1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

TRƯỜNG SA : Biển đảo quê hương ! (phần 2) - Đoạn phim đầy xúc động về "Vòng tròn bất tử" tại trang 1

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi chipheovd, 09/04/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. phuocrautdm

    phuocrautdm Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    23/12/2008
    Bài viết:
    1.649
    Đã được thích:
    0
    Hì Hì! Hôm qua lại nhà ông thầy cũ ở trường ĐH Công Nghiệp TPHCM, ổng nói có 1 cậu học trò đem đoạn phim trong này đưa cho ổng nhờ ổng đem cho đám học trò coi để giáo dục nhận thức cho tụi nó.Nhưng ổng nói chưa tới lúc. Không biết là anh bạn nào nhiệt tình quá!
  2. 01662944679

    01662944679 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/06/2009
    Bài viết:
    53
    Đã được thích:
    0
    Theo như nhận định của tôi khi xem clip trên thì rút ra:
    _ Khi quân Tàu bắn đại liên lên đảo rồi sau đó quay đến cảnh tàu 604 bị tấn công thì thấy rất nhiều cột nước tính từ mạn tàu 604 kéo trở ra một quãng xa. Như vậy là khi tàu bị pháo địch bắn thì thủy thủ ta trên tàu đã kịp đánh trả vào những quân Tàu đang định đổ bộ lên tàu của ta, có thể khi đó tàu của ta bị rung và chấn động mạnh do hỏa lực của địch tác hại nên vết đạn trên mặt nước khi đó rất vung vãi nhưng lại rất quyết liệt. Chứng tỏ là thủy thủ trên tàu đã chuẩn bị sẵn hỏa lực để đối phó với địch, nên khi bị chúng dùng pháo bắn là ta đã đánh trả lại ngay... cho dù biết rằng sẽ bị thiệt hại nặng nề!
    Vì hỏa lực của ta không thể làm cho tàu địch (do ở xa so với tầm hỏa lực của bên ta) thiệt hại nên ta đã chủ động bắn vào bọn lính Tàu trên mặt biển khi chúng định đổ bộ lên tàu của ta.
    Các bạn xem lại clip trên sẽ rõ:
    Nếu là pháo của bọn Tàu thì không đời nào chúng lại bắn đến mức vũng vãi trên mặt biển như vậy... có phải không các bạn!
    Kết luận:
    Những chiến sĩ Việt Nam đã rất anh hùng và cương quyết khi phải đối phó với quân địch!
    Khi xem những hình ảnh của hỏa lực ta điên cuồng chống trả bọn Tàu như vậy thì quả thực tôi rất hả lòng hả dạ và thấy nguôi ngoai đi phần nào nỗi căm giận bọn xâm lược khi xem clip trên.
    Chứng tỏ rằng:
    Nếu khi đó quân ta mà được trang bị hỏa lực mạnh và lực lượng hùng hậu (tàu chiến và quân binh) thì tôi tin rằng bọn Tàu không dám xâm phạm và đánh chiếm đảo của ta đâu. Bởi nếu bọn Tàu không run sợ qua cuộc chiến chiếm đảo Gạc Ma thì chắn chắn chúng sẽ chiếm nốt đảo Cô Linh và Len Đao ngay sau đó. Bởi khi đó quân ta đã tổn thất quá nặng và so với tương quan lực lượng khi đó với bọn Tàu thì ta không thể nào trụ lại được trên hai đảo Cô Lin và Len Đao... có phải không các bạn?
    Với lại nếu vì cay cú và không run sợ trước ý chí kiên cường của các chiến sĩ ta thì chắc chúng sẽ thủ tiêu những chiến sĩ ta đã bị chúng bắt làm tù binh (điều này không phải là bọn Trung Quốc không dám làm) vì khi đó có ai biết đươc những chiến sĩ đó sẽ ra sao? Bọn Tàu sẽ tung tin là quân ta đã bị tiêu diệt hết và mất tích khi trôi nổi trên biển... ai sẽ dám thắc mắc chi về thông tin mà bọn nó đưa ra này!
  3. tricksy_bee

    tricksy_bee Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    137
    Đã được thích:
    0
    DK1 - hai mươi năm giữ thềm lục địa
    Kỳ 1: Họ ở đó, 20 mùa dông bão
    Với mệnh lệnh ?obằng bất cứ giá nào chúng ta cũng phải giữ cho được thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc?, tháng 6-1989 những người lính hải quân lữ đoàn 171 đã khẩn cấp lên tàu ra khơi, trấn giữ vùng biển chủ quyền của đất nước. Và họ đã sống gian khổ ở đó, qua 20 mùa dông bão, trên những nhà giàn sừng sững giữa biển Đông.
    20 năm trước, ngày 5-7-1989, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra chỉ thị về việc xây dựng ?oCụm kinh tế - khoa học dịch vụ? trên thềm lục địa phía Nam thuộc đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo (gọi tắt là DK1). Và những người đầu tiên nhận lãnh sứ mệnh gian khó này là các cán bộ chiến sĩ của lữ đoàn 171 hải quân. 20 năm qua, vì nhiều lý do, những cống hiến và hi sinh vô cùng to lớn của những người lính DK1 chưa được biết đến đầy đủ...
    Bình minh của một ngày đầu tháng 5-2009, sau cơn bão số 1 tàu chúng tôi đến bãi Phúc Tần trên thềm lục địa phía Nam, sau một hải trình gần 1.000 hải lý đi qua 14 đảo và điểm đảo. Trong bụi sóng mịt mù và âm u, bóng những ngôi nhà giàn DK1 hiện ra thấp thoáng. Hầu hết thành viên trẻ tuổi trên con tàu HQ 957 vẫn chưa biết gì về DK1, cũng như về những người lính trong những nhà giàn kỳ lạ trên biển kia.
    Nghĩa trang giữa lòng biển Đông
    ?oToàn tàu báo thức! Báo thức toàn tàu!?. Câu thông báo ngộ nghĩnh nhưng quen thuộc từ loa phóng thanh vang lên lúc 5g. Sáng hôm ấy, 5-5-2009, không như những buổi sáng khác. Ngay trên boong tàu, giữa biển khơi, mọi người sẽ tham dự lễ tưởng niệm các liệt sĩ hi sinh ở thềm lục địa phía Nam.
    Sóng vẫn to dù bão số 1 đã đi xa. Con tàu tròng trành, chao qua nghiêng lại. Mọi người cắp chặt tay nhau, nghiêm trang đứng thành hàng ngang hướng về khói hương nghi ngút. Im lặng và thành kính. Chỉ còn nghe những tiếng sóng vỗ dưới thân tàu.
    Giọng đại tá Đinh Gia Thật, phó chủ nhiệm chính trị quân chủng hải quân, rất chân tình, như đang tâm sự cùng đồng đội của mình đã hi sinh: ?oTheo tập quán của những người đi biển, chúng tôi xin được thắp nén hương và thả vòng hoa tưởng niệm nhớ đến hương hồn các đồng chí, để các đồng chí thanh thản ngàn năm, mãi mãi nằm lại cùng biển khơi, cùng chúng tôi canh giữ chủ quyền biển đảo và thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc...?.
    Khóc. Những giọt nước mắt lăn dài trên má những chàng trai, cô gái lần đầu đứng giữa nghĩa trang trùng khơi nghe câu chuyện về những người ngã xuống để lá cờ đỏ sao vàng luôn tung bay trên thềm lục địa. Nơi đây, dưới cả ngàn mét nước sâu thăm thẳm kia là hài cốt các anh. Những nhành san hô lộng lẫy nở ở đáy biển kia như là hoa bên nấm mồ liệt sĩ.
    Vị trí con tàu buông neo làm lễ tưởng niệm hôm nay chính là bãi Phúc Tần, nơi vào tháng 12-1990, ngôi nhà giàn DK1/3 đã sập đổ vì sóng gió và mang theo vào lòng biển ba người lính. Không chỉ có nhà giàn bị sập, cả tàu hải quân trực bảo vệ cũng bị chìm, hai sĩ quan hi sinh vào năm 1991. Đến mùa mưa bão năm 1998 lại thêm một nhà giàn nữa bị sóng cuốn đi, thêm ba người lính ngã xuống...
    Chợt nhớ làm sao những câu thơ da diết của Nguyễn Đức Mậu trong Khúc tưởng niệm những người lính biển: ?oThay cho màu cỏ thanh minh là xanh rợp trời cao. Thay cho dòng tên khắc trên bia là trùng trùng sóng trắng. Thay cho đất nâu là vô cùng biển thẳm. Các anh chết rồi tên tuổi cũng lênh đênh... Những bông hoa trôi hoài trên sóng. Nén hương cháy tan vào gió mặn. Chúng tôi nghiêng mình trên biển sớm mai nay...?.
    Khi chúng tôi nghiêng mình trong khúc nhạc Hồn tử sĩ, từ xa xa những người lính biển DK1 cũng nghiêm trang hướng về quốc kỳ phấp phới trên tàu HQ 957. Đồng đội của họ đã hi sinh trên vùng biển này. Và họ, những người lính DK1, tiếp tục ở đó qua 20 mùa dông bão, trên những nhà giàn hiên ngang, sừng sững giữa biển Đông để bảo vệ thềm lục địa.
    Sóng vẫn lớn. Không ai có thể leo lên nhà giàn thăm hỏi và tặng quà cho anh em chiến sĩ hải quân được. Chỉ có những lời chào chân tình và tiếng hát con gái truyền qua làn sóng điện. Tàu HQ 957 rúc hồi còi dài chia tay đồng đội, rồi thẳng hướng đất liền. Còn nhóm phóng viên chúng tôi quyết định: phải đến ?ođại bản doanh DK1?.
    Cột chủ quyền đặc biệt
    15 ngày sau, trong doanh trại của lữ đoàn 171 hải quân ở Vũng Tàu, trung tá Nguyễn Văn Tuyết, phó chủ nhiệm chính trị lữ đoàn 171, đưa chúng tôi đến gặp những viên sĩ quan dạn dày sương gió biển Đông của tiểu đoàn DK1. Câu chuyện dài bắt đầu từ những ngôi nhà đặc biệt giữa trùng khơi.
