Tôi không thể không cười rạng rỡ.

    "Cho tôi xem nào."

    Tôi liếc xuống đường rồi kéo miếng gạc xuống khỏi hông.

    "Tuyệt quá. Tôi thích con ong nhỏ của cô. Thật đấy."

    "Tôi sẽ phải mặc quần cạp cao trước mặt bố mẹ tôi suốt phần đời còn lại." Tôi giúp anh chỉnh xe lên đường trượt rồi nâng nó lên. "Nhắc anh nhé, nếu mẹ anh có nghe nói anh cũng có một..."

    "Tôi sẽ nói với bà rằng cô gái ở lâu đài đã dụ tôi lầm lạc." "Được rồi, Traynor, cho tôi xem hình xăm của anh."

    Anh nhìn tôi nghiêm trang, hơi mỉm cười. "Về đến nhà là cô phải thay gạc mới cho tôi đấy."

    "Được rồi. Cứ như tôi chưa bao giờ làm việc đó không bằng. Thôi nào. Anh chưa cho tôi xem là tôi không lái xe đâu."

    "Thì kéo áo tôi lên. Bên phải ấy. Bên phải của cô."

    Tôi vươn người qua hàng ghế trước, kéo áo anh lên, giở tấm gạc bên dưới ra. Ở đó, nổi bật trên làn da tái xanh của anh là một hình chữ nhật tô mực đen mực trắng, nhỏ tới nỗi tôi phải nhìn hai lần mới nhận ra nó viết gì:

    Đẹp nhất trước: 19 tháng Ba 2007

    Tôi nhìn nó trân trân. Tôi phì cười, nhưng rồi mắt tôi đẫm lệ. "Đó là..." "Ngày tôi bị tai nạn. Đúng thế." Anh ngước mắt lên trời. "Ôi vì Chúa, đừng mau nước mắt thế Clark. Chỉ cho vui thôi mà."

    "Cho vui. Cách này chẳng hấp dẫn tẹo nào."

    "Nathan sẽ thích nó. Ôi, thôi nào, đừng như thế. Có phải tôi đang phá hủy cơ thể hoàn hảo của mình đâu nào phải không?"

    Tôi kéo áo Will xuống rồi quay lên, khởi động xe. Tôi chẳng biết phải nói gì. Tôi không biết chuyện này có nghĩa là gì. Có phải điều này có nghĩa anh đã bắt đầu chấp nhận tình trạng của mình? Hay chỉ là một cách khác để thể hiện nỗi ghê sợ của anh với cơ thể của chính mình?

    "Này Clark, giúp tôi một chút," anh nói, ngay khi tôi định lái xe đi. "Tìm trong ba-lô cho tôi. Trong ngăn có khóa ấy."

    Tôi liếc nhìn vào gương chiếu hậu rồi lại bật thắng tay lên. Tôi vươn người qua hàng ghế trước, thò tay vào chiếc ba-lô, lục lọi theo hướng dẫn của anh.

    "Anh cần thuốc giảm đau à?" Tôi cách mặt anh dăm phân. Từ hôm ở bệnh viện về, chưa hôm nào anh hồng hào như hôm nay. "Tôi có mấy viên trong..." .

    "Không. Cứ tìm đi."

    Tôi lôi một mảnh giấy ra rồi ngồi ngay ngắn lại. Đó là một tờ mười bảng gấp gọn.

    "Tìm đúng rồi đó. Tờ mười bảng khẩn cấp." "Để làm gì?"

    "Nó là của cô." "Vì điều gì?"

    "Vì hình xăm đó." Anh cười tươi với tôi. "Cho tới ngay trước khi cô ngồi vào chiếc ghế đó, tôi không hề nghĩ cô sẽ xăm thật."
  8. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 16

    Không có cách nào giải quyết được việc này. Chuyện sắp xếp chỗ ngủ thật chẳng đâu vào đâu cả. Cuối tuần nào Treena về là cả nhà Clark lại bắt đầu trò chơi xếp giường ồn ào bất tận về đêm. Sau bữa khuya tối thứ Sáu, bố mẹ sẽ mời Treena sử dụng giường của họ, nó sẽ nhận, sau khi họ cam đoan với nó rằng không, họ không thấy phiền hà chút nào cả, và Thomas sẽ ngon giấc hơn nhiều khi được ngủ trong căn phòng quen thuộc. Điều đó có nghĩa cả nhà ai cũng ngủ ngon, bố mẹ giải thích như thế.

    Nhưng mẹ ngủ dưới lầu có nghĩa là bố mẹ cần mang theo chăn, gối của họ, thậm chí cả ga, vì mẹ không thể ngủ yên nếu giường chọng không như ý. Thế nên sau bữa khuya, mẹ và Treena sẽ lột ga giường bố mẹ ra, trải ga mới lên, thêm một mảnh nệm chống thấm đề phòng Thomas đái dầm. Trong khi đó, chăn nệm của bố mẹ sẽ được gấp lại, đưa xuống đặt ở một góc phòng khách, rồi Thomas sẽ chui vào đống chăn ấy, nhảy bùm bùm lên đó, và trải ga lên ghế ăn làm thành cái lều.

    Ông ngoại bảo mọi người sử dụng phòng ông, nhưng không ai dám nhận. Phòng ông có mùi như báo Racing Post giấy vàng hòa với mùi thuốc lá Old Holborn, chắc phải mất cả hai ngày cuối tuần mới lau chùi xong. Khi đó tôi sẽ cảm thấy có lỗi - nói cho cùng tất cả là lỗi của tôi - khi biết mình không bao giờ có ý định trở lại gác lửng. Căn phòng bé tí teo ngột ngạt không cửa sổ ấy đã trở thành bóng ma ám ảnh đối với tôi. Ý nghĩ quay lại ngủ ở đó khiến ngực tôi như thắt lại. Tôi đã hai mươi bảy tuổi. Tôi là người kiếm tiền chính trong gia đình. Tôi không thể ngủ trong cái nơi chẳng khác gì chạn bát ấy.

    Một dịp cuối tuần, tôi bảo sẽ tới nhà Patrick ngủ, cả nhà ai cũng âm thầm nhẹ nhõm. Nhưng khi tôi đi rồi, Thomas bôi cả hai bàn tay dính bẩn lên khắp tấm rèm cửa mới và lấy bút bi vẽ vời lên tấm chăn lông vịt mới trong phòng tôi, tới lúc đó bố mẹ tôi quyết định là tốt nhất bố mẹ sẽ ngủ ở phòng tôi, còn Treena và Thomas ngủ ở phòng hai mẹ con nó, ở đó mọi thứ cũ kỹ rồi nên thằng bé có chọc phá gì cũng không sao.

    Tuy nhiên mẹ tôi thừa nhận, nếu tính tới chuyện phải dọn dẹp giặt giũ chăn gối thì việc tôi ngủ lại ở nhà Pat vào thứ Sáu và thứ Bảy cũng chẳng giúp được gì nhiều.

    Lại còn vấn đề Patrick. Giờ đây Patrick là một người bị ám ảnh. Anh ăn, uống, sống, thở như đội thi Xtreme Viking. Căn hộ của anh, vốn thường rất ít đồ và gọn ghẽ, giờ chằng chịt lịch luyện tập và lịch ăn kiêng. Anh có một chiếc xe đạp siêu nhẹ mới đặt giữa sảnh, tôi không được phép chạm vào nó vì không chừng tôi sẽ làm hỏng khả năng đua siêu nhẹ cân bằng tuyệt hảo của nó.

    Anh hiếm khi ở nhà, kể cả tối thứ Sáu và thứ Bảy. Với thời gian luyện tập của anh và thời gian làm việc của tôi thì có vẻ như thời gian này chúng tôi ít gặp nhau hơn bao giờ hết. Tôi có thể theo anh xuống đường để xem anh chạy vòng quanh cho tới khi anh hoàn thành số dặm cần thiết, hoặc tôi cứ ở nhà tự xem ti- vi, cuộn mình trên chiếc trường kỷ bằng da rộng thênh thang của anh. Tủ lạnh chẳng có gì ăn ngoài mấy miếng ức gà tây và thứ nước tăng lực kinh tởm dày đặc trứng ếch. Có lần Treena và tôi đã thử một chai, chúng tôi phun ra ngay, bịt miệng la thét om sòm như con nít.

    Vấn đề quan trọng nhất là tôi không thích căn hộ của Patrick. Anh mua nó cách đó một năm, khi cuối cùng anh cũng cảm thấy mẹ anh sẽ ổn khi sống một mình. Công việc kinh doanh của anh hoạt động tốt, anh bảo tôi chuyện một trong hai chúng tôi có một bước tiến mới trong vấn đề nhà cửa đất cát là hết sức quan trọng. Tôi tưởng câu đó là lời gợi ý thảo luận xem khi nào chúng tôi sẽ về sống cùng nhau, nhưng chẳng hiểu sao không có cuộc trò chuyện nào cả, mà cả hai chúng tôi đều không phải kiểu người khơi ra những chủ đề gây cảm giác không thoải mái dù chỉ chút ít. Hệ quả là chẳng có cái gì thuộc về tôi trong căn hộ đó, dù chúng tôi đã bên nhau ngần ấy năm. Tôi chưa bao giờ đủ khả năng nói ra với anh, nhưng quả tình tôi thích sống ở nhà mình với tất cả ồn ào huyên náo ấy hơn là sống trong cái không gian vô hồn vô cảm này với chỗ để xe chia phần và khung cảnh cố định buộc phải nhìn ra lâu đài.

    Vả lại, ở đây tôi thấy hơi cô đơn.

    Nếu tôi có kêu ca thì anh sẽ nói, "Phải tuân thủ lịch tập nghiêm ngặt chứ, em yêu. Nếu giai đoạn này mà anh tập ít hơn hai mươi ba dặm mỗi ngày thì anh sẽ không bao giờ thực hiện đúng kế hoạch được." Rồi anh sẽ cập nhật cho tôi thông tin mới nhất về tình trạng tổn thương xương ống do áp lực của anh và bảo tôi đưa cho anh bình xịt giảm đau.

    Khi không tập luyện, anh triền miên đi gặp gỡ những thành viên khác trong đội để so sánh dụng cụ luyện tập và hoàn thành các kế hoạch chu du. Ngồi giữa họ thật chẳng khác gì ngồi giữa nhóm người nói tiếng Hàn Quốc. Tôi chẳng hiểu họ nói gì mà cũng chẳng có khao khát nhấn mình lụt trong mớ bòng bong đó.

    Anh nghĩ bảy tuần nữa tôi sẽ đi cùng đội của anh tới Na Uy. Tôi chưa biết làm sao để nói với Patrick rằng tôi chưa xin nhà Traynor cho nghỉ phép. Làm sao mà tôi xin nghỉ được cơ chứ? Khi đội Xtreme Viking lên đường, hợp đồng của tôi chỉ còn có một tuần thôi. Có thể tôi đang từ chối đối diện với mọi chuyện một cách rất trẻ con, nhưng thật lòng tất cả những gì tôi nhìn thấy trước mắt là Will và chiếc đồng hồ kêu tích tắc. Dường như chẳng có nhiều thứ khác lọt được vào tâm trí tôi.

    Điều mỉa mai nhất trong tất cả chuyện này là tôi thậm chí ngủ không yên giấc trong nhà Patrick. Tôi không biết tại sao, nhưng sau đêm ngủ ở nhà Patrick, khi đi làm tôi cảm thấy hai tai ù đặc, còn hai mắt thì thâm tím như bị ai đánh. Tôi đã phết một đống kem che khuyết điểm lên vùng mắt thăm quầng như quét sơn.

    "Có chuyện gì thế Clark?" Will hỏi.

    Tôi mở mắt. Anh ở ngay bên cạnh, đầu nghiêng nghiêng, quan sát tôi. Tôi có cảm giác anh đã đứng đó được một lát rồi. Tay tôi tự động lướt xuống miệng vì sợ mình đang rỏ dãi.

    Bộ phim mà lẽ ra tôi đang xem giờ chỉ còn là những hình ảnh quay chậm. "Không có gì. Xin lỗi. Chỉ tại trong này ấm áp quá." Tôi ngồi dậy thẳng thớm.

    "Đây là lần thứ hai cô ngủ gật trong ba ngày lại đây." Anh nhìn kỹ mặt tôi. "Trông cô bơ phờ kinh khủng."

    Thế là tôi kể với anh. Tôi kể cho anh về em gái tôi, về những cuộc sắp xếp chỗ ngủ, về chuyện tôi không muốn làm ầm lên vì mỗi lần nhìn khuôn mặt bố tôi thấy nỗi tuyệt vọng lộ rõ vì ông đã không mua nổi một căn nhà để cả gia đình có thể ngủ ngon trong đó.

    "Bố cô vẫn chưa tìm được việc gì à?"

    "Chưa. Tôi nghĩ vì tuổi tác của bố. Nhưng chúng tôi không nói về điều đó.

    Chuyện ấy..." Tôi nhún vai. "Chuyện ấy khiến ai cũng vô cùng khó xử."

    Chúng tôi chờ cho tới khi bộ phim kết thúc, tôi đi lại đầu đĩa, lấy chiếc DVD ra rồi đặt lại vào vỏ đĩa của nó. Tôi cảm thấy không phải sao đó khi kể với Will những khó khăn của mình. Những chuyện ấy dường như nhỏ bé đến đáng xấu hổ bên cạnh những vấn đề của anh.

    "Tôi sẽ quen thôi," tôi nói. "Mọi chuyện sẽ ổn. Thật đấy."

    Cả buổi chiều hôm đó Will tỏ ra rất băn khoăn lo nghĩ. Tôi rửa chén đĩa, rồi đi tới bật máy tính cho anh. Khi tôi mang một ly nước tới, anh quay xe về phía tôi.

    "Đơn giản lắm," anh nói, như thể nãy giờ chúng tôi đang trò chuyện. "Cô có thể ngủ lại đây vào cuối tuần. Còn một phòng trống đấy, cứ dùng có sao đâu."

    Tôi khựng lại, ly bê-se trên tay. "Tôi không thể làm thế."

    "Sao không? Tôi sẽ không trả tiền làm thêm giờ khi cô ở đây đâu."

    Tôi đặt ly nước xuống chỗ đặt ly trên xe. "Nhưng mẹ anh sẽ nghĩ gì chứ?"

    "Tôi chẳng biết."

    Khi nhìn thấy vẻ mặt tôi băn khoăn, anh nói thêm, "Không sao đâu. Tôi ngoan lắm."

    "Là sao?"

    "Nếu cô lo lắng rằng tôi đang âm thầm lập kế hoạch thiếu đoan chính để quyến rũ cô, cô chỉ cần đẩy tôi ra là được mà." "Ối trời."

    "Thật đấy. Suy nghĩ đi. Ít nhất đó cũng là một lựa chọn tạm thời. Mọi chuyện có thể thay đổi nhanh hơn cô nghĩ. Biết đâu rồi em gái cô sẽ không muốn cuối tuần nào cũng về nhà nữa. Hoặc có thể cô ấy sẽ gặp được ai đó. Hàng triệu thứ có thể thay đổi."

    Và có thể hai tháng nữa anh sẽ không còn ở đây, tôi thầm nói trong đầu với anh, và lập tức thấy ghét mình vì đã nghĩ tới điều đó.

    "Nói tôi nghe chuyện này được không," anh nói khi sắp rời khỏi phòng. "Sao Ông Chạy không bảo cô sang nhà anh ta?"

    "À, có chứ," tôi nói.

    Anh nhìn tôi như thể sắp tiếp tục câu chuyện.

    Nhưng rồi chừng như anh thay đổi ý định. "Như tôi đã nói." Anh nhún vai. "Lời đề nghị luôn ở đó."

    Đây là những thứ Will thích.

    1. Xem phim, đặc biệt là phim nước ngoài với phụ đề. Thỉnh thoảng anh cũng chịu xem phim hành động, thậm chí là phim tâm lý, nhưng phim hài lãng mạn thì bỏ qua. Nếu tôi dám thuê phim đó về xem, anh sẽ dành nguyên 120 phút thốt ra những tiếng xì nho nhỏ đầy vẻ chán nản thất vọng, hoặc chỉ ra những điểm sáo mòn trong cốt truyện, cho tới khi tôi thấy phim chẳng hài hước chút nào nữa.

    2. Nghe nhạc cổ điển. Anh biết cực kỳ nhiều về mảng này. Anh cũng thích một số dòng nhạc hiện đại, nhưng anh nói nhạc jazz về căn bản là thứ rỗng tuếch khoe mẽ. Một chiều khi xem nội dung MP3 của tôi, anh cười dữ dội tới nổi suýt làm bục một ống thông tiểu.

    3. Ngồi trong vườn, khi giờ đây khí trời rất ấm. Đôi khi tôi đứng trong khung cửa sổ quan sát anh, đầu anh ngửa ra, mê mải thưởng thức ánh nắng trên mặt mình. Khi tôi nhận xét anh thật tài ngồi yên hưởng thụ nắng trời - đó là một điều tôi chẳng bao giờ làm được - thì anh chỉ ra rằng với một người không thể cử động chân tay thì thật tình chẳng có gì nhiều để lựa chọn.

    4. Bắt tôi đọc sách hoặc tạp chí, rồi nói về chúng. Tri thức là sức mạnh, Clark, anh thường nói thế. Dạo đầu tôi rất ghét chuyện này; tôi cảm thấy mình như thể đang ở trường, bị vấn đáp bài cũ. Nhưng sau một thời gian tôi nhận ra rằng, trong mắt Will, chẳng có câu trả lời nào là sai cả. Anh thực sự thích tôi tranh luận với anh. Anh hỏi tôi về những chuyện trên báo, không đồng tình với tôi về các nhân vật trong sách. Hầu như với chuyện gì anh cũng có chính kiến - những việc chính phủ đang làm, chuyện doanh nghiệp nào đó có mua thêm công ty khác không, chuyện ai đó đáng lẽ phải bị bỏ tù rồi mới đúng. Nếu cho rằng tôi quá lười biếng hoặc đang nói theo ý kiến của bố mẹ tôi hoặc của Patrick, anh sẽ nói thẳng băng, "Không. Nói vậy chưa được." Anh sẽ tỏ ra vô cùng thất vọng khi nghe tôi nói tôi chẳng biết gì về vấn đề đó; giờ đây tôi đã đoán trước được tâm lý của anh nên thường đọc báo khi đi xe buýt sang nhà anh để cảm thấy sẵn sàng trao đổi với anh. Khi anh nói, "Ý kiến hay lắm, Clark," tôi sẽ nở nụ cười tươi roi rói. Để rồi sau đó tôi tự đá mình một cái vì lại để cho Will đối xử kẻ cả với mình.

    5. Cạo râu. Giờ đây cứ hai ngày một lần, tôi thoa bọt xà phòng lên cằm anh, làm cho anh trở nên chỉn chu. Nếu vào một ngày tâm trạng dễ chịu, anh sẽ ngửa người trên ghế, nhắm mắt lại, nét gì đó gần giống như nỗi vui sướng thể xác nhất mà tôi thấy sẽ tỏa ra trên gương mặt anh. Có thể đó là điều tôi tưởng tượng ra. Có thể tôi thấy điều tôi muốn thấy. Nhưng anh sẽ lặng thinh khi tôi lướt nhẹ lưỡi lam qua cằm anh, cạo nhẵn thín, và khi anh mở mắt ra, nét mặt anh đã dịu lại, giống như vừa thức giấc sau một giấc ngủ vô cùng ngon lành. Dạo này mặt anh hồng hào hơn vì chúng tôi hay ra ngoài chơi; da anh rất dễ bắt nắng. Tôi để dao cạo ở ngăn tủ trên cao trong phòng tắm, dấu sau chai dầu xả lớn.

    6. Là một anh bạn. Đặc biệt là với Nathan. Thường thường, trước những việc cần làm lúc chiều tối, họ sẽ ra ngồi ở cuối vườn và Nathan sẽ mở hai lon bia. Đôi khi tôi nghe họ tranh luận về môn bóng bầu dục, hoặc đùa giỡn về một cô gái nào đó họ đã thấy trên ti-vi, khi ấy nghe thật chẳng giống Will chút nào. Nhưng tôi hiểu anh cần điều này; anh cần có một người mà với người ấy, anh được làm một cậu bạn, được làm những thứ mà đám bạn trai thường làm. Đó là một chút "bình thường" trong cuộc sống tách biệt, lạ lùng của anh.

