1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trương Thái Du tiếp tục lịch sử

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Ledung18, 17/12/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    1- Thôi khỏi bàn về cái nick. Cái nick không có gì đặc biệt với bạn nhưng hơi lạ với tôi.
    2-Cái tên Việt Thường đã được ghi trong sử sách đó là tên mà Hùng vương đặt khi đi sứ. Bác không tin thì tuỳ, không bàn đến nữa.
    Văn Lang là dòng dõi chính thống của nước Xích Quỷ, bờ cõi lúc đầu gồm hết miền Nam Trường Giang, sau này lùi dần về phía Nam chỉ còn 15 bộ. Âu Lạc là sự kết hợp của Tây Âu và Văn Lang(Lạc Việt), chính sử hiện nay cũng chép như thế. Vậy Âu Lạc là nối tiếp Văn Lang rồi còn gì.
    3-Hoa Hạ, thời cổ là giống dân du mục ở Tây Bắc Trung Quốc hiện nay.
    Lạc Long Quân là dòng dõi Thần Nông.
    Người Hoa Hạ
    cũng
    xem Thần Nông là 1 trong 3 vị vua thời xưa của mình.
    Thần Nông là ai?
    Thần Nông là một vị thần có nguồn gốc từ phương Nam (từ phía Nam sông Trường Giang xuống đến hết Việt Nam ngày nay, đó là vùng đất cư trú của cư dân Bách Việt). Sau khi nước Trung Hoa mở rộng từ phía Tây Bắc sang phía Đông(giai đoạn một), rồi từ phía Bắc xuống phía Nam(giai đoạn hai) thì Thần Nông được người Trung Hoa sát nhập vào văn hóa của họ và được coi là một trong các "ông vua" đầu tiên của họ. Thực ra trước đó, Thần Nông đã được coi là "ông tổ" của một số bộ tộc Bách Việt. Và sau này, do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa rất mạnh, nhiều người lầm tưởng người Việt nhận một ông vua Trung Hoa làm ông tổ của mình.
    Người Hoa Hạ thời cổ chỉ biết chăn nuôi du mục trên các đồng cỏ làm gì biết tròng lúa nước như người Bách Việt phương Nam. Sau này họ bành trướng sang phía Đông, xuống phía Nam mới nhận vơ là Thần Nông là một trong các ông vua đầu tiên của mình.
    4-Như đã nói Âu Lạc= Tây Âu+Văn Lang(Lạc Việt). Cư dân Âu Lạc là người Việt. Bác nghi ngờ điều này nhưng đừng nói rằng cư dân Âu Lạc là người Hoa Hạ!
    5-Văn Lang đánh nhau với giặc Ân vào đời Hùng vương thứ 6, lúc đó lãnh thổ là vùng Nam Trường Giang. Đi sứ là để tìm hiểu, vượt ngàn dặm đến vương triều Chu. Tại sao lại không nhỉ? Còn các tộc Dương Việt, Mân Việt theo lí thuyết là có thể, nhưng họ không còn độc lập nữa, không còn sách sử nào ghi lại thì biết làm sao được?
    6-Triệu Đà là quan lại của nhà Tần, nước Nam Việt đã có ở vùng Quảng Đông rồi, trước khi bị quân Tần chiếm lập thành quận Nam Hải, sau này Đà lập ra nước Nam Việt là dựa trên nền tảng nước Nam Việt(Nam Hải) trước đó. Với lại Đà đánh chiếm được Âu Lạc sáp nhập vào nước Nam Việt của mình, thì Âu Lạc là gồm hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt.
    Mân Việt hay là Dương Việt, cùng với các tộc Lạc Việt, Âu Việt có liên hệ về văn hoá, phong tục nên người Hoa Hạ mới gọi chung là Bách Việt, có thế thôi sao lại nói là "vơ đũa cả nắm" nhỉ?
    Người Tiên Ti, Thác Bạt, Khiết Đan,... bị người Hán "quơ đũa" là "người Hồ". Chỉ có điều bọn họ không bao giờ tự nhận mình là người Hồ. Vâng họ ở miền Đông Bắc, không như người Mông Cổ ở miền Bắc, Tây Bắc mới là người Hồ như người Hoa
    Hạ gọi.
    7-Truyền thuyết, zã sử nói: Thần Nông là tổ của Viêm Việt, Kinh Dương vương-Âu Cơ-Lạc Long Quân là tổ của Bách Việt, Hùng vương là tổ của Lạc Việt. Truyền thuyết này được Trần Thế Pháp góp nhặt trong dân gian mà viết trong "Lĩnh Nam Trích Quái", thời Lê thì Ngô Sĩ Liên ghi trong "Đại Việt Sử Kí Toàn Thư". Các bản Ngọc phả viết về dòng họ vua Hùng cổ nhất là vào thời vua Lê Đại Hành. Truyền thuyết, zã sử tôi không thấy có nhắc đến danh từ Việt, danh từ Việt mới xuất hiện vào thời Hùng vương với tên Việt Thường.
  2. vnhn

    vnhn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2004
    Bài viết:
    840
    Đã được thích:
    0
    mạn phép post một bài của một bác bên lichsuvn,hơi bị dài một chút nhưng gửi bác chauphi,bác đọc kỹ một chút nhé,đừng thấy dài quá là không muốn đọc:
    Đề tài chính của bài này: Chuyện 18 đời vua Hùng Vương có thật hay không? Con số 18 có chính xác chỉ 18 đời vua hay không? Hoặc giả được ghi sai chép trật? Từ 80 đời hoặc 180 đời, chép lộn ra thành 18 đời? Hoặc không có gì hết.
    Sau đây xin quan sát ''chuyện 18 đời'' dưới một góc độ tương đối mới, và sẽ cố gắng tránh đề cập đến những vấn đề liên hệ, như: trăm con, gốc gác Âu Cơ và Lạc Long Quân, Hùng Vương, Văn Lang, v.v. Xin để dành cho những dịp khác.
    Viết về Họ Hồng Bàng, quyển Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim [1] có chép:
    ''Cứ theo tục truyền thì Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
    Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải.
    Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây Lịch?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.
    Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ một lần được một trăm người con trai. Lạc Long quân bảo Âu Cơ rằng: ''''Ta là dòng dõi Long-quân, nhà ngươi dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nay được trăm đứa con thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, còn 50 ta đem xuống bể Nam Hải.''''
    Sau đó vẫn theo ''truyền thuyết'' Lạc Long Quân phong cho người con trai trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương. Hùng Vương cai trị nước Văn Lang theo lối cha truyền con nối đến 18 đời, thì bị Thục Phán, từ biên cương phía Bắc, đánh bại. Thục Phán lên ngôi, xưng là An Dương Vương, đổi quốc hiệu là Âu Lạc. Đó là năm 258 trước Công Nguyên (TCN).
    Theo sách vở cũ, các đời vua Hùng bắt đầu từ năm 2879 và kết thúc vào 258 TCN. Tổng cộng 2622 năm. Nếu chia ra 18 đời thì mỗi một đời vua kéo dài trung bình 146 năm. Một chuyện hết sức hoang đường, nếu nhớ: (i) Các triều đại vua chúa bên Tàu vào thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo dài trung bình khoảng 10-20 năm, như Châu Trang Vương (696-682 TCN), 14 năm chẳng hạn; và (ii) Đời sống con người thời đó trung bình chỉ kéo dài khoảng 50 năm. Hơn thời sống trong hang động chừng 20 năm.
  3. vnhn

    vnhn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2004
    Bài viết:
    840
    Đã được thích:
    0
    Đại Việt Sử Ký Toàn Thư [2], xuất hiện khoảng 1479 dưới đời vua Lê Thánh Tôn, chính là bộ sử đầu tiên đưa truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân, rồi Hùng Vương vào sử sách nước Việt. Trước thời Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, có 2 bộ sử nữa, nhưng hoàn toàn không đề cập đến truyền thuyết Lạc Long Quân. Đó là Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu, xuất hiện năm 1272, và Đại Việt Sử Lược với tác giả khuyết danh, ra đời trong khoảng cuối thế kỷ 14 dưới đời nhà Trần. Bộ sách của Lê Văn Hưu, tuy thất truyền từ lâu nhưng phần lớn được Ngô Sĩ Liên xử dụng khi soạn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Đại Việt Sử Lược thất lạc nhiều năm, nhưng về sau được một vị quan nhà Thanh tìm được ở một thư khố bên Tàu.
    Chuyện tích vua Hùng với 18 đời, cùng những truyền tích khác như: Phù Đổng Thiên Vương, Sơn Tinh Thủy Tinh,..., thật ra được Ngô Sĩ Liên nhập vào bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, từ những sách thuật chuyện u linh hoang đường như: ''Việt Điện U Linh Tập'', và ''Lĩnh Nam Chích Quái'', xuất hiện trong khoảng thế kỷ 14. Đặc biệt ''Lĩnh Nam Chích Quái'', do tiến sĩ Vũ Quỳnh hiệu đính, thuật lại những chuyện thần thoại ở khu vực phía Nam rặng núi Ngũ Lĩnh (Lĩnh Nam), tức phía Nam của nước Sở ở vào thời Xuân Thu Chiến Quốc xa xưa (722-221 TCN).
    Trở lại với năm đầu và năm cuối của thời Hồng Bàng. Trần Trọng Kim dùng thẳng tài liệu của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (2879-258 TCN) - nhưng đặt thêm một dấu hỏi (?) sau năm khởi đầu: 2879 TCN. Bởi thật ra, chính Ngô Sĩ Liên cũng chỉ đề cập đến 18 đời ở bên ngoài phần ''Ngoại Kỷ'' (từ thời Hồng Bàng đến Ngô sứ quân). Đặc biệt Ngô Sĩ Liên có chép lời bàn ở cuối ''chương'' về thời Hồng Bàng [2], bày tỏ mối ngờ vực về truyền thuyết Âu Cơ: ''Cái thuyết nói 50 con theo mẹ về núi, biết đâu không phải là thế''. Còn Sơn Tinh Thủy Tinh thì ông cho: ''rất là quái đản, tin sách chẳng bằng không có sách, hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi''.
  4. vnhn

    vnhn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2004
    Bài viết:
    840
    Đã được thích:
    0

    Ngô Sĩ Liên đã đoán rất đúng: Khi nhét các truyền tích vào cổ sử, ông đã tiếp tục gieo nghi ngờ và thắc mắc với mọi người Việt từ lúc đó cho mãi đến ngày nay. Mặc dù đã căn dặn kỹ: ''tin sách chẳng bằng không có sách'' (tận tín thư bất như vô thư) [7].