    Đó là những cột mốc chủ quyền đặc biệt: những ngôi nhà bốn chân cắm sâu xuống rạn san hô thuộc thềm lục địa phía Nam. Lính hải quân gọi là nhà giàn hay nhà lô - những ngôi nhà vài chục mét vuông đứng chênh vênh giữa biển. Những nhà giàn đầu tiên ở DK1 được xây dựng từ năm 1989, tức cách nay đúng 20 năm. Tại sao? Mọi chuyện bắt đầu từ cuối năm 1987 đầu năm 1988, khi hải quân nước ngoài tìm mọi cách xâm chiếm vùng biển, hải đảo và thềm lục địa thuộc chủ quyền Việt Nam.
    Thậm chí họ đã sử dụng vũ lực để chiếm một số đảo ở Trường Sa vào tháng 3-1988 và sau đó tàu chiến, tàu thăm dò của họ (mà bây giờ ta hay gọi là ?otàu lạ?) bắt đầu xuất hiện sâu trong thềm lục địa phía Nam, nơi có tiềm năng rất lớn về dầu khí và có ý nghĩa chiến lược về an ninh quốc phòng. Không chút do dự, tư lệnh hải quân Giáp Văn Cương đã khẩn cấp giao cho lữ đoàn 171 nhiệm vụ trấn giữ, bảo vệ cho được chủ quyền thềm lục địa phía đông nam. ?oBằng bất cứ giá nào, chúng ta cũng phải giữ cho được chủ quyền thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc!?.
    Mệnh lệnh đó của Bộ tư lệnh cũng là lời tuyên thệ bất thành văn của cán bộ chiến sĩ lữ đoàn 171. Vượt lên những khó khăn chồng chất của cả nước vào những năm tháng ấy, những người lính hải quân 171 bất chấp hiểm nguy và gian khổ đã tiến ra giữa trùng dương.
    Tại nhà truyền thống của lữ đoàn 171, những kỷ vật của buổi đầu ?odựng nghiệp? lặng im mà trầm tích bao nhiêu câu chuyện bi tráng. Chúng tôi đã lặng người trước máy đo độ sâu hiệu Thomson trưng bày ở nhà truyền thống. Với chiếc máy thô sơ cũ kỹ này, hơn 20 năm trước, biên đội tàu HQ 713 và HQ 668 do trung tá lữ đoàn trưởng 171 Phạm Xuân Hoa chỉ huy đã ra khơi trong mùa sóng gió. Suốt cả tháng trời, biên đội tàu đã khảo sát, đo đạc trên vùng biển rộng 60.000 km2 chỉ nhờ vào chiếc máy này mà tìm ra những điểm cạn và định vị các bãi đá ngầm san hô: Ba Kè, Phúc Tần, Phúc Nguyên, Quế Đường, Tư Chính và Huyền Trân. Chính từ những dữ liệu đó, hệ thống nhà giàn DK1 được xây dựng.
    Những nhà giàn thế hệ đầu tiên thật đơn sơ và mỏng manh trước biển cả. Nhưng trên những ngôi nhà giàn đó, ý chí những người lính đầu tiên ra DK1 lại rất kiên cường.
    BÙI THANH - LÊ ĐỨC DỤC
  4. tricksy_bee

    tricksy_bee Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    137
    Đã được thích:
    0
    Kỳ 2: Những người đầu tiên
    Nhắc đến ?ocái buổi ban đầu gian khó ấy?, trung tá Dương Thế Đường - chỉ huy trưởng ban chỉ huy DK1 - bảo: ?oThế hệ đầu tiên của DK1 có người đã ra quân, có người còn ở lại, nhưng lính cựu của DK1 vẫn luôn quấn quýt quanh đây thôi. Anh Nguyễn Văn Nam, ?ocựu binh số 1? của DK1 giờ đã về hưu, nhà cũng gần đơn vị. Anh Bùi Xuân Bổng còn tại ngũ. Để tôi giới thiệu với các anh ấy?.
    ?oCòn biển là còn người, còn người là còn trạm!?
    Nếu như những người lính nhà giàn có một tấm thẻ đánh số thứ tự thì hẳn thượng tá Nguyễn Văn Nam sẽ là người mang tấm thẻ số 001. Tháng 6-1989, đại úy trẻ Nguyễn Văn Nam chỉ huy một đơn vị nhỏ lần đầu tiên ra bám trụ nhà giàn DK1/3 ở bãi Phúc Tần, rồi từ đó anh trở thành chỉ huy trưởng của khung quản lý DK1 suốt gần 20 năm cho đến ngày về hưu. Một thâm niên đáng nể và cũng là một kỷ lục ở DK1. Đã nghỉ hưu nhưng ký ức về tuổi trẻ đời lính và những ngày đầu gian khó của DK1 vẫn còn tươi nguyên trong anh.
    Trong căn nhà nhỏ thuộc khu tập thể A đoàn M71 hải quân ở Vũng Tàu, câu chuyện giữa anh Nam với chúng tôi cứ quyện lấy trong bao nỗi niềm riêng chung. Mùa hạ năm 1989, khi nhận nhiệm vụ ra chốt giữ nhà giàn DK1, chưa ai hình dung được cuộc sống trên những ngôi nhà giàn mong manh giữa bao la biển cả sẽ như thế nào. Biển Đông những năm tháng ấy đang ?onóng bỏng?, nhưng như bao người lính Việt, anh Nam vẫn thanh thản lên đường khi Tổ quốc cất tiếng gọi. Đi DK1 ngày ấy đồng nghĩa với cuộc chiến sinh tử, khó hẹn ngày về.
    Ba ngày trước khi đưa đơn vị khởi hành ra nhà giàn DK1, em trai của anh Nam bị tai nạn qua đời, vợ anh - chị Đặng Thị Thủy - đang ốm nặng. Biết gia đình anh Nam gặp khó khăn, trung tá Phạm Xuân Hoa, lữ đoàn trưởng lữ đoàn 171, đã đến tận nhà động viên: ?oĐồng chí cứ chỉ huy anh em ra nhà giàn làm tốt nhiệm vụ. Vợ con ở nhà hãy yên tâm, có đơn vị, có chúng tôi chăm lo!?. Chị Thủy cũng cố tiễn chồng ra cửa, gạt nước mắt dặn chồng: ?oAnh đi bình an, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Em và con đợi anh về?.
    Anh Nam mím chặt môi cố nén xúc động, bế con hôn lên má và giấu giọt nước mắt chực trào ra. Con tàu HQ-727 sau hành trình ba ngày đêm liên tục đã đưa các cán bộ chiến sĩ đầu tiên ra đến nhà giàn Phúc Tần. Đến nơi, anh Nam viết thư gửi theo thuyền về đất liền, thư dặn dò nhờ người em ruột ở Vĩnh Phú: ?oNếu anh hi sinh thì chú vào Vũng Tàu đưa vợ con anh về quê sinh sống?. Nắng giữa đại dương cháy da cháy thịt và tiếng gió gào thét suốt đêm ngày, những người lính đầu tiên của DK1 bắt tay vào một cuộc sống mới, một sứ mệnh mới.
    Năm đầu tiên trôi qua, đại úy Nguyễn Văn Nam cùng cán bộ chiến sĩ DK1/3 về đất liền cho kíp trực khác ra thay. Chia tay nhà giàn và những người ở lại, anh Nam dặn dò anh em: ?oGian khổ thế nào cũng phải giữ vững ý chí chiến đấu. Còn biển là còn người, còn người là còn trạm!?. Chiếc xuồng nhỏ bé chở anh và đồng đội ra tàu 931 về đất liền. Ngồi trên xuồng, ngoảnh lại nhìn lên nhà giàn, anh Nam và mọi người đều bật khóc.
    Thương anh em đồng đội, thương ngôi nhà giàn nhỏ bé giữa mênh mông nước cứ như sắp bị nuốt chửng vào lòng biển. 20 năm gắn bó cùng DK1 với 132 chuyến lặn lội ra với biển khơi, ?osói biển? Nguyễn Văn Nam đã dâng hiến những năm tháng đẹp nhất đời mình cho sự nghiệp bảo vệ chủ quyền thềm lục địa.
    Khó khăn sinh tử
    Nếu thượng tá Nam với gương mặt rất phong trần, tạo ấn tượng của một ?osói biển? dạn dày sóng gió thì thiếu tá Bùi Xuân Bổng - cũng là một ?osói biển? của DK1 - đang ngồi trò chuyện với chúng tôi, trên gương mặt vẫn mang những nét hiền khô như ngô lúa của một trai làng ra đi từ miền quê Ứng Hòa (Hà Tây cũ).
    21 năm tuổi lính, 20 năm gắn bó với nhà giàn. Những hi sinh gian khó của người lính DK1 trong buổi đầu, thậm chí ngay cả khi nhà giàn bị sập, anh Bổng từng cùng đồng đội chống chọi với bão tố, đối mặt với cái chết cận kề nhưng giọng kể của anh vẫn bình thản và dung dị, như thể những khó khăn sinh tử kia là chuyện thường tình.
    Và chính từ sự bình thản ấy của anh, chúng tôi nhận ra đó mới là ?onội lực thượng thừa? của một người đã đi qua bão tố đại dương, cái vẻ bình thản ấy dễ khiến người đối diện thấy áy náy nếu đã đôi lần trong đời mình trót ?ocường điệu? những khó khăn vớ vẩn nào đó.
    Giờ thì anh Bổng chầm chậm kể về những ngày trên nhà giàn DK1. Ngoài trời, cơn mưa chiều Vũng Tàu theo gió biển quất ràn rạt qua khoảng sân rộng trước doanh trại. Những ngôi nhà giàn thế hệ đầu tiên, do chưa có kinh nghiệm xây dựng, từ mặt biển lên mặt sàn chỉ mấy mét, không đủ đương đầu với sóng to gió lớn, thậm chí nhiều khi sóng đánh tung nước qua kẽ hở ván sàn, có khi hất tung luôn ván.