    7. Bình luận về tủ quần áo của tôi. Thực ra, câu bình luận ấy thường là một cái nhướng mày khi nhìn thấy quần áo của tôi. Ngoại trừ chiếc quần bó sọc vàng đen. Hai lần tôi mặc cái quần ấy, anh chẳng nói gì, chỉ khẽ gật đầu, như thể đó là một thứ đúng đắn trên đời.

    "Hôm nọ cô thấy bố tôi trong thị trấn."

    "À phải." Tôi đang treo đồ mới giặt lên dây phơi. Cái dây này ẩn ở nơi mà bà Traynor gọi là Vườn Bếp. Tôi nghĩ bà không muốn một thứ tầm thường như quần áo làm ô nhiễm khung cảnh bờ rào hoa cỏ của bà. Mẹ tôi luôn kẹp đồ trắng ra giữa sân như một niềm tự hào. Nó giống như một lời thách thức với hàng xóm láng giềng: Thử đi, thưa các bà! Bố tôi phải làm hết sức mới ngăn được mẹ không đặt cái giá phơi thứ hai ra sân.

    "Bố tôi hỏi cô có nói gì về chuyện đó không."

    "Ồ." Tôi cố giữ vẻ mặt bình thản. Rồi vì anh tỏ ra chờ đợi, tôi nói thêm. "Rõ là không mà."

    "Ông ấy đi với ai à?"

    Tôi bỏ chiếc kẹp cuối cùng vào túi đựng kẹp. Tôi cuộn cái túi lại, đặt vào giỏ đựng đồ giặt trống không. Tôi quay sang anh.

    "Phải."

    "Một phụ nữ." "Phải."

    "Tóc đỏ."

    "Phải."

    Will ngẫm nghĩ một phút.

    "Tôi xin lỗi nếu anh nghĩ lẽ ra tôi đã phải kể với anh," tôi nói. "Nhưng đó... đó có vẻ không phải nhiệm vụ của tôi."

    "Và nói về chuyện đó cũng chẳng dễ dàng gì." "Đúng thế."

    "Nếu nói thế này có thể trấn an cô thì Clark à, đây không phải lần đầu tiên đâu," anh nói rồi hướng trở lại vào nhà.

    Deirdre Bellows gọi tên tôi hai lần tôi mới ngước lên. Tôi đang nguệch ngoạc vào sổ tay mấy địa danh và những thắc mắc, khó khăn và thuận lợi, và tôi hầu như quên bẵng mình đang ở trên xe buýt. Tôi đang cố nghĩ ra cách đưa Will tới nhà hát. Chỉ mất một hai tiếng lái xe, và đó là vở nhạc kịch Oklahoma! Thật khó tưởng tượng ra Will gật gù khi nghe bài hát mở màn "Oh What A Beautiful Girl", nhưng mọi nhà hát tử tế đều ở London. Mà London thì dường như vẫn nằm ngoài khả năng.

    Về cơ bản, giờ tôi có thể đưa Will ra khỏi nhà, nhưng chúng tôi đã đi hết sạch mọi địa điểm trong vòng bán kính một giờ lái xe, và tôi chẳng biết phải làm sao để đưa anh đi xa hơn.

    "Thế giới chật hẹp quá nhỉ, Louisa?"

    "Ôi. Chào cô Deirdre." Tôi nhích người trên ghế để tạo chỗ trống cho cô.

    Cô Deirdre là bạn thiếu thời của mẹ tôi. Cô có một cửa hàng đồ trang trí nội thất, cô đã ly dị ba lần. Cô có mái tóc đủ dày để làm một bộ tóc giả, gương mặt bầu bĩnh u buồn khiến cô trông như vẫn còn bâng khuâng mơ mộng chàng hiệp sĩ áo trắng sẽ tới cuỗm cô đi.

    "Cô chẳng mấy khi đi xe buýt nhưng hôm nay cô mang xe đi sửa. Cháu thế nào? Mẹ cháu có kể với cô mọi điều về công việc của cháu. Nghe thú vị lắm."

    Lớn lên ở một thị trấn nhỏ là như thế đấy. Mọi chi tiết trong cuộc sống của bạn đều trở thành chuyện chung. Chẳng có gì bí mật riêng tư - ai cũng biết lần tôi bị bắt quả tang hút thuốc ở bãi đỗ xe của siêu thị ngoại vi thị trấn năm mười bốn tuổi, chuyện bố tôi lát lại nhà vệ sinh dưới lầu cũng thế. Những chi tiết vụn vặt của cuộc sống hằng ngày rất được các bà các chị như cô Deirdre ưa chuộng.

    "Vâng, tốt ạ." "Lương cao nhỉ." "Vâng."

    "Cô thấy thật nhẹ lòng cho cháu sau chuyện xảy ra với quán Bánh Bơ. Họ đóng cửa quán cà-phê như vậy đáng tiếc quá. Chúng ta đã mất mọi cửa hiệu có ích trong thị trấn này rồi. Cô nhớ cái thời chúng ta còn có một người bán tạp phẩm, một người nướng bánh, một người bán thịt trên đường lớn. Chúng ta chỉ thiếu mỗi người làm giá để nến thôi!"

    "Ừm." Tôi thấy cô liếc nhìn danh sách của tôi nên vội đóng sổ tay lại. "Vâng. Ít nhất chúng ta cũng có một nơi để mua rèm mà. Cửa hàng thế nào rồi cô?"

    "À, ổn... phải... Này, đó là gì vậy? Thứ gì đấy liên quan tới công việc à?" "Cháu chỉ nghĩ xem Will thích làm gì thôi ấy mà."

    "Anh chàng tàn tật ấy hả?"

    "Vâng. Ông chủ của cháu."

    "Ông chủ của cháu. Nói vậy nghe cũng hay đấy." Cô huých tay tôi. "Thế cô em gái thông minh của cháu học hành ở trường đại học thế nào?"

    "Nó ổn lắm. Thomas cũng thế."

    "Nó sẽ không sống ở làng quê này nữa đâu, con bé đó ấy mà. Nhưng cô phải nói, Louisa ạ, cô rất ngạc nhiên tại sao cháu không thoát ly trước nó. Mọi người đã luôn nghĩ cháu là cô bé sáng dạ. Tất nhiên không phải bây giờ mọi người không nghĩ thế nữa."

    Tôi trưng lên một nụ cười lịch sự. Tôi chẳng biết mình có thể làm được gì hơn thế.

    "Nhưng cũng phải. Ai đó phải làm việc ấy chứ nhỉ? Mà mẹ cháu cũng sướng hơn khi một trong hai đứa cháu vui lòng sống gần nhà."

    Tôi muốn phản bác lại cô, nhưng rồi chợt nhận ra rằng suốt bảy năm qua tôi chẳng làm gì để cho thấy tôi có tham vọng nào đó hoặc khao khát được đi đâu đấy xa hơn cuối ngõ nhà mình. Tôi ngồi lặng lẽ, động cơ cũ xì của chiếc xe buýt gầm gừ rung lắc phía dưới chúng tôi, và đột nhiên cảm thấy sự câu thúc của thời gian, thấy mình đã đánh mất quá nhiều năm tháng vào những hành trình nhỏ đi đi về về cùng một quãng đường. Vòng qua vòng lại quanh lâu đài. Xem Patrick chạy loanh quanh con đường. Cũng những nỗi lo lắng tầm thường đó. Cùng những nhịp điệu hằng ngày.

    "A, đây rồi. Tới điểm cô xuống rồi." Cô Deirdre nặng nề nhấc người dậy bên cạnh tôi, nâng cái túi xách xinh xắn lên vai. "Cô gửi lời thăm mẹ cháu nhé. Bảo với mẹ cháu là mai cô sẽ qua."

    Tôi ngước lên, chớp mắt. "Cháu có một hình xăm," đột nhiên tôi nói. "Một con ong."

    Cô nán lại, nắm tay vào một thành ghế.

    "Trên hông cháu. Một hình xăm thật sự. Vĩnh cửu," tôi nói thêm.

    Deirdre liếc ra cửa xe buýt. Cô tỏ vẻ hơi bối rối, rồi nở một nụ cười mà có lẽ cô nghĩ đó là nụ cười an ủi.

    "Ồ, hay lắm, Louisa. Nhớ nhé, nói với mẹ cháu là mai cô sang chơi."

    Hằng ngày, khi Will xem ti-vi, hoặc bận rộn với thứ gì đó khác, tôi sẽ ngồi trước máy tính của anh, cố vắt óc nghĩ ra sự kiện thần diệu nào có thể khiến Will Hạnh Phúc. Nhưng khi thời gian trôi qua, tôi nhận ra rằng danh sách những thứ chúng tôi không thể làm, những nơi chúng tôi không thể tới, đã vượt quá xa so với ý tưởng của tôi về những nơi chúng tôi có thể tới. Khi một việc không thể làm thắng thế việc có thể làm, tôi trở lại các chat-room để xin lời khuyên.

    Ha! Ritchie nói. Chào mừng tới thế giới của chúng tôi, Ong.

    Từ những cuộc nói chuyện sau đó, tôi biết được rằng ngồi xe lăn mà say rượu thì có rất nhiều nguy cơ, bao gồm tai nạn với ống thông tiểu, ngã xuống vỉa hè, bị những gã say khác dẫn về lầm nhà. Tôi biết được rằng với người không bị liệt thì chẳng có nơi nào có ích hơn nơi nào cả, nhưng với người ngồi xe lăn thì Paris quả là nơi kém tiện ích nhất trên trái đất. Chuyện này thật đáng thất vọng, vì một phần nhỏ bé lạc quan trong tôi vẫn hy vọng rằng chúng tôi có thể tới đó.

    Tôi bắt đầu xây dựng một danh sách mới - những thứ không thểvlớàm i người bị liệt tứ chi.

    1. Đi tàu điện ngầm (hầu hết ga tàu điện ngầm không có thang máy), như thế là đã loại bỏ hoạt động ở một nửa London, trừ phi ta chịu trả tiền taxi.

    2. Đi bơi mà không có người trợ giúp và khi nhiệt độ không đủ ấm để sớm ngăn cơn run thụ động. Ngay cả phòng thay đồ dành cho người khuyết tật cũng khó sử dụng nếu không có cần cẩu bể bơi. Nói như vậy không có nghĩa Will sẽ chịu để mình vào cần cẩu bể bơi.

    3. Đi tới rạp chiếu phim, trừ phi đảm bảo có chỗ ở hàng đầu, và trừ phi hôm đó chứng co thắt do kích động của Will ở mức thấp. Hôm đi xem phim Rear Window (Án mạng ở nhà bên), tôi đã mất ít nhất hai mươi phút bò dưới đất nhặt chỗ bắp rang bơ mà cơn co giật đầu gối bất ngờ của Will đã thảy lên không trung.

    4. Đi biển, trừ phi xe lăn có lắp "bánh lớn". Xe của Will không lắp.

    5. Đi máy bay khi "hạn mức" dành cho người khuyết tật đã hết.

    6. Đi shopping, trừ phi tất cả cửa hàng đều có đường trượt đúng chỗ theo quy định của luật pháp. Nhiều cửa hàng xung quanh lâu đài đã dựa vào tình trạng công trình đã được xếp hạng để tuyên bố họ không thể đáp ứng đường trượt. Thật tình một số cửa hàng nói đúng sự thật.

    7. Đi tới một nơi quá nóng hoặc quá lạnh (vấn đề thời tiết).

    8. Đi chơi ngẫu hứng (phải sắp xếp giỏ đồ, phải kiểm tra đường sá hai lần trước khi tới).

    9. Đi ăn nhà hàng, nếu xấu hổ vì phải ăn đút, hoặc có vấn đề với ống thông tiểu mà phòng vệ sinh của nhà hàng lại nằm ở lầu dưới.

    10. Đi chơi xa bằng tàu hỏa (mệt mỏi, quá khó để đưa chiếc xe lăn nặng nề lên tàu nếu không có người giúp.)

    11. Cắt tóc phải hôm trời mưa (tóc sẽ bám hết vào bánh xe Will. Lạ lùng là chuyện này khiến cả hai chúng tôi thấy buồn nôn.)

    12. Đi sang nhà bạn chơi, trừ phi họ có đường trượt dành cho xe lăn. Hầu như nhà nào cũng có bậc tam cấp. Nhưng hầu như chẳng nhà nào có đường trượt. Nhà chúng tôi là một ngoại lệhhoiiế. mDù sao Will b ảo anh cũng chẳng muốn gặp ai cả.

    13. Đi từ lâu đài xuống đồi khi mưa to (phanh xe lăn không phải khi nào cũng an toàn, mà cái xe thì quá nặng, tôi giữ không nổi.)

    14. Đi tới nơi có khả năng có nhiều gã say. Will là thỏi nam châm với đám say xỉn. Hễ thấy anh là họ sà lại, thở phì phò hơi bia rượu vào người anh, tròn xoe đôi mắt thương hại. Đôi khi họ còn thật tình cố gắng đẩy xe cho anh.

    15. Đi tới nơi dễ có đông người. Khi hè sang thì điều đó có nghĩa việc đi chơi loanh quanh lâu đài trở nên khó khăn hơn, và một nửa số nơi tôi nghĩ chúng tôi có thể tới - hội chợ, hòa nhạc, kịch ngoài trời - bị loại bỏ.

    Khi nỗ lực tìm ý tưởng, tôi hỏi những người bị liệt trên mạng xem họ muốn làm việc gì nhất đời, thì hầu như luôn nhận được câu trả lời, "********." Họ tự nguyện cung cấp cho tôi rất nhiều chi tiết liên quan tới ý tưởng đó.

    Nhưng thực tình đó không phải một sự giúp đỡ hữu ích. Còn tám tuần nữa, mà tôi đã cạn ý tưởng rồi.

    Hai ngày sau hôm chúng tôi nói chuyện dưới dây phơi, tôi về nhà thì thấy bố đang đứng ở sảnh. Chuyện này lẽ ra là rất lạ (mấy tuần lại đây ban ngày bố dường như luôn vùi mình trên sofa, được cho là để bầu bạn với ông ngoại), nhưng lúc này bố đang mặc áo sơ-mi phẳng phiu, râu cạo nhẵn nhụi, và cả sảnh ngát mùi Old Spice. Tôi khá chắc ông mua chai nước hoa cạo râu đó từ năm 1974.

    "Con về rồi."

    Tôi đóng cửa lại sau lưng. "Con đây."

    Tôi đang cảm thấy mệt mỏi lo âu. Trên cả chuyến xe buýt về nhà, tôi nói chuyện điện thoại với một nhân viên ở đại lý du lịch bàn xem có thể đưa Will đi đâu, nhưng cả hai chúng tôi đều bế tắc. Tôi cần phải đưa anh ấy đi chơi xa nhà. Nhưng dường như chẳng có nơi nào bên ngoài bán kính năm dặm quanh tòa lâu đài mà anh thực sự muốn viếng thăm.

    "Tối nay con tự lo cho mình được không?"

    "Được ạ. Lát nữa con có thể tới quán rượu với Patrick. Mà sao thế ạ?" Tôi treo áo khoác lên một cái móc trống.

    Cột treo đồ thoáng hơn rất nhiều khi Treena và Thomas đã lấy áo khoác đi. "Bố đưa mẹ đi ăn tối."

    Tôi suy đoán thật nhanh trong đầu. "Bố quên sinh nhật mẹ à?"

    "Không. Bố mẹ ăn mừng." Ông hạ thấp giọng, như thể đó là một bí mật. "Bố c"ó việc rồi.

    "Không thể nào!" Giờ tôi mới nhận ra cả cơ thể ông như bừng sáng. Ông lại đứng thẳng thớm, gương mặt cười rạng rỡ. Trông ông trẻ hơn cả chục tuổi. "Bố, kỳ diệu quá."

    "Bố biết. Mẹ con như bay lên cung trăng. Mà con biết đấy, mấy tháng nay mẹ con khổ sở vì chuyện Treena đi, rồi chuyện ông ngoại, đủ thứ. Thế nên tối nay bố muốn đưa mẹ đi chơi, đãi mẹ một bữa."

    "Thế công việc gì vậy ạ?"

    "Bố sẽ là trưởng ban bảo trì. Trên tòa lâu đài ấy mà." Tôi chớp mắt. "Nhưng đó là..."

    "Ông Traynor. Đúng thế đấy. Ông ấy gọi cho bố nói rằng ông ấy đang tìm người, và anh chàng của con, cậu Will đó, đã bảo với ông ấy là bố đang cần việc. Chiều nay bố qua đnóh tbràìy cho ông ấy những việc bố có thể làm, giờ bố thử việc một tháng. Bắt đầu từ thứ Bảy này." "Bố sẽ làm việc cho bố Will?"

    "Ừ, ông ấy bảo họ phải thử việc một tháng, để hoàn thành các thủ tục hợp lệ, nhưng ông ấy bảo ông ấy chẳng nghĩ có lý do gì mà bố không được nhận vào làm chính thức cả."

    "Thật... thật tuyệt," tôi nói. Tôi cảm thấy chao đảo lạ kỳ trước thông tin này. "Con không hề biết bố sắp có việc."

    "Bố cũng thế. Nhưng chuyện này thật tuyệt vời. Ông ấy là kẻ rất biết giá trị, Lou ạ. Bố nói với ông ấy về gỗ sồi xanh, và ông ấy chỉ cho bố một phần công việc mà người trước bố đã làm. Con không tin nổi đâu. Ngạc nhiên lắm. Ông ấy bảo ông ấy rất ấn tượng với khả năng của bố."

    Bố đầy sinh khí, sôi nổi hơn nhiều so với mấy tháng qua.

    Mẹ đã xuất hiện sau lưng bố. Mẹ thoa son môi, đi đôi giày cao gót xinh xắn. "Có một chiếc xe tải. Bố con có xe tải riêng. Lương cũng tốt lắm, Lou ạ. Thậm chí còn nhiều hơn lương bố con nhận được ở xưởng đồ gỗ gia dụng một chút cơ."

    Mẹ ngước nhìn bố như thể bố là một người hùng chiến trận. Khi mẹ quay sang tôi, gương mặt mẹ nói với tôi rằng tôi cũng nên làm điều tương tự. Gương mặt mẹ có thể chứa hàng triệu thông điệp, và gương mặt lúc này bảo tôi rằng bố cần được tưởng thưởng trong khoảnh khắc này.

    "Tuyệt quá bố ạ. Thật sự đấy." Tôi bước tới ôm bố.

    "À, con phải cảm ơn Will đấy nhé. Thật là một anh bạn cừ. Bố vô cùng biết ơn khi cậu ấy nghĩ cho bố."

    Tôi nghe tiếng họ rời khỏi nhà, tiếng mẹ lầm rầm trước gương trong sảnh, tiếng bố liên tục đảm bảo rằng trông mẹ rất đẹp, rằng mẹ lúc nào cũng xinh tươi. Tôi nghe tiếng bố vỗ túi chìa khóa, ví, tiền xu, rồi sau đó là thoáng tiếng cười giòn tan. Rồi cánh cửa sập lại, tôi nghe tiếng xe lái đi và chỉ còn lại tiếng ti-vi xa xa trong phòng ông ngoại. Tôi ngồi trên cầu thang. Rồi tôi rút điện thoại ra ấn số của Will.

    Mất một lúc anh mới nghe máy. Tôi tưởng tượng anh tiến lại chiếc điện thoại không dây, dùng ngón cái ấn nút.

    "Xin chào."

    "Anh làm phải không?"

    Một thoáng im lặng. "Là cô à, Clark?" "Anh xin việc cho bố tôi à?"

    Tiếng anh nghe hơi hụt hơi. Tôi lơ đãng tự nghĩ không biết anh có đang ngồi ngay ngắn không.

    "Tôi tưởng cô sẽ vui cơ đấy."

    "Tôi rất vui. Chỉ có điều... tôi không biết nữa. Tôi cảm thấy kỳ cục."

    "Cô đừng thấy thế. Bố cô cần việc. Bố tôi cần một người thợ bảo trì công trình có tay nghề cao."

    "Thật ư?" Tôi không thể loại bỏ nỗi hoài nghi khỏi giọng nói của mình.

    "Sao cơ?"

    "Chuyện này không liên quan gì tới chuyện hôm trước anh hỏi tôi hả? Về ông ấy với người phụ nữ khác?"

    Anh im lặng hồi lâu. Tôi như thấy anh ở đó, trong phòng khách khu nhà phụ, nhìn ra những ô cửa sổ kiểu Pháp.

    Khi cất tiếng, giọng anh rất thận trọng. "Cô nghĩ tôi đã hăm dọa bố tôi bắt giao việc cho bố cô à?"

    Nói như thế nghe thật cường điệu.