    Mãi cho đến cuối thế kỷ 20, nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đã đưa đến một số điều chỉnh về năm tháng. Trong đó niên đại kết thúc đời Hồng Bàng (và bắt đầu thời Thục Phán) được dời về năm 208 TCN (xem ghi chú trong [3]). Đặc biệt, gần đây, họ phối hợp những luận cứ dựa trên các khám phá khảo cổ học về thời đại văn minh Đông Sơn với một đoạn ngắn của quyển Đại Việt Sử Lược [2], thất truyền lâu năm nhưng về sau tìm lại được ở thời Mãn Thanh (bên Tàu):
    ''Đền đời Trang Vương nhà Châu [4] (696-682 TCN), ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu là Văn Lang, phong tục thuần lương chơn chất, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đời, đều xưng là Hùng Vương''.
    Xin chú ý đến một vài điểm:
    (i) Đại Việt Sử Lược vẫn cho thời đại Hùng Vương kéo dài 18 đời.
    (ii) Không có ghi chi tiết Cha Mẹ của Hùng Vương. Tức ''giấy khai sinh'' của Hùng Vương không có tên Lạc Long Quân và Âu Cơ.
    (iii) Vua Hùng thứ nhất khởi đầu ''sự nghiệp'' vào khoảng năm 688 TCN, và kết thúc vào năm 208 TCN. Bình quân 26 năm cho mỗi một đời vua.
    (iv) Chính sự dùng dây kết nút để... truyền thông với nhau. Tức không có chữ viết. Không có sử sách gì hết. Tức không giống như văn minh Hoa Hạ ở khu vực bình nguyên sông Hoàng Hà.
    Tóm tắt:
    - Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, 18 đời vua Hùng: 2879-258 TCN
    - Theo nhiều tài liệu sử hiện nay, dựa trên tài liệu khai quật và Đại Việt Sử Lược, 18 đời Hùng Vương: khoảng 688-208 TCN
    Thế nhưng vẫn có nhiều người hãy còn ... ''ấm ức'' không đồng ý, bởi làm như vậy số năm văn hiến của nước Việt sẽ bị rút xuống còn dưới 3000 năm, thay vì 4000 năm văn hiến như xưa. (Xem [8]). Tức trong khi văn minh Hoa Hạ đã nở rộ, đời sống con người ở nước Nam hãy còn khá ...man di.
  5. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Đúng ra thì phía bắc Quảng Đông có dãy núi Nam Lĩnh, mà
    người ViệtNam ta gọi là núi Ngũ Lĩnh. Dãy núi này chạy dài
    từ Tây sang Đông, làm cho thông thương giữ miền trên và
    Quảng Đông khó khăn. Vì thế, Triệu Đà mới dễ dàng tuyên bố
    độc lập mà hùng cứ một vùng rộng lớn màu mỡ phía nam dãy
    núi, gọi là miền Lĩnh Nam. Theo tiếng Hán, thì Nam Lĩnh có
    nghĩa là núi nam, còn Lĩnh Nam thì có nghĩa là miền nam của
    dãy núi. Sau đó, chính quyền trung ương san núi xẻ đồi, làm
    đường giao thông, cho thông thương suốt từ bắc đến tận thành
    phố Quảng Châu thuận tiện, và dẹp loạn vùng này trở nên một
    vùng nước thuận dân an.
    Đường từ miền trung xuống miền nam, tức là xuống tỉnh Quảng
    Tây, thì không đi qua tỉnh Quảng Đông, hay thành phố Quảng
    Châu, mà đi vòng qua đầu phía tây của dãy Nam Lĩnh . Mãi sau
    này, mới có đường đi từ Quảng Đông đến Quảng Tây. Nói về
    mặt dân tộc và thuận trị, thì Quảng Tây nhiều man di bướng bỉnh
    khó trị hơn Quảng Đông, là tỉnh vốn nhiều người Hán hơn.
    Không hiểu vì sao các nhà viết sứ ViệtNam ngày xưa thích nhận
    Quảng Đông vào nước ta mà không thích Quảng Tây, là một
    vùng nhiều dân tộc gần gũi với dân tộc Kinh hơn, và giao thông
    gần gũi, đường sá dễ dàng hơn, lại sát nách nước ta, chứ
    không cách hàng trăm kilômét như ngày xưa và như ngày nay..
    Lĩnh Nam Trích hay Chích Quái chỉ kể đến Quảng Đông mà
    không đếm xỉa đến Quảng Tây.
  6. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Tôi cũng bảo vệ quan điểm rằng lãnh thổ người Việt bao gồm miền Nam sông Trường Giang, tôi cũng mạn phép mượn một bài viết của một tác giả không rõ tên để trả lời.
    Nhà nước Văn Lang của các Đức Vua Hùng và của người Việt cổ là như thế nào, cụ thể ở trên các phương diện, chính trị, văn hoá, pháp luật, khoa học, tín ngưỡng, tập tục và đặc biệt nhất là nguồn gốc dân tộc và cương giới lãnh thổ, đấy là điều những người có tâm huyết với nước nhà thường phải quan tâm.

    Lẽ gì người tâm huyết phải quan tâm? Bởi đơn giản chúng sẽ có tầm ảnh hưởng cực kỳ to lớn tới ý thức hệ của mọi con dân Việt. Chúng ta sẽ chẳng thể làm nên công cuộc vĩ đại đánh Pháp đuổi Mỹ nếu như chúng ta không được hun đúc bằng một sức mạnh ý thức lớn lao rằng tổ tiên xưa từng đã lập nên những chiến công quân sự vĩ đại. Tương tự vậy chúng ta sẽ chẳng thể dựng xây nên một quốc gia hùng mạnh trên mọi phương diện khi chúng ta quá nặng tự ty trong ý thức hệ về nguồn cội của mình, 1000 năm thuộc Tàu, 1000 năm hưng quốc lại vẫn bị coi là mang nhiều hơi hướng ảnh hưởng của Tàu, vậy thì trước đó ra sao? Điều này quả thật có ý nghĩa vô cùng...
    Nước Văn Lang xưa, về các Đức Vua Hùng và những gì chung quanh, phần lớn đều cực kỳ ảo mờ. Những nhà viết sử, những nhà văn hoá, và những nhà khoa học có tâm huyết thường cố gắng để tìm ra cho bằng được những tia sáng đáng tin cậy để rọi sáng về thời kỳ huyền ảo xa xưa ấy. Tập hợp khá nhiều sách vở liên quan đến, thì chúng ta sẽ thấy, có ba giả thuyết hay chính xác hơn là ba học thuyết đã và đang tồn tại liên quan đến những vấn đề lớn lao này:
    Học thuyết thứ nhất: cho rằng nhà nước Văn Lang của các Đức Vua Hùng và người Việt cổ là một nhà nước nhỏ bé trên mọi phương diện và là dạng nhà nước phôi thai đơn giản mới thành hình.
    Học thuyết thứ hai: phản đối lại rất quyết liệt, rằng nhà nước Văn Lang là một nhà nước rộng lớn hùng mạnh tồn tại lâu đời có một nền văn minh rực rỡ.
    Học thuyết thứ ba: là sự cố gắng dung hoà ở cả hai học thuyết trên, tuy nhiên khiên cưỡng và gượng gạo, chưa hề đủ sức thuyết phục, thế nên chúng ta tạm không bàn.
    Lần lượt chúng ta hãy thử sơ lược tìm hiểu hai học thuyết đáng chú ý đã đề cập:
    1-Nhà nước Văn Lang qua chính sử:
    Sách vở nhà trường dạy cho học sinh tiểu học nói đại ý rằng:
    "...Cách đây 4 thiên niên kỷ, cư dân Việt cổ đã sống rải rác nhiều nơi khắp miền Bắc Việt Nam bây giờ, tập trung nhiều nhất là đồng bằng sông Hồng và sông Mã.
    Sau hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, cư dân Việt cổ có những biến đổi to lớn trong sản xuất và trong xã hội. Dẫn đến đã có phân chia giai cấp nhưng chưa gay gắt. Thông thường thì nhà nuớc đầu tiên của một xã hội ra đời khi có mâu thuẫn giai cấp gay gắt, nhưng nhà nước Văn Lang không đi theo lẽ thường ấy, mà hình thành nên bởi việc người Việt cổ phải liên kết nhau để chống thiên tai và địch hoạ thường xuyên quấy phá.
    Sách giáo khoa cũng nói, theo truyền thuyết và sử cũ thì lúc bấy giờ ở lưu vực sông Hồng, sông Cả, sông Mã có 15 bộ lạc Lạc Việt, đứng đầu mỗi bộ lạc là các thủ lĩnh. Trong 15 bộ lạc ấy thì bộ lạc Văn Lang mạnh nhất, địa bàn rộng, có vị thủ lĩnh tài giỏi, đóng vai trò trung tâm tập họp các bộ lạc khác và trở thành thủ lĩnh liên minh bộ lạc rồi chuyển thành người cầm đầu cả 15 bộ lạc. Người thủ lĩnh ấy xưng vua, gọi là vua Hùng, đóng đô ở Bạch Hạc, cha truyền con nối. Cả nước chia ra 15 bộ (vốn là 15 bộ lạc cũ), đứng đầu mỗi bộ là Lạc tướng, cũng cha truyền con nối.
    Sách giáo khoa nói, quân đội thường trực và luật pháp chắc bấy giờ chưa có. Mỗi khi chiến tranh thì huy động lực lượng vũ trang của các công xã. Việc thưởng phạt thì tuỳ theo phong tục tập quán từng công xã, từng bộ mà áp dụng.
    Sách giáo khoa khẳng định, nhà nước Văn Lang của các vua Hùng thuộc kiểu nhà nước đơn giản, mới thành hình, nhưng đã góp phần quan trọng vào việc cố kết lòng người của toàn bộ cộng đồng công xã Lạc Việt để dựng nước và giữ nước..."