    Nhà giàn thế hệ đầu có kết cấu dạng pông - tông (một dạng phao lớn hình khối hộp làm bằng sắt) đặt lên nền san hô, nên chỉ cần sóng cấp 4 hoặc dòng nước chảy mạnh là khối pông-tông đã dịch chuyển bập bềnh trôi trong nước. Luẩn quẩn trong không gian chật hẹp đó, anh em trên nhà giàn quanh năm trong tình trạng quần áo ẩm ướt, những ngày biển động mạnh thì hầu như ướt sũng cả mấy ngày liền. Nước ngọt bấy giờ chỉ đủ cho mỗi người vài lít/ngày, lắm khi mấy tháng trời không mưa chỉ dám dùng nấu cơm.
    Anh Bổng trầm giọng: ?oKhó khăn đến thế nhưng thật lạ lùng anh em vẫn kiên cường lắm, lạc quan lắm, sẵn sàng chấp nhận hi sinh. Có lẽ có được điều ấy là vì tất cả đều rất trẻ, mới ngoài 20 cả?. Như anh Bổng, 20 tuổi bước chân vào trường sĩ quan pháo phòng không, vừa tốt nghiệp ra trường thì tăng cường cho DK1.
    Nếu so sánh những nhà giàn hôm nay với thế hệ nhà giàn đầu tiên thì quả là ngoài tầm mơ ước. Những năm đó phương tiện duy nhất để nắm tin tức đất liền là radio thì hầu như dùng được một thời gian cái nào cũng hỏng, mà sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam cũng chập chờn lúc bắt được lúc không, tivi càng không thể có.
    Một anh lính DK1 viết thư cho người yêu để diễn tả sự xa xôi của nhà giàn đã viết: ?oChỗ anh đóng quân xa, xa lắm, ngay đến sóng của đài Hà Nội cũng không bắt được!?. Những thứ ở đất liền rất bình thường như rau xanh và nước ngọt thì ở đây cực kỳ hiếm hoi và quý giá. Bạn có bao giờ nghe nói về khô rau muống chưa? Rau muống luộc lên, đem phơi khô trong đất liền rồi mang ra nhà giàn ăn dần, thay rau xanh.
    Nhưng khó khăn mỗi ngày như vậy chưa phải là tận cùng. Một đêm mùa đông năm 1990, ngôi nhà giàn DK1/3 ở Phúc Tần đã bị sóng mạnh xô đổ. Vật lộn với sóng biển trong đêm đen cho đến chiều hôm sau anh em trên nhà giàn được tàu cứu, nhưng đã có ba đồng đội của anh Bổng đã nằm lại mãi mãi trong lòng biển sâu.
    LÊ ĐỨC DỤC - MAI THẮNG
  5. tricksy_bee

    tricksy_bee Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    137
    Đã được thích:
    0
    Kỳ 3: Đương đầu cùng bão biển
    Không chỉ nhà giàn bị sập, có cả những con sóng lớn khiến tàu trực khu vực DK1 cũng bị chìm. Nhớ lại những ngày tháng ấy, những nhân chứng của DK1 mà chúng tôi gặp lại hôm nay đều không khỏi ngậm ngùi.
    Những liệt sĩ đầu tiên của DK1
    Ở nhà truyền thống của đoàn M71 có một hiện vật nhỏ nhưng nếu ai biết rõ lai lịch sẽ thấu hiểu sự hi sinh của người lính DK1 những ngày đầu. Đấy là tấm thẻ đảng viên của liệt sĩ Trần Hữu Quảng. Hôm diễn ra lễ tưởng niệm ở thềm lục địa, tên của anh được đại tá Đinh Gia Thật, phó chủ nhiệm chính trị quân chủng hải quân, nhắc đến đầu tiên: ?oĐó là sự hi sinh cao đẹp của trung úy Trần Hữu Quảng - chính trị viên nhà giàn DK1/3 Phúc Tần. Khi nhà bị đổ, anh đã cùng đồng đội bơi nhiều ngày trên biển. Trong lúc sóng to, gió lớn, anh đã nhường chiếc phao cá nhân và miếng lương khô cuối cùng cho người chiến sĩ yếu nhất và đã hi sinh ngày 5-12-1990?.
    Anh Bùi Xuân Bổng - lúc bấy giờ là trung úy trạm trưởng DK1/3 - nhớ lại: Lúc đó khoảng 23g30 đêm 4-12, sóng mỗi lúc một mạnh dần, mặt biển đen ngòm. Sóng ập vào nhà giàn ngày càng dữ dội. Nhà nghiêng dần, nghiêng dần. Mọi vật dụng trên nhà bị xô lệch từ góc này sang góc khác. Chính trị viên Trần Hữu Quảng lệnh cho anh em mặc áo phao, sẵn sàng rời đi khi nhà giàn đổ. Nhưng áo phao chỉ còn năm cái trong khi anh em gồm tám người, những cái còn lại do lâu nay ngấm nước biển đã bị bục. Phao cứu sinh khi bơm hơi vào bị nổ, phao bè vốn làm bằng xốp độn bên trong vỏ nhôm, vừa thả xuống đã bị sóng đánh vỡ.
    Khoảng 2g sáng, những trận sóng cao ngút trùm lên tận mái rồi phủ xuống khiến nhà giàn sụp hẳn. Tất cả anh em đồng loạt nhảy khỏi giàn, lao xuống những con sóng đang quăng quật dữ dội. Anh Bổng đã không còn áo phao nhưng may mắn vớ được một mảnh phao bè. Đêm mịt mùng, không nhìn thấy bóng ai, sóng biển át cả tiếng gào tên nhau của anh em, giục nhau nương theo dòng chảy ra phía nước sâu, chỗ ấy sóng êm hơn. Mảnh phao bè bị vỡ ra mà anh Bổng vớ được đã kịp được anh lao tới cho hai đồng đội là Phạm Xuân Quỳnh và Hồ Thế Công lúc đó đã đuối sức cùng bám vào.
    Chiếc áo phao của anh Quỳnh bị sóng đánh rách mất một nửa. Anh Công bị say sóng sặc nước, chuẩn bị buông tay rời bè, anh Bổng phải xé vải áo buộc chặt anh Công vào mảnh phao. Dầm mình trong sóng biển thét gào từ mờ sáng cho đến suốt một ngày 5-12, nhìn xung quanh không có thêm đồng đội nào. Cũng chính trong đêm ấy, sở chỉ huy đã điều một biên đội với ba tàu lập tức tiếp cận khu vực nhà giàn bị sập để tìm kiếm anh em. Anh Bổng kể khi cả ba anh em đang bám vào phao bè suốt một ngày lênh đênh như thế, ai cũng động viên nhau cố sức bám trụ, thế nào cũng có tàu đến cứu. Tuy nhiên với sóng gió dữ dằn, lại ngâm mình trong nước biển suốt ngày, anh em đều đuối sức.
    May sao, chừng 17g ngày 5-12, tàu cứu hộ HQ 711 đã phát hiện mảnh phao có ba anh em Bổng, Quỳnh, Công và tìm thấy anh Báu đang trên một mảnh phao khác. Đến 18g thì gặp anh Lê Văn Trung đang bám vào một phuy nhớt rỗng. Biên đội tàu quần đảo thêm mấy ngày trên vùng biển nhưng không thể tìm thấy Trần Hữu Quảng - chỉ huy phó chính trị, trung sĩ cơ điện Hồ Văn Hiền và trung úy quân y sĩ Trần Văn Là. Cả ba anh là những người lính đầu tiên hi sinh ở nhà giàn DK1.
    Đêm ?ocúng ông Táo? không quên
    Đúng một tháng sau đó, ngày 4-1-1991, con tàu HQ 666 trong chuyến đi trực khu vực DK1 lại bị bão đánh chìm. Và biển thềm lục địa lại ôm vào lòng hai người lính hải quân quả cảm.
    Thượng tá Hoàng Văn Tuyên nay là lữ đoàn phó lữ đoàn 171, còn trong trận bão nhấn chìm con tàu HQ 666 năm 1991 là thuyền trưởng. Đó là chuyến đi trực tết ở khu vực bãi Tư Chính. Tàu vừa ra điểm trực được hơn ba tuần thì đã áp tết. Khuya 22 tháng chạp, chỉ vài giờ nữa là ông Táo về trời, anh em trên tàu HQ 666 dù sóng to gió lớn vẫn phấn khởi mổ heo để cúng như phong tục ở đất liền. Heo vừa mổ xong để ở boong tàu thì bất ngờ biển động mạnh, con tàu nhồi lắc dữ dội.
    Thuyền trưởng Hoàng Văn Tuyên chuẩn bị đối phó với tình huống xấu nhất. Nhưng con tàu quá bé nhỏ so với những cột sóng cao hàng chục mét, đến 3g sáng thì tàu bị đánh lật nghiêng. Anh em trên tàu thả phao và rời tàu, tất cả đều bám được vào phao bè. Riêng thuyền phó quân sự Phạm Tảo là ngươi bơi rất giỏi đã kịp nhoài theo vừa bơi vừa cõng máy trưởng Lê Tiến Cường bơi yếu hơn. Nhà giàn lô Tư Chính vẫn có thể nhìn thấy mờ mờ trên sóng biển, với sức khỏe của mình anh Tảo nghĩ đủ sức dìu đồng đội bơi về phía đó, nhưng những cột sóng đã đánh lừa tầm mắt anh. Cuối cùng một ?orái cá? như anh Tảo cũng đành chịu thua bão tố, nỗ lực dìu đồng đội của anh cũng không thoát khỏi sự dữ dội của biển cả.
    Khi biên đội tàu cứu hộ đến cứu được toàn bộ thủy thủ đoàn, máy trưởng Lê Tiến Cường đã chìm vào lòng biển. Tàu HQ 713 tìm thấy duy nhất thi thể của anh Tảo, cũng chính trên tàu HQ 713 này anh Tảo đã làm thuyền phó trước khi về tàu HQ 666. Câu chuyện kể lại sau 18 năm phải dừng lại mấy lần bởi thượng tá Tuyên cố nén những cảm xúc làm anh nghẹn lại. Anh bảo: ?oQuê anh Tảo ở Quảng Bình, nhà báo nếu có điều kiện thì ghé ra đó sẽ hiểu thêm, anh Tảo hi sinh nhưng hoàn cảnh gia đình tội nghiệp lắm?.