    Tôi lại ngồi xuống. "Xin lỗi. Tôi không biết. Chỉ là hơi kỳ cục thôi. Vấn đề thời điểm. Còn lại thì mọi thứ rất tốt."

    "Vậy thì hãy vui lên, Clark. Đó là tin tốt lành. Bố cô sẽ làm giỏi. Và điều đó có nghĩa..." Anh ngần ngừ.

    "Có nghĩa là gì?"

    "... một ngày nào đó cô có thể ra đi, dang rộng đôi cánh của mình, mà không còn phải lo lắng làm sao bố mẹ cô có thể chăm sóc bản thân."

    Câu nói ấy cứ như một cú thọi vào tôi. Tôi cảm thấy phổi mình cạn kiệt không khí.

    "Lou?"

    "Vâng?"

    "Cô im lặng quá."

    "Tôi..." Tôi nuốt khan. "Xin lỗi. Lơ đãng một chút. Ông ngoại vừa gọi. Nhưng vâng. Cảm ơn vì... vì đã nói giúp bố tôi một tiếng." Tôi phải gác máy. Bởi vì bỗng nhiên cổ họng tôi nghẹn đắng, tôi chẳng biết mình có thể nói gì khác nữa.

    Tôi tản bộ tới quán rượu. Không gian ngào ngạt mùi hoa, mọi người mỉm cười với tôi khi lướt qua trên phố. Tôi chẳng thể chào đáp lại lấy một lần. Tôi chỉ biết tôi không thể ở trong nhà một mình với bao ý nghĩ bộn bề. Tôi thấy cả hội Triathlon Terrors đang ngồi trong quán rượu ngoài trời quanh hai cái bàn kéo sát lại nhau trong một góc lâm râm hoa nắng. Có mấy người lịch sự gật đầu chào tôi (không có ai trong số đó là phụ nữ) và Patrick đứng lên, tạo một khoảng trống nhỏ cho tôi ngồi bên anh. Tôi nhận ra tôi thực sự mong có Treena bên cạnh.

    Khu vườn của quán rượu đông nghẹt người, với sự hòa trộn kỳ cục đặc trưng của nước Anh của đám sinh viên ồn ào náo nhiệt và đám doanh nhân tan sở đã cởi bỏ áo khoác. Quán rượu này là địa điểm ưa thích của du khách, thế nên ngoài giọng Anh còn rất nhiều thứ tiếng khác - Ý, Pháp, Mỹ. Qua bức tường phía Tây, người ta có thể thấy tòa lâu đài, thế nên như bao mùa hè khác, du khách đang xếp hàng chụp ảnh với hình lâu đài xa xa phía sau lưng.

    "Anh không nghĩ em tới. Em uống gì nhé?"

    "Đợi lát nữa." Tôi chỉ muốn ngồi đó, ngả đầu lên vai Patrick. Tôi muốn có cảm giác như trước đây - bình thường, không vướng bận. Tôi không muốn nghĩ về cái chết.

    "Hôm nay anh phá kỷ lục thời gian của mình đấy. Mười lăm dặm chỉ mất 79.2 phút." "Tuyệt quá."

    "Có công mài sắt có ngày nên kim nhỉ, Pat?" một người đế vào. Patrick đấm hai tay vào không trung và hú lên.

    "Tuyệt diệu quá. Thật đó." Tôi cố tỏ ra vui sướng vì anh.

    Tôi uống một ly, rồi một ly nữa. Tôi nghe họ nói về tổng số dặm đường đi được, những vụ ngã trầy gối và những lần cơ thể bị giảm nhiệt khi bơi. Tôi quay ra, nhìn những người trong quán rượu, tự hỏi cuộc đời họ ra sao. Mỗi người họ sẽ có bao nhiêu sự kiện trong gia đình riêng - tình yêu và mất mát với con cái, những bí mật đen tối, hạnh phúc vô bờ và thử thách khắc nghiệt. Nếu họ có thể gác nó lại, nếu họ có thể bình thản thưởng thức hoàng hôn vàng nắng trong quán rượu ngoài trời, thì hẳn nhiên tôi cũng nên làm thế.

    Tôi kể với Patrick về công việc của bố. Mặt anh có cái vẻ mà tôi nghĩ hơi giống nét mặt tôi khi nghe chuyện này. Tôi phải nhắc lại để anh tin chắc anh đã nghe đúng.

    "Thế thì... ấm áp quá. Cả hai bố con đều làm cho anh chàng ấy."

    Tôi muốn kể với anh, tôi thật sự muốn. Tôi muốn giải thích mọi điều mắc kẹt trong cuộc chiến giữ cuộc sống của Will. Tôi muốn kể với anh rằng tôi đang vô cùng sợ hãi vì có cảm giác Will đang cố mua sự tự do cho tôi. Nhưng tôi biết mình chẳng thể nói gì. Nếu nói ra, có thể tôi sẽ làm hỏng hết mọi điều còn lại.

    "Ừm... đó không phải chuyện duy nhất. Anh ấy bảo khi cần em có thể ở lại đó, trong phòng trống. Để vượt qua vấn đề giường chọng ở nhà."

    Patrick nhìn tôi chằm chằm. "Em định sống trong nhà anh ta?"

    "Có thể. Đó là một lời đề nghị dễ chịu, Pat. Anh biết chuyện ở nhà em rồi đấy. Mà anh thì có bao giờ ở đây đâu. Em thích đến nhà anh, nhưng... à, thật lòng, em không thấy giống như ở nhà."

    Anh vẫn nhìn tôi chằm chằm. "Thì hãy biến nó thành nhà mình." "Là sao?"

    "Chuyển tới. Biến nó thành nhà mình. Chuyển đồ đạc của em vào. Mang quần áo sang. Đến lúc chúng ta sống chung rồi còn gì."

    Mãi về sau, khi nghĩ lại chuyệnmđó, tôi ới nhận ra khi nói những lời ấy trông anh thực sự không vui. Không giống một người đàn ông khi cuối cùng cũng nhận ra anh ta không thể sống thiếu bạn gái bên cạnh, và muốn tạo nên sự hòa hợp đầy vui sướng của hai cuộc đời. Trông anh như kẻ bị chơi khăm.

    "Anh thực sự muốn em chuyển tới sống cùng chứ?"

    "Phải. Tất nhiên rồi." Anh xoa tai. "Ý anh là, anh không nói chúng ta cưới xin hay gì cả. Nhưng chúng ta nên sống chung mới phải lẽ, đúng không?"

    "Anh lãng mạn quá."

    "Anh nói thật đấy, Lou. Đến lúc rồi. Lẽ ra phải thế từ nhiều năm rồi, nhưng anh nghĩ chỉ tại anh cứ bận bịu việc này việc nọ. Chuyển tới đi. Mọi chuyện sẽ tốt."

    Anh ôm tôi. "Mọi chuyện sẽ thực sự rất tốt."

    Xung quanh chúng tôi đội Triathlon Terrors đang rì rầm trò chuyện. Có tiếng reo khẽ ồ lên khi một nhóm du khách Nhật Bản chụp được bức hình ưng ý. Chim chóc hót ca, mặt trời lặn xuống, thế gian chuyển màu. Tôi muốn hòa mình vào thế gian ấy, không muốn vùi mình trong căn phòng lặng lẽ, lo lắng cho một chàng trai ngồi xe lăn.

    "Phải," tôi nói. "Rồi sẽ tốt cả."

  9. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 17

    Điều tồi tệ nhất trong việc làm người chăm sóc không phải là những điều bạn nghĩ đâu. Đó không phải là nâng đặt hay dọn dẹp, không phải chuyện thuốc thang hay lau chùi, hay mùi thuốc tẩy trùng dù chỉ thoang thoảng nhưng không hiểu sao lúc nào cũng hiện hữu. Thậm chí cũng chẳng phải chuyện mọi người cho rằng bạn làm việc đó chỉ vì bạn thực sự không đủ thông minh để làm việc gì khác. Mà là thực tế khi bạn thật sự gần gũi ai đó suốt cả ngày, bạn sẽ không có cách nào thoát khỏi tâm trạng của họ. Hay đúng hơn là của chính bạn.

    Suốt buổi sáng kể từ lúc tôi nói ra kế hoạch của mình, Will luôn tỏ ra xa lánh tôi. Đó là một thái độ mà người ngoài cuộc không dễ gì hiểu được, nhưng quả thực anh ít nói đùa hơn, bớt đi những lời trò chuyện ngẫu nhiên. Anh chẳng hỏi han gì tôi về nội dung của báo ra hôm nay.

    "Đó là... điều cô muốn làm?" Mắt anh chớp chớp, nhưng mặt anh chẳng biểu lộ điều gì.

    Tôi nhún vai. Rồi tôi gật đầu thật mạnh. Tôi cảm thấy cách phản ứng của mình có vẻ thoái thác một cách trẻ con. "Thật sự tới lúc rồi," tôi nói. "Tôi đã hai bảy."

    Anh nhìn mặt tôi chăm chú. Cằm anh nghiến lại.

    Đột nhiên tôi cảm thấy mệt mỏi không tả nổi. Tôi cảm thấy một khao khát kỳ lạ muốn nói lời xin lỗi mà chẳng hiểu vì điều gì.

    Anh khẽ gật đầu, trưng lên một nụ cười. "Chúc mừng cô đã nghĩ thông mọi sự," anh nói, rồi lăn xe vào nhà bếp.

    Tôi bắt đầu cảm thấy thực sự bực anh. Tôi chưa bao giờ cảm thấy bị ai phán xét như tôi cảm thấy bị Will phán xét lúc này. Cứ như thể tôi trở nên kém thú vị đối với anh khi tôi quyết định ổn định với bạn trai. Kiểu như tôi không còn là dự án phụ ưa thích của anh nữa. Tất nhiên tôi chẳng thể nói ra những điều này, nhưng tôi cũng tỏ thái độ lạnh nhạt với anh như anh đang lạnh nhạt với tôi.

    Nhưng nói thật, điều này quả là mệt mỏi.

    Buổi chiều, có người gõ cửa sau. Tôi vội vã đi xuống hành lang, tay còn ướt nước xà phòng, và mở cửa ra thì thấy một ông mặc suit đen đứng đó, tay xách ca táp.

    "Ồ không. Chúng tôi là Phật tử," tôi nói quả quyết, rồi đóng sầm cửa lại thì ông ta cất tiếng phản đối.

    Hai tuần trước đó, hai người theo đạo Chứng nhân Jehovah đã giữ Will ở cửa sau gần mười lăm phút, trong khi anh cố quay xe trở qua tấm thảm chùi chân. Khi cuối cùng tôi cũng đóng cửa được, họ đã mở hòm thư để viết lại rằng "hơn bất kỳ ai khác Will" nên hiểu điều gì đang chờ đợi ở kiếp sau.

    "À... Tôi tới để gặp ông Traynor, được chứ?" ông ta nói, và tôi thận trọng mở cửa ra. Suốt thời gian tôi làm việc ở dinh thự Granta, chưa từng có ai tới thăm Will qua cửa sau.

    "Để ông ấy vào," Will lên tiếng từ phía sau tôi. "Tôi mời ông ấy tới đấy." Khi thấy tôi vẫn không nhúc nhích, anh nói tiếp, "Không sao đâu, Clark... ông ấy là bạn."

    Ông ta bước qua bậc cửa, đưa tay ra bắt tay tôi. "Michael Lawler," ông nói.

    Ông định nói thêm điều gì thì Will đã lăn xe vào giữa hai chúng tôi, cắt đứt cuộc trò chuyện để nó không thể tiến xa hơn. "Chúng tôi sẽ ở trong phòng khách. Cô có thể pha cà-phê rồi cho chúng tôi ở riêng một lát được không?"

    "Ờ... được."

    Ông Lawler mỉm cười với tôi, một cách hơi kỳ quặc, rồi theo Will đi vào phòng khách. Mấy phút sau, khi tôi mang khay cà-phê vào, họ đang trò chuyện về cricket. Cuộc trò chuyện về chân cẳng, về tốc độ tiếp diễn cho tới khi tôi không còn lý do gì để nấn ná nữa.

    Phủi đám bụi vô hình trên váy, tôi đứng thẳng lên rồi nói, "Được rồi. Tôi sẽ để hai người lại với nhau nhé."

    "Cảm ơn Louisa."

    "Anh chắc anh không muốn thêm gì chứ? Bánh quy chăng?" "Không đâu, cảm ơn Louisa."

    Will chẳng bao giờ gọi tôi là Louisa. Anh chưa bao giờ xua tôi khỏi bất cứ điều gì trước đó.

    Ông Lawler lưu lại khoảng một giờ. Tôi làm việc nhà, rồi quanh quẩn trong bếp, tự hỏi mình có đủ dũng cảm đi nghe lén không. Không. Tôi ngồi xuống, ăn hai cái bánh quy bơ Bourbon, cắn móng tay, nghe tiếng họ rì rầm, tự hỏi tới mười lăm lần là tại sao Will đề nghị ông này không đi cửa trước.

    Ông ấy không giống một bác sĩ hay người tư vấn. Ông ấy có thể là một cố vấn tài chính, nhưng chẳng hiểu sao cảm giác cũng không phải thế. Hiển nhiên ông ấy không giống một nhà vật lý trị liệu, nhà trị liệu hoạt động hay chuyên gia về dinh dưỡng - hoặc một trong những kẻ do chính quyền địa phương thuê ghé qua để tiếp nhận những nhu cầu bất thường của Will. Những người như thế thì có đứng xa cả dặm cũng nhận ra. Trông họ luôn mệt mỏi, nhưng cứ cố tỏ ra hết sức vui tươi. Họ mặc đồ len tối màu, đi giày lười, lái những chiếc xe đóng bụi chở đầy giấy tờ và hộp thiết bị. Ông Lawler thì đi xe BMW màu xanh hải quân. Chiếc xe dòng số 5 láng coóng của ông không phải kiểu xe của chính quyền địa phương.

    Cuối cùng ông Lawler cũng ra về. Ông đóng ca táp, vắt áo khoác lên tay. Vẻ mặt ông không còn tỏ ra lạ lùng nữa.

    Tôi lưu lại trong sảnh vài giây.

    "À. Cô có thể chỉ cho tôi nhà vệ sinh được không?"

    Tôi lặng lẽ chỉ cho ông, rồi đứng đó bồn chồn lo lắng, cho tới khi ông xuất hiện trở lại.

    "Rồi. Mọi việc xong xuôi cả rồi."

    "Cảm ơn Michael." Will không nhìn tôi. "Tôi chờ nghe phản hồi từ ông." "Tôi sẽ liên lạc lại muộn nhất là tuần sau," ông Lawler nói.

    "Email sẽ tốt hơn là thư tay đấy... ít nhất là thời điểm này." "Vâng. Tất nhiên rồi."

    Tôi mở cửa sau cho ông đi ra. Rồi khi Will biến mất trở vào phòng khách, tôi theo ông đi ra sân và nói khẽ, "Thế... ông có phải đi xa không?"

    Quần áo ông được cắt may rất đẹp mắt; nó mang đường cắt sắc sảo của thợ may thành phố, mỗi đường kim mũi chỉ là cả một đống tiền.

    "London, khổ thế đấy. Dù sao cũng mong là giao thông không quá tệ vào giờ này buổi chiều."

    Tôi bước ra theo sau ông. Mặt trời lên cao thế nên tôi phải nheo mắt mới nhìn được ông. "Thế... à... ông sống ở đâu trên London."

    "Phố Regent."

    "Phố Regent ấy hả? Hay nhỉ."

    "Phải. Không phải là một nơi tệ đâu. Đúng thế đấy. Cảm ơn về cà-phê, cô..." "Clark. Louisa Clark."

    Khi đó ông dừng khựng lại nhìn tôi một lát, tôi tự hỏi phải chăng ông đã đoán ra tôi đang nỗ lực một cách vô lý dò xét xem ông là ai.

    "À. Cô Clark," ông nói, nụ cười chuyên nghiệp của ông lại nhanh chóng trưng lên. "Cảm ơn cô nhé."

    Ông cẩn thật đặt ca táp lên ghế sau, trèo vào xe rồi đi mất.

    Tối hôm đó, trên đường từ nhà tôi sang nhà Patrick, tôi ghé vào thư viện. Tôi có thể sử dụng máy tính của anh, nhưng tôi vẫn cảm thấy tôi nên xin phép trước, thế nên cách này có vẻ dễ dàng hơn. Tôi ngồi xuống trước một chiếc máy tính, gõ "Michael Lawler" và "Phố Regent, London" vào công cụ tìm kiếm. Tri thức là sức mạnh, Will, tôi thầm nói với anh trong đầu.

    Có 3290 kết quả, ba kết quả đầu tiên tiết lộ một "Michael Lawler, hành nghề luật sư, chuyên gia về di chúc, thanh toán di sản và ủy quyền luật sư" sống ở trên đúng con phố đó. Tôi nhìn màn hình trân trân mấy phút, rồi tôi gõ lại tên ông, lần này lên công cụ tìm kiếm hình ảnh, và kia là ông, tại một hội nghị bàn tròn nào đó, mặc bộ suit đen - Michael Lawler, chuyên gia về di chúc và thanh toán di sản, đúng người đàn ông đã ngồi nói chuyện một giờ với Will.

    Tối đó tôi chuyển đồ tới nhà Patrick, trong khoảng một tiếng rưỡi từ khi tôi xong việc cho tới khi anh đi chạy. Tôi mang theo mọi thứ trừ cái giường và cái rèm cửa mới. Anh lái xe tới, chúng tôi chất đồ vào bịch ni-lông. Chỉ đi hai chuyến là hết đồ, trừ sách vở hồi học sinh tôi để lại trên gác xép.

    Mẹ khóc; mẹ nghĩ bà đã ép tôi phải đi.

    "Vì Chúa, em yêu. Đã đến lúc con bước đi rồi. Nó đã hai bảy tuổi," bố nói với mẹ.

    "Nó vẫn là con của em," mẹ nói, ấn hai hộp bánh trái cây và một giỏ đựng đồ phòng tắm vào tay tôi.

    Tôi chẳng biết phải nói gì với mẹ. Tôi thậm chí không thích bánh trái cây.

    Xếp đặt đồ đạc của tôi vào nhà Patrick dễ đến kỳ lạ. Nói cho cùng, anh hầu như chẳng có đồ đạc gì, và tôi cũng chẳng có là bao sau chừng ấy năm sống trên gác lửng. Thứ duy nhất chúng tôi tranh cãi là bộ sưu tập CD của tôi, rõ ràng nó chỉ có thể để chung với bộ sưu tập của anh một khi tôi đã dán nhãn lên bìa sau và sắp xếp theo alphabet.

    "Tự nhiên như ở nhà nhé," anh luôn miệng nói, như thể tôi là khách. Chúng tôi căng thẳng, ngượng nghịu với nhau một cách kỳ lạ, giống như hai người mới hẹn hò lần đầu. Khi tôi mở đồ, anh mang tới cho tôi một tách trà rồi nói, "Anh nghĩ đây sẽ là tách của em." Anh chỉ cho tôi chỗ để mọi thứ trong bếp rồi nói đi nói lại, "Tất nhiên em thích để đồ đạc sao thì để. Anh không thấy phiền gì đâu."

    Anh đã dọn hai tủ ngăn kéo và tủ quần áo trong phòng ngủ phụ. Hai tủ ngăn kéo còn lại đựng đầy đồ tập của anh. Tôi không biết anh có nhiều đồ tập hãng Lycra và áo nỉ tới vậy. Đống đồ sắc màu rực rỡ của tôi chỉ chiếm một khoảng nhỏ trong tủ ngăn kéo, và đám móc sắt trống trơn ủ dột đu đưa trong tủ áo.

    Tôi vừa nhìn tủ đồ vừa nói, "Em phải mua thêm quần áo thì mới mong lấp đầy được."

    Anh cười căng thẳng. "Cái gì đó?"

    Anh nhìn tờ lịch của tôi treo trên tường trong phòng ngủ phụ, với những ý tưởng ghi bằng mực xanh và những việc đã lên kế hoạch chỉn chu ghi bằng mực đen. Với những việc đã hoàn thành (nghe nhạc, nếm rượu), tôi vẽ một mặt cười bên cạnh. Với những việc thất bại (xem đua ngựa, khu triển lãm tranh), nó vẫn trống trơn. Hai tuần tiếp theo chỉ có mấy ngày được đánh dấu - Will đã chán ngấy những nơi lân cận, mà tôi vẫn chưa thuyết phục được anh đi đâu xa xa. Tôi liếc sang Patrick. Tôi thấy anh đang săm soi ngày 12 tháng Tám, lúc này nó được gạch chân cùng một loạt dấu chấm cảm màu đen.