    2-Nhà nước Văn Lang qua truyền thuyết zã sử:
    Tất cả các truyền thuyết chép trong các sách nghiêm túc đều nói, đại ý:
    "Khởi nguồn dân tộc ta là từ Cha Rồng Lạc Long Quân và Mẹ Tiên Âu Cơ, sinh ra bọc trăm trứng, nở thành trăm con trai, một nửa theo mẹ lên rừng, nửa theo cha xuống biển cai trị khắp muôn nơi. Con đầu lên ngôi vua đóng đô ở Phong Châu, về sau thường được gọi là Hùng Vương. Nhà nước của các Đức Vua Hùng và người Việt cổ gọi là Văn Lang. Lãnh thổ Văn Lang rất rộng lớn, gồm 15 bộ, bắc giáp động Đình Hồ, nam giáp Hồ Tôn tức nước Chiêm Thành xưa, tây giáp Ba Thục, đông giáp Đông Hải.
    Các Đức Vua Hùng 18 lần nối tiếp nhau trị vì và xây dựng đất nước, ước được gần ba thiên niên kỷ, đến cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên thì nhà nước Văn Lang chấm dứt."
    Đặc biệt truyền thuyết này được chép rất kỹ trong Lĩnh Nam Chích Quái, là cuốn sách cổ tập hợp những truyền thuyết trong dân gian có từ thời nhà Trần nhưng bị thất lạc không rõ tác giả, đến thời nhà Lê thì Trần Thế Pháp tìm ra ghi chép lại và Vũ Quỳnh có sửa đổi bớt thêm.
    Câu chuyện huyền sử này luôn ám ảnh những học giả tâm huyết giàu lòng tự tôn dân tộc. Họ không thể nào ngây ngô trước những nhận định về một nhà nước Văn Lang nhỏ bé phôi thai như trên đã trình bày. Càng ngày các học giả ấy càng tìm thấy có nhiều tia sáng tin cậy để rọi về quãng khuyết sử xa xưa, cho thấy rằng quả thật đã từng tồn tại một nhà nước rực rỡ của người Việt cổ. Tuy các học giả này mỗi người đi theo một đường lối riêng và vì vậy nhìn thấy rõ được riêng mỗi mảng khác nhau của quá khứ, nhưng tập hợp lại các sách của họ sẽ thấy hiện ra một nhà nước Văn Lang cổ đại khiến bất kỳ ai cũng kinh ngạc. Nó gần như trái ngược hẳn về một nhà nước Văn Lang nhỏ bé đáng tự ty mà học sinh tiểu học đang được nghiền ngẫm trên ghế nhà trường. Nhưng tiếc thay học thuyết thứ hai này lại rất ít được phổ biến.
  7. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Trước tiên, chúng ta đi tìm sự giải đáp cho thuyết thứ hai, tức thuyết cho rằng nhà nước Văn Lang chỉ là một nhà nước đơn giản phôi thai và tồn tại ngắn ngủi khoảng 3 thế kỷ.
    Phải nói rằng đây là một thuyết duy lý, nghĩa là thuyết duy trì sự chứng minh giải đáp bằng lý luận lý trí, khởi đầu mà chúng ta thấy rõ nhất là từ nhà sử học danh tiếng Ngô Thì Sĩ thuộc dòng Ngô Gia Văn Phái đã làm nên bộ kiệt tác sử Hoàng Lê Nhất Thống Chí nổi tiếng. Trước Ngô Thì Sĩ cũng đã có nhiều nhà lý luận của nước Việt thắc mắc hồ nghi, chẳng hạn sử thần Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư (năm Chính Hoà - 1697) cũng tỏ ra thắc mắc nghi ngờ, tuy nhiên đến sử thần Ngô Thì Sĩ thì mới có sự đặt vấn đề triệt để thấu đáo hơn cả. Nếu chỉ đọc qua hai lời bàn của Ngô Sĩ Liên và Ngô Thì Sĩ về thời Hồng Bàng thì thoạt ngỡ chúng có vẻ giống nhau, tuy nhiên đọc kỹ sẽ thấy chúng chứa đựng hai tinh thần hoàn toàn khác, lời bàn của Ngô Sĩ Liên là đặt sự nghi ngờ để người đời sau suy xét thêm còn Ngô Thì Sĩ thì phản bác bài xích hoàn toàn...
    Trong Đại Việt sử ký tiền biên, sử thần Ngô Thì Sĩ đặt vấn đề như sau:
    - " Trước thời Hồng Bàng, cho rằng chưa có vua chăng? Hay là có vua? Sẽ khảo cứu vào đâu? ..."
    - "Sử chép: Đế Minh lấy con gái Vũ Tiên sinh được Kinh Dương Vương (...) có thể có lý. Còn như việc Kinh Dương Vương lấy con gái vua Động Đình, Long Quân lấy Âu Cơ, dưới nước trên cạn kết hôn nhau, lời nói không hợp lẽ thường. Tôi trộm nghĩ, trời đất từ khi mở mang đến nay, nước ta ở nơi hoang phục xa xôi (...) vẫn là cái đầm của rồng rắn, ma quỷ. Những chuyện quỷ quái chỗ nào mà không có..."
    - "Nước ta khi ở thời Lạc Long, Hùng Vương, vua với dân cùng cày, cha với con cùng tắm, không phải đề phòng, không phân cấp bậc. Rào gai là có thể ở được, người và vật ở chung, ruộng hoang cũng có thể cày, tuỳ theo nước triều lên xuống. Dân với nhau trong ấy, chơi đùa với nhau trong khu vực không nóng không lạnh. Người già chết đi, trẻ con lớn lên không biết đến binh đao, qua lại ở nhờ với nhau. Có thể gọi là đời rất đạo đức, nước rất vui vẻ đấy. Bậc quân trưởng thì cũng cảm hoá ngồi yên lặng thuần hoá dân (...), không có sự phiền nhiễu đốc thúc, không có sự phiền hà về thuế khoá, không có sự quấy nhiễu sai phái, không bó buộc cẩn mật, không bị thay đổi về ăn về ở. Vua với dân thân nhau đến vài nghìn năm không có gì khác..."
    - "Kinh Dương Vương đến Hùng Vương gồm 20 đời, cộng lại 2622 năm, nhiều ít chia đều mỗi đời vua là 130 năm. Người chứ đâu phải vàng đá mà hết thảy đều sống lâu như ông Bành Tổ, là điều lại càng không thể tin được...."
    - Cũng bằng cách duy lý như trên mà sử thần Ngô Thì Sĩ bài bác những điều ông cho là quái đản trong các truyền thuyết, cha Rồng mẹ Tiên, bọc trăm trứng, Phù Đổng Thiên Vương, Sơn Tinh Thuỷ Tinh và đặc biệt nhất ông có một thiên phản thuyết rất hùng hồn về Triệu Đà Vương bác bỏ kỷ nhà Triệu do Triệu Đà xây dựng nên không cho rằng là nhà nướcNam Việt thuộc người Việt như các sử trước trân trọng công nhận..."
    Có thể thấy rằng về khía cạnh lý luận, nhà sử học Ngô Thì Sĩ đã đặt ra những vấn đề mà thoạt nghe chúng ta thấy chí lý. Rất chí lý. Rõ ràng ông rất thông minh, lời bàn của ông được nhận định qua cái lý cụ thể chứ không sa vào sự mơ hoặc huyền ảo. Chẳng hạn ở đoạn đầu tiên đã trích dẫn thì ông nghi vấn về thời Hồng Bàng, sẽ khảo cứu ở đâu cho chắc chắn, khi chẳng có sách vở thời ấy ghi chép lại. Hoặc như đoạn thứ hai ông bác bỏ những điều huyễn hoặc, nên biết thời kỳ này Phật giáo rất hưng thinh, từ vua cho đến dân đều tin tưởng vào huyễn hoặc thần thánh, bởi vậy sự bác bỏ mê tín cho thấy lý trí sáng suốt của ông. Đặc biệt nhất ở đoạn bốn, ông phân tích các vua Hùng không thể sống trung bình 130 năm để bác bỏ một nhà nước Văn Lang kéo dài đến gần 3 thiên niên kỷ... Chính bởi những lập luận duy lý ấy của sử thần Ngô Thì Sĩ đã tạo nên một hệ thống lý luận khá chắc chắn và về sau này nhiều sử gia đã đi theo trường phái do ông nhận định để xác định về cội nguồn của dân tộc. Có thể nêu tên ngay những nhà sử học nổi bật gần đây, thời cận đại là lệ thần Trần Trọng Kim, thời hiện đại là học giả Đào Duy Anh.
    Trong cuốn Việt Nam sử lược, lệ thần Trần Trọng Kim viết:
    "Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam , xưng là Kinh Dương vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
    Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình (Hồ Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Nam Hải.
    Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây lịch?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.
    Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ một lần được một trăm người con trai. Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng : "Ta dòng dõi Long quân, nhà ngươi là dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được, nay được một trăm đứa con thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, còn 50 đứa ta đem xuống bể Nam Hải".
    Gốc tích truyện này có lẽ là từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỷ chia ra những nước gọi là Bách Việt. Bởi vậy ngày nay đất Hồ Quảng (tỉnh Hồ Nam, tỉnh Quảng Đông và tỉnh Quảng Tây) còn xưng là đất Bách Việt. Đấy cũng là điều nói phỏng, chứ không lấy gì làm đích xác được...
    ...Họ Hồng Bàng là vua được 18 đời, đến năm Quý Mão (158 tr.Tây lịch) thì bị nhà Thục lấy mất nước.
    Xét từ thời Kinh Dương Vương đến đời Vua Hùng, cả thảy 20 ông vua, mà tính từ năm Nhâm Tuất (2879 tr.Tây Lịch) đến năm Quý Mão (258 tr.Tây Lịch) thì vừa được 2622 năm. Cứ tính hơn bù kém, mỗi ông vua trị vì được non 150 năm! Dẫu là người đời thường cổ nữa, thì cũng khó lòng sống lâu được như vậy. - Xem thế thì đủ biết truyện đời Hồng Bàng không chắc là chuyện xác thực....
    ...Tóm lại mà xét, nước ta khởi đầu có quốc sử từ cuối thế kỷ13: Đến đời Thánh Tông nhà Trần, mới có quan Hàn Lâm học sĩ Lê Văn Hưu soạn xong bộ Đại Việt Sử ký chép từ Triệu Vũ Vương đến Lý Chiêu Hoàng. Hai trăm rưỡi năm về sau mới có ông Ngô Sĩ Liên, làm quan Lễ Bộ tả thị lang đời vua Thánh Tông nhà Lê, soạn lại bộ Đại Việt Sử Ký chép từ họ Hồng Bàng đến vua Lê Thái Tổ. Nghĩa là từ ông Ngô Sĩ Liên, ở về 15 thế kỷ trở đi, thì sử ta mới chép truyện về đời Thượng Cổ. Xem thế thì đủ biết những chuyện đời ấy khó lòng mà đích xác được. Chẳng qua nhà làm sử cũng nhặt nhạnh những chuyện hoang đường tục truyền lại, cho nên những chuyện ấy toàn là chuyện có thần tiên quỷ quái, trái với lẽ tự nhiên cả.