    Nghe câu chuyện về những người lính đã hi sinh trên thềm lục địa, mới hay sự hi sinh của các anh lớn hơn rất nhiều những điều mà chúng tôi chỉ nghe kể ngắn gọn trong những biên niên sử của đơn vị này.
    LÊ ĐỨC DỤC - BÙI THANH
  6. tricksy_bee

    tricksy_bee Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    137
    Đã được thích:
    0
    Kỳ 4: Đêm xé lòng: 2A đâu? 2A...
    Cho đến bây giờ, những người lính biển lữ đoàn 171 vẫn không quên được những gì đã xảy ra với đồng đội của họ trên nhà giàn Phúc Nguyên 2A hơn 10 năm trước: bão tố đã đánh sập nhà giàn giữa đêm khuya, chín chiến sĩ bị cuốn vào sóng dữ.
    Ngày 12-12-1998. Cơn bão Faith đang quét qua vùng biển DK1, nơi có hàng trăm chiến sĩ hải quân lữ đoàn 171 đang đồn trú trên những nhà giàn chênh vênh giữa trùng khơi. Trong khi hàng ngàn tàu cá của ngư dân đã vào bờ trú ẩn an toàn thì ở các căn cứ hải quân Hải Phòng, Cam Ranh, Vũng Tàu, mọi người bắt đầu lo lắng về các nhà giàn, cho tính mạng đồng đội. Đó thật sự là một cuộc chiến.
    Lệnh báo động từ sở chỉ huy: tất cả các nhà giàn chuẩn bị tinh thần, sẵn sàng đối phó với sóng gió và tình trạng rung lắc mạnh của các nhà giàn, đề phòng tình huống xấu nhất xảy ra khi nhà giàn bị đổ. Cùng lúc đó, tất cả tàu hải quân có mặt ở khu vực được lệnh nhanh chóng về Côn Đảo tránh bão. Hệ thống thông tin của sở chỉ huy quân chủng, lữ đoàn M71, tất cả các tàu, nhà giàn đều cùng một kênh liên lạc theo quy định. Do vậy, từ tàu HQ 606, thiếu tá Nguyễn Văn Tôn đã nghe được hết ?okhúc bi tráng 2A? và ghi vào nhật ký của mình. Anh nhớ lại:
    ...Gió bắt đầu mạnh lên, sóng bạc đầu trắng xóa mặt biển. Lúc 1g30, qua hệ thống thông tin trên tàu HQ 606, chúng tôi nghe được nội dung báo cáo khẩn cấp từ nhà giàn 2A về sở chỉ huy quân chủng: ?o47 Đà - Lạt 01... 47 Đà - Lạt 01. Báo cáo sóng gió quá lớn, nhà 2A hiện nay đã bị nghiêng, có khả năng sẽ sụp đổ. Trên nhà giàn anh em vẫn bình tĩnh??. Trên máy sở chỉ huy (Hải Phòng), chúng tôi nghe rất rõ tiếng của trưởng phòng tác chiến quân chủng: ?oCác đồng chí hãy bình tĩnh, nếu trường hợp xấu nhất nhà đổ thì đã có tàu của ta sẵn sàng vớt, các đồng chí yên tâm!?.
    Máy thông tin từ nhà giàn 2A liên tục phát ra giọng nói của chiến sĩ báo vụ Hoàng Xuân Thủy, thông báo nhà giàn đang nghiêng dần: 10 độ, 15 độ... Anh em trên tàu HQ 606 chúng tôi vô cùng hồi hộp và lo lắng, không biết nhà 2A có thể chịu đựng đến mức nào. Sóng gió càng lúc càng mạnh, tính mạng đồng đội đang vô cùng nguy hiểm. Rồi giọng Hoàng Xuân Thủy gào lên trong tiếng rít của gió bão: ?oBáo cáo sở chỉ huy, sóng gió hiện nay mạnh cấp 9, cấp 10, giật trên cấp 10, chắc nhà 2A sẽ đổ trong chốc lát...?.
    Giọng chỉ đạo của trưởng phòng tác chiến vẫn rõ ràng, dứt khoát, nhưng bắt đầu không giấu nổi cảm xúc. Rồi đột nhiên, chúng tôi nghe tiếng của chị Vân báo vụ và trưởng phòng tác chiến gọi dồn dập trên máy: ?oQuân chủng gọi nhà 2A. 2A nghe tốt trả lời. Quân chủng gọi nhà 2A?2A?2A đâu?...?. Nhưng tất cả chìm trong im lặng. Chúng tôi và những đồng đội đang trên biển đều nghĩ rằng nhà giàn 2A đã bị bão đánh đổ.
    Bỗng, đến 2g30 phút cùng ngày, tiếng chiến sĩ báo vụ Hoàng Xuân Thủy đột ngột vang lên: ?o2A gọi sở chỉ huy? 2A gọi sở chỉ huy??. Tất cả anh em chúng tôi trên tàu HQ 606 không ai bảo ai, đồng loạt hô lên: ?o2A chưa đổ! 2A chưa đổ! Thật tuyệt vời!?. Nhưng niềm vui không kéo dài. Tiếng Hoàng Xuân Thủy lại vang lên trong máy: ?oBáo cáo sở chỉ huy, nhà 2A mất liên lạc là do nhà nghiêng quá, hệ thống ăngten bị đổ. Hiện nay nhà đã nghiêng dữ dội, chắc chỉ trụ được năm bảy phút nữa. Vũ khí, tài liệu đã được anh em gói cẩn thận. Anh em chuẩn bị rời nhà khẩn cấp?. Tiếng chị Vân từ sở chỉ huy bên kia máy đáp gọn gàng: ?oSở chỉ huy nhận đủ!?.
    Bỗng nhiên chúng tôi nghe Hoàng Xuân Thủy nói đầy xúc động: ?oSở chỉ huy cho anh em nhà 2A gửi lời chúc tết đến thủ trưởng quân chủng, lữ đoàn, gửi lời chúc tết tới gia đình chị cùng tất cả đồng chí đồng đội?. Rồi giọng Thủy chùng xuống đầy tha thiết: ?oChị Vân ơi! Em là Hoàng Xuân Thủy. Quê em ở Mỹ Sơn, xã Lưu Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Bố em là Hoàng Văn Sơn, mẹ em là Lê Thị Thịnh. Nếu em chết, nhờ chị viết thư về báo tin cho nhà em biết. Tạm biệt chị! Tạm...?. Trời ơi, lời nói cuối cùng của Thủy đã bị sóng gió chặt đứt hẳn.
    Cuộc kiếm tìm vô vọng
    ?oSở chỉ huy gọi 2A... Sở chỉ huy gọi 2A... 2A đâu... 2A đâu... 2A đâu... đâu...?. Giọng chị Vân từ sở chỉ huy lạc đi. Chị khóc thành tiếng. Tiếng khóc của một đồng đội, tiếng khóc của một người phụ nữ, một người chị hòa trong gió bão như xé nát ruột gan chúng tôi.
    Đồng hồ chỉ 4 giờ 15 phút ngày 13-12-1998. Kể từ lúc này nhà giàn Phúc Nguyên 2A hoàn toàn mất liên lạc. Nhà đổ, họ buộc phải lao xuống biển. Chuyện gì đã xảy ra với họ trong đêm tối bão bùng, chín anh em nhà 2A?
    Tin dữ lan nhanh trên các nhà giàn khác ở DK1: 2A đã đổ! Chín đồng đội làm sao chịu nổi những cột sóng bão cao 15-20m? Ai sống ai chết? Tin dữ ấy cũng làm bàng hoàng những đồng đội của họ ở Hải Phòng, Cam Ranh, Vũng Tàu sau khi Hoàng Xuân Thủy nói lời vĩnh biệt đất liền. Mai Thắng, chính trị viên đại đội thông tin lữ đoàn 171, trực ở đài canh thông tin lúc ấy, kể: ?oChúng tôi không thể nào quên được chuyện đã xảy ra vào đêm gió bão ấy và đau đớn đến mức không khóc được. Chính tôi là người đã công tác bảy tháng ở nhà giàn Phúc Nguyên 2A nên hiểu chuyện gì xảy ra với đồng đội mình. Nhưng không chỉ tôi. Hai phần ba đại đội thông tin trực đêm ấy đã lặng người đi. Hết ca trực đêm ấy về nhà anh em vẫn không thể nào ngủ được?.
    Cũng buổi sáng hôm ấy, tin sập nhà giàn 2A đã lan nhanh trong gia đình cán bộ chiến sĩ lữ đoàn 171. Những người vợ lính tụm lại, buồn bã chia nhau từng chút thông tin về số phận chín đồng đội của chồng họ. Có một người phụ nữ trẻ dường như chết đứng ngay tại ngôi chợ nhỏ gần căn cứ lữ đoàn 171. Đó là vợ của sĩ quan quân y Nguyễn Hữu Tôn, một trong chín người bị bão biển cuốn đi. Chị lao về nhà, chỉ để nhìn hai đứa con bé bỏng, rồi khóc và chờ đợi.
    Vào lúc 5g30 ngày 13-12-1998, tàu HQ 606 được lệnh khẩn cấp từ sở chỉ huy: quay tàu vào hướng bão, tìm và cứu đồng đội 2A! ?oĐó không chỉ là mệnh lệnh của cấp trên mà là mệnh lệnh của lương tâm chúng tôi!? - thiếu tá Nguyễn Văn Tôn bồi hồi nhớ lại. Lúc này sóng gió vẫn đang cấp 8, cấp 9 nên tàu không thể chạy nhanh được, chỉ khoảng 3-4 hải lý một giờ. Rất chậm so với tình huống khẩn cấp như thế này. Đại úy thuyền trưởng Lê Văn Muộn ra lệnh cho anh em trên tàu tập trung quan sát bằng ống nhòm, không để sót vật trôi xung quanh tàu, vì những vật trôi có thể là dấu hiệu để tính toán dòng chảy từ thời điểm nhà 2A bị nạn.