    "À... chỉ là để nhắc nhở em về công việc thôi mà." "Em không nghĩ họ sẽ ký tiếp hợp đồng với em à?" "Em không biết, Patrick."

    Patrick lấy cây bút trong hộp ra, nhìn sang tháng tiếp theo, rồi nguệch ngoạc xuống dưới tuần 28: "Tới lúc bắt đầu tìm việc."

    "Như thế em sẽ chuẩn bị được tinh thần cho dù có điều gì xảy ra," anh nói.

    Anh hôn tôi rồi bỏ tôi lại một mình.

    Tôi đặt đồ vào phòng tắm thật cẩn thận, để dao cạo, kem dưỡng ẩm, tampon vào tủ gương của anh. Tôi xếp mấy cuốn sách thành hàng gọn ghẽ dọc sàn nhà bên dưới cửa sổ phòng ngủ phụ, kể cả những cuốn mới tinh mà Will vừa đặt hàng trên Amazon cho tôi. Patrick hứa sẽ đặt mua giá sách khi có chút thời gian rỗi.

    Thế rồi khi anh đi chạy, tôi ngồi xuống, nhìn qua khu công nghiệp, về phía tòa lâu đài, luyện tập nói từ nhà thật khẽ.

    Tôi chẳng bao giờ biết giữ bí mật. Treena luôn bảo tôi vừa toan nói dối thì đã lộ hết rồi. Bố mẹ tôi tới giờ vẫn còn châm chọc lần tôi viết đơn xin nghỉ học cho chính mình sau khi cúp giờ. "Thưa Cô Trowbridge," bố mẹ đọc. "Xin phép cô cho Louisa Clark nghỉ phép hôm nay vì em đang vô cùng khổ sở với vấn đề phụ nữ." Hôm đó bố đã phải cố giữ nét mặt đạo mạo dù trong lòng ông rất muốn mắng cho tôi một trận.

    Giữ kín kế hoạch của Will với gia đình tôi là một chuyện - tôi giỏi giữ bí mật với bố mẹ tôi (nói cho cùng đó là kỹ năng ai cũng học được từ những năm thiếu thời) - nhưng che giấu nỗi lo lắng trong lòng lại là một điều hoàn toàn khác.

    Mấy đêm sau đó, tôi cố nghĩ xem Will đang định làm gì, và tôi phải làm gì để ngăn anh, đầu óc tôi căng ra ngay cả khi Patrick và tôi đang nói chuyện, hay đang nấu ăn với nhau trong gian bếp nhỏ. (Tôi đã khám phá ra một số điều mới về anh - ví như, anh thực sự đã biết hàng trăm cách chế biến ức gà tây khác nhau.) Tới đêm, chúng tôi ******** - việc này gần như là cưỡng ép, như thể chúng tôi phải tận dụng cho hết mọi tiện ích khi được tự do. Nhưng ngay khi anh chìm vào giấc ngủ, tôi lại đắm trong những suy nghĩ của riêng mình.

    Chỉ còn lại bảy tuần nữa thôi.

    Và Will đang lên kế hoạch, dù tôi chẳng có kế hoạch gì.

    Tuần tiếp theo, không rõ Will có để ý thấy tôi đang lo lắng không, nhưng anh chẳng nói gì. Chúng tôi nhịp nhàng làm những công việc thường ngày - tôi chở anh dạo quanh đồng quê, nấu ăn cho anh, trông coi anh khi chúng tôi ở nhà. Anh không bao giờ trêu đùa về Ông Chạy nữa.

    Tôi nói với anh về những cuốn sách anh mới giới thiệu lần gần đây nhất: chúng tôi đã đọc The English Patient (Bệnh nhân người Anh) (tôi mê cuốn này), và một cuốn trinh thám của Thụy Điển (tôi không thích nó). Chúng tôi quan tâm tới nhau theo kiểu cực kỳ lịch sự. Tôi nhớ những lời nói khó nghe, nhớ tính gắt gỏng của anh - sự vắng mặt của những điều này chỉ làm gia tăng thêm cảm giác đe dọa đang treo lù lù trên đầu tôi.

    Nathan quan sát cả hai chúng tôi, như thể ông đang quan sát một loài sinh vật mới lạ.

    "Hai người cãi nhau đấy à?" một hôm ông hỏi tôi trong bếp, khi tôi đang gỡ hàng tạp phẩm mới mua.

    "Tốt nhất ông nên hỏi anh ấy," tôi nói. "Cậu ấy nói y như vậy."

    Ông nhìn nghiêng sang tôi, rồi đi vào phòng tắm mở tủ thuốc của Will.

    Trong khi đó, tôi trù trừ ba ngày sau chuyến viếng thăm của ông Michael Lawler rồi mới gọi cho bà Traynor. Tôi hỏi liệu tôi có thể gặp bà ở đâu đó ngoài ngôi nhà này không, và chúng tôi thỏa thuận gặp nhau tại quán cà-phê nhỏ mở ở sân lâu đài. Mỉa mai thay, đó chính là quán cà-phê đã cướp đi công việc của tôi.

    Quán này sang trọng hơn quán Bánh Bơ nhiều - tất cả bàn ghế đều làm bằng gỗ sồi ép và gỗ trắng. Họ phục vụ súp đặc sản nấu bằng rau tươi, còn bánh ngọt thì tuyệt ngon. Ở đây không có cà-phê thường, chỉ có latte, cappuccino và macchiato. Khách hàng chẳng có ai là thợ xây hay những cô gái ở tiệm làm đầu. Tôi ngồi nhấm nháp tách trà, thầm nghĩ về Quý bà Bồ công anh, tự hỏi không biết bà có thấy thoải mái không nếu ngồi đọc báo ở đây mọi buổi sáng.

    "Louisa, xin lỗi tôi tới muộn." Camilla Traynor bước nhanh vào, túi xách cắp dưới tay, mặc áo lụa xám và quần xanh hải quân.

    Tôi chống lại ý định đứng lên. Xưa nay chưa có khi nào nói chuyện với bà mà tôi không cảm thấy giống như mình đang đi phỏng vấn.

    "Tôi bận bịu ở tòa quá."

    "Xin lỗi. Vì đã làm bà mất công mất buổi, ý tôi là thế. Tôi chỉ... à, tôi nghĩ việc này không chần chừ được."

    Bà đưa tay lên, nói gì đó với cô phục vụ, ngay lập tức cô mang tới một ly cappuccino. Rồi bà ngồi xuống đối diện với tôi. Tôi cảm thấy bà cứ nhìn chằm chằm như thể tôi trong suốt.

    "Will đã mời một luật sư tới nhà," tôi nói. "Tôi tìm hiểu ra ông ấy là chuyên gia trong vấn đề di chúc và thanh toán di sản." Tôi chẳng nghĩ được cách nào nhẹ nhàng hơn để mào đầu.

    Trông bà như thể vừa bị ăn bạt tai. Tôi nhận ra một cách muộn màng rằng có thể thực tình bà ấy đã nghĩ tôi có điều gì đó tốt đẹp cần kể.

    "Một luật sư? Cô chắc chứ?"

    "Tôi đã tìm hiểu về ông ấy trên internet. Ông ấy sống ở phố Regent. Ở London," tôi nói thêm một cách không cần thiết. "Tên ông ấy là Michael Lawler."

    Bà chớp mắt liên hồi, như thể cố để tiêu hóa chuyện này. "Will nói với cô chuyện này à?"

    "Không. Tôi không nghĩ anh ấy muốn tôi biết. Tôi... tôi biết tên ông ấy, rồi tìm kiếm thông tin thôi."

    Cà-phê của bà tới. Cô phục vụ đặt tách cà-phê lên bàn trước mặt bà, nhưng bà chừng như không để ý thấy.

    "Bà có muốn gì nữa không ạ?" cô gái hỏi. "Không, cảm ơn."

    "Hôm nay chúng tôi có món đặc biệt là bánh cà-rốt. Chúng tôi tự làm tại đây. Nó được phủ kem tươi rất ngon..." "Không." Bà Traynor gắt. "Cảm ơn cô."

    Cô gái đứng đó đủ lâu để cho chúng tôi biết rằng cô bực mình, rồi cô bỏ đi, cuốn sổ tung tẩy liên hồi trên tay.

    "Tôi xin lỗi," tôi nói. "Bà đã bảo từ trước là tôi nên kể cho bà bất cứ chuyện gì quan trọng. Tôi thức suốt nửa đêm cố nghĩ xem mình có nên nói gì không."

    Mặt bà cắt không ra giọt máu. Tôi biết bà cảm thấy thế nào.

    "Nó cảm thấy trong người thế nào? Cô đã... cô đã nghĩ được thêm ý tưởng gì chưa? Đi chơi ấy?"

    "Anh ấy không thích." Tôi kể với bà về chuyện Paris, về danh sách những thứ tôi đã soạn ra.

    Trong suốt quá trình tôi kể, tôi thấy trí óc bà luôn làm việc nhanh hơn tôi, tính toán, ước định.

    "Bất cứ nơi nào," cuối cùng bà nói. "Tôi sẽ chi trả. Cô muốn đi đâu cũng được. Tôi sẽ trả cho cô. Cả Nathan nữa. Chỉ cần... chỉ cần xem cô có thể làm nó đồng ý không thôi."

    Tôi gật đầu.

    "Có điều này cô có thể suy nghĩ... hãy tìm cách cho chúng tôi thêm thời gian.

    Tôi sẽ trả lương cho cô trước sáu tháng, chắc chắn đấy." "Đó... đó thật tình không phải vấn đề."

    Chúng tôi lặng lẽ uống nốt tách cà-phê, cả hai cùng chìm trong những suy nghĩ riêng tư. Khi lén quan sát bà, tôi để ý thấy mái tóc hoàn mỹ của bà giờ đã ngả hoa râm, đôi mắt bà cũng thâm quầng như mắt tôi. Tôi nhận ra tôi chẳng hề cảm thấy dễ chịu hơn sau khi kể chuyện với bà, sau khi trút nỗi lo âu chất ngất trong lòng tôi sang bà - nhưng tôi có lựa chọn nào khác đâu? Bức tường thành ngày qua ngày lại cao lên. Tiếng đồng hồ điểm đúng hai giờ dường như lôi bà ra khỏi cảm giác chết lặng.

    "Tôi phải quay lại đi làm đây. Hãy nói cho tôi biết bất cứ điều gì mà cô... cô có thể nghĩ ra, Louisa. Chắc sẽ tốt hơn nếu chúng ta nói những chuyện này bên ngoài khu nhà phụ ấy."

    Tôi đứng dậy. "À," tôi nói, "bà cần lấy số mới của tôi. Tôi vừa chuyển nhà." Khi bà thò tay vào túi lấy bút, tôi nói thêm, "Tôi chuyển sang ở với Patrick... bạn trai tôi."

    Tôi không biết tại sao tin này khiến bà vô cùng ngạc nhiên. Bà tỏ vẻ kinh ngạc, mãi mới đưa cây bút cho tôi.

    "Tôi không biết cô có bạn trai đấy." "Tôi không biết tôi cần nói với bà."

    Bà đứng đó, một tay đặt trên bàn. "Hôm trước Will bảo với tôi rằng cô... nó nghĩ cô sẽ chuyển tới sống ở khu nhà phụ. Vào dịp cuối tuần."

    Tôi nguệch ngoạc số nhà Patrick.

    "À, tôi nghĩ mọi người sẽ thấy dễ hiểu hơn khi tôi chuyển tới sống cùng Patrick." Tôi đưa cho bà mảnh giấy. "Nhưng tôi ở không xa đâu. Ngay bên cạnh khu công nghiệp thôi. Chuyện này không ảnh hưởng gì tới thời gian làm việc. Cả chuyện đi làm đúng giờ nữa."

    Chúng tôi đứng im lặng. Bà Traynor có vẻ rất bối rối, tay vuốt tóc liên hồi, rồi lướt xuống chiếc dây chuyền trên cổ. Cuối cùng chừng như chẳng đặng đừng, bà thốt ra lời, "Cô có phiền hà gì không nếu chờ đợi một chút? Chỉ mấy tuần thôi?"

    "Sao cơ ạ?"

    "Will... Tôi nghĩ Will rất thích cô." Bà cắn môi. "Tôi thấy... tôi thấy chuyện này khiến mọi chuyện xấu đi."

    "Khoan đã. Bà đang nói rằng lẽ ra tôi không nên chuyển tới sống cùng bạn trai?"

    "Tôi chỉ nói rằng thời điểm này là không lý tưởng. Will đang trong trạng thái hết sức dễ tổn thương. Tất cả chúng ta đang làm hết sức để khiến nó lạc quan... thế mà cô..."

    "Tôi làm sao cơ?" Tôi thấy cô phục vụ đang quan sát chúng tôi, cuốn sổ vẫn còn trên tay. "Tôi làm sao chứ? Dám có một cuộc sống khác ngoài công việc ư?"

    Bà hạ giọng. "Tôi đang làm mọi thứ có thể, Louisa, để ngăn... chuyện này. Cô biết nhiệm vụ chúng ta đang đối diện rồi đấy. Và tôi chỉ nói rằng dựa trên thực tế là nó rất thích cô, tôi ước gì cô chờ đợi thêm một chút nữa trước khi cô quẳng... niềm hạnh phúc của cô vào mặt nó."

    Tôi không tin nổi vào tai mình nữa. Tôi thấy mặt mình nóng bừng, tôi phải hít một hơi thật sâu rồi mới nói tiếp được.

    "Sao bà dám bảo tôi có thể làm việc gì đó làm tổn thương tình cảm của Will. Tôi đã làm hết khả năng," tôi rít lên. "Tôi đã làm mọi việc tôi có thể nghĩ ra. Tôi đã nghĩ bao ý tưởng, đưa anh ấy ra ngoài, nói chuyện với anh ấy, đọc cho anh ấy nghe, chăm sóc anh ấy." Những lời cuối cùng như bùng nổ trong ngực tôi. "Tôi đã chùi rửa cho anh ấy. Tôi đã thay ống thông tiểu cho anh ấy. Tôi làm anh ấy cười. Tôi làm nhiều hơn cả gia đình chết giẫm nhà bà làm."

    Bà Traynor đứng sững sờ. Bà kéo người thẳng thớm lại, cắp túi xách vào tay. "Tôi nghĩ có lẽ cuộc nói chuyện này kết thúc rồi, cô Clark."

    "Phải. Phải đấy bà Traynor. Tôi nghĩ có lẽ là thế thật." Bà quay đi, bước nhanh ra khỏi quán cà-phê.

    Khi cánh cửa đóng sầm lại, tôi nhận ra mình đang run lẩy bẩy.

    Cuộc nói chuyện với bà Traynor cứ đeo bám tôi suốt mấy ngày sau. Tôi cứ nghe văng vẳng bên tai lời bà nói, cái ý tưởng rằng tôi đã ném hạnh phúc của mình vào mặt anh. Tôi không nghĩ Will có thể thấy tổn thương trước bất cứ việc gì tôi làm. Khi anh không tán thành quyết định chuyển tới sống cùng Patrick của tôi, tôi đã nghĩ đó là vì anh không thích Patrick chứ không phải vì tình cảm nào đó anh dành cho tôi. Quan trọng hơn, tôi nghĩ mình chẳng tỏ ra sung sướng chút nào.

    Ở nhà, tôi không thể xóa bỏ cảm giác lo âu. Nó giống như một một dòng suối nhỏ róc rách chảy qua tôi, lan tỏa vào mọi thứ tôi làm. Tôi hỏi Patrick, "Chúng ta có sống thế này không nếu em gái em không cần phòng của em nhỉ?"

    Anh nhìn tôi như thể tôi là đứa mất trí. Anh vươn người tới kéo tôi vào lòng, hôn lên đỉnh đầu tôi. Rồi anh liếc xuống. "Em có nhất thiết phải mặc pyjama không? Anh chẳng thích em mặc pyjama."

    "Nó thoải mái mà."

    "Trông nó như quần của mẹ anh vậy."

    "Không có chuyện đêm nào em cũng mặc áo nịt chỉ để làm anh hài lòng đâu nhé. Anh chưa trả lời câu hỏi của em."

    "Anh không biết. Có lẽ. Có."

    "Nhưng chúng ta chưa bao giờ nói về chuyện này, phải không?"

    "Lou, hầu hết mọi người tới sống cùng nhau vì đó là chuyện hiển nhiên. Đó là vì ta yêu ai đó và vì những lợi ích tài chính và thực tế."

    "Em chỉ... không muốn anh nghĩ em làm nên chuyện này. Em không muốn cảm thấy như thể em làm ra chuyện này."

    Anh thở dài, thẳng người dựa lưng vào ghế. "Sao phụ nữ cứ phải nói đi nói lại một chuyện cho tới khi nó trở thành vấn đề trầm trọng thế nhỉ. Anh yêu em, em yêu anh, chúng ta đã ở bên nhau gần bảy năm, nhà bố mẹ em lại không có phòng ngủ. Mọi chuyện đơn giản có thế thôi."

    Nhưng cảm giác lại chẳng đơn giản chút nào.

    Cảm giác như tôi đang sống một cuộc đời mà trước đây tôi chưa từng nghĩ tới.

    Thứ Sáu đó trời mưa cả ngày - những màn mưa nặng hạt ấm áp như thể chúng tôi đang ở miền nhiệt đới, làm cho máng nước chảy ồng ộc và thổi dạt những cánh hoa yếu ớt như đang nghiêng ngả cầu xin. Will nhìn trân trân ra ngoài cửa sổ như chú cún chẳng chịu đi chơi. Nathan đến rồi đi, một chiếc túi nhựa che trên đầu. Will xem một bộ phim tài liệu về chim cánh cụt, rồi sau đó, khi anh vào máy tính, tôi cũng cố làm ra vẻ bận rộn để chúng tôi không phải nói chuyện với nhau. Cảm giác khó chịu giữa chúng tôi thật nặng nề, và việc hai đứa cứ phải ở trong một gian phòng suốt ngày khiến điều đó càng tệ hại hơn.

    Cuối cùng tôi cũng đã bắt đầu hiểu được cảm giác khuây khỏa mà việc lau chùi mang lại. Tôi quét dọn, lau cửa sổ, thay chăn màn. Tôi luôn tay luôn chân. Không có hạt bụi nào thoát khỏi mắt tôi, không mẩu rác nào lọt qua được phân tích pháp y của tôi. Tôi đang dùng bọt tuyết nhúng dấm (mẹ tôi chỉ) để cọ vết gỉ trên vòi nước trong phòng tắm thì nghe thấy Will dừng xe sau lưng tôi.

    "Cô đang làm gì thế?"

    Tôi cúi thấp xuống bồn tắm. Tôi không quay lại. "Tôi đang cọ vòi nước nhà anh."

    Tôi cảm giác anh đang quan sát tôi.

    Sau một lát, anh nói, "Nói lại xem nào." "Gì cơ?"

    "Nói lại điều đó."

    Tôi ngồi thẳng dậy. "Sao, tai anh có vấn đề à? Tôi đang cọ vòi nước nhà anh."

    "Tôi chẳng làm sao cả, tôi chỉ muốn tự cô nghe lại những gì cô nói thôi. Chẳng có lý do gì phải cọ vòi nước nhà tôi cả, Clark. Mẹ tôi không để ý chuyện đó, tôi không bận tâm, mà nó chỉ làm cho phòng tắm tanh như ở cửa hàng cá và khoai tây chiên thôi. Vả lại, giờ tôi muốn đi ra ngoài."

    Tôi hất một lọn tóc ra khỏi mặt. Đúng thật. Không khí rõ là nghe như có mùi cá tuyết.

    "Thôi nào. Cuối cùng trời cũng tạnh mưa rồi. Tôi vừa nói chuyện với bố tôi. Ông bảo ông sẽ đưa chìa khóa cho chúng ta vào lâu đài sau năm giờ, khi du khách đã về hết."

    Tôi không cảm thấy ý tưởng hai chúng tôi nói chuyện phải phép với nhau suốt chặng đường đi dạo quanh sân lâu đài có gì thú vị. Nhưng ý nghĩ được ra khỏi khu nhà phụ này thì quả là hấp dẫn.

    "Được rồi. Cho tôi năm phút. Tôi phải cố tẩy mùi dấm khỏi tay đã."

    Điểm khác nhau giữa một người lớn lên như tôi và một người lớn lên như Will là ít nhiều anh luôn mang ý thức quyền uy. Tôi nghĩ với một người sinh trưởng như anh, có bố mẹ giàu sang, sống trong ngôi nhà lộng lẫy, được đi học ở những trường danh giá, đi ăn ở nhà hàng hạng sang thì người đó luôn có cảm quan rằng mọi thứ tốt đẹp sẽ tới tay mình, rằng vị trí của người đó trên thế gian hiển nhiên là vị trí cao quý.