    Nhưng ta phải hiểu rằng nước nào cũng vậy, lúc ban đầu mờ mịt, ai cũng muốn tìm cái gốc tích của mình ở chỗ thần tiên để vẻ vang cái chủng loại của mình. Chắc bởi lẽ ấy mà sử ta chép rằng họ Hồng Bàng là con tiên cháu rồng ...
    Nay ta theo sử cũ mà chép mọi chuyện, người xem sử nên phân biệt truyệnnào là thực, truyện nào là truyện đặt ra, thì sự học mới có lợi vậy..."
    (Việt Nam sử lược- Trần Trọng Kim- Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh).

    Lệ thần Trần Trọng Kim sinh năm 1882, nguyên quán ở Nghi Xuân Hà Tĩnh, bộ Việt Nam sử lược được ông biên soạn xong năm 1919 và ấn hành lần đầu vào năm 1921. Trong bản in ngày nay đã bị sửa đổi, lược bỏ một số chỗ so với bản in gốc vì bị cho rằng ông không khỏi hạn chế bởi cách nhìn của một nhà soạn sử dưới thời phong kiến, Pháp thuộc. Nhưng phần trích dẫn trên có lẽ đúng là của ông.
    Trong đoạn này, chúng ta thấy, rõ ràng ông ảnh hưởng hầu như tuyệt đối từ những cách nhìn nhận của sử thần Ngô Thì Sĩ khoảng gần 150 năm về trước để nhìn nhận về thời Thượng Cổ của dân tộc ta.
    Tiếp đến chúng ta hãy xem xét quan điểm của học giả Đào Duy Anh trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời. Về nguồn gốc dân tộc, ông viết:
    - "Truyền thuyết cho rằng tổ tiên dân tộc ta là Lạc Long Quân, điều ấy tỏ rằng cái chữ Lạc tất có quan hệ tới chủng tộc của tổ tiên chúng ta... Những điều ghi chép trong Giao Châu ngoại vực ký và trong Quảng Châu ký nói về lạc hầu, lạc tướng, lạc dân, lạc điền ở Giao Chỉ lại cho thêm chứng cớ để tin rằng người Lạc Việt là người ở Giao Chỉ, tức miền Bắc Việt Nam..."
    Về cương giới lãnh thổ, ông viết:
    - "Đại Việt sử ký toàn thư là sách sử đầu tiên chép chuyện con Rồng cháu Tiên vào đầu lịch sử nước ta cũng nêu Văn Lang là nước ta đời xưa. Cố nhiên đấy là truyền thuyết. Xem giới hạn của Văn Lang theo truyền thuyết ấy thì thấy bao trùm hầu hết miền Giang Nam và Lãnh Nam của Trung Quốc, tức đất Bách Việt xưa, cho đến Hoành Sơn nước ta..." trong đoạn này ông đặt vấn đề nghi ngờ cương giới lãnh thổ Văn Lang mà cụ thể là về vị trí địa lý của 15 bộ trong đất Văn Lang khi thấy các sách sử cổ không thống nhất với nhau về các vị trí địa lý các bộ xưa, thậm chí nhiều sách sai lệch nhau quá nhiều, và ông cho rằng, có thể các sử gia nước ta xưa muốn cho nước Văn Lang trong truyền thuyết có nội dung cụ thể nên họ đã lấy các tên đất ở các đời từ nhà Đường trở về trước, chọn lấy một số tên, một là nhắm cho đủ số 15 bộ trong truyền thuyết, hai là nhắm thế nào để cho 15 tên đất ấy trùm được cả địa bàn sinh tụ của tổ tiên ta thời Hùng Vương.
    Tiếp theo, trong đoạn này ông dẫn cái tên Bách Việt xuất hiện đầu tiên là ở Sử Ký của Tư Mã Thiên. Rồi ông dẫn một loạt các sách khác, sách Hậu Hán Thư Địa lý chí chép rằng từ Giao Chỉ đến Cối Kê trên bảy tám ngàn dặm người Bách Việt ở xen nhau đều có cùng chủng tính. Sách Lộ sử đời Tống chép Việt Thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu Khải, Âu Nhân, Thả Âu, Cung Nhân, Hải Dương, Mục Thâm, Phù Xác, Cầm Nhân, Thương Ngô, Man Dương, Dương Việt, Quế Quốc, Tây Âu, Quyên Tử, Sản Lý, Hải Quỳ, Tây Khuẩn, Kê Từ, Bộc Cầu, Tỷ Đái, Khu Ngô, gọi là Bách Việt. Rồi ông căn cứ vào đó để cho rằng Lạc Việt là một nhóm trong Bách Việt, và cũng từ sử sách của Trung Quốc xưa khi chép về vị trí địa lý một số vùng của các người Việt mà ông cho rằng Lạc Việt là nhóm Việt tộc ở miền Bắc Việt Nam. Tiếp theo ông cũng đưa ra những nhận định về những di tích văn hoá đồ đồng mà khi ông còn sống đã phát hiện và nghiên cứu chỉ nằm trên phạm vi phân bố ở miền Bắc để những minh chứng thêm rằng phạm vi Văn Lang xưa quả thật chỉ là miền Bắc Việt mà thôi.
    Tóm lại có thể thấy rằng học giả Đào Duy Anh cũng theo đường lối duy lý như của sử thần Ngô Thì Sĩ cách đây 150 năm để xác định về cội nguồn và lãnh thổ xưa của người Văn Lang mà giờ chúng ta là hậu duệ chính thức. Đường lối duy lý ấy là dựa trên thư tịch sách vở được ghi chép rõ ràng và những gì khai quật được rõ ràng mà suy xét nhận định một cách đầy lý luận lý trí về một thời kỳ cổ xưa. Đường lối duy lý không chấp nhận những truyền thuyết hoang đường, những đề cao phi thực tế, chỉ chấp nhận những gì rõ ràng minh bạch mà thôi.
    Nhưng than ôi, quá duy lý ắt sẽ mất tình, người Việt ta từ xưa đến nay luôn có câu: "Cái gì cũng phải có lý và phải có tình", ý nghĩa của câu này không hạn hẹp một chút nào. Theo đường lối duy lý của Ngô Thì Sĩ và tiếp theo là Trần Trọng Kim rồi Đào Duy Anh thì cái tình để suy xét đã mất, chỉ còn lý trong ấy nữa mà thôi. Theo lý họ đã phản bác truyền thuyết, phản bác gần như triệt để, nhưng vì quá sa vào lý nên phạm vào những lỗi lầm rất lớn.
    Thứ nhất, bây giờ chúng ta đều hiểu mặc dù truyền thuyết không chứa tất cả sự thật của lịch sử nhưng truyền thuyết chứa đựng những mấu lõi của lịch sử, nó là ánh hào quang rọi về những thời điểm xa xưa của quá khứ. Thậm chí người xưa cũng hiểu điều này, thế cho nên cách đây quãng 400 năm mặc dầu ẩn chứa nhiều sự hồ nghi nhưng sử thần Ngô Sĩ Liên đã trân trọng viết về họ Hồng Bàng coi như đó là một phần quan trọng nguồn gốc của lịch sử dân tộc. Vậy mà cho đến thời kỳ cận đại và hiện đại những người theo đường lối duy lý do Ngô Thì Sĩ đặt ra vẫn bài bác truyền thuyết, chỉ coi như một câu chuyện cổ tích không hơn. Nếu như vậy chẳng hoá ra muốn nói rằng truyền thuyết đời đời tổ tiên truyền lại với những ngụ ý sâu xa trong ấy lại là chuyện nhảm nhí ư?
    Thứ hai, mặc dầu theo đường lối duy lý, chỉ tin vào sách vở ghi chép lại rõ ràng cụ thể, nhưng sách vở nào sẽ ghi chép lại đây khi dân tộc hơn 1000 năm bị mất nước và mọi văn hoá đều bị kẻ thù triệt tiêu tối đa, sách vở ghi chép xa xưa nhất lại do chính kẻ thù viết nên, thế mà những nhà sử học ấy lại tin vào chính sách vở thư tịch của kẻ thù để làm đường lối nhận định biên chép về sử nước. Điều này thật khó chấp nhận. Sách vở kẻ thù chỉ có thể phản ánh phần nào, còn thì trong đó có rất nhiều cái vì đầu óc kỳ thị chủng tộc mà những nhà sử gia của họ cũng sẽ viết hạ thấp kẻ khác, lẽ nào điều này là khó hiểu. Chính ngay như Tư Mã Thiên được coi là sử gia vĩ đại thì vẫn còn bị người Trung Quốc cho rằng ngòi bút ông ta có đầu óc thiên kiến, chẳng hạn ông ta dùng ngòi bút mô tả Hán Vương Lưu Bang về sau là vua toàn Trung Hoa như một kẻ lưu manh còn Sở Vuơng Hạng Võ là kẻ thất bại dưới tay thì ngòi bút lại mô tả thật đẹp đẽ, thế cho nên chẳng có chi là lạ trong bộ Sử Ký nổi tiếng của ông những đoạn nào liên quan đến ngoại tộc đều bị hạ thấp, người Hung Nô, người Hồ (những dân tộc thuộc Mông Cổ) là những dân tộc thượng võ bao lần làm Trung Quốc điên đảo, vậy mà dưới ngòi bút của ông ta họ như những giống người ngu si mọi rợ, chẳng lẽ điều ấy là đúng ư? Là giống ngu si mọi rợ mà có thể áp đảo thậm chí về sau này còn xâm chiếm sạch sẽ và thống lĩnh dài lâu được Trung Hoa mênh mông rộng lớn như ngòi bút ông ta viết chăng? Thế cho nên trong bộ Sử Ký Tư Mã Thiên những đoạn nào có liên quan đến dân tộc ta cần phải được soi xét kỹ càng tỷ mỷ, không thể vì Tư Mã Thiên được coi là sử gia vĩ đại mà đội ông ta lên đầu như thần như thánh để rồi ngây thơ tin theo bất kỳ những gì ông ta viết... Liên quan đến dân tộc Việt trong Sử Ký là những đoạn đề cập đến Bách Việt viết rải rác ở nhiều chỗ khác nhau cùng với thiên Uý Đà Liệt Truyện nói về Triệu Đà vua của nhà nước Nam Việt. Còn ở trong các sách vở cổ xưa khác của Trung Quốc cũng có rất nhiều chỗ đề cập đến dân tộc ta, đều chỉ có thể dùng để khảo cứu, chứ không thể ngây thơ tin theo hoàn toàn.
