1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Truyện cười Azit Nexin...

Chủ đề trong 'Truyện cười' bởi doubleblue, 06/12/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Cái kính
    Một hôm, cách đây chừng 7, 8 tháng, có người bạn hỏi tôi :
    - Tại sao anh không đeo kính?
    - Làm sao tôi phải đeo?
    - Tuổi anh bây giờ là phải đeo rồi chứ còn sao nữa. Không đeo, đến lúc mắt hỏng nặng, không nhìn thấy gì đâu!
    Từ lúc người bạn đó ra về, mắt tôi tự dưng mờ hẳn. Nhìn gần nhìn xa đều không rõ nữa.
    Lâu nay tôi vẫn thầm mong cho tóc chóng rụng, cho trán hói đi. Rồi đeo thêm chiếc kính vào cho ra dáng trí thức. Vì tôi cho như thế là dấu hiệu của một anh trí thức. Ngay như anh bán thịt bây giờ mà để trán hói và mang kính vào, tôi cho trông cũng không khác gì giáo sư đại học! Nhưng cái mơ ước ấy của tôi không thực hiện được, vì tóc tôi mỗi ngày một dày thêm. Thế thì ít ra tôi cũng nên sắm cái kính mà đeo vậy. Ai nhìn thấy tôi, người ta phải bảo: bác học đấy!
    Vậy là tôi đi khám đốc tờ. Khám xong, ông này bảo tôi :
    - Anh bị cận thị! 1,75 đi-ốp!
    Theo đơn ông ta dặn, tôi sắm một cái kính. Nhưng cứ động đeo vào là tôi thấy mặt mày sa sầm, buồn nôn không chịu được. Thậm chí có lần, nói vô phép các bạn, tôi nôn thật! Nôn thốc nôn tháo, nôn ra cả mật xanh mật vàng. Không đeo thì không nhìn thấy gì, mà đeo thì tuy nhìn thấy được, nhưng lại bị cảm giác buồn nôn. Thật đúng là khổ!
    Một ông bạn khác thương hại bảo tôi :
    - Tôi có thể giới thiệu với anh một ông bác sĩ giỏi. Anh hãy đến ông ta khám xem!
    Ông bác sĩ này xem mắt tôi, rồi xem chiếc kính.
    - Thằng cha lang băm nào cho anh đơn mưa cái kính này thế? Có phải anh bị cận thị đâu!
    - Thế tôi bị làm sao ạ?
    - Viễn thị! 2 đi- ốp!
    Tôi lại mua kính mới. Ðeo chiếc kính này tôi không còn thấy chóng mặt buồn nôn nữa, nhưng lúc nào cũng bị chảy nước mắt. Ðâm ra mắt tôi lúc nào cũng đỏ hoe; như khóc ai vậy. Tôi bị cái cảm giác thương xót rất lạ. Cặp kính này chỉ có đeo để đi đưa đám là hợp.
    Một ông bạn thân tỏ vẻ ái ngại cho tôi :
    - Thế này thì cậu đến mù mất! Cậu phải đi khám bệnh viện nhà nước xem sao! Ở đấy họ khám cẩn thận. Lại có giáo sư nhãn khoa nữa, chứ không như mấy ông bác sĩ tư!
    Bệnh viện nhà nước quả là có khác thật: máy móc nhiều, mà dụng cụ cái gì cũng sáng loáng.
    Tôi được một giáo sư khám. Tôi kể cho giáo sư nghe cái bất hạnh của tôi :
    - Người thì bảo tôi là cận thị, người thì bảo là viễn thị!
    Giáo sư giận lắm :
    - Quân ngu! Anh không phải cận thị, cũng không phải viễn thị, mà là loạn thị!
    Theo đơn của giáo sư, tôi mua đôi kính khác. Cặp kính này tôi đeo vừa lắm, trông cái gì cũng rõ. Phải mỗi tội bây giờ cái gì như cũng lùi hẳn ra xa. Mấy bức tường trong căn buồng tôi sống hàng chục năm nay dường như bị lùi xa đến hàng ba chục thước. Tôi giơ tay chực bắt tay người quen, nhưng không sao với tới được. Ðịnh viết, giấy đã chạy xa khỏi tay đến hai thước. Nhìn vật gì cũng thấy bé tí xíu. Người thì chỉ bằng hạt đậu ván... Nhưng hại nhất là tôi không ăn uống gì được. Vì vừa ngồi vào bàn là đĩa thức ăn đã chạy đi xa hai chục thước rồi. Mùi súp nóng bốc ngay dưới mũi, nhưng cứ cầm thìa chực múc, thì bát súp đã ở cách xa hàng hai mét! Tôi không ăn uống cử động gì được nữa. Một anh bạn phải dắt tay tôi đến một bác sĩ khác tốt nghiệp ở Mỹ về. Khám xét cẩn thận xong ông ta bảo tôi :
    - Ðứa nào cho anh đơn mua cái kính này đây? Ðúng là đồ lang vườn dốt nát ! Anh cứ kiện lên phòng công tố cho nó bỏ mẹ!
    - Thôi ! Cứ để thánh Ala trừng phạt hắn ! - Tôi nói.
    Tôi lại thay kính mới. Bây giờ mắt tôi nhìn cái gì cũng hóa hai. Nhà tôi đang bảy người, bỗng nhiên thành mười bốn. Mỗi người lại có một người giống hệt mình. Thật tôi chưa bao giờ thấy chuyện lạ như vậy. Chả lẽ lại có những người giống nhau đến mức độ như thế hay sao? Vô lý quá! Nhìn xuống chân thì thấy bốn chiếc ủng, nhìn bàn tay thì thấy có mười ngón!
    Tôi đến một ông bác sĩ khác. Ông này học ở Ðức về.
    - Ai bảo anh đeo kính này?
    - Làm sao ạ?
    - Sai chứ còn sao nữa!
    Hóa ra một mắt tôi bị viễn, còn mắt kia thì cận. Vị danh y mới lại ghi cho tôi chiếc kính khác. Bây giờ tôi không phân biệt được sáng tối nữa. Xung quanh tôi tối như hũ nút.
    - Ðứa dốt nào ghi cho anh chiếc kính này vậy hả? Mắt anh hoàn toàn bình thường, có làm sao đâu.
    - Nhưng tôi không thấy gì cả! Tối cứ như bưng ấy!
    - Thế là anh bị quáng gà thôi, chứ chẳng có làm sao hết!
    Lại uống thuốc, lại tiêm, lại kính mới... Bây giờ các vật ở xa trông lại hóa gần. Chân đáng lẽ leo lên tàu thủy, thì lại bước ngay xuống biển... Vì tàu chưa cập bến, nhưng trông cứ như đã ngay sát bờ. Không còn viên bác sĩ nào trong tỉnh là tôi chưa mò đến! Ông này bảo mắt phải tôi cận, mắt trái viễn thì ông khác nói ngược lại, ông trước kêu bị loạn thị thì ông sau phán là bị đục nhân mắt. Ðeo kính của cái ông bảo tôi bị đục nhân mắt, thì cái gì cũng xa màu xanh cả. Có ông còn đoán tôi bị chứng mù màu. Nhìn phía trước nhìn sang bên, nhìn xa nhìn gần, cái gì cũng biến thành hai, màu sắc lẫn hết. Ði trên đường thẳng mà tôi có cảm giác như bước xuống cầu thang, mỗi bậc cách nhau hàng bốn năm chục phân. Tôi cứ phải bước từng bước dài như lạc đà vậy.
    Một lần, đang đi trên cầu, thế quái nào tôi bước hụt một cái, ngã lăn quay xuống dưới. Vì cứ tưởng những bậc cầu thấp hơn đến một mét. Cái kính bị văng đi làm tôi không nhìn thấy gì nữa. Cái gì cũng mờ mờ ảo ảo. Người ta đỡ tôi dậy :
    - Cái kính của tôi đâu rồi? - Tôi hỏi.
    Họ tìm thấy kính đưa cho tôi. Tôi đeo kính vào thì... Thánh Ala ơi!... Mọi vật bỗng trở nên sáng sủa rõ ràng quá! Vật nào đúng vật nấy, rõ mồn một! Rõ như chưa bao giờ tôi có thể nhìn rõ vậy. Hay kính của người khác chăng? Không! Ðích thị kính của tôi đây mà! Ðúng gọng sừng to màu đen đây! Tôi sướng không sao tả được! Bây giờ thì đừng hòng tôi bước chân đến một anh bác sĩ mắt nào nhé! Tôi đã đọc được cả mấy dòng chữ nhỏ nhất trên báo và nhìn rõ cả tên chiếc tàu thủy đậu tít ngoài xa. Tôi đi về nhà, lòng vô cùng sung sướng.