    Will kể suốt thời thơ ấu anh hay lỉnh vào những khoảng sân trống trơn của tòa lâu đài. Bố anh cho anh nhởn nha ở đó, miễn là không được chạm vào bất cứ thứ gì. Sau 5.30 chiều, khi du khách cuối cùng đã ra về, khi những người làm vườn bắt đầu tỉa cây dọn lá, lao công đi gom rác, quét dọn hộp giấy đồ uống rỗng và vụn kẹo bơ lạc, nó trở thành sân chơi bí mật của riêng anh.

    Khi nghe anh kể chuyện này, tôi tưởng tượng rằng nếu Treena và tôi được tự do trong lâu đài, chỉ riêng hai đứa, thì chúng tôi sướng điên người vì không tin nổi chuyện đó và sẽ xới tung cả chỗ này lên.

    "Tôi đã hôn cô gái đầu tiên trên cây cầu treo kia," anh nói, chậm lại để nhìn cây cầu khi chúng tôi đi dọc lối đi trải sỏi.

    "Khi ấy anh có nói với cô ta nơi này thuộc về anh không?"

    "Không. Có lẽ đáng ra tôi nên nói. Một tuần sau đó cô ấy đã bỏ rơi tôi để chạy theo một anh chàng làm việc trong minimart."

    Tôi quay sang ngạc nhiên nhìn anh. "Không phải Terry Rowlands đấy chứ? Anh chàng có mái tóc đen vuốt keo bóng mượt, có hình xăm trên khuỷu tay ấy?"

    Anh nhướng mày. "Đúng anh ta đấy."

    "Anh ấy vẫn làm ở đó, anh biết không. Ở minimart. Nếu điều đó khiến anh cảm thấy dễ chịu hơn."

    "Tôi không chắc anh ta có ghen tị gì không với kết cục của tôi," Will nói, và tôi lại thôi không nói gì nữa.

    Thật kỳ lạ khi nhìn tòa lâu đài như thế này, trong lặng lẽ, hai chúng tôi là những người duy nhất ở đó ngoại trừ một người làm vườn lập dị đang ở phía xa xa. Thay vì nhìn chăm chú những vị du khách, bị sao nhãng bởi tiếng nói và đời sống lạ kỳ của họ, tôi thấy có lẽ đây là lần đầu tiên mình nhìn vào chính tòa lâu đài, lần đầu tiên biết đam mê một phần lịch sử của nó. Những bức tường sừng sững đã đứng đó hơn 800 năm. Bao thế hệ đã sinh ra rồi chết đi, bao trái tim đong đầy và mất mát. Giờ đây trong yên lặng, ta hầu như có thể nghe thấy tiếng nói của họ, tiếng bước chân của chính họ trên lối mòn này.

    "Nào, tới lúc tự thú rồi," tôi nói. "Anh đã bao giờ đi bộ quanh đây và giả vờ như mình là một hoàng tử chiến binh chưa?"

    Will nhìn nghiêng sang tôi. "Nói thực ư?" "Tất nhiên rồi."

    "Có chứ. Thậm chí có lần tôi còn mượn một thanh gươm treo trên tường tòa thị chính. Nó nặng cả tấn. Tôi nhớ mình đã sợ chết khiếp rằng tôi sẽ không thể nhấc nó đặt lại lên giá."

    Chúng tôi đã tới mỏm đồi, và từ đây, phía trước con hào, chúng tôi có thể nhìn xuống dải cỏ dài tới tận bức tường phế tích, nơi đánh dấu ranh giới của khuôn viên lâu đài. Phía bên kia mốc ấy là thị trấn, những bảng hiệu sáng đèn neon, xe cộ nối đuôi nhau, tiếng rì rầm báo hiệu thị trấn nhỏ đang vào giờ cao điểm. Trên này không gian vô cùng tĩnh lặng, chỉ có tiếng chim chóc và tiếng rì rì khe khẽ phát ra từ xe của Will.

    Anh thoáng dừng xe lại, quay xe để chúng tôi cùng nhìn xuống sân. "Tôi ngạc nhiên là chúng ta chưa từng gặp nhau đấy," anh nói. "Ý tôi là dạo tôi còn nhỏ ấy mà. Lối đi của chúng ta phải giao nhau chứ nhỉ."

    "Sao lại phải thế? Tôi và anh không sống cùng cộng đồng. Và khi anh tha lôi thanh gươm đi qua chiếc xe đẩy, thì tôi mới là đứa trẻ nằm trong đó."

    "À nhỉ. Tôi quên mất - so với cô thì tôi đã già cóc đế rồi."

    "Tám năm cách biệt xứng đáng để tôi gọi anh là 'chú' rồi," tôi nói. "Ngay từ thời niên thiếu bố tôi đã không bao giờ cho phép tôi đi chơi với một ông chú."

    "Ngay cả khi ông chú ấy sở hữu một tòa lâu đài ư?" "Ồ, hẳn nhiên điều đó sẽ thay đổi mọi thứ chứ."

    Mùi cỏ ngọt ngào dâng lên xung quanh khi chúng tôi tản bộ, bánh xe lăn kin kít qua những vũng nước nhỏ trên lối đi. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Cuộc trò chuyện của chúng tôi không được như trước đây, nhưng có lẽ như thế cũng là ngoài mong đợi rồi. Bà Traynor nói đúng - Will luôn cảm thấy thật khó khăn khi chứng kiến người khác bước tiếp đời mình. Tôi lưu ý mình phải suy nghĩ cẩn thận hơn về chuyện những hành động của tôi có thể ảnh hưởng thế nào tới cuộc đời anh. Tôi không muốn tức giận nữa.

    "Tìm đường trong mê cung đi. Bao nhiêu năm rồi tôi chưa đi vào đó."

    Tôi bị lôi tuột lại những ý nghĩ ngày xưa. "Ôi. Không đâu, cám ơn." Tôi liếc nhìn, đột nhiên nhận ra chúng tôi đang ở đâu.

    "Sao chứ, cô sợ lạc à? Thôi nào, Clark. Đó là một thử thách dành cho cô. Thử xem liệu cô có nhớ nổi con đường cô đi vào không, rồi chọn một con đường đi ngược trở lại. Tôi sẽ tính thời gian cho cô. Hồi trước tôi hay chơi trò này lắm."

    Tôi ngoái cổ liếc nhìn lại ngôi nhà. "Thật tình tốt hơn tôi không nên vào." Chỉ nghĩ tới mê cung thôi cũng đủ khiến ruột tôi thắt lại rồi.

    "À. Lại sợ làm liều chứ gì." "Không phải thế."

    "Không sao. Chúng ta sẽ tiếp tục chặng đường nho nhỏ buồn tẻ rồi trở về khu nhà phụ bé tí buồn tẻ."

    Tôi biết anh đang nói đùa. Nhưng có điều gì đó trong giọng nói của anh thực sự chạm vào tim tôi. Tôi nghĩ tới cô Deirdre trên xe buýt, lời bình luận rằng thật tốt khi một trong hai chị em tôi ở lại gia đình. Cuộc đời của tôi luôn nhỏ bé, tham vọng của tôi luôn tầm thường.

    Tôi liếc sang mê cung, bóng tối phủ dày và bờ rào rậm rạp. Tôi đang sống rất lố bịch. Có lẽ bao năm nay tôi đã cư xử một cách lố bịch. Rốt cuộc mọi chuyện cũng qua rồi. Và tôi đang bước tiếp.

    "Chỉ cần nhớ cô rẽ ở đâu, rồi khi ra thì đi ngược lại. Không khó như có vẻ thế đâu. Thật đấy."

    Tôi rời khỏi lối mòn trước khi kịp nghĩ kỹ điều gì. Tôi hít một hơi, bước qua tấm biển cảnh báo "Không dẫn theo trẻ em", bước nhanh vào giữa những bờ giậu tối đen ướt đẫm vẫn còn lưu lại những giọt mưa.

    Chuyện này không quá khó đâu, chuyện này không quá khó đâu, tôi nghe tiếng mình thì thào. Nó chỉ là một dãy hàng rào cũ kỹ. Tôi rẽ phải, rồi rẽ trái qua một ngõ cụt. Tôi lại rẽ phải rồi rẽ trái, và vừa đi tôi vừa nhẩm trong đầu chiều ngược lại của góc tôi vừa rẽ. Phải. Trái. Ngõ cụt. Phải. Trái.

    Tim tôi bắt đầu đập nhanh lên một chút, tôi có thể nghe thấy tiếng mạch máu thùm thụp trong tai. Tôi bắt mình nghĩ tới Will ở phía bên kia hàng rào đang liếc nhìn đồng hồ. Đây là một bài kiểm tra ngu ngốc. Tôi không còn là cô gái ngây thơ ngày ấy nữa. Tôi đã hai bảy tuổi. Tôi sống cùng bạn trai. Tôi có một công việc có trách nhiệm. Tôi là một con người hoàn toàn khác.

    Tôi rẽ, đi thẳng, rồi lại rẽ.

    Thế rồi đột ngột, nỗi sợ hãi trào dâng trong tôi. Tôi nghĩ tôi thấy một ông chạy vụt qua cuối hàng rào. Dù tự nhủ đó chỉ là tưởng tượng, khoảnh khắc trấn an bản thân ấy khiến tôi quên mất lời chỉ dẫn đảo ngược của mình. Phải. Trái. Ngõ cụt. Phải. Phải? Có phải tôi nhớ sai rồi không? Hơi thở tôi thắt lại trong cổ họng. Tôi ép mình đi tiếp, chỉ để nhận ra rằng tôi đã hoàn toàn mất phương hướng. Tôi dừng lại, liếc nhìn bóng đổ xung quanh, cố nghĩ xem hướng tây nằm đâu.

    Khi đứng đó, tôi sực nhận ra rằng tôi không thể làm thế. Tôi không thể cứ đứng yên như vậy. Tôi nhìn quanh, rồi bắt đầu đi vào lối mà tôi nghĩ dẫn về hướng nam. Tôi sẽ ra được. Tôi hai mươi bảy tuổi rồi. Mọi chuyện sẽ ổn. Nhưng rồi tôi nghe thấy giọng họ, tiếng huýt sáo, tiếng cười đùa châm chọc. Tôi thấy họ, chạy vù vù tới lui ở những khúc cua bờ rào, thấy chân mình chao đảo vì say xỉn trên đôi dép cao gót, cảm giác nhói đau không lẫn vào đâu được khi ngã vào hàng rào, chới với cố đứng cho ngay ngắn.

    "Tôi muốn ra ngoài ngay," tôi đã bảo với họ như vậy, giọng tôi khàn đặc, run rẩy. "Tôi thấy đủ lắm rồi, các cậu."

    Thế rồi họ biến mất cả. Mê cung im lìm, chỉ còn tiếng thì thầm xa xa, có lẽ là tiếng họ ở phía bên kia hàng rào - mà cũng có thể là tiếng gió xào xạc lá.

    "Tôi muốn ra ngoài ngay," tôi đã nói thế, giọng tôi nghe lạ lùng ngay cả với tai tôi. Tôi đã nhìn lên trời cao, đột nhiên choáng váng trước không gian đen ngòm bao la sâu thẳm trên đầu. Rồi tôi giật nảy mình khi một người ôm lấy eo tôi - anh chàng tóc đen. Giờ cậu ta đã đi tới châu Phi.

    "Em chưa được đi," anh ta nói. "Em sẽ làm hỏng trò chơi mất."

    Lúc này tôi đã hiểu rồi, từ cảm giác bàn tay anh ta đặt trên eo tôi. Tôi nhận ra rằng có chút cân bằng đã chao đảo, chút cẩn trọng trong hành vi đã bắt đầu bốc hơi. Thế là tôi phá lên cười, đẩy tay anh ta ra như thể nó là trò đùa, không để lộ cho anh ta biết rằng tôi đã hiểu. Tôi nghe anh ta hú gọi bạn bè. Tôi vùng khỏi anh ta, đột ngột tháo chạy, cố hết sức tìm lối ra, chân tôi lún vào cỏ ướt. Tôi nghe thấy cả đám bọn họ ùa đến quanh tôi, giọng họ gào rú, cơ thể chập chờn, cổ họng tôi thít lại vì hoảng sợ. Tôi quá mất phương hướng, chẳng biết mình đang ở đâu nữa. Những dãy hàng rào cao vút cứ chao đảo, nghiêng ngả về phía tôi. Tôi tiếp tục chạy, lê mình quanh những góc cua, chệnh choạng, lao vào những khoảng trống, cố thoát khỏi tiếng họ. Nhưng chẳng bao giờ thấy được lối ra. Rẽ ở đâu tôi cũng chỉ thấy một hàng rào bất tận khác, một giọng chế giễu khác.

    Tôi loạng choạng lao vào một khoảng trống, thoáng sung sướng vì đã gần tới tự do. Nhưng rồi tôi thấy mình đã trở lại trung tâm mê cung, quay lại đúng nơi mình bắt đầu bỏ chạy. Tôi choáng váng khi thấy tất cả bọn họ đang đứng đó, như thể họ đang chờ tôi.

    "Em đây rồi," một gã nói khi đưa tay chộp lấy tay tôi. "Tớ đã bảo các cậu là em ấy sẵn sàng lắm mà. Lại đây nào, Lou-lou, hôn anh một cái rồi anh chỉ đường ra cho." Giọng gã õng ợt lè nhè.

    "Hôn bọn anh mỗi thằng một cái rồi bọn anh sẽ chỉ đường ra cho." Mặt họ lờ mờ nhân ảnh.

    "Tôi chỉ... tôi chỉ muốn các anh..."

    "Thôi nào, Lou. Em thích anh phải không nào? Em đã ngồi trong lòng anh suốt cả buổi tối. Một nụ hôn thôi. Làm gì mà khó khăn thế?"

    Tôi nghe một tiếng cười khẩy.

    "Thế rồi anh sẽ chỉ cho tôi cách ra chứ?" Giọng tôi nghe thật đáng thương, ngay cả với lỗ tai tôi.

    "Chỉ một nụ thôi." Gã xích lại gần hơn.

    Tôi cảm nhận thấy miệng gã trên miệng mình, một bàn tay bóp đùi tôi. Gã lùi ra, tôi nghe thấy tiếng hơi thở gã quay đi. "Tới lượt Jake."

    Tôi chẳng nhớ lúc ấy mình nói gì nữa. Ai đó nắm cánh tay tôi. Tôi nghe tiếng cười, cảm thấy một bàn tay trên tóc mình, một khuôn miệng nữa trên môi, liên tục, xâm phạm, thế rồi...

    "Will..."

    Lúc này tôi đang khóc thổn thức, vòng tay ôm người. "Will," tôi gọi tên anh, gọi mãi, giọng tôi lạc đi, thoát ra từ đâu đó trong ***g ngực. Tôi nghe giọng anh từ đâu đó xa xa, bên kia hàng rào.

    "Louisa? Louisa, cô ở đâu? Có chuyện gì thế?"

    Tôi đang ở trong góc, xa cái hàng rào ngày xưa ấy hết mức có thể. Nước mắt nhạt nhòa trên mi, vòng tay ôm chặt quanh mình. Tôi không ra ngoài được. Tôi sẽ mắc kẹt ở đây mãi mãi. Sẽ chẳng ai tìm ra tôi.

    "Will..." "Cô ở đâu?"

    Anh xuất hiện ở đó, ngay trước mặt tôi.

    "Tôi xin lỗi," tôi nói, ngước lên, gương mặt tôi vẹo vọ. "Tôi xin lỗi. Tôi không... làm được."

    Anh nhấc cánh tay lên dăm phân - mức cao nhất mà anh xoay xở được. "Ôi Chúa ơi, có chuyện gì...? Lại đây, Clark." Anh tiến tới, rồi liếc nhìn xuống cánh tay với ánh mắt tuyệt vọng.

    "Thứ vô dụng này... Được rồi. Thở đi nào. Lại đây. Thở đi. Chậm thôi."

    Tôi lau mắt. Nhìn thấy anh, nỗi sợ hãi bắt đầu tan biến. Tôi lảo đảo đứng lên, cố tươi tỉnh lại. "Tôi xin lỗi. Tôi... không biết chuyện gì đã xảy ra nữa."

    "Cô bị chứng sợ không gian hẹp à?" Gương mặt anh gần sát bên mặt tôi, khắc khoải lo lắng. "Tôi đã thấy cô không muốn vào đây. Tôi chỉ... tôi chỉ nghĩ cô đang..."

    Tôi nhắm mắt. "Giờ tôi chỉ muốn ra ngoài thôi." "Nắm tay tôi. Chúng ta cùng ra."

    Anh dẫn tôi ra trong ba phút. Anh biết mặt sau của mê cung, anh nói với tôi thế khi chúng tôi ra, giọng anh điềm tĩnh, trấn an. Khi anh còn là một cậu bé, tìm cách ra khỏi mê cung là một thách thức. Tôi siết mấy ngón tay vào các ngón tay anh, cảm thấy hơi ấm của bàn tay anh như thứ gì đầy an ủi. Tôi thấy mình thật ngớ ngẩn khi nhận ra rằng lối đi vào mà tôi thường qua lại bấy nay thật sự rất gần.

    Chúng tôi dừng lại bên cạnh một chiếc ghế dài ngay bên ngoài mê cung, tôi lục sau lưng ghế anh lấy một tờ khăn giấy. Chúng tôi ngồi im lặng, tôi ngồi ở mép ghế, bên cạnh anh, cả hai chúng tôi chờ đợi cho tôi hết nấc.

    Anh ngồi đó, len lén nhìn tôi.

    "Nào...?" cuối cùng anh lên tiếng, khi tôi đã tỏ ra có thể cất tiếng mà không òa khóc nữa. "Cô muốn kể cho tôi nghe có chuyện gì chứ?"

    Tôi vò khăn giấy trong tay. "Tôi không thể." Anh mím môi.

    Tôi nuốt vào. "Không phải vì anh đâu," tôi vội nói. "Tôi chưa từng nói với ai về... Chuyện đó... chuyện đó thật ngu ngốc. Xảy ra lâu lắm rồi. Tôi đã không nghĩ... tôi sẽ..."

    Tôi thấy anh nhìn mình chăm chú, và ước anh đừng nhìn nữa. Tay tôi sẽ không ngừng run lẩy bẩy, và ruột tôi như triệu lần thắt lại.

    Tôi lắc đầu, cố nói với anh rằng có những điều tôi không thể kể ra. Tôi muốn lại được nắm tay anh, nhưng tôi không dám. Tôi cảm nhận được cái nhìn khắc khoải của anh, nghe được những câu hỏi không cất thành lời.

    Phía dưới chúng tôi, hai chiếc xe tấp lại bên cổng. Hai người bước ra rồi ôm nhau, từ đây thì không thể nhìn ra họ là ai. Họ đứng đó vài phút, có lẽ chuyện trò với nhau, rồi ai lên xe nấy lái về hai hướng. Tôi quan sát họ nhưng chẳng nghĩ được gì. Tâm trí tôi như ngưng đọng. Tôi chẳng biết phải nói gì thêm nữa.

    "Được rồi. Có một điều này," cuối cùng anh nói. Tôi quay sang, nhưng anh không nhìn tôi. "Tôi sẽ kể với cô một điều mà tôi chưa bao giờ kể với ai. Được chưa?"

    "Được." Tôi vò tờ khăn giấy tròn xoe trong tay, chờ đợi. Anh hít một hơi thật sâu.

    "Tôi vô cùng, vô cùng sợ hãi khi nghĩ chuyện này sẽ đi tới đâu." Anh để câu nói ấy lơ lửng trong không khí giữa chúng tôi, rồi với giọng trầm thấp, bình tĩnh, anh nói tiếp. "Tôi biết hầu hết mọi người đều nghĩ sống như tôi là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra rồi. Nhưng mọi chuyện có thể trở nên tồi tệ hơn. Sau này tôi có thể không tự mình thở được nữa, không nói được nữa. Tôi có thể gặp vấn đề lưu thông máu dẫn đến phải cắt cụt chân tay. Tôi có thể phải nằm viện vô thời hạn. Thế này chẳng thể gọi là sống được, Clark. Nhưng khi nghĩ mọi chuyện còn có thể tồi tệ hơn bao nhiêu - nhiều đêm nằm trên giường mà tôi không sao thở nổi."