  8. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Hoặc trong bộ Sử Ký có một thiên nói về Triệu Đà tức Triệu Vũ Đế của nhà nước Nam Việt đấy là Uý Đà liệt truyện. Chỉ riêng đề mục cũng đủ thấy Tư Mã Thiên tìm cách hạ thấp Triệu Đà thế nào, Triệu Đà là con người văn võ song toàn, một tay xây dựng cơ đồ, lập nên nhà nước Nam Việt hùng mạnh đứng vững 100 năm trong hai thời Tần Hán, trên mọi phương diện đều có thể sánh ngang với hai nước ấy, ông xưng Vương và thậm chí là xưng Đế, thế nhưng Tư Mã Thiên lại lấy tắt chức Tư lệ hiệu uý hèn kém khi ông còn bôn ba kết hợp với tên Triệu Đà của ông gọi cộc lốc thành Uý Đà để đặt đề mục viết truyện về ông. Rồi ngay trong đoạn mở đầu câu chuyện, không biết vô tình hay cố ý Tư Mã Thiên khẳng định rằng Triệu Đà gốc Hán người ở Chân Định.
    Thế nhưng theo Bách Việt Ngọc Phả Truyền Thư thì nguồn gốc của Triệu Đà rất ly kỳ. Trong cuốn Việt Nam và cội nguồn trăm họ (Bùi Văn Nguyên- NXB Khoa học xã hội- 2001) cũng kể rất chi tiết về nguồn gốc Triệu Đà. Theo Bách Việt Ngọc Phả Truyền Thư thì:
    Triệu Đà chính tên là Nguyễn Cẩn, tên chữ là Phúc Thịnh, con đầu của Hùng Dực Công và gọi Hùng Duệ Vương thuộc ngành vua Hùng thứ 18 là ngành vua Hùng cuối cùng trị vì đất nước Văn Lang bằng bác ruột. Theo nhiều tài liệu khác, như Nam Việt Ngọc Phả biên soạn năm 980 thời vua Lê Đại Hành hoặc Cổ Lôi Bách Việt từ đường tộc phả biên soạn thời vua Lê Thánh Tông thì Hùng Duệ Vương sống rất lâu, nhà vua đã truyền ngôi cho con trưởng là Kính tức Hùng Kính Vương sau được 6 năm thì Kính mất, tiếp tục truyền ngôi cho con thứ là Cảnh tức Hùng Cảnh Vương thì 10 năm sau Cảnh cũng mất, truyền ngôi cho một người cháu không rõ tên thì 3 năm sau cháu cũng mất, cuối cùng ông truyền ngôi cho rể ở núi Tản Viên là Nguyễn Tuấn tức Hùng Tuấn Vương, chính việc truyền ngôi cho rể chứ không phải là cho con cháu khiến sau đó cháu xa đời là Thục Phán tranh đòi. Như đã nói theo Bách Việt Ngọc Phả Truyền Thư thì Triệu Đà là dòng dõi vua Hùng tên chính là Nguyễn Cẩn. Vùng đất phong của thân phụ ông tức Hùng Dực Công là Chèm thuộc Từ Liêm. Hùng Dực Công lấy vợ đầu là Trần Thị Quý người ở thôn Đại Định phía ngoài thành Phong Châu sinh ra Nguyễn Cẩn, nuôi ông khôn lớn, nhưng rồi không may mất sớm, theo truyền thuyết thì bị cá sấu nuốt, thân phụ ông lâý vợ kế là Nguyễn Thị Sinh cũng ở làng Đại Định, mẹ kế rất độc ác nên Nguyễn Cẩn phải sống nhờ ông ngoại. Nhà ông ngoại nghèo nên Cẩn làm bạn với mấy người bờ sông Khúc thường đi bắt cá để thêm sinh hoạt hàng ngày, bởi lẽ Cẩn vóc to cao, ăn rất khoẻ.
    Hay theo các bạn đi bắt cá các vùng sông khác nhau, một lần Nguyễn Cẩn gặp quan Lệnh quận Nam Hải là Nhâm Ngao hay còn gọi là Nhâm Hiêu. Thấy Cẩn có dáng khác thường, vóc to cao, mặt mũi khôi ngô, Nhâm Hiêu tìm hiểu thêm, lại biết Cẩn ở với ông ngoại, nhà nghèo, liền xin ông ngoại cho làm con nuôi, đem về Nam Hải. Thế là Nguyễn Cẩn có dịp theo cha nuôi đi đây đi đó. Khoảng đó, Nhâm Hiêu có người chị dâu goá chồng được viên hoạn quan Triệu Cao lấy làm người hầu. Triệu Cao chính là viên hoạn quan sau này góp phần lớn làm sụp đổ nền đế chế do Tần Thuỷ Hoàng dựng xây nên. Nguyễn Cẩn theo Nhâm Hiêu đến nhà Triệu Cao chơi, Triệu Cao thấy Nguyễn Cẩn khác thường, bèn xin Nhâm Hiêu nhường cho mình làm con nuôi. Lẽ thường Nguyễn Cẩn đổi tên họ thành Triệu Đà theo họ bố nuôi. Triệu Đà được Triệu Cao dạy cho chữ nghĩa và võ nghệ. Khi Triệu Đà đã khá thành thạo văn võ, Triệu Cao bèn dẫn đến yết kiến Tần Thuỷ Hoàng Doanh Chính. Tần Thuỷ Hoàng thấy Triệu Đà to cao mạnh khoẻ bèn trao chức Tư lệ hiệu uý, sau có công trấn áp giặc Hung Nô, được thăng Đô Uý, tước Phụ Tín hầu và nhà vua gả công chúa. Thế là Triệu Đà trở thành phò mã nhà Tần...
    Câu chuyện về nguồn gốc Triệu Đà chi tiết là như vậy. Thế nhưng trong Uý Đà liệt truyện thì chép rất sơ sài, đại ý nói về nguồn gốc rằng:
    Triệu Đà người Hán, gốc Chân Định, mồ mả bà con thân thích ở đấy.
    Chỉ vài dòng vắn tắt vậy, có thể Tư Mã Thiên cố ý nhưng cũng có thể vô tình bởi nguồn gốc lắt léo ly kỳ vậy thì phải là người trong dòng tộc mới ghi chép đầy đủ nổi.
    Vậy thì ở đây chúng ta nên tin ở ai, tin ở vài dòng sơ sài của Tư Mã Thiên, sử gia kẻ thù đất nước hay tin ở những bản chép còn lưu được của tổ tiên mặc dù những bản này vì lý do ngàn năm mất nước nên chỉ được biên soạn lại mãi lâu sau này? Ở phần nguồn gốc Triệu Đà được kể khá chi tiết ở trên cũng chưa hẳn đã đúng hoàn toàn, mọi cái đều phải đặt nghi ngờ một cách đúng đắn, nhưng có điều đây lại trích từ Bách Việt Ngọc Phả Truyền Thư tại từ đường nhà thờ họ Nguyễn gốc tức dòng đích con cháu Hùng Vương ở Cổ Lôi (Vân Nội, Thanh Oai, Hà Tây).
    Mặc dù Bách Việt Ngọc Phả Truyền Thư là một gia phả thư tịch thất truyền mãi đến thời vua Lê Đại Hành mới được biên soạn lại nhưng ghi rành mạch cả những điều tối cổ, còn xa hơn Sử Ký của Tư Mã Thiên rất nhiều. Chẳng hạn kể chi tiết về vua Phục Hy được coi là vua đầu tiên của Bách Việt cách đây khoảng 7000 năm.
    Vậy thì chúng ta nên tin vào Sử Ký của Tư Mã Thiên hoặc các sách sử khác của kẻ thù hơn hay nên tin vào Bách Việt Ngọc Phả Truyền Thư hơn?
    Chúng ta tin vào Tư Mã Thiên chăng? Như vậy là coi Bách Việt Ngọc Phả Truyền Thư cũng như các bản Ngọc Phả khác bút tích đang sờ sờ đó là thứ nhảm nhí của tổ tiên ư? Rồi nữa, trong câu chuyện Uý Đà liệt truyện, khi kể về sự nghiệp của Triệu Đà thì Tư Mã Thiên dùng một lối hành văn hết sức khó chịu, lối hành văn ấy là sự hạ thấp tối đa kẻ khác nhưng cực kỳ tinh tế của những người giỏi nghề cầm bút. Đọc câu chuyện về Triệu Đà, mà cũng chỉ dăm bảy trang rất sơ sài, lập tức bất kỳ người đọc nào cũng có ác cảm với Triệu Đà, coi ông như kẻ gian hùng gặp lúc loạn lạc mà thâu tóm được gần hết các xứ Bách Việt để lập giang sơn riêng, lối hành văn dùng câu dùng chữ đều hạ thấp nhân cách Triệu Đà một cách vô cùng tinh vi, Tư Mã Thiên quả là bậc kỳ tài. Vậy chúng ta cũng lại có nên tin những gì mà Tư Mã Thiên viết về con người, nhân cách và sự nghiệp của Triệu Đà hay không?
    Câu trả lời của điều này thật ra đã có, cho đến trước thời Ngô Thì Sĩ thì dân tộc ta đâu mắc lừa vào Tư Mã Thiên, coi công ơn của Triệu Đà là rất lớn. Ngoài truyền thuyết Mỵ Châu Trọng Thuỷ nói về mưu mô của Triệu Đà xâm chiếm Âu Lạc thì tuyệt đối các truyền thuyết không hề ai oán về chính sách chính trị của ông, mà sự thực lịch sử còn ghi nhận dân tộc Việt ủng hộ vương triều của ông, thậm chí còn ủng hộ ông hơn là đối với An Dương Vương Thục Phán tức cháu ngoại xa đời của Hùng Vương và là người có công vô cùng lớn lao hiển hách trong việc xua tan 50 vạn quân Tần.