    - Kính của anh sao thế kia? - Vợ tôi hỏi.
    - Làm sao?
    Tôi bỏ kính ra xem. Ngón tay thò qua được cả lỗ gọng! Té ra mắt kính đã bị vỡ rơi mất rồi mà tôi không biết.

  2. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Quê ta vạn tuế
    - Nếu cậu tin những chuyện sau đây là thật thì tớ cũng coi như một người đã chết - Anh ta nói.
    Chúng tôi tựa lưng vào tường ngục sưởi nắng. Viên coi tù Darưpoócxôn chắp tay sau đít đi qua mặt chúng tôi ra vẻ muốn nói rằng hai tay hắn đã đắp lên những ngọn đồi kia.
    - Thế thì ai mới là người sống? Cái gì chả thế - Tôi đáp - cậu phải cảm ơn trời đất mới phải. Có những người còn cơ cực hơn chúng ta nhiều ấy chứ. Thôi vui lên, còn cái xác là may rồi!
    - Ðâu có thế, ông bạn, - Anh ta phản đối - không còn ai có thể cơ cực hơn được. Phải khẳng định là tớ đã không còn tồn tại nữa. Bây giờ thậm chí tớ cũng không thể giải thích cho cậu được... Cậu có nhìn thấy tớ thật, nhưng cái đó chẳng nghĩa lý gì: tớ vẫn cứ là đã chết rồi, tớ không còn tồn tại. Ðầu tiên tớ biết là tớ không còn nữa vào lúc tớ 12 tuổi. Trước đó ở quê tớ không có trường công. Năm đó nhà nước công bố bảng chữ cái và những nhà có học ở quê tớ quyết định phải đưa con vào trường công. Bố tớ tự cho mình là người có học thức nên cũng muốn tớ vào đó. Thế rồi ông ấy cầm tay tớ dắt đi. Ông hiệu trưởng đòi bố tớ cho xem giấy khai sinh của tớ.
    - Chúng tôi chưa khai cho cháu - Bố tớ nói - hay ông lấy giấy của tôi vậy!
    Tất nhiên là không được. Ở trường Ðavuđa Khôđji, học trò học chữ cũ, không cần khai sinh.
    Bố tớ cứ muốn tớ học trường mới...
    Phải cầu cứu đến người làm đơn thuê ngồi trước phòng thị chính. Sau đó cầm đơn vào phòng khai sinh... Một thầy ký nhận đơn, rồi rút ra những sổ sách gì gì, sau đó lục mãi mới thấy phần ghi về bố tớ.
    - Ông là Rêsít? - Người ấy hỏi.
    Đạ phải - Bố tớ đáp.
    Thầy ký lần sách đọc những số liệu về bố tớ :
    - Năm sinh 1897... quận Ðêghimentep phố Tavaxbaga, số nhà cũ là 51, mới là 28... Năm 1911 lấy vợ là Khađgiê. Sinh con trai là Êmin. Phải vậy không?
    - Ðúng ạ - Bố tớ đáp - Tôi muốn làm giấy khai sinh cho thằng cháu Êmin. Tôi định cho cháu vào học trường công. Trước đây người ta không đòi khai sinh.
    Thầy ký nghi hoặc nhìn bố tớ :
    - Cha nội ơi, khai sinh nào cơ? Con ông chết lâu rồi còn gì!
    - Ấy chết, ngài nói vậy! - Bố tớ sửng sốt - cháu nó đây, nó đang đứng cạnh tôi mà.
    Thầy đọc lại mấy hàng trong sổ :
    - Ông là Rêsít?
    - Ðúng, Rêsít.
    - Bố ông tên là Mêmét?
    - Ðúng, điều ấy cũng đúng.
    - Ông lấy vợ tên là Khađgiê, sinh con tên là Êmin.
    - Hoàn toàn đúng. Ðích thực là vậy. Và bây giờ tôi muốn khai sinh cho thằng cháu Êmin ấy đây.
    - Thế là thế nào? Mọi cái đều đúng, mà riêng chuyện thằng Êmin chết thì lại sai. Sổ ghi là nó chết, mà người chết thì làm sao lấy giấy khai sinh được nữa.
    Tớ khóc oà lên.
    - Nín đi - Bố tớ quát - có phải sổ ghi chết là mình phải chết đâu mà sợ.
    - Nhưng thầy ký bảo con đã chết rồi, hu...hu...!
    - Kệ thầy ấy. Cứ nghe bố nói là đúng.
    - Sổ đã ghi là không có bao giờ sai, - Thầy ký lý sự - đã ghi là y như thực. Ông có mưu gì chăng. Tôi không làm đâu. Không ai đi cấp khai sinh cho người chết rồi.
    - Mưu gì là thế nào kia ạ? - Bố tớ rụt rè hỏi.
    - Nhà các ông bao giờ cũng lắm chuyện lắm - Thầy ký đáp - ông muốn mặc cả với người nhà nước đòi người chết ra người sống hả? Tráo trở thật.
    - Vậy xin hỏi, cháu nó chết ngày giờ nào ạ? - Bớ tớ hỏi thêm.
    Thầy ký liếc sổ :
    - Ðại chiến thứ nhất nó bị đi lính. Năm 1915 hy sinh ở Tranacal. Nó được xóa sổ vì có giấy báo tử của đơn vị số 331/85.
    Bố tớ nổi đóa :
    - Bẩm ông, ông nghe đây, ông xem lại sổ xem, tôi lấy vợ năm 1911 cơ mà.
    - Phải - Thầy ký đáp - có ghi: ông lấy vợ năm 1911.
    - Thế cứ cho rằng con trai tôi sinh vào ngày cưới tôi đi, thì năm 1915 nó mới có 4 tuổi. Làm sao trẻ con 4 tuổi lại đi lính và chết trận được.
    Thầy ký bối rối, lão nhìn tớ, nhìn sổ, rồi nhìn bố tớ, rồi lại nhìn sổ, cuối cùng kết luận :
    - Thằng Êmin nhà ông sinh năm 1896. Vậy là khi chết nó 19 tuổi.
    - Con tôi sinh năm 1896? - Bố tớ hỏi lại - Thánh Ala phù hộ cho ông, thế còn tôi sinh năm nào, ông xem lại sổ xem.
    Thầy ký xem sổ.
    - Ông sinh năm 1897. - Lão nói.
    - Ông ơi, ông chớ có nói rằng hóa ra tôi lại sinh sau con tôi một năm cơ đấy?
    Mấy thầy ký khác cùng phòng bước lại, nhưng không ai biết đằng nào mà lần.
    - Sổ đã ký như thế thì chịu - Thầy ký của tớ bảo thế - Tất nhiên, là có khiếm khuyết gì đây, nhưng chưa biết chỗ nào?
    - Thưa các thầy - Bố tớ bảo các thầy ký - có thầy nào ở đây đẻ sau con mình không?
    Một thầy sửng cồ :
    - Ðừng lôi cổ bố người khác vào chuyện của mình. Người chết chúng tôi không cấp khai sinh, thế thôi!
    Bố con tớ lên chỗ ông trưởng phòng khai sinh kể lại đầu đuôi. Ông trưởng phòng theo bố con tớ xuống chỗ mấy cuốn sổ cái. Hai bên cùng xem lại hồ sợ
    - Ðúng hết - Ông trưởng phòng nói - Sổ đã ghi thế. Con ông hy sinh năm 1915 - Rồi ông lại ra chiều suy nghĩa, cuối cùng lại dứt khoát - Hẳn là thế. Vợ ông nhiều tuổi hơn ông. Ðúng là ông đã lấy một quả phụ. Bà có con riêng tên là Êmin. Thẳng con ghẻ Êmin của ông hơn ông một tuổi, nhưng, sổ vẫn ghi ông là bố.
    Tớ khóc rống lên.
    - Im đi, con - Bố tớ giận dữ nói - Ai là người biết rõ bố của con, ta hay là sổ?
    Ngài trưởng phòng kính cẩn nói :
    - Sao ông nói lạ thế? Rành rành đây còn gì nữa!
    Dù bố tớ không biết đọc biết viết nhưng ông không thuộc hạng người dễ dàng đầu hàng.
    - Khađgiê, con gái ông Bêkia, sinh năm 1904 - ông trưởng phòng đọc trong sổ.