    Mãi đến 16g tàu HQ 606 mới đến được tọa độ cần tìm kiếm. ?oChúng tôi căng mắt quan sát - thiếu tá Tôn kể - Vì đây là khu vực tâm bão đi qua nên rất nhiều mảnh vỡ của gỗ, can nhựa, thùng xốp... trôi trên biển. Chúng tôi luôn hi vọng những vật đang trôi xa xa kia là những phao bè, phao cứu sinh mà đồng đội 2A đang bám vào. Nhưng khi tàu chạy đến gần, chúng tôi lại òa lên thất vọng?.
    Ngoài HQ 606, Bộ tư lệnh Hải quân đã điều thêm ba tàu HQ 624, HQ 608, HQ 957 nhanh chóng về tọa độ X để tham gia chiến dịch tìm kiếm cứu nạn. Bốn tàu chạy theo kiểu bừa răng lược và chia nhau tìm kiếm, không bỏ sót vùng biển nào đã được đánh dấu trên hải đồ. Nhưng vẫn vô vọng và trời đang ngả về chiều. Thiếu tá Tôn nhớ lại giờ phút tuyệt vọng đó: ?oChúng tôi hết sức sốt ruột vì trời tối thì việc tìm kiếm sẽ rất khó khăn. Và liệu anh em nhà 2A có đủ sức chịu đựng để qua nổi sóng gió lạnh buốt thấu xương đêm nay không! Mặt trời khuất dần và những tia hi vọng cũng tắt dần theo thời gian?.
    BÙI THANH - LÊ ĐỨC DỤC
  7. tricksy_bee

    tricksy_bee Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    137
    Đã được thích:
    0
    Kỳ 5: Khúc bi tráng trên biển
    Lúc những con tàu hải quân kiếm tìm trong vô vọng, chuyện gì đã xảy ra với chín chiến sĩ nhà giàn Phúc Nguyên 2A sau khi nhà giàn bị sóng gió đánh đổ? Một ngày tháng 5-2009 tại Vũng Tàu, chúng tôi tìm gặp thiếu úy Hoàng Xuân Thủy và thiếu tá Nguyễn Hữu Tôn - hai trong số sáu người còn sống sót trở về. Đã hơn 10 năm trôi qua...
    Lao xuống biển, cờ Tổ quốc không rời
    16g ngày 12-12-1998, trên vùng biển thềm lục địa phía Nam không còn hình bóng một con tàu. Tất cả đã đi tránh bão, chỉ còn lại những nhà giàn cô đơn. Mặt biển mịt mù trắng xóa, gió rít giật ầm ầm. Càng về chiều sóng càng dữ dội. Những con sóng lừng lững như quả núi liên tiếp ập đến làm trạm rung lắc mạnh. Tất cả các cửa hướng đông của nhà giàn đều được đóng kín, vì lúc đó anh em chỉ cần sơ sẩy là gió hất tung xuống biển.
    Chỉ huy nhà giàn là đại úy Vũ Quang Chương, 30 tuổi, người Thái Bình. Chương bình tĩnh động viên anh em, phân công từng người lo chuẩn bị áo phao cá nhân, phao bè, lương khô, thuốc men, dây ròng rọc... để sẵn sàng rời nhà giàn lao xuống biển. Đến khoảng 18g30, một cơn sóng cực lớn đánh trùm lên nhà giàn làm nó nghiêng hẳn một bên, lắc lư chao đảo. Tình thế lúc này cực kỳ nguy kịch.
    Những tấm gỗ lát mặt sàn bật tung, chiếc tivi trên bàn rơi xuống, toàn bộ giá gạo trong kho đổ sập, giường tủ bàn ghế chạy đi chạy lại, máy phát bị chập, điện tắt ngấm. Trung úy Nguyễn Văn Hoan vào kho lấy bao gạo ra chèn phao cứu sinh và chân giường tránh va đập, liền bị toàn bộ giá gạo đổ sập xuống vai. Hoàng Xuân Thủy thì bị chiếc tủ sắt đổ vào người toạc máu ở bụng.
    Sóng mỗi lúc một to, tất cả chín anh em đã mặc sẵn áo phao, lấy dây mồi buộc vào tay nhau để khi nhà đổ xuống biển vẫn tìm thấy nhau, chết vẫn còn xác. Mỗi khi có cơn sóng kinh hoàng như quả núi trước mặt, họ lại nhắm mắt nín thở cầu mong nhà không đổ và sóng qua mau. Nhưng tất cả đều chỉ là hi vọng. Nhà giàn càng lắc lư chao đảo mạnh theo từng cơn sóng dữ. Mọi người hiểu là có thể phải hi sinh, nhưng rất bình tĩnh, không ai nao núng, đôi khi còn nở những nụ cười lạc quan và trêu nhau chuyện này chuyện nọ. ?oNhưng thật ra lúc đó trong tim chúng tôi đang chảy máu. Muốn khóc mà không khóc được?, thiếu úy Thủy nhớ lại.
    Sau khi nhận được lệnh cuối cùng từ sở chỉ huy, đại úy Vũ Quang Chương hô lớn: ?oTất cả chuẩn bị rời trạm, khi xuống biển nhanh chóng bám chặt vào phao!?. Dù được lệnh như vậy nhưng những người lính hải quân M71 vẫn kiên cường không rời nhà giàn, quyết bám trụ đến phút cuối cùng. Họ hiểu không ai bỏ nhà giàn mà đi khi chưa đổ. Rồi một cơn sóng kinh hoàng, dựng đứng như vách núi, đập mạnh vào nhà giàn, trùm lên đầu họ. Nhà giàn không trụ được nữa. Đại úy Chương lệnh cho tốp đầu bám phao cứu sinh nhảy xuống biển trước, gồm trung úy Nguyễn Văn Hoan, sĩ quan quân y Nguyễn Hữu Tôn, chiến sĩ cơ yếu Hà Công Dụng...
    Chương và Thủy bật khỏi nhà giàn sau cùng. Anh Thủy kể: ?oTôi mang theo một súng tín hiệu và sáu viên đạn, các tài liệu mật của ngành thông tin rồi lên máy lần cuối. Nói xong lời vĩnh biệt đất liền, tôi ôm bao gạo nhảy xuống biển mà vẫn còn nghe văng vẳng bên tai tiếng gào thét của đồng đội từ nhà giàn Phúc Nguyên 2B phát qua máy Icom: ?oThủy ơi, nhảy đi... Nhảy đi, nhà đổ rồi, nhảy đi!...?.
    Riêng đại úy Vũ Quang Chương trong giờ phút sinh tử ấy vẫn không quên bổn phận của một chỉ huy, của một người lính đối với đồng đội và Tổ quốc. Trước khi rời nhà giàn, anh cẩn thận đóng tất cả cửa lại, vì nếu nhà giàn đổ thì anh em không bị nước xoáy hút vào trong, không thoát ra được. Rồi Chương nghiêm trang ôm lá cờ đỏ sao vàng vào ngực mình, gấp lại, mang theo. Nhà giàn đổ, anh cùng Thủy lao xuống biển và không hề biết đó là những giây phút cuối cùng của đời mình.
    Lúc đó là 3g50 phút ngày 13-12-1998
    14 giờ bập bềnh trên sóng dữ
    Thiếu úy Hoàng Xuân Thủy kể: ?oLúc chúng tôi lao khỏi nhà giàn trời tối đen như mực, không nhìn thấy gì. Rồi tôi nghe anh Vũ Quang Chương cố gào lên: ?oTất cả anh em bám chặt vào phao bè. Nhanh chóng ra khỏi vòng xoáy!?. Ngay lúc đó một cơn sóng lớn ập đến. Anh Chương, An và Hồng bị hất tung, không bám vào dây được nữa. Thật nguy hiểm! Tôi chỉ nghe được những tiếng cuối cùng của anh Chương: Thủy ơi, cứu anh... Bám chặt vào dây em ơi...?. Rồi kể từ đó ba anh mất hút vào đêm đen?.
    Còn tốp nhảy xuống đầu cũng bị sóng đánh tan tác. Thiếu tá Tôn kể lại: ?oPhao cứu sinh bị vỡ ngay khi xuống nước. Tôi phát hiện la lên Hoan ơi, phao vỡ rồi... Chưa dứt lời thì bị sóng đánh bật khỏi phao?. Rất may mọi người sau đó bám được vào chiếc phao bè (loại phao cứu sinh bằng xốp, bên ngoài bọc nhôm), nhưng ngay cả chiếc phao bè cũng bị sóng đánh méo mó, đứt dây liên kết với nhà giàn, trôi tự do...
    Lúc này, trong tiếng gào thét không dứt, năm người gồm Hoan, Tôn, Thủy, Dụng và Thuật bám chặt chiếc phao bè móp méo mà chống chọi với sóng cuồng bão giật. Thủy vớ được một thanh gỗ trôi, bẻ đôi làm mái chèo, nhưng thật ra chẳng biết chèo đi đâu. Đúng lúc ấy mọi người phát hiện Thơ, một đồng đội 2A, đang bám vào bao gạo và gần như kiệt sức. Thủy lao ra dìu Thơ lên phao bè. Được sáu người, còn ba người nữa đâu? Lúc này không ai biết ba anh Chương, An, Hồng đã hi sinh.
    9g ngày 13-12, Hoàng Xuân Thủy lấy súng tín hiệu bắn ba phát để cấp cứu. Chờ mãi vẫn không thấy có hi vọng gì. Viên cuối cùng anh đưa cho trung úy Hoan bắn, nhưng một cơn sóng mạnh đã cướp viên đạn cấp cứu này khỏi tay anh. Vậy là họ phải tiếp tục chống chọi với sóng gió, tiếp tục trôi giạt đi. Quần áo rách tả tơi, đói, khát, lạnh, kiệt sức. Anh em chỉ biết động viên nhau rồi uống nước biển, ngậm lương khô, tỏi, gừng để cầm hơi và giữ ấm.