    Anh nuốt vào. "Và cô biết không? Chẳng ai muốn nghe những điều này cả. Chẳng ai muốn nghe người khác nói về nỗi lo âu, cơn đau, nỗi sợ chết trong một đợt nhiễm trùng ngớ ngẩn bất thần nào đó. Không ai muốn biết cảm giác thế nào khi biết ta không bao giờ ******** được nữa, không bao giờ được ăn món ăn do chính tay mình nấu nữa, không bao giờ được ôm con cái trong tay. Không ai muốn biết đôi khi tôi cảm thấy chứng sợ không gian hẹp hành hạ khủng khiếp khi ngồi trong chiếc ghế này, tôi chỉ muốn tru lên như một gã điên khi nghĩ lại phải ngồi thêm một ngày nữa trên nó. Mẹ tôi thì rày nắng mai mưa, bà không thể tha thứ cho tôi vì tôi vẫn yêu bố. Em gái tôi căm thù tôi vì một lần nữa tôi lại phủ bóng lên cuộc đời nó - và vì bệnh tình của tôi khiến nó không thể ra mặt ghét tôi, như nó vẫn ghét từ hồi nhỏ. Bố tôi chỉ muốn mọi chuyện tan biến hết. Rốt cuộc, họ muốn nhìn vào mặt tươi sáng. Họ cần tôi nhìn vào mặt tươi sáng."

    Anh ngừng lại. "Họ muốn tin rằng thật sự có một mặt tươi sáng." Tôi chớp mắt trước màn đêm. "Tôi có như thế không?" tôi nói khẽ.

    "Cô, Clark," anh nhìn xuống đôi tay, "là người duy nhất tôi có thể nói chuyện kể từ khi tôi rơi vào chuyện khốn kiếp này."

    Thế là tôi kể với anh.

    Tôi nắm tay anh, bàn tay đã đưa tôi ra khỏi mê cung, tôi nhìn xuống chân, hít một hơi, rồi kể với anh mọi chuyện đêm đó, kể rằng họ đã cười nhạo tôi, trêu chọc tôi vì quá say xỉn và phê thuốc, tôi không biết trời đất gì nữa và sau này em gái tôi nói có khi như thế lại tốt, tôi chẳng nhớ họ đã làm gì, nhưng nửa giờ đồng hồ vô thức ấy lại ám ảnh tôi mãi mãi. Tôi làm đầy nó, đúng thế. Tôi làm đầy khoảng thời gian ấy bằng tiếng cười của bọn họ, cơ thể và lời lẽ. Tôi làm đầy bằng nỗi xấu hổ của chính tôi. Tôi nói với anh rằng đi đâu trong thị trấn tôi cũng nhìn thấy mặt họ, rằng tôi thấy dễ chịu với Patrick và bố mẹ tôi cùng cuộc sống nhỏ bé này, bất chấp bao nhiêu vấn đề tồn đọng và giới hạn. Tất cả khiến tôi cảm thấy an toàn.

    Khi chúng tôi ngừng lời, trời đã tối sẫm, có mười bốn tin nhắn trong điện thoại của tôi hỏi xem chúng tôi đang ở đâu.

    "Cô không cần tôi phải bảo đó không phải lỗi của cô," anh nói khẽ. Trên cao, bầu trời trở nên bao la vô định.

    Tôi vò khăn giấy trong tay. "Vâng. Ừm. Tôi vẫn cảm thấy... mình có trách nhiệm. Tôi uống quá nhiều để phô trương ra đám đông như thế. Tôi đã tán tỉnh thái quá. Tôi..."

    "Không. Trách nhiệm thuộc về họ."

    Chưa một ai từng nói to những lời ấy với tôi. Ngay cả ánh mắt thương cảm của Treena cũng thầm ẩn chứa đôi lời trách móc. Ôi trời, nếu chị có thể say xỉn và lố bịch với những gã chẳng quen biết thì...

    Mấy ngón tay anh siết chặt tay tôi. Một cử chỉ yếu ớt, nhưng lại rất rõ ràng. "Louisa. Đó không phải lỗi của cô."

    Giờ tôi lại khóc. Nhưng lần này không phải tiếng thổn thức. Lần này nước mắt tôi rơi lặng lẽ, nhưng giọt nước mắt ấy nói cho tôi biết có điều gì nữa đang rời khỏi tôi. Tội lỗi. Nỗi sợ. Mấy điều nữa mà tôi chưa thể gọi tên. Tôi nhẹ nhàng ngả đầu lên vai anh và anh nghiêng đầu cho tới khi nó đặt được lên đầu tôi.

    "Rồi. Cô đang nghe tôi đấy chứ?" Tôi lầm bầm một chữ có.

    "Thế tôi sẽ kể cho cô một chuyện vui," anh nói, rồi chờ đợi, như thể anh muốn chắc tôi đã chú ý đến anh.

    "Một số sai lầm... có hậu quả hơn những sai lầm khác. Nhưng cô không được để đêm ấy trở thành một thứ định hình con người mình." Tôi cảm nhận đầu anh tựa lên đầu tôi.

    "Nếu được lựa chọn thì cô, Clark, sẽ không để điều đó xảy ra."

    Tôi thở hắt ra, run rẩy. Chúng tôi cùng ngồi yên lặng, để lời anh thấm vào lòng. Tôi có thể ngồi như thế suốt đêm, bên trên toàn thể thế gian, hơi ấm của tay Will trong tay tôi, cảm thấy phần tồi tệ nhất trong con người mình từ từ tan biến.

    "Chúng ta nên về thôi," cuối cùng anh nói. "Trước khi họ gọi một đội tìm kiếm."

    Tôi thả tay anh ra rồi đứng dậy, hơi miễn cưỡng, cảm thấy gió lạnh thổi qua da mình. Thế rồi, thật khoa trương, tôi giơ hai tay lên trời cao. Tôi để các ngón tay duỗi thẳng trong gió đêm, nỗi căng thẳng của bao tuần, bao tháng, có lẽ là bao năm, nhẹ đi phần nào, rồi tôi hít một hơi thật sâu.

    Phía dưới tôi, ánh đèn thị trấn nhấp nháy, một vòng tròn sáng giữa bao la đồng quê đen thẫm bên dưới chúng tôi. Tôi quay lại phía anh. "Will này?" "Sao cơ?"

    Tôi chẳng thấy rõ anh trong ánh sáng mờ ảo, nhưng tôi biết anh đang nhìn tôi. "Cảm ơn anh. Cảm ơn anh vì đã đến tìm tôi."

    Anh lắc đầu rồi quay xe lên lối mòn.

  10. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 18

    "Công viên Disneyland được đấy."

    "Tôi đã nói với anh rồi mà, không trò chơi mạo hiểm."

    "Tôi biết cô đã nói thế, nhưng đâu phải chỉ có trò chơi cảm giác mạnh và đu quay hình cái tách. Ở Florida còn có nhiều rạp chiếu phim và các trung tâm khoa học. Nó thật sự có tính giáo dục."

    "Tôi chẳng nghĩ một người 35 tuổi từng là lãnh đạo công ty lại cần được giáo dục nữa."

    "Góc nào cũng có nhà vệ sinh cho người khuyết tật. Và có nhân viên chăm sóc đặc biệt. Sẽ không gặp vấn đề gì rắc rối."

    "Anh sắp nói là có cả xe chuyên dụng cho người khuyết tật nữa chứ gì, đúng không?"

    "Họ hỗ trợ tất cả mọi người. Tại sao cô lại không muốn đến Florida nhỉ, cô Clark? Nếu cô không thích ở đó cô vẫn có thể đến công viên đại dương SeaWorld. Thời tiết thì rất tuyệt vời."

    "Trong cuộc chiến giữa Will với cá voi ăn thịt người tôi nghĩ tôi biết ai sẽ thua rồi."

    Anh ta dường như không nghe tôi nói. "Và đó là một trong những công ty hàng đầu trong vấn đề người khuyết tật. Cô có biết họ làm rất nhiều cho Quỹ Một Ước Mơ dành cho những người sắp chết?"

    "Anh ấy không phải người sắp chết." Tôi ngắt cuộc điện thoại với bên đại lý du lịch đúng lúc Will vào. Tôi lóng ngóng đặt chiếc ống nghe, cố gắng gác nó lại trên giá và đóng cuốn sổ tay lại.

    "Mọi thứ ổn cả chứ, cô Clark?" "Ổn." Tôi mỉm cười vui vẻ.

    "Tốt. Cô có chiếc váy đẹp nào không?" "Cái gì cơ?"

    "Thứ Bảy này cô định làm gì?"

    Anh chờ đợi đầy hy vọng. Đầu tôi vẫn đang loanh quanh với ý nghĩ về con cá voi ăn thịt người và gã ở đại lý du lịch.

    "Ừm... chẳng làm gì cả. Patrick phải đi luyện tập suốt cả ngày. Có chuyện gì vậy?"

    Anh im lặng vài giây trước khi lên tiếng, như thể anh thật sự cảm thấy vui thích khi làm tôi ngạc nhiên.

    "Chúng ta sẽ đi đám cưới."

    Sau này tôi vẫn không hiểu rõ tại sao Will thay đổi ý định của anh về lễ cưới của Alicia và Rupert. Tôi đoán rằng phần lớn trong quyết định của anh là do bản tính thích làm điều trái ngược - không ai hy vọng anh sẽ đi, có lẽ người ít mong mỏi nhất chính là Alicia và Rupert. Có thể anh đến là để khép lại mọi chuyện. Nhưng tôi nghĩ mấy tháng vừa qua cô ấy đã mất quyền năng làm tổn thương anh.

    Chúng tôi quyết định sẽ xoay xở mà không cần sự giúp đỡ của Nathan. Tôi gọi để chắc chắn hội trường tiệc cưới phù hợp với xe lăn của Will, tiếng Alicia nghe rất bối rối khi được biết chúng tôi hẳn nhiên không từ chối lời mời, khi đó một ý nghĩ lóe ra trong đầu tôi là vỏ bọc bên ngoài của cô thực ra chỉ để giấu đi cảm xúc thật trong cô.

    "À... ờ... chỉ có một bậc rất nhỏ đi vào hội trường tiệc cưới thôi, nhưng tôi nghĩ là những người tổ chức có nói họ sẽ cung cấp một đường ván trượt..." cô nói nhỏ dần.

    "Vậy thì tốt rồi. Cảm ơn cô," tôi nói. "Chúng tôi sẽ gặp cô vào ngày cưới."

    Chúng tôi lên mạng để chọn một món quà cưới. Will bỏ ra 120 bảng để mua một khung ảnh bằng bạc và thêm 60 bảng nữa cho một chiếc bình mà anh gọi là "hàng chất". Tôi rất ngạc nhiên khi thấy anh bỏ ra số tiền lớn như vậy cho một người mà anh thậm chí không thật sự thích, nhưng sau nhiều tuần làm việc cho nhà Traynor tôi đã hiểu ra rằng họ có những quan niệm rất khác về tiền bạc. Họ viết những tấm ngân phiếu bốn con số mà không chút đắn đo. Tôi đã từng xem tài khoản ngân hàng của Will khi nó được đặt trên bàn bếp để anh kiểm tra. Số tiền đó đủ mua hai ngôi nhà như nhà chúng tôi - mà đó chỉ là tài khoản vãng lai của anh.

    Tôi quyết định mặc chiếc váy đỏ - một phần bởi vì tôi biết Will thích nó (và giờ đây tôi nhận ra rằng anh cần tất cả những gia tăng giá trị dù nhỏ nhất mà anh có thể có) - nhưng cũng bởi vì tôi thật sự chẳng còn chiếc váy nào khác mà mình đủ dũng cảm để mặc tới một nơi đông người như vậy. Will chẳng nói gì về nỗi sợ của tôi trước ý nghĩ phải đi đến một đám cưới thượng lưu, nhất là trong vai trò "người giúp việc". Tôi cứ suy nghĩ liên hồi đến những giọng nói bàn tán, những ánh nhìn dò xét về phía chúng tôi, tôi thà ngồi cả ngày xem Patrick chạy vòng quanh còn hơn. Có thể tôi thật nông cạn khi vẫn còn quan tâm đến chuyện đó nhưng tôi không thể thôi băn khoăn được. Ý nghĩ những vị khách ấy xem thường cả hai chúng tôi làm ruột tôi thắt lại.

    Tôi không nói gì với Will, nhưng tôi lo lắng cho anh. Tới dự đám cưới của người yêu cũ đã là một hành động đau khổ ngay cả trong hoàn cảnh tốt nhất, nhưng đến một nơi đông người, nơi có thể có rất nhiều bạn bè và đồng nghiệp trước đây, để xem cô ấy cưới bạn cũ của mình thì đối với tôi dường như là một con đường chắc chắn dẫn đến chỗ bị xem thường thảm hại. Tôi cố hết sức giải thích với anh trước ngày chúng tôi lên đường nhưng anh đã gạt phắt đi.

    "Clark này, nếu tôi không có gì lo lắng về chuyện đó, tôi nghĩ cô không cần phải như vậy," anh nói.

    Tôi gọi cho Treena và kể với nó.

    "Kiểm tra xem xe của anh ấy có giấu vi khuẩn lây bệnh hay đạn không," là tất cả những gì nó nói.

    "Đây là lần đầu tiên chị đưa anh ấy đi xa khỏi nhà như thế và nó sẽ là một thảm họa chết tiệt cho xem."

    "Có thể chỉ là anh ấy muốn nhắc cho chính mình biết rằng trên đời này còn có những thứ kinh khủng hơn cái chết?"

    "Thật hài hước."

    Đầu óc nó chỉ để phân nửa vào cuộc điện thoại. Nó đang chuẩn bị cho khóa học một tuần dành cho "những nhà lãnh đạo kinh tế trong tương lai" nên cần mẹ và tôi chăm sóc Thomas giúp. Khóa học sẽ cực kỳ thú vị, nó nói. Sẽ có một vài tên tuổi hàng đầu trong ngành công nghiệp có mặt ở đấy. Thầy giáo của nó rất đề cao nó và nó là người duy nhất trong cả lớp không phải nộp tiền học phí. Tôi chắc chắn là khi nói chuyện với tôi, nó cũng đang làm gì đó trên máy tính. Tôi có thể nghe thấy tiếng nó gõ tay trên bàn phím.

    "Em được vậy thì tốt rồi," tôi nói.

    "Khóa học này ở một trường đại học thuộc Oxford. Thậm chí không phải đại học bách khoa đâu. Nó thật sự là 'đỉnh cao mơ ước' của Oxford đấy."

    "Tuyệt vời."

    Nó ngưng lại một chút. "Anh ấy sẽ không tự sát phải không?"

    "Will hả? Không thay đổi gì cả."

    "Rồi, đó là vấn đề đấy." Tôi nghe tiếng ping của một email vừa được gửi. "Chị phải đi đây, Treen."

    "Okay. Chúc chị vui vẻ. À mà này đừng có mặc cái váy đỏ đấy nhé. Nó xẻ ngực hơi sâu."

    Buổi sáng ngày đám cưới bắt đầu đầy tươi sáng và thơm mát, đúng như tôi đã thầm nghĩ nó sẽ như vậy. Những cô gái như Alicia luôn luôn có cách riêng của họ. Có lẽ đã có ai đó cầu khấn các vị thần thời tiết cho họ.

    "Nói nghe chua chát quá đấy cô Clark," Will trả lời khi tôi nói với anh điều đó

    "Ô, thật mà, tôi đã biết từ trước rồi."

    Nathan đến từ sớm để chuẩn bị sẵn sàng cho Will nên chúng tôi có thể rời nhà anh vào lúc chín giờ. Chuyến đi sẽ kéo dài hai giờ đồng hồ chạy xe và tôi đã phải chuẩn bị cho những đoạn nghỉ, lên kế hoạch cả chặng đường thật tỉ mỉ để đảm bảo chúng tôi có đầy đủ những phương tiện tốt nhất. Tôi sửa soạn trong phòng tắm, kéo tất lên đôi chân vừa được cạo sạch, trang điểm rồi sau đó lại tẩy đi vì e sợ những vị khách sang trọng nghĩ tôi trông giống như *******. Tôi không dám quàng khăn quanh cổ nhưng tôi đã mua một chiếc áo choàng có thể dùng làm khăn nếu cảm thấy lạnh quá.

    "Không tệ đấy chứ?" Nathan lùi lại để tôi thấy Will, trong bộ suit sẫm, áo sơ-mi màu xanh da trời đậm và một chiếc cà-vạt. Anh đã được cạo râu sạch sẽ và bôi một lớp kem màu nâu nhạt trên da mặt. Chiếc áo làm cho đôi mắt anh trông sáng rực đầy sức sống. Đôi mắt ấy, đột nhiên, giống như chứa đựng ánh sáng lấp lánh của mặt trời.

    "Không tệ chút nào," tôi nói - bởi vì, thật kỳ lạ, tôi không muốn nói ra thực sự là trông anh rất điển trai. "Dù sao thì cô ấy chắc chắn sẽ phải hối tiếc vì đã cưới cái thùng mỡ lợn kêu be be ấy."

    Will ngước mắt lên. "Nathan, chúng tôi đã có đủ mọi thứ trong túi chưa?" "Rồi. Mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn sàng để lên đường." Ông quay lại phía

    Will. "Hôm nay không được ôm hôn các cô phù dâu đâu đấy."

    "Cứ như thể anh ấy muốn làm vậy không bằng," tôi nói. "Các cô ấy tất tật sẽ mặc áo kín cổng cao tường và có mùi phát kinh lên được cho xem."

    Bố mẹ Will ra tiễn anh. Tôi đoán là họ vừa mới cãi nhau vì bà Traynor không thể đứng cách chồng xa hơn được nữa trừ phi họ thật sự đang ở hai địa điểm cách biệt. Bà khoanh chặt hai cánh tay đến cả khi tôi đã quay xe để Will vào. Bà không hề nhìn tôi lấy một lần.

    "Đừng để nó uống nhiều quá nhé, Louisa," bà nói, đưa tay phủi sợi xơ vải tưởng tượng trên vai Will.

    "Tại sao chứ?" Will hỏi. "Con có lái xe đâu."

    "Con nói đúng đấy, Will," bố anh nói. "Bố khi nào cũng phải có một vài ly rượu mạnh mới kết thúc được một cái đám cưới."

    "Kể cả trong đám cưới của chính anh," bà Traynor lầm bầm, rồi nói to lên, "Con trông đẹp trai lắm, con yêu." Bà ngồi thụp xuống, chỉnh mép quần cho Will. "Thật đấy, rất bảnh bao."

    "Cả cô cũng vậy." Ông Traynor hướng mắt về phía tôi tán thưởng khi tôi bước ra khỏi ghế lái. "Rất hấp dẫn. Cô phải quay một vòng cho mọi người xem, cô Louisa."

    Will quay bánh xe lăn. "Cô ấy không có thời gian đâu bố. Lên đường thôi, cô Clark. Tôi nghĩ sẽ rất khiếm nhã nếu cô đến sau cô dâu đấy."

    Tôi bước trở lại vào xe hơi cảm thấy như được giải thoát. Với chiếc xe lăn của Will đặt an toàn phía sau, áo ngoài treo cẩn thận trên lưng ghế để tránh bị nhăn, chúng tôi khởi hành.

    Tôi có thể mô tả ngôi nhà của bố mẹ Alicia trông như thế nào trước cả khi tôi tới đó. Sự thật là tưởng tượng của tôi gần như chính xác đến nỗi Will phải hỏi tôi tại sao tôi lại cười phá lên khi cho xe chạy chậm lại. Một tòa lâu đài cổ rộng lớn kiểu Georgia, các cửa sổ cao vút được che phủ một phần bởi những chùm dây leo tím nhạt, đường chạy xe trải đá màu caramel, đó đúng là ngôi nhà hoàn hảo của một gia đình thượng lưu.

    Tôi cũng có thể mô tả lại hình ảnh cô ấy trưởng thành trong ngôi nhà đó, tóc cô tết hai bím vàng hoe gọn gàng trong khi cưỡi con ngựa con mập mạp đầu tiên của mình trên bãi cỏ xanh.

    Hai người thanh niên mặc áo phản quang đang hướng dẫn khách cho xe vào bãi cỏ giữa ngôi nhà và nhà thờ ngay cạnh đó. Tôi hạ cửa kính xe. "Xin hỏi có chỗ đỗ xe bên cạnh nhà thờ không?

    "Lối này dành cho khách thưa cô."

    "Chúng tôi có xe lăn, nếu dừng ở đây xe sẽ bị lún vào cỏ," tôi nói. "Chúng tôi cần đỗ ngay bên cạnh nhà thờ. Kia kìa, tôi sẽ đỗ chỗ kia."