    - Vậy theo ông - Bố tớ nói - vợ tôi sinh năm 1904, còn thẳng con Êmin của bà ấy sinh năm 1896, phải vậy chứ gì? Ông nghe tôi nói này, có bao giờ ông thấy con ra đời trước mẹ nó 8 năm không?
    Theo cuốn sổ ấy thì tớ sinh trước bố tớ một năm và trước mẹ tớ tám năm. Mẹ tớ lấy bố tớ năm lên 8 tuổi và sinh ra tớ 15 năm rồi mới đến hôn lễ.
    Các thầy ký và ông trưởng phòng xúm quanh cuốn sổ, thảy đều cúi đầu trầm tư mặc tưởng. Bỗng ông trưởng phòng nghĩ ra :
    - Hẳn là thế này: trước đó bà Khađgiê đã lấy 1 đời chồng, người chồng ấy có một đứa con riêng tên là Êmin. Ðứa con ghẻ ấy của bà Khađgiê hơn bà 8 tuổi. Chồng chết, bà không bỏ rơi cậu nghĩa nam kia mà vẫn nuôi nó khi lấy ông Rêsít. Thấy chưa, thằng Êmin hơn mẹ kế nó 8 tuổi và hơn bố dượng nó 1 tuổi.
    - Ðúng thế - Thầy ký của chúng tớ nói - chỉ có thể là như vậy.
    - Quỷ thật! - Bố tớ phát cáu - Lại còn thế nữa! Vợ tôi lấy tôi năm lên 8 tuổi, mà trước đó lại còn 1 đời chồng nữa?
    - Hẳn chứ - Ông trưởng phòng nói - làm sao khác được? Nếu nhà ông giải nghĩa được đúng hơn, xin mời!
    Tớ lại khóc.
    - Làm gì mà gào lên thế con - Bố tớ an ủi - Thôi, vào trường Ðavađa Khôđji mà học, thế là xong.
    Nhiều năm sau, lúc tớ lớn lên, lại có chuyện.
    Các cậu có thể tin được rằng người ta bắt tớ vào lính hay không? Vì tớ chết rồi cơ mà. Tớ đã chết ở Tranacal rồi. Làm sao người chết còn đánh nhau được? Nhưng bố con tớ không làm sao cho họ hiểu ra. Bọn cảnh sát tóm được tớ dẫn đến bàn tuyển quân. Bố tớ cũng đi theo.
    - Bẩm ngài, trong sổ đã có mục khai tử cho nó rồi đấy ạ. Cháu nó có đâu. Nếu nó sống thật thì nó đã được cấp giấy khai sinh.
    Bố tớ chưa kịp nói hết câu, lão trưởng ban đã gào lên :
    - Sao, nhà ông muốn giấu thằng này khỏi quân dịch à?
    Tớ bị đưa về đơn vị ngay tút sụyt. Thực ra, tớ cũng mừng. Như thế nghĩa là tớ vẫn còn sống. Tốt quá. Rồi đến lúc mãn hạn. Bạn bè tớ được giải ngũ, còn tớ không được cấp giấy cho về. Làm sao lại cho một thằng như tớ xuất ngũ được? Muốn xuất ngũ phải có giấy nhập ngũ đã chứ. Mà tớ lại không có cái giấy ấy. Ðơn vị tớ người ta gửi lên ban quân ngũ xin giấy cho tớ. Chưa đầy 1 tháng có giấy báo về: ?oNgười mà các anh đòi xin giấy đã hy sinh năm 1938 khi thi hành quân lệnh trong chiến dịch Ðécxim.?
    - Người ta nhầm đấy - Tôi nói với ngài sĩ quan chỉ huy đại đội - không phải tôi chết ở Ðécxim, mà là ở Tranacal cơ. Tốt nhất là ngài hỏi về phòng khai sinh, ở đấy có đủ số liệu.
    Tớ đã tốn bao nhiêu công sức để đi chứng minh rằng mình vẫn còn sống. Không chứng minh thế, không giải ngũ được. Cuối cùng người ta cấp cho tớ một tờ giấy in nói rằng tớ đã mãn hạn quân dịch và được thả về.
    Ðến nhà, tớ mới hay rằng bố tớ đã chết, nhưng ông ấy còn một món nợ ngân hàng 5000 đồng và 2000 đồng thuế nhà nước chưa trả. Mà tớ lại là kẻ nối dõi tông đường duy nhất, tớ đành phải gánh nợ. Mấy ông phán sở tái chính không cho tớ một phút nào yên tĩnh.
    - Các ông ơi, tôi có còn sống đâu! Ông nào không tin cứ đến phòng quân vụ mà hỏi. Ðến đấy chưa tin xin hỏi tiếp đến phòng khai sinh. Người chết làm sao trả nợ thay bố?
    - Thế anh không phải là con trai ông Rêsít hay sao? Anh định trốn nợ cha đấy hả?
    - Không, tôi nào có trốn. Nhưng tôi chết thật rồi mà...
    Chà! Giải thích thế nào được! ?oMuốn sao thì sao anh cũng phải trả nợ cho cha!? Tớ đã định bụng không trả, nhưng bọn họ nói rằng còn nợ thì chưa được thừa kế gia sản. Bố tớ lại còn một ít ruộng, một nhà ở và một cửa hàng. Tớ bèn vay tiền trả nợ. Tớ nghĩ, được hưởng gia tài rồi tớ sẽ trả hết. Lúc trả nợ thậm chí tớ còn thấy vui trong bụng. Ít ra khi trả nợ người ta cũng còn cảm thấy được rằng người ta còn sống. Nhưng đến cái khoản gia tài thì lại khắc hẳn! Làm sao chứng minh được rằng tớ là con bố tớ? Lại phải khai sinh! ?oNhà anh chết rồi, sao còn thừa kế được gia tài. Mà anh còn chết trước bố anh nữa ấy chứ.?
    - Người ta tuyên bố với tớ như vậy. Thế là tớ lại không chứng minh được rằng tớ còn sống. Tớ bảo họ: ?oThôi được, thế bây giờ tôi có đứng trước mặt các ngài hay không? Các ngài có nhìn thấy tôi hay không đấy? Ðứng trước mặt các ngài là người thật hay tượng gỗ? Tôi có tòng quân không? Có trả nợ không??
    - Những cái đó chẳng có nghĩa lý gì - Họ bảo - Trước pháp luật anh là kẻ chết.
    - Nhưng tôi đã chết đâu - Tớ cãi.
    - Không chết, nhưng liệt hạng chết!
    Tớ đâm đơn ra tòa. Tớ thuê thầy cãi. Trước tòa, luật gia bộ tài chính phản bác tớ. Vì đại diện cho quyền lợi ngân khố quốc gia, lão ta khẳng định rằng một khi bố tớ đã không có người thừa kế thì tài sản kia phải nộp ngân khố. Lão cứ khăng khăng một lẽ: người thừa kế đã chết. Trạng sư của tớ nói rằng tớ sống, còn lão ta thì rằng tớ chết. Cứ thế cãi nhau tùm lum. Luật gia bộ tài chính đưa ra những giấy tờ hợp thức đến nỗi suýt nữa tớ cũng phải đồng ý và thừa nhận rằng tớ chết thật rồi.
    Vụ kiện kéo dài 2 năm. Không có giấy khai sinh tớ không xin đâu được việc làm. Nợ nần ngập cổ, một hôm tớ điên đầu lên và nói lảm nhảm những gì không nhớ. Tớ bị bắt và bị tống ngục. Tớ bảo: Này các người, sao lại bắt tôi? Tôi chết rồi mà! Làm sao còn bắt người chết?
    - Anh bạn ơi! Người chết thì sao lại nói được? Tán như ranh mà kêu là chết rồi!
    Các cậu thấy không? Bị vào tù, tớ lại thấy vui là khác. Ít ra trong lòng tớ còn lóe lên một niềm tin rằng tớ vẫn sống.
    Ra tù tớ lại thấy buồn vì mình chẳng được hưởng cái gia tài kia. Các chủ nợ bắt đầu thúc ép. Tớ phủi tay chuồng đi Istanbul, nhưng vẫn không được đi làm. Ở đó tớ gặp một cô gái và định cưới. Nhưng cưới sao được khi phòng khai sinh chỉ cho giấy khai tử? Tớ đành sống ngoại hôn với nàng. Nhưng lấy gì mà sống? Tớ đành tìm một người đứng tên để mở cửa hàng. Tớ là người chết thì sao làm được chủ tiệm. Ðược một năm thì người đứng tên cuỗm tiền của tớ chuồn mất. Tớ phải nộp thuế. Tớ tuyên bố rằng tớ chết rồi, nhưng ma nào tin.