    14 giờ trôi qua như thế. 14 giờ kiên cường, 14 giờ hi vọng và 14 giờ xao động nỗi niềm riêng. Hoàng Xuân Thủy nhớ lại mà rơi nước mắt: ?oLúc đó tôi thương bố mẹ và nhớ đất liền vô cùng. Và tôi còn nhớ anh Nguyễn Văn An nói thế này ?oTao chết thì..., chỉ thương vợ tao mới đẻ, tao chưa biết mặt con và tên con vẫn chưa đặt?. Còn thiếu tá quân y Nguyễn Hữu Tôn lặng đi khá lâu, mắt đỏ hoe: ?oTôi không nao núng gì vì đi giữ biển là sẵn sàng hi sinh, nhưng thật nhói lòng khi nghĩ đến vợ con. Lúc ấy tôi chỉ mới đưa gia đình từ quê vào sống cạnh đơn vị ở Vũng Tàu thôi. Các con tôi còn quá nhỏ, không biết chúng sẽ ra sao khi không còn tôi?.
    17 giờ 30. Trời đã chạng vạng. Thật kinh khủng nếu chiếc phao bè này trôi vào đêm tối. Họ sẽ không còn đủ sức đến ngày mai. Đúng vào lúc đó, đài chỉ huy tàu HQ 606 nghe tiếng thét nghẹn ngào của thượng úy Nguyễn Văn Minh Tông từ vị trí quan sát: ?oBáo cáo đài chỉ huy... Báo cáo... Có người trên phao! Có người trên phao...?.
    Thuyền trưởng Lê Văn Muộn vừa khóc vừa báo về đất liền một cái tin ai cũng chờ đợi. Sáu chiến sĩ hải quân nhà giàn 2A được cứu sống và được đưa lên tàu HQ 606 lúc 18g54 ngày 13-12-1998. Còn ba người nữa! Đồng đội trên các tàu hải quân lữ đoàn 171 tiếp tục tìm kiếm ngày thứ hai, ngày thứ ba và nhiều ngày sau đó. Vẫn không tìm thấy.
    Đó là Nguyễn Văn An với niềm khao khát được nhìn mặt và đặt tên đứa con trai đầu lòng.
    Đó là Lê Đức Hồng, chàng trai 21 tuổi, chưa biết tình yêu là gì, với những lá thư kết bạn từ báo Tiền Phong còn nằm dưới đáy balô.
    Và đó là Vũ Quang Chương, người chỉ huy nằm lại mãi dưới thềm lục địa cùng lá cờ Tổ quốc. Từ quê nhà, cha anh (cũng là một người lính thời chống Mỹ và nạn nhân chất độc da cam) đau xót vô hạn.
    BÙI THANH - MAI THẮNG
  8. tricksy_bee

    tricksy_bee Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    137
    Đã được thích:
    0
    Nhành san hô trên bàn thờ liệt sĩ
    Từ Vũng Tàu, chúng tôi tìm về xã Thụy Trường, huyện Thái Thụy (Thái Bình), nơi có câu chuyện về người bố bao năm đi tìm con dù biết con đã hi sinh, về nhành san hô trên bàn thờ thay hình hài xương cốt.
    Thụy Trường là xã tận cùng của Thái Bình ở cực đông bắc tỉnh, một phía giáp biển, một phía giáp cửa sông cách ngăn với thành phố Hải Phòng. Hỏi nhà ông Dương, bố của liệt sĩ Vũ Quang Chương, không ai không biết.
    Đêm đêm mơ thấy con về
    Chờ ở nhà từ đầu giờ trưa đến tầm non nửa buổi chiều thì ông Vũ Quang Dương theo thuyền đi đánh cá về. Đã ngoài 60 tuổi nhưng ông vẫn không thể bỏ buổi biển nào bởi một phần cuộc sống của mấy bố con - ông cháu nhờ vào đó. ?oTrong nhà, Chương là đứa con mà tôi kỳ vọng nhất - ông Dương mở đầu câu chuyện với chúng tôi như thế - Bởi thế nên cho đến nay, nó hi sinh hơn 10 năm rồi, không nghĩ nó còn sống, nhưng nhiều đêm tôi vẫn mơ thấy nó về, nhen cho tôi chút hi vọng rằng nó đã bị trôi dạt đến một đảo xa nào đó. Tôi đọc báo thấy có chuyện đã có người dạt lên hoang đảo đến mấy chục năm mới về thì sao?.
    40 năm trước, ông Dương là lính đặc công đoàn 429, cuối năm 1967 đơn vị ông hành quân vào mặt trận Tây Ninh khi vợ ông đang mang thai đứa con đầu lòng, sau Tết Mậu Thân thì nhận tin vợ ở nhà sinh con trai, ông mừng lắm. Nhưng phải hơn ba năm sau, năm 1971, khi bị thương, đơn vị đưa ra Bắc ông mới gặp mặt con - đấy là Vũ Quang Chương. Ông cũng không hay những đứa con được sinh ra từ khi ông từ chiến trường trở về mỗi đứa đều mang một căn bệnh nào đó, chỉ có Chương, đứa con đầu được mang thai trước khi ông vào chiến trường, là thông minh và khỏe mạnh nhất.
    Vũ Quang Chuyên, em trai thứ ba của Chương, bị thần kinh, rối loạn sắc tố da, đau ốm liên miên ngay từ khi sinh ra. Hai em gái của Chương là Phương và Hồng cũng thường xuyên trở bệnh. Ông Dương chia sẻ nỗi đau ấy với rất nhiều đồng đội, nhưng ông vẫn thầm tạ ơn trời vì dù sao ông vẫn còn có Chương.
    18 tuổi học xong cấp III, năm 1986 Chương thi vào trường sĩ quan lục quân. Bốn năm sau tốt nghiệp, anh được tăng cường về hải quân vùng D ở Cam Ranh. Biết con theo binh nghiệp khó về với gia đình, khi nghe tin con đóng quân ở Cam Ranh, ông Dương quyết định chuyển cả gia đình vợ con từ Thái Bình lên Tây nguyên, không chỉ vì chuyện làm ăn trên mảnh đất bazan màu mỡ mà chính là để được gần Chương.
    Từ Đắc Lắc về Cam Ranh gần hơn cả chục lần so với từ nơi con đóng quân về tới quê nhà xã Thụy Trường, Thái Thụy xa tít tắp đất Bắc. Ông bảo: ?oChỉ có như thế mới gần con được!?. Có lẽ nhờ cái tình yêu tha thiết ấy với con trai nên bảy năm đơn vị Chương đóng quân ở Cam Ranh, bố con, anh em may mắn được gặp nhau chừng mươi lần trước khi Chương được tăng cường về DK1 vào năm 1996. Hơn mười năm trôi qua, nhưng nỗi tiếc thương với đứa con mà ông ấp ủ bao kỳ vọng đã kẻ những nét hằn nặng trĩu trên gương mặt sóng gió can trường của một ngư phủ.
    ?oNhành san hô tro cốt?
    Đốt một nén nhang trên bàn thờ liệt sĩ Chương, ông Dương lặng lẽ bê cành san hô xuống, có lẽ đây là nhành san hô đẹp nhất mà chúng tôi từng thấy: những cành san hô trắng muốt, nở xòe cân đối như một đóa hoa kỳ lạ. ?oTôi cũng nghĩ con trai tôi không còn nữa, nhưng không hiểu sao vẫn cứ hi vọng huyễn hoặc, biết đâu như chuyện cổ tích, nó lạc lên hoang đảo nào đó rồi có ngày trở về? - ông Dương nói.
    Thế nên sau khi Chương hi sinh, ông Dương và gia đình từ Đắc Lắc về Vũng Tàu dự lễ truy điệu Chương và đồng đội, vậy mà sau đó ông vẫn cứ thu xếp tìm đến những nơi con trai từng đóng quân như Hải Phòng, Nha Trang, Cam Ranh, Vũng Tàu? với hi vọng biết đâu Chương còn sống và trở về. Thời gian theo ngày tháng cứ dày lên kéo xa dần những trông ngóng của ông. Đi tìm mãi cho đến một ngày ông ngỏ lời với đồng đội của con: ?oCác con mang về cho bác một cành san hô ngay vị trí nhà giàn bị đổ để bác đặt lên bàn thờ, coi như đó là tro cốt của Chương?.
    Năm ngoái, thiếu tá Nguyễn Thế Dĩnh, phó chính trị viên DK1, đã mang được cành san hô từ lô Phúc Nguyên 2A về và anh cẩn thận không dám gửi theo đường bưu điện sợ bị gãy. Phải đợi đến lúc có người quen ra Thái Bình anh mới dám gửi theo về.
    Giờ thì ông Dương đang nâng niu cành san hô đẹp kỳ lạ ấy, đứa cháu gái thấy ông làm vậy cũng sà vào phụ lau chùi cùng ông. Ông Dương vừa lấy chiếc khăn mềm lau bụi cho cành san hô vừa thầm thì: ?oĐây là xương của bác Chương mày đấy cháu ạ!?. Chúng tôi lạnh người và chợt nhói lòng khi nghĩ đến còn bao nhiêu người lính đã nằm lại ngoài biển khơi, không mấy ai được mang thân xác trở về. Vì thế nhành san hô trên bàn thờ của liệt sĩ Chương hôm nay như hiện thân của linh hồn và thân xác những chiến sĩ đã lẫm liệt hi sinh trên biển ấy.
    Sau khi Chương hi sinh, ông Dương cũng không ở Đắc Lắc nữa, ?oở đó chỉ để mong được gần con, nay con hi sinh thì mình về lại quê?, ông bảo vậy. Còn mẹ Chương đang bị bệnh liệt, nằm chữa trị ở đó cùng người con gái. Ông đưa Chuyên, đứa con trai thứ ba bị ảnh hưởng chất độc da cam (và mang thêm bệnh thần kinh) về lại Thụy Trường. Cùng với số tiền 40 triệu đồng của Bộ tư lệnh quân chủng Hải quân và đoàn M71 hỗ trợ xây căn nhà tình nghĩa, ông ?ocắm? thêm sổ hưu ở ngân hàng để xây một căn nhà bề thế, có nơi thờ tự Chương chu đáo.