    Lịch sử ghi nhận, khi vương triều cuối cùng của Nam Việt do Triệu Đà xây dựng nên sụp đổ thì con cháu Triệu Đà được dân Việt tích cực ủng hộ nổi lên chống Hán, nghĩa quân chia làm sáu nhóm gọi là 6 chiếu, mạnh nhất là Nam Chiếu, ban đầu Nam Chiếu ở Đèo Ngang sau có lúc Nam Chiếu phát triển lên đã làm chủ được Vân Nam và lập đô tại đây đặt quốc hiệu là Đại Lý, nhưng rồi chính trị Đại Lý không tốt nên sớm mất. Còn về sau này, khi nước Việt hưng quốc trở lại, các triều đại phong kiến Việt Nam đều hết lời ca tụng công đức Triệu Đà, đặt tên thuỵ cho ông là Triệu Vũ Đế và do thời Hùng Vương là khuyết sử lúc ấy chưa thể nào xác định được nên các triều đại phong kiến về sau đều thống nhất coi ông là người khai mở đất nước.
    Sử gia đầu tiên của nước ta là Hàn Lâm học sĩ Lê Văn Hưu ca ngợi Triệu Đà, Ngô Sĩ Liên trong bộ Đại Việt Sử Ký cũng ca ngợi, các nhà chép sử đời trước đều xếp kỷ nhà Triệu hiên ngang không thuộc Hán với ý thức rằng nhà nước Nam Việt do Triệu Đà dựng xây xưa kia là thuộc về người Việt một cách chân chính. Các triều đại đều có sắc phong, chẳng hạn nhà Trần có phong tặng là: "Khai thiên thể thánh vũ thần triết Hoàng đế". Đặc biệt thể hiện rõ nhất là ở bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi có đoạn:
    "Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, bao đời xây nền độc lập.
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương..."
    Rõ ràng Nguyễn Trãi đã đặt nhà Triệu của đế quốc Nam Việt do Triệu Vũ Đế xây dựng để đối với nhà Hán do Hán Vương Lưu Bang, tạo thành vế rất chỉnh trong tất cả các cặp đối từ ở đoạn văn trên, và tất nhiên như vậy cho thấy rõ Nguyễn Trãi coi Triệu Đà cũng như nhà nước Nam Việt là của người Việt. Gần đây nhất, triều Nguyễn dưới thời Minh Mạng năm1838, theo Đinh tập quốc sứ di biên của Phan Thúc Trực, khi quyết định đổi tên nước nhà vua xuống chiếu rằng: "Đức Triệu tổ (tức Triệu Đà) dựng nên cơ nghiệp ở cõi Nam, đức Thế tổ (tức Gia Long) lấy được cả đất Việt Thường, nhân dân thêm đông, lãnh thổ thêm rộng, nay đổi tên nước là Đại Nam..." Ngoài ra các bậc nho sĩ hiền nhân đời xưa có thơ văn về Triệu Vũ Đế rất nhiều. Đền thờ của Triệu Vũ Đế được nhân dân ta lập ở Đồng Xâm tỉnh Thái Bình có bức hoành phi khắc bốn câu: "Nam Bang Thuỷ Đế"... Những điều này chứng tỏ Triệu Vũ Đế tức Nguyễn Cẩn Triệu Đà là người có công hay ít ra thì cũng từng đã được coi là có công vô cùng lớn với dân tộc.
  9. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Thế nhưng sử thần danh tiếng Ngô Thì Sĩ trong bộ Đại Việt Sử Ký tiền biên hoặc Việt Sử tiêu án sau khi bài bác truyền thuyết về họ Hồng Bàng đã tiếp tục bài bác Triệu Đà với một thiên biện luận hết sức hùng hồn. Thiên phản luận của ông rất dài và có lẽ là hay nữa. Nhưng hỡi ôi, cái hồn của thiên phản luận này có thể thấy rất rõ là do ông quá ngây thơ hoặc ngây ngô tin theo những gì ông đọc về Triệu Đà trong Uý Đà liệt truyện của Sử Ký Tư Mã Thiên. Ông phản bác bài xích Triệu Đà vì những nguyên nhân sau:
    - Đà là người Tàu huyện Chân Định, được nhà Tần cho làm Long Châu lệnh, đưa quân sang đóng Ngũ Lĩnh, nhân lúc loạn lạc tiến đến Tiên Du (Bắc Giang) mà xâm chiếm nước ta, như vậy không thể coi Triệu Đà người Tàu laị có thể là vua của người Việt được...
    - Đà là kẻ tham bạo vơ vét thuế má, ngọc vàng dâng cho nhà Hán, nhét đầy ngàn vàng đút lót cho Lục Giả ...
    Những nguyên nhân ấy có thể thấy ở ngay trong ngòi bút tinh vi của Tư Mã Thiên. Ngô Thì Sĩ không hề coi trọng đến những các thư tịch của dân tộc mà lại bám vào thư tịch sách vở kẻ thù, ông bỏ qua các bản Ngọc Phả của các triều đại Hùng Vương khi xét nguồn gốc Triệu Đà, bị mê hoặc vì ngòi bút kẻ thù, thật không hiểu nổi. Khó có thể cho rằng Ngô Thì Sĩ không được đọc các bản Ngọc Phả, dẫu rằng các tài liệu liên quan đều nói Ngọc Phả của Hùng Triều không phải là công khai rộng rãi, người thường nhất là ở thời phong kiến xưa rất ít biết, nhưng ông là sử thần của một nhà nước lẽ nào ông không được ngó đến. Còn việc Triệu Đà buộc lòng phải dâng cống ngọc vàng châu báu thông qua thuế má của dân Việt để giữ yên đất nước khi nhà Hán nằm ở thế mạnh hơn là chuyện cay đắng hằng ngàn năm hưng quốc về sau dân Việt vẫn còn phải gánh chịu thì ông cố tình không hiểu hay sao mà còn tìm cách bới móc.
    Rồi ông còn đưa ra một nguyên nhân quan trọng sau:
    Giả sử Đà không gây nên chuyện binh đao thì cho dù Hán Vũ Đế có tham mở đất, thích lập công, chẳng qua cũng chỉ diệt họ Triệu để lấy lại quận huyện nhà Tần xưa mà thôi, chứ không đến được Giao Chỉ. Nước ta ngoại thuộc vào Triệu nên nội thuộc vào Hán cho mãi đến đời Đường, quốc thống bị đoạn tuyệt, suy nguồn gốc, người đầu tiên gây nên tai hoạ không phải Đà là ai nữa...?
    Như vậy sử thần Ngô Thì Sĩ quy kết Triệu Đà là người gây nên cái mầm tai hoạ khiến người Tàu xâm chiếm người Việt. Lý luận này thật ngu ngơ. Nếu như trước đây giặc Ân mũi đỏ (đến giờ chúng ta vẫn loay hoay chưa biết có phải thuộc nhà Ân Thương trong Tam Đại tức ba nhà Hạ,Thương, Chu của Trung Quốc cổ đại) đã tìm cách xâm chiếm Văn Lang và nhờ đến người anh hùng Làng Gióng tên thật là Nguyễn Cương đánh đuổi.
    Đây có thể cho là truyền thuyết hãy còn mờ mịt trong con mắt Ngô Thì Sĩ thì ít ra ông cũng phải thấy ngay trước mắt rằng trước thời của Triệu Đà thì Tần Vương Doanh Chính đã cho đào kênh nối sông Luơng sai danh tướng Đồ Thư thống lĩnh 50 vạn quân Tần ồ ạt xâm chiếm các vùng Bách Việt, khi tiến sâu vào đến địa bàn Âu Lạc đã bị Thục Phán đánh bại, giết chết Đồ Thư. Như vậy dã tâm người Tàu xâm chiếm đất đai người Việt đâu cần đợi đến khi có Triệu Đà. Ngô Thì Sĩ sống đến thế kỷ 18 tức lúc nước Việt hưng quốc đến gần hàng ngàn năm sau này chứng kiến qua bao lần Trung Quốc luôn cố tìm mọi cách xâm lăng nước ta, vậy mà ông lý luận được vậy chăng?
    Thiên phản thuyết về Triệu Đà là cực kỳ quan trọng trong hệ thống lý luận bài bác tổ tiên bằng những lập luận thoạt ngỡ thấu đáo của Ngô Thì Sĩ tiếc thay lại tạo nên được một đường lối riêng khiến nhiều người sau này tin theo. Vì lẽ gì người ta tin theo? Đơn giản bởi gốc lõi là những bản chép về Ngọc Phả Hùng Triều vì nhiều lý do nên được giữ rất kín ít người biết, thế nên lập luận thoạt tưởng chí lý của Ngô Thì Sĩ đứng rất vững, người bình thường khó biết được gốc tích thật của Nguyễn Cẩn Triệu Đà, nên cái lý do người Tàu không thể là vua Việt quá đủ để những lập luận khác bài bác Triệu Đà tiếp tục dễ dàng lọt vào lòng người...
    Hoặc chẳng hạn Ngô Thì Sĩ bài xích 18 đời vua Hùng bằng bài tính đơn giản lấy 2622 năm chia cho 18 thành mỗi người sống hơn 130 năm là chuyện không thể có khiến người ta lập tức tin, nhưng nếu căn cứ vào các bản Ngọc Phả sẽ thấy rằng 18 đời vua Hùng dễ bị hiểu lẫn lộn, 18 đời đó không phải chỉ là 18 vị vua Hùng mà là 18 thời vua Hùng hoặc 18 ngành vua Hùng. Mỗi đời vua Hùng sẽ lấy vị vua đầu đời làm tên, chẳng hạn nói đời vua Hùng thứ 18 là trị nước 115 năm thì Hùng Duệ Vương là vua đầu đời, tiếp đến là Hùng Kính Vương, đến Hùng Cảnh Vương, rồi cuối cùng là Hùng Tuấn Vương, như vậy thời của vua Hùng Duệ Vương gồm 4 vị vua Hùng, người Việt chỉ thờ vị vua đầu đời khai sáng, cách sắp xếp của người Việt khác hẳn người Tàu, thế nên về sau này dễ bị lẫn lộn. Như vậy xét trong các bản Ngọc Phả mỗi ngành vua Hùng gồm nhiều vị vua khác nhau, phân chia theo can chi rất rõ ràng, ghi lại đầy đủ cả tên tuổi, tính ra 18 thời vua Hùng gồm đến hơn 100 vị vua, lấy 2622 năm chia 100 thì trung bình mỗi vị vua trị nước chừng 26 năm ...