    Làm thế nào được? Tớ đành đi ăn cắp. Bị tóm, tớ bảo rằng: ?oTrước pháp luật tôi là người chết.?, nhưng không ai thèm nghe. Người chết mà lại ăn cắp được! Ðã ăn cắp được nghĩa là vẫn sống. Sự thể thế đấy: mày muốn đi học, người ta bảo mày chết rồi, lúc có quân dịch mày là người sống, lúc cần giải ngũ - lại chết, trả nợ cho bố thì sống, còn hưởng gia tài - mày có sống đâu, nhưng cần bỏ tù thì mày lại sống.
    Tớ cũng vui vì lại vào tù. Dù sao bây giờ trước mắt mọi người tớ cũng hiện hữu, mặc dầu chính thức thì đã là chết. Nhưng tớ còn 4 đứa con, chúng không ra sống cũng chẳng ra chết; trước pháp luật chúng chưa ra đời. Bố chúng không có thì sao chúng ra đời được?... Thôi, còn 3 ngày nữa tớ ra tù rồi, tớ sẽ lại không còn sống trước pháp luật nữa.
    Viên cai ngục nâng coi lên miệng.
    Tù nhân dạo chơi phải vào khám, chúng tôi cũng đứng lên.
    - Cậu ạ - anh ta nói - trước pháp luật chúng ta không sống, nhưng dẫu chúng ta có sống phỏng đã ích gì? Cái chính là làm sao đất nước hùng cường phải không? Quê ta vạn tuế. Còn chúng ta, chúng ta không sống chăng, cũng được.

  3. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Secmenđi sinh ngày nào

    - Người ấy là một nhà đại bác học.
    - Thế ông ta có phát minh gì không?
    - Rõ thật cái anh này! Dĩ nhiên là phải có chứ! Ðúng là thời buổi bây giờ, không nói gì đến hạng dân thường, mà ngay cả những người có học cũng chẳng anh nào quan tâm gì đến khoa học cả! Nhà bác học này có cống hiến rất lớn cho nền lịch sử văn học nước ta đấy, vì ông ta đã tìm ra một ngày quan trọng.
    - Ngày gì thế vậy?
    - Chắc anh có nghe nói đến một nhà thơ ở thế kỷ 15 tên là Secmenđi chứ?
    - Không, tôi chưa nghe nói bao giờ.
    - Sécmenđi để lại cho hậu thế một tập thơ lớn. Tên tuổi của ông được nhắc đến trong nhiều tập thi tuyển.
    - Vậy thì sao?
    - Chả là thế này: tất cả các tài liệu về văn học sử đâu như đều nói Sécmenđi sinh ngày mồng 4 tháng 5. Nhưng vị giáo sư nọ đã bác bỏ hoàn toàn ý kiến đó.
    - Bác bỏ bằng cách nào?
    - Bằng cách viết hẳn một cuốn sách dày 600 trang.
    - Và trong 600 trang ấy ông ta đã chứng minh được quan điểm của mình?
    - Ồ, đâu có! Giải quyết một vấn đề phức tạp như vậy anh tưởng dễ lắm đấy! Ðó mới chỉ là tập mở đầu thôi. Trong tập này giáo sư mới chỉ khẳng định rằng Secmenđi không phải sinh ngày mồng 4 tháng 5.
    - Rồi sau đó?
    - Sau đó, sang tập 2, tập 3, mà có khi cả tập 4 nữa cũng nên, giáo sư mới dùng mọi lý lẽ để chứng minh rằng, cái ngày mồng 4 tháng 5 ấy là sai. Tiếp đến, sang tập 5 và tập 6, ông mới cho biết ngày sinh chính xác của Secmenđi.
    - Thế sẽ có bao nhiêu tập tất cả?
    - Hiện giờ cũng chưa biết sẽ có bao nhiêu tập tất cả. Chỉ biết giáo sư mới viết xong tập thứ nhất, mà như thế cũng đã mất 15 năm rồi!
    - Anh bảo gì? 15 năm?
    - Chứ sao! Anh thật chẳng hiểu gì về khoa học cả.
    - Thế đến bao giờ giáo sư mới viết xong các tập kia?
    - Nếu thánh Ala cho giáo sư sống thêm 15, 20 năm nữa, thì ông sẽ hoàn thành tập 2. Năm nay giáo sư đã hơn 60 tuổi rồi.
    - Nói dại mồm, thế nhỡ chẳng may giáo sư... tịch đi.
    - Thì các nhà bác học khác sẽ tiếp tục công trình của giáo sư, ngay từ chỗ mà ông dừng lại.
    - Anh cho phép tôi hỏi một câu: Quả thật anh bắt đầu làm cho tôi thấy tò mò. Lúc nãy, hình như anh có nói Secmenđi không phải sinh ngày mồng 4 tháng 5. Thế thì ông ta sinh ngày nào?
    - Ðó chính là vấn đề mấu chốt cần phải xác minh để làm sáng tỏ lịch sử văn học nước nhà. Secmenđi sinh không phải ngày mồng 4 tháng 5, mà là đêm mồng 3 rạng ngày mồng 4. Nhưng sự kiện này xảy ra trước 12h đêm, nên ngày sinh của ông tất phải coi là ngày mồng 3, chứ không phải mồng 4. Tất cả các nhà nghiên cứu văn học sử đã bị nhầm chính là ở chỗ này.
    - Và toàn bộ công trình phát minh của giáo sư cũng chỉ là ở chỗ đó?
    - Thế theo anh, tìm ra được ngày sinh của một nhà thơ cổ hãy còn là ít hay sao?
    - Không phải, nhưng tôi không hiểu tại sao giáo sư không thể nói vắn tắt điều đó trong vài dòng, mà phải tốn công viết hàng mấy trăm trang giấy?
    - Anh nói chán quá! Nếu viết vài dòng, thì một bác học như giáo sư, còn gì là bác học nữa? Còn có gì là khác người thường nữa? Những nhà bác học, sở dĩ là bác học, bởi vì họ biết cách trình bày thế nào để những điều hết sức dễ hiểu cũng trở thành những cái rất khó hiểu, như kiểu đánh đố vậy. Chỉ có vài dòng thôi, nhưng họ biết cách kéo ra thành vài trăm trang. Cái khác nhau giữa những nhà bác học và những người không phải bác học chính là ở chỗ đó.
    - Nếu vậy thì làm sao anh biết được nhà thơ Secmenđi không phải sinh ngày mồng 4, mà vào ngày mồng 3 tháng 5? Anh đọc cuốn sách ấy rồi ư?
    - Anh hỏi kỳ quá! Ai mà hiểu nổi những cái viết trong sách của các nhà bác học được! Khoc học nó thâm thuý lắm, chứ đâu phải...
    - Tôi biết. Nhưng chính vì thế tôi mới muốn hỏi, tại sao anh lại biết được ngày sinh của Secmenđi?
    - Thực ra tôi biết không phải là vì tôi đọc sách của giáo sư, mà vì chính giáo sư nói với tôi... Với lại, nói chung những tác phẩm như vậy người ta viết ra không phải để cho mọi người đọc...
    - Thế thì người ta in làm gì?
    - Anh thật chả hiểu cóc khô gì về khoa học cả! Này nhé, tôi giả dụ có một tác phẩm nào đó được in ra, được người ta tranh nhau mua, tranh nhau đọc, ai đọc cũng đều hiểu cả, thì thử hỏi như thế nó còn quái gì là giá trị nữa? ấy thế cho nên các nhà khoa học mới mong cho tác phẩm của họ in ra thà cứ nằm mốc trên giá sách cho bụi bặm còn hơn là được mọi người tranh nhau đọc. Anh nên nhớ rằng chỉ có cuốn sách nào ít người đọc, hay thậm chí không có ai đọc cả, hoặc chỉ có cuốn sách nào viết rất khó hiểu, hay thậm chí không ai hiểu nổi, mới làm tăng uy tín của tác giả mà thôi.
    - Thú thật anh làm tôi rất ngạc nhiên.
    - Có gì mà ngạc nhiên! Anh tưởng viết để không ai hiểu được dễ lắm đấy phỏng? Anh có thấy từ nãy đến giờ tôi với anh nói chuyện với nhau đã hơn một tiếng đồng hồ rồi, mà chúng mình vẫn cứ hiểu nhau một cách rất dễ dàng không? Bây giờ tôi với anh hãy thử nói chuyện với nhau thế nào để không ai hiểu ai cả độ
    dăm phút thôi, xem có dễ không nào?