    ?oHồi trước, Chương nó bảo đi lính về sẽ đóng gạch xây cho bố một ngôi nhà thật oách, cưới vợ đẻ cho bố một đàn cháu. Nay xây được nhà rồi mà nó lại không về để ở. Giá như nó kịp có một người vợ, một đứa cháu cho tôi. Đằng này khi hi sinh nó chưa có cả người yêu...?. Giọt nước mắt tuổi già hiếm hoi chợt lăn trên khuôn mặt sạm đen của ông?
    LÊ ĐỨC DỤC
  9. tricksy_bee

    tricksy_bee Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    137
    Đã được thích:
    0
    Kỳ 7: Có những niềm riêng
    Khi loạt bài này đăng kỳ đầu tiên cũng là lúc đại diện Sở LĐ-TB&XH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, lãnh đạo lữ đoàn 171 đến thăm gia đình những người lính DK1 có hoàn cảnh khó khăn. Mỗi gia đình là một hoàn cảnh, một câu chuyện, những người vợ lính chúng tôi đã gặp đều xứng đáng được kể ra đây như một phần không thể thiếu khi nói đến 20 năm của DK1.
    Những mùa ?otuyển quân?
    Về với lính DK1 sẽ biết thêm một khái niệm mới của từ ?otuyển quân?. Đó là chuyện những người vợ ?olên kế hoạch? để được gần chồng, được mang thai em bé. Có thai là coi như ?otuyển quân? thành công. Chồng là bộ đội DK1, một năm gần chồng vẻn vẹn chưa đầy 30 ngày phép. Với thời gian ngắn ngủi ấy muốn sinh con thật không dễ, nên khi chồng hết thời gian nghỉ phép ở quê nhà mà vẫn chưa ?okết quả?, các chị xin đi theo chồng vào đơn vị tiếp tục ?otuyển quân?.
    Chuyện ?otuyển quân? của thiếu tá Trần Văn Lợi - chính trị viên nhà giàn Tư Chính IV - được nhiều cán bộ chiến sĩ nhà giàn kể với nhau như một ?othành công mang tính thuyết phục?.
    Vợ chồng anh cưới nhau năm 1999, chưa xong tuần trăng mật anh Lợi phải vào lại đơn vị để ra nhà giàn thay trực cho đồng đội về bờ, để lại quê nhà người vợ trẻ cùng mẹ già 85 tuổi. Trong căn nhà nhỏ ở Lưu Sơn (Đô Lương, Nghệ An), chị Hà Thúy Vân (vợ anh Lợi) và mẹ già luôn ước ao có một đứa cháu để vui cửa vui nhà. Vậy là tháng 10-2000, chị Vân xin chồng vào đơn vị ?otuyển quân? đúng lúc anh Lợi từ biển trở về nhưng ?otrận ấy thất bại?. Tháng 8-2005, anh Lợi nghỉ phép, 30 ngày ngắn ngủi gần vợ cũng chẳng kết quả gì.
    Chị Vân bàn với chồng: ?oThua keo này ta bày keo khác. Lần này anh cho em theo, nhất định mình sẽ thắng lợi?. Rồi chị khăn gói theo chồng vào Vũng Tàu. ?oTổ ấm dã chiến? của họ là một phòng tại nhà khách của lữ đoàn 171. Sau hơn hai tuần chị Vân có thai, anh Lợi tiếp tục ra nhà giàn. Chị Vân phấn khởi về quê khoe mẹ chồng. Kết quả lần ?otuyển quân? ấy của vợ chồng Lợi - Vân bây giờ đã là một cháu bé đang học mẫu giáo và sau đó thêm một chú nhóc nữa nay gần 2 tuổi.
    Tuy nhiên, không phải vợ lính nào đi ?otuyển quân? cũng thành công. Chúng tôi ghé thăm chị Nguyễn Thị Chiến - vợ của thiếu tá y sĩ Bùi Văn Dong ở nhà giàn DK1/17. Có với nhau một cháu gái, cháu đã lớn mà vẫn chưa có đứa thứ hai, chị Chiến từ quê vào Vũng Tàu thuê căn nhà nhỏ để được gần chồng khi anh trở về từ biển cả. Căn nhà thuê của vợ chồng chị ở 41/7 Đô Lương chưa đầy 15m2, chỉ đủ kê chiếc giường và bàn bếp, vậy mà cứ rộng thênh vì luôn vắng bóng chồng. Ngày đêm chị lủi thủi một mình, đêm về làm bạn với chiếc giường cũ kỹ.
    Hôm chúng tôi đến tặng quà, chị Chiến bần thần: ?oTôi vào đây đã chín năm, chỉ mong có thêm đứa con nữa. Anh Dong đã sáu lần về mà mãi chưa được?.
    Và những mùa chia xa
    Chuyện chị Đặng Thị Huấn - vợ thiếu tá Phan Thế Hưng, chính trị viên nhà giàn Quế Đường - như một ?ođiển hình vợ lính? DK1 mà chị em ở đây vẫn hay kể. ?oNăm 1984 vợ chồng tôi cưới nhau và đến nay đã 25 năm - nhưng thời gian gần chồng chỉ tính trên đầu ngón tay thôi. Với chưa đầy 24 tháng gần chồng chia đều cho 25 năm? - chị Huấn nói. Ngày mới cưới anh Hưng đóng quân ở biên giới Lạng Sơn. Năm 1994 anh chuyển về DK1 công tác. Đã xa chồng biền biệt nay lại xa hơn. Nhiều đêm giữa núi rừng Vĩnh Phúc, chị ôm con thao thức không sao ngủ được.
    Năm 1999 chị Huấn bồng hai con vào Vũng Tàu tìm chồng đúng lúc anh Hưng đang ngoài nhà giàn. Căn phòng trọ mấy mẹ con thuê chỉ hơn chục mét vuông vừa đủ kê chiếc giường đơn. Để có tiền nuôi con, chị Huấn phải dậy từ 4 giờ sáng đi lột da cá bò mỗi ngày chỉ kiếm được vài ngàn đồng. Những ngày chị đi xẻ cá bò phải để hai con ở nhà, đứa lớn trông đứa nhỏ. Có hôm chị ?onhốt? hai con tự chơi với nhau. Khi em khóc, đứa anh hỏi: ?oEm có ăn mì tôm không??, em lắc đầu, vậy là hai anh em ôm nhau ngủ thiếp đi. Khuya chị đi làm về, nhìn con mà rơi nước mắt.
    Bây giờ con trai đầu của chị là Phan Thế Hiện đã 21 tuổi, đang là sinh viên một trường ĐH tại TP.HCM. Con trai thứ hai là Phan Thế Lương đang học lớp 11 Trường Nguyễn Huệ (Vũng Tàu). Chị Huấn đang chăm nuôi tám cháu nhỏ là con đồng đội của chồng ở nhà mình. ?oTôi yêu các cháu như con tôi. Các cháu đều gọi tôi là mẹ. Nhiều bữa bố mẹ các cháu đến đón về nhưng các cháu cứ nằng nặc đòi ở lại với mẹ Huấn? - chị Huấn bộc bạch.
    Lá thư của chị Cao Thị Hồng ở xã Thượng Hóa (huyện Minh Hóa, Quảng Bình) - vợ của thiếu tá Trương Văn Thủy, chỉ huy trưởng nhà giàn DK1/8 - viết cho chồng thật nhiều nỗi niềm: ?o... Nếu nói về vợ lính thời bình không thiệt thòi là không đúng, nhưng đã là vợ lính thì phải biết chấp nhận hi sinh vì nghĩa lớn đúng không anh. Hôm con ốm, em cõng con vượt rừng đến bệnh xá và ba đêm không ngủ vì phải giành giật sự sống cho con từ tay tử thần. Hằng ngày phải đối mặt với bao khó khăn cơm áo gạo tiền, rồi tâm lý xa chồng, em cắn răng chịu đựng nỗi cô đơn vì vắng anh. Rồi khó khăn tất cả cũng vượt qua. Nhiều khi em nghĩ vợ lính thời bình mà phải chịu cách xa, nhưng em thấy tự hào có chồng là bộ đội DK, những lúc nhớ anh chỉ biết gửi tình yêu vào trang thư này?.
    Anh Thủy kể lần ấy con ốm, vợ anh một mình cõng con vượt 5 cây số đường rừng đến bệnh xá xã. Con sốt quá cao, chị Hồng chỉ biết ôm con đi quanh hành lang chờ bác sĩ. Giữa đêm tối lạnh căm căm, cả hai mẹ con đều khóc. Những lúc ấy chỉ mong có một bờ vai tin cậy của người chồng, người bố để vợ con tựa vào, nhưng ước mơ rất bình thường với mỗi người ấy thì với vợ của những người lính DK1 thật quá xa vời.
    Chúng tôi đến thăm gia đình thiếu úy Trần Văn Tiên chỉ vài giờ trước khi anh theo tàu đi công tác. Hai vợ chồng dành dụm làm được căn nhà chừng 30m2, ẩm thấp, lọt thỏm giữa các khối nhà cao tầng. Trong nhà tuềnh toàng, không có tủ bàn hay vật dụng gì ngoài chiếc giường đơn sơ. Từ bốn năm nay tất cả tiền lương của hai vợ chồng (vốn chẳng nhiều nhặn gì) đều dồn vào chạy chữa cho đứa con sinh thiếu tháng, khi sinh ra cháu nặng 1,2kg, bị tim bẩm sinh, ảnh hưởng phổi, mắt... Chồng đi theo nhà giàn, vợ ôm con đi hết viện nhi này đến bệnh viện khác, bé gái 4 tuổi rồi vẫn thường trú ở viện nhiều hơn ở nhà...
    Có rất nhiều câu chuyện như thế khi gặp những người vợ của lính nhà giàn và nhờ có sự hi sinh lớn lao của họ, những người chồng chiến sĩ đã vững tâm vững lòng giữ thềm lục địa Tổ quốc.
    Mai Thắng
    -----------------------------------------
    Nguồn tham khảo : http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=323242&ChannelID=89
    ------------------------------------------
    Đời đời nhớ ơn các anh hùng liệt sỹ đã hi sinh cho đàn em được cuộc sống thanh bình
    -------------------------------------------
    Do thời gian ko cho phép nên trong loạt phóng sự có nhiều hình ảnh tư liệu em ko up kịp, anh em nào có thời gian up dùm em, xin cảm ơn.