    Hai người thanh niên nhìn nhau và thì thầm gì đó. Trước khi họ kịp nói gì thêm tôi lái xe tiến lên rồi đỗ xe ở một điểm tách biệt sát bên nhà thờ. Và mọi thứ đã bắt đầu, tôi tự nhủ, tôi bắt gặp ánh mắt của Will trong gương đúng lúc ấn nút mở cửa.

    "Thoải mái đi, cô Clark. Mọi thứ sẽ ổn thôi," anh nói.

    "Tôi hoàn toàn thoải mái mà. Sao anh lại nghĩ tôi không thoải mái chứ?" "Cô thể hiện rõ rành rành ra đó thôi. Lại còn cắn hết bốn cái móng tay trong khi lái xe nữa."

    Tôi đỗ xe lại, bước ra ngoài, trùm chiếc áo choàng quanh người rồi ấn nút điều khiển để hạ đường trượt cho xe lăn xuống. "Tốt rồi," tôi nói khi xe lăn của Will chạm tới đất. Phía bên kia con đường trên bãi cỏ, mọi người đang bước ra từ những chiếc xe hơi đồ sộ của Đức, những người phụ nữ trong những chiếc váy rực rỡ đang than vãn với chồng khi gót giày của họ bị lún vào cỏ. Tất cả họ đều là các cô gái có cặp chân dài mịn màng với tông màu trầm nhạt. Tôi vuốt tóc, băn khoăn không biết mình có bôi nhiều son quá không. Tôi đoán trông tôi giống như một trong những quả cà chua chín mọng đã bị người ta nặn hết nước.

    "Thế... hôm nay chúng ta sẽ thể hiện như thế nào đây?" Will dõi theo hướng tôi nhìn. "Trả lời thật hả?"

    "Thật. Tôi cần phải biết. Và đừng có nói với tôi sẽ là Ngạc nhiên và Kinh hãi đấy nhé. Anh đã vạch kế hoạch khủng khiếp gì rồi?"

    Đôi mắt Will nhìn vào mắt tôi. Xanh thẳm, bí ẩn khó đoán định. Trong tôi như có một đàn bươm **** tung bay.

    "Chúng ta sẽ cư xử lịch thiệp ngoài mức tưởng tượng, cô Clark."

    Cánh của đàn **** bắt đầu đập loạn xạ như thể muốn thúc gãy mạn sườn tôi. Tôi định lên tiếng nhưng anh đã ngắt lời.

    "Nghe này, chúng ta sẽ chỉ làm những gì tạo ra không khí vui vẻ thôi," anh nói.

    Vui vẻ. Nói giống như dự đám cưới của người yêu cũ ít đau hơn giải phẫu tủy răng ấy. Nhưng đó là lựa chọn của Will. Là ngày của Will. Tôi hít một hơi thật sâu, cố gắng hòa mình vào đó.

    "Một ngoại lệ," tôi nói, chỉnh tấm áo choàng trên vai mình lần thứ mười bốn. "Gì cơ?"

    "Anh không được là Christy Brown đâu đấy. Nếu anh mà là Christy Brown tôi sẽ lái xe về nhà và để mặc anh mắc kẹt trong đám người ma mãnh này."

    Khi Will quay xe đi và bắt đầu cho xe lăn chạy về phía nhà thờ, tôi nghe tiếng anh lầm bầm, "Làm mất hứng."

    Chúng tôi ngồi suốt giờ hành lễ mà không có chuyện gì bất ngờ xảy ra. Alicia trông vô cùng xinh đẹp đúng như tôi hình dung, cô đánh một lớp phấn màu caramel nhạt, chiếc váy lụa trắng cắt xéo lướt trên thân hình mảnh mai của cô như thể không dám đậu lên đó khi chưa được cho phép. Tôi nhìn cô nhẹ nhàng bước trên lối đi giữa các dãy ghế, tự hỏi không biết cảm giác sẽ như thế nào nếu mình cao ráo, chân dài và trông giống như cô gái mà hầu hết chúng ta chỉ có thể thấy trên những bức tranh sơn phun như thế. Tôi băn khoăn không biết có phải có cả một dàn chuyên gia thiết kế tóc và trang điểm cho cô. Tôi tự hỏi liệu cô có mặc đồ lót nẹp bụng không. Chắc chắn là không rồi. Cô đang mặc những loại quần lót bé xíu bằng ren - loại đồ lót có giá cao hơn một tuần lương của tôi, dành cho những phụ nữ không cần bất kỳ sự hỗ trợ nào.

    Trong lúc cha xứ tuyên bố buổi lễ và những đôi giày phù dâu xinh xắn di chuyển ở khu vực dành riêng cho chúng, tôi liên tục nhìn xung quanh ngắm những vị khách khác. Hầu như chẳng có vị khách nữ nào ở đây mà trông không giống như đang xuất hiện trên những trang tạp chí thời thượng. Giày của họ, tất cả đều cùng tông màu với trang phục, trông như thể chưa bao giờ đi tới. Những cô gái trẻ hơn trang nhã trong những đôi giày có gót cao mươi mười lăm phân để lộ ra bộ móng chân được cắt tỉa hoàn hảo. Những người phụ nữ nhiều tuổi hơn đi giày đế thấp, mặc những bộ suit sang trọng, độn vai với những lớp lụa lót có sắc màu đối lập, và đội những chiếc mũ trông như thể họ đang coi thường trọng lực.

    Cánh đàn ông kém thú vị hơn để chiêm ngưỡng nhưng hầu hết những người đó đều sở hữu một bầu không khí mà đôi khi tôi có thể cảm nhận thấy từ Will - không khí của giàu sang và quyền quý, một nhận thức bản năng rằng cuộc sống sẽ luôn luôn dễ dàng quanh họ. Tôi tự hỏi về những công ty mà họ điều hành, những thế giới mà họ ngự trị. Tôi băn khoăn không biết họ có để tâm đến những người như tôi, những người bảo mẫu cho con cái họ hay phục vụ họ trong các nhà hàng. Hay múa cột cho các đối tác kinh doanh của họ xem, tôi nghĩ vậy khi nhớ lại những cuộc phỏng vấn của tôi tại Trung tâm Giới thiệu Việc làm.

    Những đám cưới mà tôi từng tham dự luôn phải phân cách khu vực dành cho gia đình cô dâu và chú rể vì lo sợ ai đó sẽ phá vỡ lời cam kết.

    Will và tôi chọn chỗ ngồi ở phía sau cùng của nhà thờ, xe lăn của Will đặt ngay bên cạnh dãy ghế cuối cùng nơi tôi ngồi. Anh thoáng ngước lên nhìn khi Alicia bước xuống lối đi, nhưng ngoài cái thoáng nhìn đó ra, anh nhìn thẳng về phía trước, biểu hiện khó đoán định. Bốn mươi tám người trong đội hợp xướng (tôi đã đếm được) hát vang một bài gì đó bằng tiếng Latin. Rupert toát mồ hôi trong chiếc áo suit đuôi tôm, anh ta nhướng mày lên như thể vừa cảm thấy hạnh phúc vừa có đôi chút ngạc nhiên. Không ai vỗ tay hoặc reo hò khi họ được tuyên bố đã trở thành vợ chồng. Rupert trông hơi lúng túng, vươn người về phía cô dâu của mình như người ta chơi trò đớp táo dưới nước rồi khẽ trượt qua môi cô. Tôi băn khoăn không biết có phải những người thuộc tầng lớp trên thường cảm thấy hơi "khó chịu" khi thật sự phải tham gia các hoạt động hành lễ trong nhà thờ.

    Rồi cuối cùng buổi lễ cũng kết thúc. Will đã cho xe lăn chạy ra ngoài cửa nhà thờ. Tôi nhìn phía sau đầu anh, thẳng và trang nghiêm kỳ lạ, tôi muốn hỏi anh có phải đến đây là một sai lầm. Tôi muốn hỏi xem anh có còn tình cảm với cô ấy. Tôi muốn nói cho anh biết rằng anh quá tốt so với cô nàng caramel ngớ ngẩn này, bất kể hình thức bên ngoài thể hiện điều gì, và nói rằng... tôi không biết tôi muốn nói gì thêm nữa.

    Tôi chỉ muốn làm mọi thứ trở nên tốt đẹp hơn. "Anh ổn chứ?" tôi nói khi bước kịp anh.

    Anh nháy mắt hai cái. "Tốt cả," anh nói. Anh thở ra khe khẽ như thể anh đã kìm nén từ nãy tới giờ. Rồi anh ngước lên nhìn tôi. "Đi nào, ra tìm chút gì để uống chứ."

    Rạp cưới chăng trong một khu vườn có tường bao quanh, chiếc cổng sắt chạm trổ hoa văn được quấn những vòng hoa màu hồng nhạt. Quầy bar đặt ở xa phía cuối rạp đang đông nghịt người, vậy nên tôi bảo Will ngồi chờ ở bên ngoài để tôi vào lấy cho anh một ly nước. Tôi đi len lỏi giữa những chiếc bàn phủ khăn bằng vải lanh trắng muốt và được xếp nhiều dao dĩa, ly cốc hơn tôi từng nhìn thấy ở bất cứ nơi nào trước đây. Những chiếc ghế được thiếp vàng phía sau giống như loại ghế người ta vẫn thấy trong các buổi trình diễn thời trang, những chiếc đèn ***g trắng treo ngay trên mỗi bình trang trí giữa bàn cắm đầy hoa lan và hoa loa kèn. Không khí tràn ngập mùi hương của các loại hoa đến nỗi tôi cảm thấy gần như ngột ngạt khó thở.

    "Một ly Pimm's nhé?" người phục vụ hỏi khi tôi đến trước mặt.

    "Ờ..." tôi nhìn quanh quầy, nhận ra đây thật sự là loại đồ uống duy nhất được phục vụ. "Ồ. Được rồi. Cho tôi hai ly."

    Anh ta mỉm cười với tôi. "Các loại đồ uống khác sẽ được đưa ra sau, chắc chắn là vậy. Nhưng cô Dewar muốn tất cả mọi người bắt đầu với Pimm's." Ánh mắt anh ta nhìn tôi hơi bí ẩn. Cái nhướng một bên mày thoáng qua của anh ta đã nói với tôi điều anh ta nghĩ.

    Tôi nhìn chằm chằm vào loại nước ép chanh màu hồng. Bố tôi đã nói những người giàu có nhất là những người bủn xỉn nhất nhưng tôi đã rất ngạc nhiên khi thấy họ thậm chí không thể bắt đầu tiệc cưới với một loại rượu. "Tôi nghĩ là loại này được rồi," tôi nói và nhận hai ly nước từ tay anh ta.

    Khi tôi đến chỗ Will, có một người thanh niên đang nói chuyện với anh. Trẻ trung, đeo kính, anh ta hơi cúi người xuống, một tay đặt lên tay ghế của Will. Mặt trời bây giờ đã lên cao và tôi phải nheo mắt để thấy họ rõ hơn. Đột nhiên lúc này tôi mới hiểu được giá trị của những chiếc mũ rộng vành của những người phụ nữ đó.

    "Thật quá vui khi thấy anh lại đi ra ngoài, anh Will," anh ta nói. "Vắng anh văn phòng không còn giống như trước nữa. Tôi không thể nói nó như thế nào... nhưng khác lắm. Khác lắm."

    Anh ta trông có vẻ là một kế toán viên trẻ tuổi - kiểu đàn ông chỉ thật sự cảm thấy thoải mái khi khoác trên mình một bộ suit.

    "Cậu thật tốt khi nói vậy."

    "Mọi việc xảy ra quá kỳ lạ. Giống như anh đã bị rơi xuống khỏi vách đá. Mới ngày hôm nay anh còn ở đó, quản lý mọi việc, ngày hôm sau chúng tôi chỉ còn tin là..."

    Anh ta liếc nhìn lên khi nhận ra tôi đã đứng đó. "Ồ," anh ta nói rồi thả cặp mắt chăm chăm vào ngực tôi. "Chào cô."

    "Cô Louisa Clark, đây là Freddie Derwent."

    Tôi đặt cốc nước của Will lên ghế của anh và bắt tay người thanh niên. "Ồ," anh ta lại lên tiếng. "Và..."

    "Tôi là một người bạn của Will," tôi nói, rồi sau đó, cũng không hoàn toàn chắc chắn vì sao, tôi đặt bàn tay mình chạm nhẹ lên vai Will.

    "Thế đấy, cuộc sống cũng đâu phải tất cả đều là tồi tệ," Freddie Derwent nói, với một tiếng cười gần giống như tiếng ho. Giọng anh ta có vẻ hơi xúc động. "Dù sao... phải có nọ có kia. Anh biết những điều này rồi đấy - rõ ràng, chúng ta phải sẵn sàng đón nhận chúng giống như với những cơ hội kinh doanh. Dù sao cũng thật vui khi được gặp anh, anh Will. Thật sự là như vậy. Và... cả cô nữa, cô Clark."

    "Cậu ấy có vẻ tốt nhỉ," tôi nói khi chúng tôi đi ra chỗ khác. Tôi rút tay khỏi vai Will và uống một ngụm Pimm's dài. Nó đúng là ngon hơn rất nhiều so với hình thức bên ngoài. Tôi đã từng được cảnh báo sơ qua về hiện tượng xanh vỏ đỏ lòng.

    "Phải. Đúng vậy, cậu ấy rất dễ thương."

    "Bây giờ thì đừng có quá ngại ngùng nữa đấy." "Không." Hai mắt Will liếc lên nhìn vào mắt tôi. "Không, cô Clark, không có gì là ngại ngùng cả."

    Như thể đã cảm thấy thoải mái từ khi nhìn thấy Freddie Derwent trò chuyện với Will, suốt cả giờ đồng hồ sau đó có thêm nhiều người nữa đến chào hỏi anh. Một vài người đứng hơi cách xa anh, như thể hành động ấy giúp họ thoát khỏi tình thế phải bắt tay, trong khi những người khác kéo đầu gối quần lên và ngồi xổm xuống quanh chân anh. Tôi đứng bên cạnh Will và nói đôi câu. Tôi nhìn thấy anh thoáng căng thẳng trước sự xuất hiện của hai trong số những người đó.

    Người thứ nhất - một người đàn ông cao to, béo tốt đang hút xì gà - ông ta dường như không biết phải nói gì khi đứng ngay trước mặt Will nên đành nói, "Đám cưới quá tuyệt, đúng không? Cô dâu trông lộng lẫy nhỉ." Tôi đoán ông ta không hề biết gì về lịch sử tình ái của Alicia.

    Người thứ hai là một người trông giống như đối thủ kinh doanh của Will, nói năng những lời nghe ngoại giao hơn, nhưng có cái gì đó trong cái nhìn hết sức trực diện cùng với những câu hỏi thẳng thắn của anh ta về tình trạng của Will khiến tôi nhận ra nó làm Will căng thẳng. Hai người họ giống như hai con chó đuổi nhau vòng quanh, do dự không biết có nên kìm không nhe răng ra hay không.

    "Tổng giám đốc điều hành mới công ty cũ của tôi," Will nói khi người đàn ông cuối cùng cũng đi chỗ khác với một cái vẫy chào. "Tôi nghĩ anh ta lại đây chỉ để chắc chắn rằng tôi sẽ không nỗ lực làm một cuộc truất ngôi."

    Ánh nắng càng lúc càng gay gắt, khu vườn trở thành một cái hầm có hương thơm, mọi người đứng nấp dưới những tán cây xanh. Tôi đưa Will vào trong cửa rạp cưới vì lo anh sẽ bị sốt. Bên trong rạp cưới những chiếc quạt lớn đã được bật lên, quay nhè nhẹ trên đầu chúng tôi. Cách đó một quãng, dưới mái che của một gian nhà, một nhóm tứ tấu đàn dây đang chơi nhạc. Thật giống như cảnh tượng trong phim.

    Alicia, lướt nhẹ quanh khu vườn - một hình ảnh hết sức thanh tao, hôn gió và reo mừng - nhưng không đi lại chỗ chúng tôi.

    Tôi nhìn Will uống cạn hai ly Pimm's và mừng thầm.

    Tiệc cưới sẽ được bày vào lúc 4 giờ. Tôi nghĩ đó là một thời gian khá kỳ lạ cho việc phục vụ tiệc trưa nhưng, như Will đã nói, đây là một đám cưới. Thời gian dường như cần phải kéo dài và trở nên không còn nhiều ý nghĩa, dù sao những lối đi trong tiệc cưới sẽ được dọn vô số loại đồ uống để mọi người đi loanh quanh trò chuyện. Tôi không biết đó là vì thời tiết nóng bức hay vì không khí nhưng đến lúc chúng tôi đến ngồi vào bàn thì tôi đã cảm thấy ngà ngà. Khi tôi nhận ra mình đang nói chuyện lắp bắp rời rạc với một người đàn ông đứng tuổi ngồi phía bên trái, tôi mới nhận ra điều đó.

    "Có tí chất cồn nào trong nước trái cây Pimm's ấy không vậy?" tôi hỏi Will sau khi loay hoay làm đổ muối ở trong lọ lên vạt váy.

    "Khoảng một ly rượu thôi. Trong mỗi ly nước đó."

    Tôi nhìn anh chằm chằm đầy kinh hãi. Tôi thấy anh thành hai người. "Anh đùa đấy chứ. Có trái cây ở trong đó mà! Tôi nghĩ như thế có nghĩa là nó không có chất cồn chứ. Tôi làm sao lái xe đưa anh về nhà được đây?"

    "Cô thật cẩn thận quá," anh nói. Anh nhướng một bên lông mày. "Tôi sẽ được gì nếu không nói ra chuyện này với mẹ tôi nhỉ?"

    Tôi đã rất kinh ngạc với cư xử của Will suốt ngày hôm đó. Tôi cứ nghĩ tôi sẽ phải đón nhận Will Lầm Lì, Will Mai Mỉa. Hoặc chí ít cũng là Will Im Lặng. Nhưng anh lại thể hiện rất cuốn hút với tất cả mọi người. Ngay cả khi món súp được đưa ra vào bữa trưa cũng không làm anh phiền. Anh chỉ hỏi rất lịch sự xem có ai muốn đổi bánh mì lấy món súp của anh không, và hai cô gái ở phía xa của bàn tiệc - những người tự xưng là "không chứa chấp bột mì" - gần như đã quẳng ngay những ổ bánh mì của họ vào anh.

    Tôi càng căng thẳng về việc làm thế nào để tỉnh rượu bao nhiêu, Will càng vui vẻ và vô tư lự bấy nhiêu. Người phụ nữ đứng tuổi ngồi bên tay phải anh không ngờ trước đây từng là một nghị sĩ tham gia chiến dịch về quyền lợi của người khuyết tật, bà là một trong số ít người tôi nhận thấy đã nói chuyện với Will chẳng chút ngại ngần.

    Có lúc tôi còn thấy bà ấy đút cho Will một lát bánh ngọt. Khi bà đi ra khỏi bàn trong chốc lát, anh quay sang thì thầm với tôi là bà ấy đã từng một lần leo lên ngọn núi Kilimanjaro. "Tôi thích những người phụ nữ như vậy," anh nói. "Tôi có thể tưởng tượng ra bà ấy cùng với một con la và một giỏ bánh sandwich. Quá sức mạnh mẽ."

    Tôi thì kém phần may mắn với người đàn ông ngồi bên trái mình. Ông ta mất khoảng bốn phút đồng hồ - cho bài trắc nghiệm nhanh nhất về việc tôi là ai, tôi sống ở đâu, tôi quen biết với ai trong đám cưới này - để nhận ra rằng chẳng có cái gì trong số những điều tôi trả lời thuộc phạm vi những thứ ông ta thích thú. Ông ta quay sang người phụ nữ ngồi bên trái, để mặc tôi lặng lẽ đánh vật với tất cả những món còn lại cho bữa trưa của mình. Một lúc sau khi tôi bắt đầu cảm thấy hết sức lúng túng, tôi thấy cánh tay của Will phía gần tôi trượt khỏi xe lăn, rồi bàn tay ấy đặt trên cánh tay tôi. Tôi liếc nhìn lên và anh nháy mắt với tôi.

    Tôi nắm lấy tay anh và siết chặt nó, cảm kích vì anh đã nhận ra sự bối rối của tôi. Sau đó anh cho xe lăn lùi ra sau chừng mười lăm phân để tôi nhập cuộc trò chuyện cùng bà Mary Rawlinson.

    "Will nói với tôi là cô chăm sóc cho cậu ấy," bà nói. Bà có cặp mắt xanh sắc sảo với những nếp nhăn cho thấy một cuộc đời không hề đón nhận những tác dụng của hoạt động chăm sóc da thường xuyên.