    - úi, thế thì khó lắm!
    - Không phải là khó, mà nói thẳng ra là không thể được. Hơn nữa, đây lại không phải là chuyện ngồi tán phét với nhau dăm ba phút, mà là viết hàng trăm trang sách, mà lại viết thế nào để vẫn có đầu có đuôi hẳn hoi, chứ không phải viết nhăng viết cuội. Nếu không thì lại giống như cái anh loạn trí, thích nói lảm nhảm hàng mấy giờ, có khi mấy ngày liền, những chuyện chẳng ra đâu vào đâu cả. Nhưng những người này thì chẳng bao giờ trở thành bác học được! Vậy thì cái khác nhau giữa nhà bác học và anh mất trí là ở chỗ nào? Nhà bác học có thể viết một cuốn sách hàng mấy trăm trang mà người đọc chẳng hiểu gì hết, chỉ thấy như bị lạc vào một khu rừng rậm ấy. Nhưng có điều là trong sách của họ, không thể tìm được lấy một lối ngữ pháp hay đặt câu nào cả, hay cảm thấy có câu nào gọi là lủng củng hay thiếu logic cả. Còn như anh mất trí thì nói câu trước câu sau là đã lẫn lộn rồi. Dễ hiểu thôi: vì anh ta mất trí mà lại!
    - Tôi muốn hỏi anh một điều: nhưng làm thế nào giáo sư chứng minh được là Secmenđi sinh không phải ngày mồng 4 tháng 5, mà vào đêm mồng 3 rạng ngày mồng 4?
    - Nhưng giáo sư có chứng minh điều gì như vậy đâu! Trong một bài thơ đăng trong một tuyển tập thơ của mình, Secmenđi có viết :
    ?oTôi chào đời
    Là chào cả hôm qua và cả hôm nay.?
    Như thế là rõ quá rồi còn gì? Chào cả hôm qua và cả hôm nay là lúc nào? Là nửa đêm. Dạng thức của động từ ?ochào? ở đây chỉ một hành động chưa kết thúc, mà còn tiếp tục kéo dài sang cả thời tương lai. Nghĩa là Secmenđi sinh ra trước lúc nửa đêm một chút, vào khoảng kém 5 hay kém 3 phtú gì đó thì đến nửa đêm. Như vậy có thể suy ra ngày sinh của ông không phải là mồng 4, mà là mồng 3.
    - Cứ cho là đúng như thế đi, nhưng tôi vẫn không hiểu tất cả những cái đó cuối cùng để làm gì?
    - Ðể làm gì ư? Này nhé, nói ví thử bây giờ có một nhà bác học nào đó viết một cuốn sách 3 tập và nói rằng Secmenđi sinh vào lúc 23h30'' ngày mồng 3 tháng 5. Nhưng một nhà bác học khác lại bác bỏ ý kiến của ông ta và bảo rằng: ?oKhông đúng, Secmenđi sinh vào hồi 23h35'', chứ không phải 23h30.? và lại viết một cuốn sách dày những năm tập để chứng minh cho điều đó. Thế là cuối cùng người ta xác minh, được chính xác cả ngày sinh lẫn nơi sinh của nhà thơ Secmenđi.
    - Nói anh tha lỗi, chứ thật tình tôi vẫn chưa hiểu gì cả. ừ thì cứ cho là Secmenđi sinh không phải ngày mồng 4 tháng 5, mà là mồng 3, không phải vào hồi 23h30'', mà là 23h35'' đi. Nhưng biết được như thế để rồi cuối cùng rút ra cái gì?
    - Anh nên nhớ rằng người ta soạn ra được lịch sử vào học cũng chính là từ những cái chi tiết ấy đấy. Một người bảo ?oMồng 3 tháng 5?, người kia bảo ?oKhông phải, mồng 4 chứ!? Thế là nổ ra tranh cãi. Và người nào viết được cuốn sách dày hơn và khó hiểu hơn là chứng tỏ người đó uyên bác hơn.
    - Tôi không hiểu vậy thì lợi ích thực sự của cuộc tranh cãi ấy là ở chỗ nào?
    - Trời ơi, cái anh này mới thật tối dạ! Anh không biết rằng chính nhờ những cuộc cãi vã ấy mà nhiều người mới trở thành giáo sư và bác học hay sao? Ðó là cách không tốn mấy công sức mà vẫn có danh vọng, sống êm thấm mà vẫn được mọi người kính nể. Tên tuổi lại còn được lưu truyền hậu thế nữa chứ! Nói của đáng tội, chứ ví thử không có họ thì làm sao chúng ta biết được một sự thật như Secmenđi sinh vào ngày nào giờ nào? Hay làm sao ta hiểu dược nhiều chân lý vĩ đại khác nữa! Cứ gọi là suốt đời ta cứ sống trong cảnh y mê tăm tối thôi! Loài người ta có tiến bộ được cũng chính là theo cách đó cả. Nghĩa là có một nhà bác học khác lắc đầu phê phán, ý nói ?oKhông đúng, không đúng?. Thế là nổ ra một cuộc tranh cãi sôi nổi. Vị thứ ba bỗng xen vào và bảo ?oCả hai ông đều sai tuốt.? Và khoa học cứ thế mà ngày càng tiến lên mãi.
    - Trời ơi, anh nói chí lý quá! Ðúng là chỉ cần chịu khó suy nghĩ một chút là hiểu được ngay rằng, nếu không có các nhà bác học thì làm sao chúng ta phát hiện ra được chân lý. Té ra bấy lâu nay chúng ta vẫn sống trong cảnh u mê tăm tối mà không biết. Phải rồi, giá không có các nhà bác học thì có lẽ chúng ta chẳng biết cái cóc khô gì hết. Thậm chí đến nhà thơ Secmenđi sinh ngày nào có lẽ chúng ta cũng chẳng biết nữa, mà cứ tưởng ông sinh ngày mồng 4 tháng 5 mất! Ðúng là không thể sống mãi trong sự ngu dốt như vậy được. Tôi không thể hình dung nổi chúng ta sẽ làm được cái gì nếu không có các nhà bác học?!

  4. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Chuyện vợ chồng
    Lẽ ra tôi phải viết xong và nộp bản thảo từ tháng trước, nhưng tôi không hoàn thành hợp đồng.
    - Viết đi anh! Nào có ai quấy rầy anh đâu?
    - Ðâu có, em yêu của anh. Ðáng ra anh đã phải đánh dấu chấm hết cuốn sách, thế mà không xong... Chẳng hiểu sao anh lại không tập trung được tư tưởng em ạ... Ðầu óc cứ để đi đâu...
    - Làm sao đầu óc anh lại để đi đâu?
    - Chính anh cũng không biết nữa... Hôm nay anh sẽ ngồi nghiêm chỉnh. Trời mát mẻ và đầu óc anh cũng đang thư thái... May ra cũng xong đề cương...
    - Thế thì anh ngồi viết đi... Có khi em quấy rầy anh cũng nên.
    - Có gì đâu, em yêu dấu!
    - Thế anh viết đi... Anh đại lãn thật!
    - Hả?! Lạy trời hôm nay tôi không bị chuyện gì quấy quả!
    - Ủa! Anh nói thế nghĩa là thế nào?
    - Chả thế nào cả... Anh không có ý gì đặc biệt... Anh chỉ cầu trời cho anh hôm nay làm được nhiều việc...
    - Thế nhỡ đột nhiên hôm nay em chết thì sao?
    - Sao em lại sang chuyện ấy?
    - Thì sao!... Em chết thật đấy...
    - Nói thế làm gì, vợ yêu của anh?
    - Anh ơi, ngộ như em chết... Anh có lấy vợ khác không?
    - Em yêu dấu! Ðừng nói với anh những điều như thế...
    - Nhưng, anh thấy đấy, anh có trả lời được đâu. Mà từ lâu em đã biết tỏng bụng dạ anh, biết anh nghĩ gì về em rồi.
    - Em gái nhõng nhẽo của anh, tính nết em kỳ thật đấy.
    - Mọi sự chỉ vì anh...
    - Thì anh có làm gì em đâu, hả người ngọc? Anh chẳng bao giờ muốn em buồn cả!
    - Thế anh trả lời em đi: sau khi em chết anh có đi lấy vợ khác không nào?