  10. tricksy_bee

    tricksy_bee Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    137
    Đã được thích:
    0
    Hãy làm DK1 rực sáng biển đêm!
    * Báo Tuô?i Tre? khơ?i động chương tri?nh ?oChung tay thắp sáng nha? gia?n DK1?
    Hôm nay 26-6, chúng tôi cùng nhiều đại biểu khác sẽ lên tàu hải quân ra khơi, thăm lại những người anh em lính biển nhân kỷ niệm 20 năm DK1. Hơn 250 hải lý là hải trình chúng tôi sẽ vượt qua để đến nhà giàn gần nhất.
    Luôn sẵn sàng ra đi
    Trong chuyến đi trước vào tháng 5-2009, có một hình ảnh thật khó quên khi con tàu HQ 957 đành tạm biệt nhà giàn ở Phúc Tần vì không thể nào đưa người lên được: tất cả anh em nhà giàn khi ấy đã trèo lên nóc, vừa nhảy vừa hô vang gì đó, vừa phất cờ đỏ sao vàng vẫy chào mọi người trên tàu. Chúng tôi lặng người đi: Bao nhiêu lâu rồi những con tàu chưa ghé? Bao nhiêu lâu rồi họ chưa về đất liền? Bao nhiêu lâu rồi họ chưa gặp lại người thân?... Con tàu dần xa để lại những nhà giàn cô đơn giữa biển.
    20 năm qua, vì nhiều lý do hoạt động của DK1 và những người lính ?ođầu đội trời, chân không đạp đất? này hầu như không được công khai. Họ hi sinh cũng trong thầm lặng. Ngay như Tuổi Trẻ cũng không có được dòng tin nào về cái ngày 13-12-1998 tang tóc khi nhà giàn 2A sập đổ: 3 người hi sinh, 6 người trôi giạt 14 giờ liền trong bão biển. Còn giờ đây, mọi người có thể biết được nhiều chuyện về 15 nhà giàn với hàng trăm anh em bám trụ trên vùng biển rộng ở phía đông, cách TP.HCM khoảng 600km.
    ?oNhưng có chuyện cười ra nước mắt là ngay cả cán bộ rất nhiều nơi lại cứ tưởng DK1 là dầu khí, anh em chiến sĩ DK1 ăn lương dầu khí. Đâu phải, hai bên đâu có liên quan gì nhau. Bên dầu khí làm mỗi tháng 15 ngày ở giàn khoan, 15 ngày kia vào nghỉ trong bờ, thu nhập cũng khá. Còn anh em DK1 ăn lương lính, chế độ lính và đi biền biệt, có khi bố mẹ chết cũng không cách nào về được, rồi gia đình vợ con...? - đại tá lữ đoàn trưởng 171 Lê Việt Hùng trầm giọng nói vậy. ?oCuộc sống thiếu thốn, gian khổ đấy, nhìn thấy đồng đội hi sinh đấy - đại tá Hùng nói tiếp - nhưng không cán bộ chiến sĩ DK1 nào tỏ ra dao động, nao núng tinh thần. Họ luôn sẵn sàng ra đi, và đến giờ chưa ai từ chối nhận nhiệm vụ ở DK1?.
    Vị đại tá này không nói ngoa. Nằm nghỉ trong doanh trại lữ đoàn 171 một trưa tháng 5, chúng tôi cứ xao động với những câu chuyện nghe được về những chiến sĩ DK1. Như Bùi Xuân Bổng tưởng đã chết khi sập nhà giàn, thế mà vài tháng sau lại lên tàu nhận nhiệm vụ ở một nhà giàn khác. ?oSợ gì, đi tiếp!?, Hồ Thế Công - người đồng đội cùng thoát chết với Bổng - cũng đã nói vậy, rồi lên đường. Như Nguyễn Hữu Tôn, vị thiếu tá hiền như cục đất Bắc Ninh, tưởng cũng đã vĩnh biệt vợ con năm 1998, thế mà ít lâu sau lại thấy quay ra biển cùng anh em. Anh đã chia 20 năm trai trẻ của mình cho 10 nhà giàn DK1...
    Có một điều chắc chắn rằng: thiếu tá Bổng, thiếu tá Tôn và những sĩ quan hải quân 171 chúng tôi gặp đều ghi trong lòng lời tuyên thệ mà đại tướng Lê Đức Anh đọc vang trên biển Đông ngày 7-5-1988: ?oChúng ta xin thề trước hương hồn của tổ tiên ta, trước hương hồn của các cán bộ chiến sĩ đã hi sinh vì Tổ quốc, xin hứa trước đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau: quyết tâm bảo vệ cho được Tổ quốc thân yêu của chúng ta...?. Là người lính, họ phụng sự đất nước. Và lời thề trên biển Đông kia cũng là điều thiêng liêng nhất mà họ khắc ghi để kiên cường đối diện kẻ thù, để chống chọi với bão tố và vượt qua bao gian khổ giữa trùng khơi.
    So với mười mấy năm trước, cuộc sống của những người lính DK1 bây giờ đã đỡ hơn rất nhiều. Những nhà giàn giờ vững chắc hơn, an toàn hơn. Chuyện ăn uống cũng được cải thiện đáng kể. ?oNhưng, bạn có biết không - một sĩ quan DK1 nói - cho đến nay nhiều nhà giàn vẫn không đủ nước ngọt và nước sạch vào mùa khô. Tất cả phải trông cậy vào trời và nước mưa được trữ trong những bồn chứa lâu ngày gỉ sét. Rau xanh đương nhiên thiếu dù anh em đã tận dụng trồng mọi nơi, mọi lúc có thể. Sóng điện thoại không có nên không thể liên lạc với gia đình, người thân như các đảo ở Trường Sa. Còn điện do chạy máy phát nên chỉ đủ đáp ứng cho nhu cầu thông tin liên lạc và thắp sáng tối thiểu...?.
    DK1 rực sáng biển đêm, tại sao không?
    Một câu hỏi không thể thiếu trong cuộc trò chuyện với lữ đoàn trưởng 171 Lê Việt Hùng: ?oAnh em ở nhà giàn cần gì nhất??. Vị đại tá trả lời rất nhanh: ?oMột: điện, hai: nước sạch, ba: chảo parabol...?. Rồi ông nói rõ thêm: ?oAnh em nhà giàn rất cần hệ thống lọc nước sạch để ăn uống hằng ngày, nhất là vào mùa khô. Chảo parabol để xem, nghe đài, các nhà giàn đều có nhưng đã quá cũ và dễ hỏng. Nhưng nhu cầu bức thiết nhất là điện, điện mặt trời, cả 15 nhà giàn đều đang rất cần?.
    Tại ?ođại bản doanh DK1?, trung tá tiểu đoàn trưởng cũng xác nhận điều đó: ?oCái khó nhất của anh em chúng tôi là nguồn điện sinh hoạt. Hiện nay ở các nhà giàn đều có máy nổ phát điện, nhưng nguồn điện đó ưu tiên phục vụ công tác sẵn sàng chiến đấu, thông tin liên lạc, còn việc sử dụng cho sinh hoạt như thắp sáng, xem tivi... thì rất hạn chế. Mà máy nổ thì đều cũ, lại ít đổi nên dễ trục trặc?.
    Vậy ở nhà giàn ban đêm thắp sáng được bao lâu? ?oChỉ khoảng ba tiếng - chính trị viên tiểu đoàn DK1 Nguyễn Thế Dĩnh cho biết - Nếu có giàn điện mặt trời có thể thắp sáng suốt đêm và bảo đảm cho nhu cầu sinh hoạt, giải trí của anh em. Năm 2006, đoàn công tác của TP.HCM đã tặng bộ pin mặt trời cho ba nhà giàn, nghe nói khoảng 80 triệu đồng một bộ, đến nay chúng tôi thấy kết quả rất tốt, không chỉ cho sinh hoạt đâu anh... Ngoài ra, việc nhà giàn được thắp sáng suốt đêm sẽ giúp anh em bảo vệ an toàn cho nhà giàn vào ban đêm và giúp tàu bè qua lại thuận tiện trong vùng biển này. Nếu tất cả nhà giàn ở thềm lục địa này đều rực sáng trong biển đêm thì thật thiết thực và đầy ý nghĩa?.
    Nhớ rồi, ?oRực sáng Trường Sa? - đó là tít lớn trên Tuổi Trẻ cách nay không lâu. Và đêm ở đảo Trường Sa Lớn chúng tôi cũng đã đi dưới ánh sáng đó - ánh sáng tích từ những bộ pin năng lượng mặt trời do nhiều cơ quan đơn vị trong cả nước đóng góp hỗ trợ. Nhờ vậy, nhiều đảo ở Trường Sa của chúng ta bây giờ không còn chìm trong bóng tối biển đêm. Vậy tại sao chúng ta không thể cùng góp tay để làm cho những nhà giàn DK1 - những cột mốc chủ quyền đặc biệt trên thềm lục địa phía Nam - rực sáng về đêm? Tại sao không?
    Chúng tôi lại chợt nhớ cách nay gần hai tháng, từ đài chỉ huy tàu HQ 957, Bí thư Trung ương Đoàn Phan Văn Mãi đã nói qua sóng bộ đàm với anh em nhà giàn DK1 Phúc Tần thế này: ?oChúng tôi xin hứa rằng: tuổi trẻ đất liền luôn hướng về các anh và sẽ luôn bên cạnh các anh!?. Một lời động viên tinh thần qua làn sóng điện như thế cũng đủ làm xúc động những người lính trẻ xa nhà. Nhưng vẫn chưa đủ. Có nhiều điều chúng ta có thể làm, có thể góp tay cùng nhau để khẳng định rằng không ai bị lãng quên, không ai cô đơn khi nơi đầu sóng ngọn gió họ hiến trọn tuổi thanh xuân của mình cho đất nước.
    BÙI THANH - LÊ ĐỨC DỤC
    Link tham khảo : http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=323407&ChannelID=89
    Được tricksy_bee sửa chữa / chuyển vào 12:03 ngày 26/06/2009

Chia sẻ trang này