    Nhân thể xin trích ra đây luôn một vài số liệu trong những bản Ngọc Phả Hùng Triều để cho những ai có lòng quan tâm đến tên tuổi của các Đức Vua Hùng xa xưa.
    Đây là bản danh sách 100 người con của Cha Rồng Lạc Long Quân và Mẹ Tiên Âu cơ theo tài liệu của cụ Bùi Văn Nguyên:
    Năm mươi người con theo Tổ Phụ Lạc Long Quân:
    1.Hùng Lân 2.Xích Lang 3.Quỳnh. 4.Mật 5.Thái 6.Vĩ 7.Huân 8.Yến 9.Tiêu 10.Diệu 11.Tĩnh 12.Ngọ 13.Cập 14.Loại. 15.Hộ 16.Trường 17.Khuyến 18.Chiêm 19.Vân 20.Khương 21.La 22.Tuần 23.Tản 24. 24.Quyền 25.Đường 26.Kiều 27.Dũ 28.ố 29.Tảo 30.Liệt 31.ưu 32.Nhiễu 33.Lý 34.Chân 35.Tường 36.Định 37.Sát 38.Cốc 39.Minh 40.Sái 41,Thiệu 42.Kiết 43.Mặc 44.Trường 45.Lĩnh 46. Tẩm 47.Thai 48.Triệu 49.ích 50.Trí.
    Năm mươi người con theo Tổ Mẫu Âu Cơ:
    1.Hương Lang Quân 2.Kiếm 3.Thận 4.Văn 5.Vũ 6.Linh 7,Tịnh 8.Hắc 9.Quản 10.Cao 11.Tế 12.Mã 13.Thiệu 14.Khang 15.Chỉnh 16.Đào 17.Nguyên 18.Cẩm 19.Xuyến 20.Yêu 21.Thiếp 22.Bái 23.Tài 24.Giám 25.Biện 26.Triệu 27.Quân 28.Canh 29.Thái 30.Lôi 31.Thấu 32.Việt 33.Vệ 34.Mãn 35.Triệu 36.Lưu 37.Lộ 38.Quế 39.Diêm 40.Nhĩ 41.Huyền 42.Tào 43.Nguyệt 44.Sâm 45.Long 46.Lý 47.Tuấn 48.Ninh 49.Thanh 50.Huệ.
    Theo cụ Bùi Văn Nguyên, những người con ấy đều mang họ Nguyễn...Họ Hồng Bàng trước đó, chữ Hồng có bộ Điểu và cả Hồng Bàng nghĩa là to lớn, và họ Nguyễn đây thì Nguyễn bên trái là chữ Phụ nghĩa là gò đất hoặc núi đất, bên phải chữ Nguyên nghĩa là đầu tiên, như vậy chữ Nguyễn hàm ý chỉ về vùng núi đất đâù tiên tức vùng núi Phong Châu xưa. Cũng theo cụ Bùi Văn Nguyên thì cái gốc chính là của Việt vậy mà con cháu về sau lại tưởng từ gốc Nguyễn Phu (nói lái lại cũng thành Phụ Nguyên) của một viên Thứ Sử thời Tần Mục Đế (345-361 trCN).
    Còn đây là một bản ghi tên các danh sách vua Hùng. Bản này trích dẫn lại trong bài "Văn hoá tâm linh- đất tổ Hùng Vương" , trong tạp chí Nguồn Sáng số 23 dịp giỗ tổ 1998, của tác giả Hồng Tử Uyên có căn cứ từ tư liệu của cụ Biệt Lam Trần Huy Bá:
    "Theo các Ngọc Phả các xã quanh vùng có đền thờ các vua Hùng như xã Hy Cương (Vĩnh Phú) hiện lưu trữ tại Vụ bảo tồn Bảo Tàng, Bộ Văn Hoá (số hiệu HT.AE9) thì các tài liệu này không ghi chép 18 đời vua Hùng mà lại ghi lại là 18 chi. Mỗi chi gồm nhiều đời vua, có cả năm can chi lúc sinh và lúc lên ngôi. Các đời vua trong một chi đều lấy hiệu của vua đầu chi ấy.
    Mười tám chi ấy như sau:
    1. Chi Càn: Kinh Dương Vương, huý Lộc Tục, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 trCN) lên ngôi năm 41 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879 trCN) đến Đinh Hợi (2749 trCN) so ngang với Trung Quốc thời Tam Hoàng.(?)
    2. Chi Khảm: Lạc Long Quân, huý Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825 trCN) lên ngôi năm 33 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua. Chi này ở ngôi tất cả 269 năm, đều xưng là Hùng Hiền Vương, từ năm Mậu Tý (2793 trCN) đến năm Bính Thìn (2525 trCN) ngang với Trung Quốc vào thời Hoàng Đế (Ngũ Đế).
    3.Chi Cấn: Hùng Quốc Vương, huý Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 trCN) lên ngôi khi 18 tuổi. Không rõ truyền mấy đời vua, đều xưng là Hùng Quốc Vương, từ năm Đinh Tỵ (2524 trCN) đến năm Bính Tuất (2253 trCN). Ngang Trung Quốc thời Đế Thuấn, Hữu Ngu.
    4.Chi Chấn: Hùng Hoa Vương, huý Bửu Lang, không rõ năm sinh, lên ngôi năm Đinh Hợi (2254 trCN) không rõ truyền mấy đời vua, chi này ở ngôi 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 trCN) đến Mậu Thìn (1918 trCN). Ngang Trung Quốc thời Đế Quýnh nhà Hạ.
    5. Chi Tốn: Hùng Hy Vương, huý Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030 trCN) lên ngôi khi 59 tuổi. Không rõ truyền mấy đời vua đều xưng Hùng Hy Vương, ở ngôi 200 năm, từ Kỷ Tỵ (1912 TrCN) đến Mậu Tý (1713 trCN). Nhang Trung Quốc thời Lý Quý (Kiệt) nhà Hạ.
    6. Chi Ly: Hùng Hồn Vương, huý Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu, lên ngôi khi 29 tuổi, truyền hai đời vua, ở ngôi tất cả 81 năm, đều xưng Hùng Hồn Vương, từ năm Kỷ Sửu (1712 TrCN) đến năm Kỷ Dậu (1632 TrCN). Ngang Trung Quốc thời ốc Đinh nhà Thương.
    7. Chi Khôn: Hùng Chiêu Vương, huý Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ(1768 trCN) lên ngôi khi 18 tuổi, truyền năm đời vua đều xưng Hùng Chiêu Vương, ở ngôi tất cả 200 năm từ Canh Tuất (1631 trCN) đến năm Kỷ Tỵ(1432 TrCN). Ngang Trung Quốc thời tổ ất nhà Thương.
    8. Chi Đoài: Hùng Vĩ Vương, huý Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 TrCN) lên ngôi khi 39 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Vĩ Vuơng, ở ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ(1431 TrCN) đến năm Kỷ Dậu (1332 TrCN) ngang Trung Quốc thời Nam Canh nhà Thương.
    9. Chi Giáp: Hùng Định Vương, huý Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1357 TrCN) lên ngôi khi 45 tuổi truyền ba đời vua đều xưng là Hùng Định Vương, từ năm Canh Ngọ (1251TrCN) đến năm*ỷ Hợi (1162 TrCN) ngang Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.
    10. Chi ất: Hùng Uy Vương, huý Hoàng Long Lang, sinh năm Giáp Ngọ (1287 TrCN), lên ngôi khi 37 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Uy Vương,ở ngôi tất cả 90 năm, từ năm Canh Ngọ (1251 TrCN) đến năm Kỷ Hợi (1162 TrCN) ngang Trung Quốc thời Tổ Giáp nhà Ân.
    11. Chi Bính: Hùng Trinh Vương, huý Hưng Đức Lang,sinh năm Canh Tuất (1211 TrCN) lên ngôi khi 51 tuổi, truyền 4 đời vua, đều xưng Hùng Trinh Vương, ở ngôi tất cả 107 năm , từ năm Canh Tý (1161 TrCN) đến năm đến năm Bính Tuất (1055 TrCN) Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương nhà Tây Chu.
    12. Chi Đinh: Hùng Vũ Vương, huý Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 TrCN) lên ngôi khi 52 tuổi, truyền ba đời vua đều xưng là Hùng Vũ Vương, ở ngôi tất cả 96 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 TrCN) đến năm Nhâm Tuất (969 TrCN) ngang Trung Quốc vào thời Mục Vương nhà Tây Chu.
    13. Chi Mậu: Hùng Việt Vương, huý Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi(982 TrCN) lên ngôi khi 23 tuổi, truyền 5 đời vua, đều xưng là Hùng Việt Vương, ở ngôi tất cả 105 năm, từ năm Quý Hợi (958 trCN) đến Đinh Mùi (854 TrCN) ngang Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.
    14. Chi Kỷ: Hùng Anh Vương, huý Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 TrCN) lên ngôi khi 42 tuổi truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Anh Vương, ở ngôi tất cả 99 năm, từ Mậu Thân (755 TrCN). Ngang Trung Quốc vào thời Bình Vương nhà Tây Chu.
    15. Chi Canh: Hùng Triệu Vương, huý Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 TrCN) lên ngôi khi 35 tuổi, truyền 3 đời vua, đều xưng là Hùng Triệu Vương, từ năm Đinh Hợi(754 TrCN) đên năm Canh Thân(661 TrCN) ngang Trung Quốc vào thời Huệ Vương nhà Đông Chu.
    16. Chi Tân: Hùng Tạo Vương, huý Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 TrCN), lên ngôi khi 53 tuổi, truyền 3 đời vua, tất cả 92 năm, từ năm Tân Dậu (660 TrCN) đến Nhâm Thìn (1569 TrCN). Ngang Trung Quốc vào thời Linh Vương nhà Đông Chu.
    17. Chi Nhâm: Hùng Nghị Vương, huý Bảo Quan Lang, sinh năm ất Dậu (576 TrCN) lên ngôi khi 9 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng Hùng Nghị Vương, ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 TrCN) đến năm Nhâm Thân ( 409 TrCN) Ngang Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương nhà Đông Chu.
    Chi Quý: Hùng Duệ Vương, huý Huệ Vương, sinh năm Canh Thân (421 TrCN), lên ngôi 14 tuổi, truyền không rõ mấy đời vua (có lẽ ba đời), ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 TrCN) đến Quý Mão (258 TrCN). Ngang với năm thứ 17 Uy Liệt Vương đến năm thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu Trung Quốc."