    - Lạy thánh Ala!
    - ái chà, thấy chưa! Em biết rồi mà... Anh vừa mới tự thú đấy nhé!...
    - Tự thú? Tự thú cái gì kia chứ?
    - Anh chả vừa nói cái câu ?oLạy thánh Ala? là gì?
    - Thì anh nói đấy... Nhưng làm sao nào?
    - Em chết rồi tất nhiên anh không lấy ai được nữa... Bọn đàn bà nó ghê tởm anh, anh chả căm ghét cuộc sống gia đình là gì... Tưởng em không biết đấy hả! Em chết rồi dù anh có sống đến nghìn tuổi anh cũng không lấy được vợ... Nhưng chả lẽ anh ghê tởm cuộc sống gia đình là tại em à?
    - Nàng tiên của anh, tại sao em lại cứ kiếm chuyện thế nhỉ? Ngay cả trong ý nghĩ, anh cũng chẳng bao giờ có những chuyện ấy... Em lau nước mắt đi, bình tâm mà nghe anh đây... Em chẳng thương em tí nào mà cứ làm mình làm mẩy vô ích... Em quả là không hiểu những lời anh nói...
    - à à à! Nghĩa là anh không định nói những điều như thế chứ gì?
    - Phải ạ!
    - Nghĩa là nếu em chết anh sẽ tục huyền chứ gì?
    - Trời ơi là trời, tôi biết nói thế nào đây... Có thể...
    - Anh cứ nói toạc ra xem nào...
    - Bây giờ anh không thể đoán chắc điều gì... Nhưng có thể anh sẽ lấy vợ cũng nên!
    - Tất nhiên là lấy vợ rồi... Làm như em không biết bụng dạ anh ấy!
    - Trời đất ơi! Thánh Ala ơi! Cầu trời cho tôi được bình tĩnh. Em làm anh rối cả ruột, em yêu ạ, chính anh cũng không biết anh nói gì nữa...
    - Lấy vợ, đằng nào rồi anh cũng lấy vợ...
    - Anh nói thế làm vui lòng em đấy thôi...
    - Làm vui lòng em?! Ðầu tiên anh bảo không lấy, rồi sau lại bảo có lấy. Như thế mà bảo làm vui lòng em!
    - Thánh Ala ơi! Con phải làm thế nào đây... Xin Thánh rủ lòng ân ưu. Thôi, nín đi em... lúc anh bảo anh không lấy vợ thì em cáu. Ðến lúc anh bảo anh có lấy vợ em cũng lại cáu. Thế em lệnh cho anh nói gì có phải hơn không?
    - Thôi, em đã đoán từ lâu là anh chán em rồi.
    - Thiên thần của anh, tại sao em lại quyết đoán rằng anh đã chán em.
    - Thì anh bảo rằng anh không biết sau này có lấy vợ hay không chứ gì?
    - Vâng, thì tôi có nói!
    - Thế là thế nào? Tức là anh bảo em rằng: Thôi cô có chết thì chết mau lên, cho tôi còn liệu! Thế mà anh lại còn chối phắt đi được!
    - Thôi thôi... Tôi im. Tôi không nói một lời nào nữa. Tôi xin rút lui mọi ý kiến. Tôi chỉ xin cô đừng khóc nữa, tôi van cô. Chúng ta ngồi im nhé. Thôi, nín đi, em yêu của anh!
    - Ôi! Tôi khó thở quá, tôi ngất đây... Tôi chết đây!

  5. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Hội cứu vớt gia đình
    Khoảng nay mai ở Mỹ sẽ phải xuất bản một cuốn sách mà tôi cam đoan là sẽ bán hết ngay lập tức. Tác giả của nó vốn là người tôi quen biết từ lâu. Trong những lần gặp nhau... hay qua thư từ, ông đã kể cho tôi nghe nhiều về nội dung cuốn sách. Cách đây chừng hai tháng, ông còn gởi cho tôi cả tập bản thảo đánh máy để tôi xem và cho ý kiến. Tôi đã trả lời ông rằng, tác phẩm của ông tất nhiên sẽ rất được hâm mộ, và được dịch sang tất cả thứ tiếng. Bởi cái chính là trong toàn bộ cuốn sách không hề có một chút gì gọi là bịa đặt của tác giả, mà hoàn toàn là những sự việc và tư liệu có thật. Tác giả chỉ thay đổi đi một số tên người, vì câu chuyện có liên quan đến nhiều nhân vật tai to mặt lớn thuộc giới kinh doanh và chính trị của Mỹ.
    Nếu các bạn muốn biết, thì đây, tôi xin tóm tắt lại nội dung cuốn sách :
    Cách đây mấy năm, 6 thanh niên ở bang California có lập ra một cái hội bí mật. Họ muốn làm giàu, nhưng tất nhiên là phải nhanh chóng, chắc chắn và ít nguy hiểm. Vì thế họ bèn nghĩ ra cách bắt cóc vợ các nhà triệu phú và tỉ phú để đòi một khoản tiền chuộc kếch sù. Không, họ hoàn toàn không phải hạng côn đồ hay du đãng gì, mà đều là những thanh niên tử tế hẳn hoi cả! Ba người thì tốt nghiệp đại học tổng hợp ra, người thứ 4 thì hãy còn là sinh viên, người thứ 5 làm nghề bán hàng, còn người thứ 6 làm nhân viên thư ký. Không những thế, họ lại còn tốt bụng và nhân đạo lắm: tuy chẳng ai bảo ai, nhưng cái ý định bắt cóc trẻ con là cả bọn không ai bàn đến! Họ chỉ bắt cóc người lớn thôi!
    Nhưng họ hiểu rằng muốn bắt đầu một sự nghiệp gì cũng vậy, trước hết, hội phải có một số vốn. Vì thế họ quyết định ai có bao nhiêu tiền thì đem góp hết vào cho hội. Tuy vậy, họ vẫn phải đi vay thêm, vì biết trước là sẽ rất phải tốn kém với các vị khách hàng tương lai của mình. Với lại, chỉ ở những nước lạc hậu người ta mới có thể đi ăn trộm nhà băng hay bắt cóc người mà không cần có tiền bạc gì cả. Chứ ở một nước văn minh và giàu có như nước Mỹ mà không có tiền, thì đừng hòng làm được trò trống gì.
    Theo kế hoạch của họ, người đầu tiên bị bắt cóc là vợ một ông trùm tài chính, giám đốc nhà băng ở San Francisco. Họ đến bắt bà này, đưa về một biệt thự tại một vùng thôn quê hẻo lánh, rồi cho công bố trên báo chí, đài phát thanh và vô tuyến truyền hình rằng, trong thời hạn ba ngày, nếu nhà triệu phú nọ không nộp đủ 80000 đôla tiền chuộc, thì vợ ông ta sẽ bị giết. Báo chí, phát thanh và vô tuyến truyền hình tất nhiên đã loan báo ngay điều kiện đó. Nhưng vì chuyện bắt cóc người bây giờ xảy ra như cơm bữa, nên tin ấy cũng chẳng làm ai sửng sốt hay thương cảm nữa. Thời hạn ấn định đã hết, mà nhà triệu phú vẫn im hơi lặng tiếng. Mấy anh chàng đi bắt người đâm ra khó xử: món hàng bán không trôi, quăng đi không được, mà giữ lại thì cũng dở. Vì tiền nuôi mụ qúa tốn kém. Không những thế, mụ lại là một người đàn bà kênh kiệu đỏng đảnh hết chỗ nói. Mụ đòi hỏi đủ mọi thứ: nào gương lược, phấn sáp, nào son, thuốc móng tay, nào thuốc xoa bóp, thuốc ngủ... Thần kinh của mụ đúng là không bình thường. Bây giờ, tự nhiên thả mụ ra thì không được. Chỉ có cách là phải giết đi. Nhưng giết thì đúng là mấy chàng thanh niên này không có gan. Mà thả mụ ra bây giờ thì mọi chuyện sẽ vỡ lở và cảnh sát sẽ đến tóm cổ họ ngay. Chồng mụ thì vẫn cứ lặng thinh, không thấy đem tiền đến chuộc.