    "Tôi đang cố gắng," tôi nói, liếc nhìn anh.

    "Cô đã bao giờ làm việc trong lĩnh vực này chưa?"

    "Chưa. Trước đây tôi từng làm việc trong một... quán cà-phê." Tôi không chắc lắm tôi đã nói với bất kỳ ai khác nữa trong cái đám cưới này về sự thật đó chưa, nhưng Mary Rawlinson gật đầu tán thưởng.

    "Tôi luôn luôn nghĩ đó hẳn phải là một công việc rất thú vị. Nếu cô thích nhiều người và ưa chuyện phiếm thì rất giống tôi." Bà cười tươi.

    Will thu tay lại trên xe lăn. "Tôi đang cố gắng để khuyến khích Louisa làm thêm một cái gì đó khác, để mở rộng tầm mắt của cô ấy đôi chút."

    "Cô đã nghĩ ra được gì rồi?" bà hỏi tôi.

    "Cô ấy không biết đâu," Will nói. "Louisa là một trong những người thông minh nhất mà tôi biết nhưng tôi không thể làm cho cô ấy nhận ra được tất cả khả năng của chính mình."

    Mary Rawlinson nhìn anh bằng một ánh nhìn nghiêm khắc. "Đừng có kẻ cả với cô ấy thế chứ. Cô ấy đủ khả năng để tự trả lời."

    Tôi chớp mắt.

    "Tôi nghĩ rằng hơn ai hết cậu phải hiểu điều đó," bà nói thêm.

    Will trông như thể muốn nói điều gì nữa nhưng rồi lại im lặng. Anh nhìn chằm chằm vào bàn tiệc và lắc đầu khe khẽ, nhưng anh vẫn mỉm cười.

    "Này, Louisa, tôi hình dung ra công việc của cô hiện tại đòi hỏi cực kỳ nhiều năng lượng thần kinh. Và tôi không nghĩ anh bạn trẻ này là một vị khách hàng dễ dàng gì."

    "Bà nói hoàn toàn chính xác."

    "Nhưng Will đã nói khá đúng về việc nhìn thấy các khả năng. Đây là danh thiếp của tôi. Tôi đang làm trong ban lãnh đạo một tổ chức từ thiện nhằm khuyến khích các hoạt động đào tạo nghề. Có thể cô sẽ quan tâm đến một công việc gì đó khác trong tương lai?"

    "Tôi rất hạnh phúc được làm việc cho Will, cảm ơn bà."

    Tôi nhận tấm danh thiếp bà đưa cho mà không hề để tâm tới nó, thoáng chút ngạc nhiên khi thấy người phụ nữ này có chút lưu ý tới những gì tôi đã làm trong cuộc đời mình. Nhưng ngay cả lúc đã cầm tấm danh thiếp, tôi vẫn cảm thấy mình giống một kẻ dối trá. Chẳng thể nào tôi sẽ từ bỏ công việc của tôi, dù cho tôi đã biết tôi muốn học thêm cái gì. Chưa có ai nói với tôi rằng tôi thuộc kiểu người phù hợp với việc đào tạo thêm. Ngoài ra, giữ cho Will cuộc sống là ưu tiên hàng đầu của tôi. Tôi đã trôi vào những ý nghĩ của riêng mình tới nỗi thoáng chốc không còn nghe thấy hai người bên cạnh tôi trò chuyện.

    "... thật quá may mắn khi cậu đã vượt qua thời khắc khó khăn nhất, phải nói là như vậy. Tôi biết sẽ vô cùng gian nan để thích nghi cuộc sống thay đổi quá đột ngột trước bao nhiêu kỳ vọng như thế."

    Tôi nhìn chằm chằm vào phần còn lại của món cá hồi hấp trong đĩa của mình. Tôi chưa bao giờ nghe ai nói với Will như vậy.

    Anh cau mày nhìn vào bàn rồi sau đó quay về phía bà. "Tôi không chắc tôi đã vượt qua thời khắc khó khăn nhất," anh nói khẽ.

    Bà ấy nhìn anh trong giây lát rồi liếc sang nhìn tôi.

    Tôi băn khoăn tự hỏi không biết nét mặt tôi có đang phản bội tôi không. "Mọi thứ cần phải có thời gian Will ạ," bà nói, thoáng đặt bàn tay lên cánh tay anh. "Và đó là một thứ mà thế hệ cậu cảm thấy khó khăn để thích ứng. Cậu đã lớn lên với kỳ vọng mọi điều sẽ đi theo cách cậu muốn ngay lập tức. Các cậu hy vọng sẽ sống cuộc đời đúng như các cậu lựa chọn. Đặc biệt là với một thanh niên thành đạt giống như cậu. Nhưng nó cần thời gian."

    "Bà Rawlinson - Mary - Tôi không có hy vọng phục hồi," anh nói.

    "Tôi không nói về thể xác," bà nói. "Tôi đang nói về việc học cách để đón nhận một cuộc sống mới."

    Rồi sau đó, đúng lúc tôi chờ để nghe xem Will sẽ nói tiếp điều gì, có tiếng gõ mạnh chiếc thìa vào một cái cốc thủy tinh và cả căn phòng im phắc để nghe cuộc tung hứng.

    Tôi hầu như chẳng nghe thấy họ nói gì. Tôi chỉ thấy một người đàn ông mặc suit đuôi tôm trông rất khoa trương theo sau một người khác, họ đang nói về những con người và địa danh mà tôi không biết, khiến khán giả khẽ cười lịch thiệp. Tôi vẫn ngồi ăn những chiếc kẹo sô-cô-la đen để trong các giỏ bạc trên bàn rồi uống ba cốc cà-phê liên tục vậy nên tôi cảm thấy vừa say vừa bồn chồn, căng thẳng. Trái lại, Will chỉ yên lặng hoàn toàn. Anh nhìn khách khứa vỗ tay khen ngợi người yêu cũ của mình và nghe Rupert tán dương cô nàng thật là một người đẹp hoàn hảo. Không ai để ý đến anh. Tôi không biết đó là vì họ muốn tránh làm tổn thương cảm xúc của anh, hay bởi vì sự có mặt của anh ở đây thật sự là một điều ái ngại. Thi thoảng Mary Rawlinson nghiêng người thì thầm cái gì đó vào tai anh và anh gật đầu khe khẽ vẻ như đồng tình.

    Khi cuộc tung hứng cuối cùng đã kết thúc, một đám đông người phục vụ xuất hiện và bắt đầu dọn khu vực giữa phòng để mọi người nhảy. Will nghiêng người về phía tôi. "Mary nhắc tôi là trên đường này có một khách sạn rất tốt. Gọi cho họ xem chúng ta có thể ở lại đó được không."

    "Gì cơ?"

    Mary trao cho tôi tên và số điện thoại viết nguệch ngoạc trên một tờ giấy ăn. "Được rồi, cô Clark," anh nói khẽ để bà ấy không thể nghe thấy. "Tôi sẽ trả tiền. Gọi cho họ đi, và cô có thể thôi không cần lo lắng về việc cô đang rất say nữa. Lấy thẻ tín dụng của tôi sau túi đi. Có thể họ sẽ yêu cầu số thẻ."

    Tôi lấy thẻ, cầm điện thoại rồi đi ra góc xa của khu vườn. Còn hai phòng trống, họ nói - một phòng đơn và một phòng đôi ở tầng trệt. Vâng, nó rất phù hợp cho người khuyết tật ra vào. "Tuyệt hảo," tôi nói, rồi sau đó phải cố ngậm lại một tiếng kêu khe khẽ khi nghe họ thông báo giá. Tôi đọc cho họ số thẻ tín dụng của Will, cảm thấy như phát ốm khi phải đọc loạt số.

    "Sao rồi?" anh hỏi khi tôi xuất hiện trở lại.

    "Xong rồi, nhưng..." tôi nói với anh mức giá của hai căn phòng đó.

    "Tốt thôi," anh nói. "Giờ thì gọi cho anh chàng của cô để báo cho anh ta biết là đêm nay cô sẽ không về đi, rồi sau đó hãy uống tiếp. Chính xác là phải uống sáu ly. Tôi sẽ vô cùng thích thú được thấy cô chất gánh nặng lên hóa đơn thanh toán của bố Alicia."

    Và tôi đã làm như vậy.

    Có những điều đã xảy ra vào buổi tối hôm đó. Đèn được tắt bớt vì thế chiếc bàn tiệc nhỏ của chúng tôi trở nên mờ ảo, hương thơm ngào ngạt của hoa cỏ trong vườn hòa quyện trong làn gió đêm và âm nhạc, rượu và những điệu nhảy khiến cho ở một nơi không thích hợp nhất, cả hai chúng tôi đều bắt đầu thật sự cảm thấy vui thích. Will ở trong trạng thái thư giãn nhất mà tôi từng thấy. Ngồi giữa tôi và Mary, anh nói chuyện và cười với bà, và có cái gì đó trong hình ảnh hạnh phúc thoáng chốc đó của anh đã đẩy lùi những con người nhìn anh bằng ánh mắt nghi ngờ hay thương hại. Anh làm tôi phải buông chiếc áo choàng ngoài và ngồi thẳng dậy. Tôi cởi áo ngoài và nới lỏng cà-vạt cho anh, cả hai chúng tôi đều cố gắng để không bật ra tiếng cười khi nhìn theo điệu nhảy. Tôi không thể diễn tả được tôi cảm thấy phấn khích lên đến mức nào khi lần đầu được ngồi xem những người thượng lưu nhảy. Cánh đàn ông trông như thể bị điện giật, những người phụ nữ trỏ những ngón tay búp măng lên trời và trông e ấp khủng khiếp ngay cả khi họ làm động tác xoay.

    Mary Rawlinson nhiều lần khẽ kêu lên, "Chúa ơi." Bà liếc nhìn qua phía tôi. Giọng nói của bà trở nên ngọt ngào hơn sau khi đã uống rượu. "Cô không muốn lên trình diễn một điệu cho mọi người xem sao, cô Louisa?"

    "Chúa ơi, không."

    "Cô thật là. Tôi đã nhìn thấy những màn nhảy còn đẹp hơn nhiều ở một câu lạc bộ disco Thanh niên Nông thôn rồi đấy."

    Đến chín giờ, tôi nhận được một tin nhắn từ Nathan.

    Ổn cả chứ?

    Vâng. Vui lắm, tin hay không là tùy ông. Will đang có một ngày rất tuyệt.

    Quả tình anh thật sự rất vui. Tôi nhìn anh cười lớn khi nghe Mary nói chuyện, một cái gì đó trỗi lên trong tôi lạ lùng và tha thiết. Nó chỉ cho tôi thấy rằng điều đó có thể xảy ra. Anh có thể hạnh phúc, nếu ở bên anh là những con người phù hợp, nếu anh được là Will chứ không phải là Người đàn ông ngồi xe lăn, là danh sách những triệu chứng bệnh, là đối tượng để thương cảm.

    Sau đó đến 10 giờ tối, những điệu nhảy lãng mạn bắt đầu. Chúng tôi ngồi xem Rupert quay vòng Alicia quanh sàn nhảy, khách khứa nhìn theo vỗ tay tán thưởng một cách lịch sự. Mái tóc của cô bắt đầu rũ xuống, cô choàng cánh tay qua cổ anh ta như thể cần được nâng đỡ. Hai cánh tay Rupert vòng quanh người cô, buông ngang hông. Cô thật xinh đẹp và quyền quý, tôi cảm thấy một chút tiếc nuối cho cô. Tôi nghĩ có thể cô sẽ không nhận ra mình đã đánh mất thứ gì cho đến khi đã quá muộn.

    Được một nửa bản nhạc, những cặp đôi khác hòa vào điệu nhảy nên cô dâu chú rể phần nào bị che khuất đi và tôi cũng bị phân tâm bởi chuyện Mary đang nói về chính sách dành cho những người chăm sóc người khuyết tật, thế rồi đột nhiên tôi ngước nhìn lên, cô ấy đang ở đó, đứng ngay trước mặt chúng tôi, thân hình siêu mẫu trong chiếc váy cưới bằng lụa trắng. Tim tôi như nhảy ra khỏi cổ họng.

    Alicia gật đầu chào Mary rồi cúi người xuống một chút để Will có thể nghe thấy cô nói qua tiếng nhạc. Gương mặt cô hơi căng thẳng, như thể cô đã phải ép bản thân mình đi lại đây.

    "Cảm ơn anh đã đến dự, Will. Thật lòng đấy." Cô liếc sang nhìn tôi nhưng không nói gì cả.

    "Vui lắm," Will nói giọng đều đều. "Em trông rất xinh đẹp Alicia. Một ngày tuyệt vời."

    Một thoáng ngạc nhiên lướt qua mặt cô. Rồi sau đó là nét buồn tiếc mơ hồ. "Thật sao? Anh thật sự nghĩ vậy sao? Em nghĩ... ý em là, em có rất nhiều điều muốn nói..."

    "Thật đấy," Will nói. "Không cần phải nói gì đâu. Em có nhớ Louisa không?"

    "Em nhớ."

    Một thoáng im lặng trôi qua.

    Tôi có thể nhìn thấy Rupert đang đi đi lại lại ở phía góc khuất, nhìn tất cả chúng tôi đầy cảnh giác. Cô liếc nhìn lại phía anh ta rồi sau đó giơ cánh tay ra gần như vẫy vẫy. "Dù sao cũng cảm ơn anh, Will. Anh đúng là tuyệt vời khi đã đến đây. Cảm ơn anh vì..."

    "Chiếc gương soi."

    "Dĩ nhiên rồi. Em chắc chắn là rất thích chiếc gương." Cô đứng dậy và quay lại bên chồng mình, anh ta siết lấy cánh tay cô quay đi.

    Chúng tôi nhìn họ đi qua sàn nhảy. "Anh đâu có mua gương cho cô ấy." "Tôi biết."

    Hai người họ vẫn tiếp tục nói chuyện, ánh nhìn chòng chọc của Rupert lóe về phía chúng tôi. Như thể anh ta không thể tin rằng Will thật sự đến đây vì mục đích tốt. Phải nói là cả tôi cũng không tin.

    "Anh có cảm thấy... phiền không?" tôi hỏi anh.

    Anh quay mặt lại không nhìn về phía họ nữa. "Không," anh nói và mỉm cười với tôi. Nụ cười của anh hơi trĩu xuống vì đã uống nhiều, lúc ấy hai mắt anh trông buồn bã, suy tư.

    Thế rồi đúng khi sàn nhảy đang vắng lặng chờ đợi điệu nhảy tiếp sau, tôi nghe thấy tiếng mình đang nói, "Anh nghĩ sao Will? Hãy xoay tôi một vòng?"

    "Gì cơ?"

    "Đi nào. Hãy để cho những kẻ đáng ghét này có cái gì đó mà nói." "Ồ tuyệt lắm," Mary nói, nâng ly rượu lên. "Cực kỳ tuyệt vời."

    "Nhanh nào. Khi nhạc đang còn chậm. Vì tôi không nghĩ anh sẽ vào nhạc thật nhanh được đâu."

    Tôi không để anh có sự lựa chọn. Tôi ngồi nhẹ nhàng vào lòng Will, choàng hai cánh tay quanh cổ anh để ngồi thật vững. Anh nhìn vào mắt tôi trong giây lát như thể đang cố nghĩ xem liệu anh có thể từ chối tôi. Rồi, thật kinh ngạc, Will ấn xe lăn đưa cả hai chúng tôi ra giữa sàn nhảy và bắt đầu di chuyển thành những vòng tròn nhỏ dưới ánh sáng lấp lánh của những chiếc đèn màu.

    Cùng một lúc tôi cảm thấy vừa e ngại vừa đôi chút kích động. Tôi đang ngồi nghiêng có nghĩa là chiếc váy đã bị kéo cao lên đến nửa đùi.

    "Mặc kệ nó đi," Will thì thầm vào tai tôi. "Cái váy..."

    "Tiếp tục đi Clark. Không được bỏ rơi tôi lúc này."

    Tôi nhắm hai mắt lại và siết chặt hai cánh tay quanh cổ anh, ép ngực vào ngực anh, thưởng thức hương cam trong nước hoa cạo râu của anh. Tôi có thể cảm nhận tiếng anh thở mạnh hòa theo tiếng nhạc.

    "Tất cả bọn họ đã khiếp sợ chưa?" anh hỏi. Tôi mở một bên mắt, nhìn về phía ánh sáng mờ mờ.

    Có đôi người đang cười khích lệ, nhưng hầu hết dường như không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Mary nâng ly rượu lên chào tôi. Và tôi thấy Alicia đang nhìn hai chúng tôi chằm chằm, gương mặt cô thoáng suy sụp. Khi cô thấy tôi đang nhìn, cô quay mặt đi và thì thầm điều gì đó với Rupert. Anh ta lắc lắc đầu như thể chúng tôi đang làm một điều gì đó đáng hổ thẹn.

    Tôi cảm thấy một nụ cười tinh quái đang lướt ngang qua mặt mình. "Ồ, thế đấy," tôi nói.

    "Ha ha. Nép sát gần chút nữa đi. Mùi hương của cô tuyệt lắm."

    "Anh cũng vậy đấy. Nhưng mà, nếu anh cứ tiếp tục quay vòng về tay trái có thể tôi sẽ nôn thốc ra đấy."

    Will đổi hướng quay. Hai cánh tay tôi níu quanh cổ anh, tôi ngã người ra sau một chút để nhìn anh, không còn chút ngại ngần nào nữa. Anh liếc xuống ngực tôi. Công bằng mà nói, với vị trí như tôi đang ngồi, anh cũng không thể nhìn vào chỗ nào khác được nữa. Anh đưa ánh mắt ra khỏi khe ngực tôi rồi nhướng một bên mày. "Cô thừa biết, cô sẽ không bao giờ ép bộ ngực sát vào tôi đến mức này nếu tôi không ngồi trên một cái xe lăn," anh lẩm bẩm.

    Tôi nhìn lại anh chằm chằm. "Anh sẽ chẳng bao giờ nhìn vào ngực tôi nếu anh không ngồi trên xe lăn."

    "Sao cơ? Dĩ nhiên là có nhìn rồi."

    "Không. Anh sẽ quá bận rộn nhìn những cô nàng chân dài tóc vàng với những đôi chân bất tận và mái tóc thổi bồng bềnh, những cô nàng có thể đánh hơi thấy một anh chàng ga lăng từ cách bốn mươi bước. Mà dù sao, tôi cũng sẽ không ở đây. Tôi có thể đã là một người phục vụ trong số kia. Một trong những người vô danh trước mắt anh."

    Anh nháy mắt.

    "Sao? Tôi nói đúng đấy chứ, phải không?"

    Will liếc nhìn về phía quầy rượu rồi nhìn lại tôi. "Đúng. Nhưng theo tôi được biết, cô Clark, tôi là một kẻ tạp ăn."

    Tôi bật cười vang lên đến nỗi nhiều người hơn nữa phải quay lại nhìn về hướng chúng tôi.

    Tôi cố giữ cho gương mặt nghiêm trang lại. "Xin lỗi," tôi lẩm bẩm. "Tôi nghĩ tôi đang bị quá khích."

    "Cô có biết gì không?"

    Lẽ ra tôi đã phải nhìn gương mặt anh suốt buổi tối nay. Khóe mắt nheo nheo.

    Hõm xương giữa cổ và vai. "Gì cơ?"

    "Đôi khi, cô Clark, cô chính xác là điều duy nhất khiến tôi muốn tỉnh dậy vào mỗi sớm mai."

    "Vậy chúng ta hãy đi đâu đó." Lời nói của tôi đã bay ra gần như trước khi tôi kịp hiểu tôi muốn nói gì.

    "Sao cơ?"

    "Chúng ta hãy đi đến một nơi nào đó. Hãy sống một tuần nơi chúng ta chỉ có niềm vui thôi. Anh và em. Không có bất kỳ ai trong số những..."

    Anh chờ đợi. "Thằng tồi?"

    "... thằng tồi. Nói ừ đi, Will. Đi." Hai mắt anh không rời khỏi mắt tôi.

    Tôi không biết mình đang nói gì nữa. Tôi không biết những lời nói đó từ đâu đến. Tôi chỉ biết nếu tôi không khiến anh nhận lời trong đêm nay, cùng với những tia sáng đèn màu, những bình hoa lan, với những tiếng cười và Mary, tôi sẽ không còn cơ hội nào nữa cả.

    "Đi mà."

    Những giây phút trước khi anh trả lời tôi kéo dài như vô tận. "Đồng ý," anh nói.

Chia sẻ trang này