    Trên đây là một bản Ngọc Phả Hùng Triều, tuy nhiên ở chi Giáp và chi ất có lẽ người ta đã gõ nhầm trùng lặp lẫn nhau ở đoạn khoảng thời gian truyền ngôi chi ất bị trùng chi Giáp, lỗi này chắc do người đánh máy hơi cẩu thả. Thêm nữa bản Ngọc Phả này còn thiếu nhiều chỗ, tuy nhiên bản này dễ hiểu nên giới thiệu lên. Một số bản khác có sự sai lệch lẫn nhau thì như đã nói rất có thể đấy là do tam sao thất bản.
  10. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Tuy nhiên cũng rất có thể nhiều người đa nghi sẽ đặt câu hỏi:
    Rất có thể những thư tịch cổ mà cụ thể là những bản Ngọc Phả Hùng Triều có thể là nguỵ tạo nên để đối chọi với thư tịch người Tàu.
    Chẳng đâu xa, chính trong lịch sử Tàu cũng có rất nhiều vụ nguỵ tạo sách vở của người đi trước mà nguyên nhân chủ yếu do tác động chính trị.
    Nếu đặt ra sự nghi ngờ ấy thì khỏi bàn nữa, lẽ nào con cháu người Việt lại dám xuyên tạc tổ tông mình, đền các Đức Hùng Vương còn đời đời sừng sững đấy, hằng năm đều có giỗ tổ mọi con dân Việt các miền đổ về thành kính khói hương, còn các trưởng tộc có nhiệm vụ giữ nhà từ đường ngày ngày đứng trước hương hồn bài vị các đức Tổ, lẽ nào những trưởng tộc như Hàn Lâm học sĩ Nguyễn Cố hoặc La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp là những bậc hiền sĩ đầy danh vọng của nước Việt lại dám nguỵ tạo ra?
    Hoặc cũng có những người nghi ngờ gia phả các vua Hùng có nét gì đó rất giống các vị vua Sở?
    Nếu đã vậy thì cũng xin thưa luôn rằng nước Sở xưa có rất nhiều quan hệ đến dân tộc ta. Đó chính là một chi của họ Thần Nông dân tộc Việt.
    Các sử xưa của ta khi nói về họ Hồng Bàng có nhắc Đế Minh truyền ngôi cho Đế Nghi làm vua phương Bắc và phong Lộc Tục làm vua phương Nam là Kinh Dương Vương. Vậy Đế Nghi làm vua phương Bắc là đâu vậy?
    Theo Bùi Văn Nguyên cũng như nhiều học giả uyên bác khác, đấy chính là nước Sở.
    Dân tộc ta lấy chữ dân tộc Kinh bởi xuất phát từ việc sống bên sông Dương Tử(Trường Giang) hay còn gọi là sông Kinh, Kinh Giang, và vùng đất ấy sau gọi là Kinh Châu.Ngoài ra còn nguyên nhân nữa là xuất phát từ loại cây kinh là loài cây gai dệt vải.
    Còn danh từ Sở? Cái tên Sở cũng xuất phát từ loại cây sở là loài cây dệt vải. Từ điển Khang Hy nói rõ Sở là Mậu Kinh tức Kinh đực. Các thư tịch Trung Quốc cũng chỉ thấy nói Kinh đổi sang Sở và không giải thích.Trên bản đồ thời cổ thì nước Sở xưa rất rộng và phía Nam giáp Động Đình Hồ tức biên giới Văn Lang xưa. Nước Sở có lúc đổi tên thành Ngô, nên có câu: " Đầu Ngô mình Sở".
    Chính bởi như vậy nên gia phả các Vua Hùng có nét gì đó giống các vị vua sở thì không có gì là lạ.
    Hoặc có người nghi ngờ tại sao các bản Ngọc Phả nhiều chỗ chép không thật giống nhau. Ví như thời điểm hoặc tên các vị vua Hùng có đôi chỗ khác.
    Đơn giản hoàn cảnh đất nước ta mặc dầu 1000 năm sau này đã hưng quốc trở lại nhưng sau đó nhiều lần vẫn bị nạn xâm lăng bắt buộc những người nắm Tộc Phả phải sao chép đi nhiều nơi để khỏi bị đốt phá nên không tránh được tình trạng tam sao thất bản, nhưng quan trọng là sự cơ bản trong các bản Ngọc Phả đều đồng nhất.
    Nói dài ra như vậy để thấy những bản Ngọc Phả là tài liệu vô cùng quý giá để con cháu Việt nghiên cứu và nhìn nhận về lịch sử tổ tiên. Nếu gạt Ngọc Phả các đức vua Hùng một bên để dùng tài liệu người Tàu mà suy xét nguồn cội dân tộc Việt thì lầm lỗi vô cùng lớn.
    Bàn ra cực dài như vậy để thấy trong hệ thống lý luận của mình sử thần Ngô Thì Sĩ đã phạm sai lầm cực lớn khi luận bàn về tổ tiên xưa. Những người tiếp bước sau ông cũng đã phạm sai lầm tương tự dẫn đến đưa ra một học thuyết ngô nghê về nhà nước Văn Lang xưa của các Đức Vua Hùng và người Việt cổ.
    Tuy vậy cũng phải xét một điểm rằng rất có thể vì lý do nào đấy họ đã không được đọc Ngọc Phả. Không phải chỉ riêng Ngô Thì Sĩ, Trần Trọng Kim hay Đào Duy Anh mà trong tất cả các cuốn sử ký khác của nước ta đều không hề cho thấy sự hiện diện của Ngọc Phả.
    Những bản Ngọc Phả được giữ gìn rất cẩn mật và không phải ai cũng được xem những bản gốc, nhất lại là khi đất nước đang có nhiều biến động. Sử thần Ngô Thì Sĩ cũng như lệ thần Trần Trọng Kim và học giả Đào Duy Anh đều sống trong thời rất nhiều biến động thế nên có thể vì vậy những bản Ngọc Phả đã không đến được tay họ.
    Những bản Ngọc Phả theo như cụ Bùi Văn Nguyên thì đã đến tay rất nhiều người, chẳng hạn Nguyễn Cố biên soạn lại Ngọc Phả và chính tay nhà vua Lê Thánh Tông xét duyệt, hoặc Nguyễn Thiếp đã chú giải thêm nhiều điều về Ngọc Phả giúp hoàng đế Quang Trung là vị anh hùng chí lớn sau khi đánh tan quân Thanh có cơ sở để đòi đất Lưỡng Quảng.
    Trên phương diện nhà nước phong kiến xưa, các bản Ngọc Phả đều được nhà triều đại quan tâm. Vậy tại sao trong các cuốn Sử Kỷ xưa khi bàn xét về họ Hồng Bàng đều không lấy đó làm cứ liệu thì quả thật kỳ lạ...Rất kỳ lạ. Có lẽ điểm này chúng ta phải chờ thời gian giải thích thêm.
    Nói thêm, học giả Đào Duy Anh còn phạm nặng hơn trong sai lầm thứ nhất tức sai lầm về đánh giá truyền thuyết, ông là một học giả thời hiện đại vậy mà những gì khoa học hiện đại công nhận về ánh sáng của truyền thuyết mà ông bỏ qua ư?
    Trong các cuốn như Lịch sử cổ đại Việt Nam, Đất nước Việt Nam qua các đời... đều chứng tỏ ông ta đã bỏ qua truyền thuyết. Một học giả được hấp thụ văn minh hiện đại mà như vậy thì thật khó chấp nhận. Bỏ qua huyền sử xưa về lãnh thổ của một nhà nước Văn Lang vô cùng rộng lớn để chỉ từ những di vật khảo cổ khi còn sống ông chỉ đào được một số nơi ông vội vàng quy kết lãnh thổ đất đai người Lạc Việt xưa chỉ là Bắc Việt Nam ngày nay.
    Tai hại hơn trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời khi dẫn các thư tịch cổ Trung Quốc, mặc dầu những sách ấy hạ thấp dân tộc Việt nhưng cũng đều chép người Bách Việt ở nhiều nơi trên vùng lãnh thổ cực rộng và đều cùng chung chủng tính, thế mà ông cũng bỏ qua luôn, rồi sự công nhận chung chủng tính (tức chung nguồn cội, dòng máu, ngôn ngữ, văn minh, văn hoá, phong tục, lối sống...vv) của thư tịch cổ nói về Bách Việt ông cũng bỏ qua để tách Lạc Việt ra riêng và gọi các nhóm Việt khác là các nhóm Việt linh tinh. Xin lưu ý hai chữ "linh tinh"?
    Một từ khi để chỉ những dân tộc xa lạ nào đấy thì đã hơi quá đáng huống hồ chi để nói những ngay dân tộc cùng chủng tính với mình.Từ linh tinh ấy được ông nhắc khá nhiều lần. Như vậy chính ông lại càng thêm hạ thấp Bách Việt xưa. Như vậy có thể nói trên nhiều phương diện học giả Đào Duy Anh đã để lại khá nhiều cái tai hại cho hậu thế.
    Học thuyết về một nhà nước Văn Lang đơn giản của người Việt cổ được đề xuất từ sử thần danh tiếng Ngô Thì Sĩ, được lệ thần Trần Trọng Kim cực lực ủng hộ và cuối cùng hoàn thiện dưới thời học giả Đào Duy Anh (có sự ủng hộ của một số học giả nước ngoài thời kỳ ấy. Nhưng xin nói rõ, các học giả nước ngoài thời kỳ ấy cũng đã đề ra nhiều giả thuyết khác nữa). Và thế là chúng được đem vào giảng dạy cho các học sinh mầm non đất nước.
    Trên thế giới chuyện đó cũng rất không hiếm, chẳng hạn chúng ta học về khoa học tự nhiên chúng ta biết, có những nhà khoa học tài giỏi đề xuất ra những học thuyết nào đó và chúng được mọi người công nhận nhưng rồi theo thời gian các học thuyết bị đánh giá là sai lầm rồi bị thay thế. Rõ ràng điều này không hề hiếm. Học thuyết về nhà nước Văn Lang theo lập trường sử thần danh tiếng Ngô Thì Sĩ dựng nên cũng có thể là vậy, nó từng được tin là đúng đắn, nhưng cho đến giờ thì đã khác.

Chia sẻ trang này