    Họ bằng quyết định phải đến gặp người chồng để điều đình. Sau khi suy nghĩ một lát, người chồng nói với họ: ?oCác ông đòi nhiều tiền quá. Bà ấy không đáng giá như thế đâu!? Họ bằng lòng hạ giá xuống còn 50000 đôla ?oKhông! Bà ấy vẫn không đáng giá đến thế!? Bọn người bắt cóc bảo ông ta: ?oThôi được, giá cuối cùng là 40000?. ?oGiá như các ông bắt vợ tôi cách đây 20 năm lúc tôi vừa cưới bà ấy thì tôi sẵn sàng chấp thuận ngay.? ?oThôi, 30000. không kém một xu?. Người chồng vẫn chỉ nhìn họ lắc đầu. Giá 80000 hạ dần xuống còn 20000, rồi 15000... Nhà triệu phú vẫn lặng thinh. Những người đi điều đình nhắc cho ông ta nhớ rằng, vừa năm ngoái, ông còn dám bỏ ra 15000 cho ?oHội bảo vệ những con mèo không nhà cửa?. Nhưng nhà triệu phú giải thích rằng, thứ nhất, là vì ông rất thích mèo, thứ hai, là vị hội ấy là một hội đứng đắn và hoàn toàn hợp pháp, nên số tiền có thể góp dần hàng năm, và chuyển từ số lãi nhà băng sang. Còn như mấy cái hội bất hợp pháp thì phải bỏ tiền túi ra mà đóng.
    Mấy chàng thanh niên lại quyết định giảm số tiền xuống còn 10000 đôla, và cố gắng giải thích cho người chồng hiểu rằng, rút cuộc, họ chỉ yêu cầu ông bù lại cho họ khoản tiền đã mất mà thôi: Họ đã phải tốn kém vào vợ ông gần hết số vốn của họ... Người chồng không nói gì, chỉ buông một tiếng than và mời họ uống whisky.
    Ra về tay không, các thành viên của tổ chức bí mật bàn định lại tình hình và quyết định hành động táo bạo hơn. Họ thả người vợ ra, nhưng ngay đêm hôm đó, bắt cóc người chồng và tuyên bố số tiền chuộc vẫn như cũ, nghĩa là 80000 đôla. Nhưng thời hạn chuộc đã hết, mà kết quả vẫn như lần trước. Vợ nhà triệu phú tỏ ra còn cứng rắn hơn cả chồng. Bà ta tuyên bố nhất định không chịu trả một xu nào! Những người bắt cóc đe doạ la nếu vậy, chồng bà ta sẽ bị giết. ?oTôi không có quyền can thiệp vào kế hoạch riêng của các ông.? Bà ta trả lời như vậy bằng một giọng buồn rầu, nhưng mắt thì ánh lên tia hy vọng.
    Trở về biệt thự, những người bắt cóc báo cho nhà triệu phú biết ông ta được tự do và muốn đi đâu thì đi. Nhưng ông này lại không chịu đi và bảo với họ: ?oTôi muốn sống ở biệt thự này, hay thậm chí ở tù cũng được, miễn sao thoát được mụ đàn bà ấy.?
    Cáu tiết, sáu chàng thanh niên xúm lại, túm lấy ông ta đẩy ra cửa. Nhà triệu phú hết sức chống cự và van vỉ :
    ?oTôi sẽ cho các ông 10000, 10000! Nhưng xin các ông cho tôi ở lại đây!?
    Nghe thấy thế, trong đầu những người sáng lập ra tổ chức bí mật bỗng nảy ra một ý nghĩ tuyệt diệu. Họ bằng lòng cho nhà triệu phú được ở lại đại bản doanh của hội, nhưng bắt ông ta phải nộp đủ 80000 đôla! Nhà triệu phú bằng lòng. Không những thế, ông ta còn thú thật với mấy chàng thanh niên tố bụng rằng, giá như tuần trước, họ đến nhà ông để khuyên ông đừng chuộc vợ về, mà nên thoát khỏi bà ta thì hơn, thì chắc chắn ông sẽ chẳng đắn đo gì mà trả ngay cho họ đủ số tiền như thế.
    Ngay tối hôm đó, những hội viên của hội lại đến thăm người vợ có chồng bị bắt cóc. Họ doạ bà ta rằng nếu bà ta không chịu trả 80000 đôla, thì họ sẽ thả đức ông chồng của bà ta ra ngay lập tức. Quả nhiên họ lại được ngay một món tiền nữa. Của đáng tội, mấy hôm trước họ đã phải chịu đựng cái tính khí bất thường của người đàn bà này.
    Cái ý định đặt tên hội là ?oHội cứu vớt gia đình? nảy sinh ra chính là từ đó, và hoạt động của 6 chàng thanh niên thông minh ở bang California ngày càng phát triển. Hội của họ dần dần có chi nhánh ở tất cả các bang khác, rồi sau bắt đầu có cả cổ phiếu riêng để bán. Ðồng thời, cái tên ?oHội cứu vớt gia đình? cũng dần dần được thay thế bằng những tên khác nghe kêu hơn và lịch sự hơn, như ?oHội tình nguyện?, ?oHội từ thiện?... tuy rằng hoạt động của nó vẫn là bất hợp pháp, vì hội và khách hàng, tuy không ai bảo ai, nhưng cả hai đều muốn giữ bí mật tuyệt đối việc làm của mình. Hơn nữa, làm như thế họ còn đỡ được khoản thuế. Hoạt động của Hội cứu vớt gia đình cho đến ngày nay vẫn ngày càng phát đạt: trong khi phục vụ cho các ông chồng và các bà vợ, nó lấy được tiền của cả hai.
    Cuối cùng, tác giả cuốn sách còn cho biết thêm một chi tiết đặc biệt của các vị khách đàn ông (kể cả các nhà kinh doanh lẫn các nhà chính trị) là trong khi sẵn sàng trả rất nhiều tiền thuê người bắt cóc vợ mình, thì đồng thời họ cũng tình nguyện bỏ ra những số tiền rất lớn để chuộc lại các cô thư ký bị bắt cóc. Ðiều này nói chung cũng dễ hiểu: việc mất đi những nhân viên có kinh nghiệm sẽ ảnh hưởng ngay và trước hết đến công việc...

  6. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Giá không có ruồi
    Lúc lên mười tuổi, nó bảo :
    - Úi dà! Nếu tôi cũng có cặp sách như những đứa khác, cũng có đồ chơi, có những quyển tranh đẹp như chúng, thì xem tôi học giỏi không nào!... Ðây tôi lại chẳng có gì cả! Thế thì làm sao mà học giỏi được!
    Ðến năm 13, nó cũng có đủ sách, vở, bút, cặp và đồ chơi như những đứa trẻ khác. Nhưng nó học vẫn không được. Nó lại than phiền :
    - Quần áo đẹp thì không có! Nhà cửa thì chật chội, cả mấy bố, mẹ và anh chị em tôi phải ở chung một buồng. Thế thì học làm sao được! Giá tôi được một cái buồng, một cái tủ sách và bàn học riêng xem! Tôi không học giỏi bằng mấy chúng nó ấy à!
    Năm 18 tuổi, người ta dành cho hắn một cái buồng riêng.
    - Học giỏi thế quái nào được, nếu đến tuổi tôi mà trong túi chẳng có nổi lấy 10 lia! Muốn mua sách vở nhưng lại không có tiền.
    Năm 20 tuổi, trong túi hắn lúc nào cũng đã có ít nhất 10 lia, có khi còn nhiều hơn.
    - Ôi! Mong sao học chóng xong để ra đi làm! Tốt nghiệp đại học rồi tôi sẽ làm việc cật lực cho mà xem!... Tôi sẽ bắt đầu viết truyện... à không! Viết hẳn tiểu thuyết ấy chứ! Chao ôi! Ước gì tôi chóng được ra trường.
    Năm 24 tuổi, sau khi tốt nghiệp đại học, hắn than thở :
    - Tôi không tìm được việc gì hợp ý nguyện cả, vì đầu óc lúc nào cũng bị ám ảnh bởi chuyện sắp phải tòng ngũ. Chỉ mong sao cái thời hạn tại ngũ chóng qua đi. Lúc ấy tôi sẽ làm việc ngày đêm để cướp lại thời gian! Thế nào tôi cũng phải viết một tác phẩm thật vĩ đại, để mọi người phải nhắc đến tên tôi!... Chà, cái chuyện tòng ngũ tai ác này!...
    Ðến năm 26, hắn hết hạn phục vụ trong quân đội.
    - Tôi vẫn chưa thể nào bắt tay vào làm việc một cách thật sự được. Vì cứ quanh quẩn lo hai bữa ăn đã hết ngày rồi. Khi nào người ta chưa có được một công việc đàng hoàng và một khoản thu nhập cố định, thì chưa thể nói gì đến chuyện sáng tác!
    Năm 28 tuổi, khi đã có công ăn việc làm tử tế, hắn kêu :
    - Ðiều kiện thiếu thốn thế thì sáng tác thế quái cho được! Ít ra là phải có hai buồng và có máy thu thanh! Lúc nào làm việc mệt, mở máy ra nghe nhạc cho đỡ mệt, sau đó lại tiếp tục làm việc. Như thế tinh thần mới sảng khoái, làm việc mới có hiệu quả được chứ! Ôi! Giá tôi có một chiếc máy thu thanh thì hay biết chừng nào?
    Năm 29 tuổi, hắn tậu được một căn nhà hai buồng và sắm được một cái máy thu thanh. Nhưng tác phẩm mà hắn dự định từ bao nhiêu năm nay vẫn đứng nguyên tại chỗ.
    - Chao ôi là cô đơn! - Hắn thở dài - Sự cô đơn làm cho lòng tôi trống trải như một bãi sa mạc! Thử hỏi như thế làm sao tôi có thể tìm ra cảm hứng sáng tác được! Ôi! Phải có một tia nắng nào sưởi ấm được lòng ta! Phải có một ngôi sao nào đem lại cho ta nguồn vui và nguồn sức mạnh! Phải có một người nào mà vì nó ta sẵn sàng làm việc quên ăn quên ngủ chứ!... Ai là người có thể làm thần tượng cho ta, có thể làm mục đích của đời ta? Ôi, tình yêu của ta! Người ở đâu?
    Ðến năm 30 hắn gặp được nàng. Hắn yêu nàng và cũng được nàng yêu lại. Cuộc sống của hắn bắt đầu tràn đầy ý nghĩa. Nhưng cuốn tiểu thuyết mà hắn ấp ủ từ hồi còn niên thiếu vẫn chẳng nhích thêm được một dòng nào.
    - Yêu đúng là một hạnh phúc tuyệt vời! - Hắn suy nghĩ - nhưng nếu cứ yêu mãi mà không cưới thì vẫn chưa thể an tâm làm việc được. Ta phải cưới thôi. Có lấy vợ rồi thì cuộc sống mới ổn định, mới có thể hoàn toàn yên tâm lao vào sự nghiệp. Chà, mong sao ta sớm cưới được nàng! Bấy giờ ta thề sẽ lao đầu vào sáng tác, không bỏ phí lấy một phút cho mà xem!
    Năm 32 tuổi hắn cưới vợ. Cuộc sống vợ chồng của hắn hạnh phúc lắm! Nhưng không hiểu sao hắn vẫn không thể bắt tay vào cái sự nghiệp cả đời của hắn được. ấy là vì hắn lại tìm thấy những lý do thật là xác đáng - bây giờ trên vai hắn có cả một gánh nặng gia đình. Quanh năm suốt tháng hắn phải lo chạy vạy kiếm miếng ăn. Thế thì thì giờ đâu để hắn ngồi sáng tác nữa?
    Năm 36 tuổi hắn được tăng lương. Nhưng ta hãy nghe hắn nói :
    - Ðã đành là mình có nhà riêng đấy! Nhưng nhà cửa chật chội quá! Trẻ con lại suốt ngày nô đùa ầm ĩ, không sao làm việc được. Giá mình kiếm được ngôi nhà độ bốn, năm buồng thì tuyệt quá! Lúc ấy mình sẽ làm việc phải biết nhé! Phải xắn tay áo lên mà làm mới được!
    Năm 38 tuổi hắn dọn đến ở một biệt thự năm buồng. Song tác phẩm của hắn vẫn không tiến thêm được một tý nào. Hắn vẫn chưa thể làm việc được. Nhưng phải đâu là lỗi tại hắn?
    - Làm sao mà có thể sáng tác trong một ngôi nhà ở ngay giữa khu phố đông đúc ồn ào như thế?! Các người có giỏi thì sáng tác xem nào! Không! Mình cần có một nơi yên tĩnh, nếu dọn được đến một nơi yên tĩnh thì nhất định thế nào mình cũng làm việc được, mà làm ra trò chứ không phải đùa!
    Năm 40 tuổi hắn dọn đến một khu phố tĩnh mịch. Ngôi nhà của hắn thật rộng rãi và thoáng mát. Từ cửa sổ nhìn ra phong cảnh đẹp tuyện trần. Bây giờ chắc hắn phải bắt tay vào sáng tác thực sự được rồi chứ gì nữa? Vẫn chưa à? Tại sao vậy?
    - Chà! - Hắn than phiền - Sáng tác gì được khi mà trong nhà không có những đồ vật đẹp! Không có những bức tranh quý, không có những bộ xalông êm, không có một cái bàn viết cho ra trò, không có những tấm thảm mịn! Muốn sáng tác thì mắt phải được nhìn những đồ đạc xinh đẹp, tai phải được nghe những điệu nhạc du dương chứ!
    Than ôi! Không biết có ngày nào mình thực hiện được cái mơ ước ấy không?... Ðược thế, mình thề sẽ dốc hết sức ra mà làm việc, cho thiên hạ biết tay!...
    Năm 42 tuổi hắn có được tất cả những thứ hắn mơ ước: những đồ đạc quí giá và tiện nghi đầy đủ. Nhưng chẳng hiểu sao hắn không tài nào tập trung tư tưởng vào công việc được. Tác phẩm của hắn vẫn không nhích thêm được chút nào.
    - Trời ơi! - Hắn bảo thế - Các người có hiểu đâu hoàn cảnh của tôi! Các người cứ nhìn bên ngoài nên tưởng tôi sung sướng, mãn nguyện lắm, không còn điều gì phải phàn nàn nữa... Mà kể ra tôi cũng mãn nguyện thật, vì tiền bạc lúc nào cũng rủng rỉnh, không lúc nào thiếu cả, lại được vợ đẹp con khôn, nhà cao cửa rộng nữa. Ðồ đạc tronh nhà thì toàn loại quý và tiện nghi đầy đủ, thì giờ lại nhiều nữa này... Thế nhưng... phải mỗi cái tội là... ruồi! Ruồi nhiều quá! Ruồi không còn làm ăn gì được nữa! Nó cứ bâu vào người, cứ vo ve bên tai nghe sốt cả ruột, tư tưởng không sao tập trung được! Ban ngày không chợp mắt nổi vì ruồi, thành ra ban đêm không còn sức để thức mà sáng tác nữa. Giá không có ruồi thì tôi làm việc phải biết nhé! Cứ gọi là làm như điên ấy chứ không nói chuyện!... Tôi thề như vậy! Nhưng... cái lũ ruồi khốn kiếp!... Tôi không biết làm thế nào với chúng cả. Ðóng cửa lại thì nóng! Mà che rèm thì mất đẹp.
    Các người bảo tôi làm việc về mùa đông ư? Nhưng có thực là mùa đông không có ruồi không? Trời ơi! Không hiểu ai sinh ra giống ruồi làm gì không biết? Tôi chịu không hiểu nổi.
    Năm nay hắn mới 42 tuổi. Vì thế chúng ta vẫn chưa hết hy vọng. Một ngày kia, khi giống ruồi bị tiêu diệt hết trên thế gian này, như điều hắn mơ ước, thì chắc chắn thế nào hắn cũng sẽ làm việc không ngơi tay để tạo ra cho thế giới cái tác phẩm vĩ đại của hắn. Ðấy, rồi các bạn xem!

  7. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Nhỏ và đẹp
    Tôi bắt được một cuốn sổ tay dưới gầm bàn trong nhà. Nhưng hỏi người nhà thì không ai nhận. Ai cũng bảo: ?oKhông phải của tôi!?
    Cuốn sổ xinh xắn, bọc bìa xanh, có hàng chữ nổi mạ bạc trông rất đẹp. Tôi mở ra xem là của ai. Vừa đọc trang đầu tôi đã thấy kinh ngạc. Ở đó có ghi tên, địa chỉ, số điện thoại của một ông to, ông rất to. Lật trang sau cũng lại thấy ghi lần lượt tên, địa chỉ, số điện thoại của ba nhân vật khác cũng rất có danh tiếng. Cứ thế tôi giở hết trang này đến trang khác và nỗi kinh ngạc của tôi mỗi lúc một tăng.
    Các bạn cứ nghĩ xem: trong nước có bao nhiêu nhà hoạt động chính trị tai to mặt lớn, bao nhiêu quan chức có thế lực, thì địa chỉ của tất cả các vị này đều được ghi vào sổ. Người kém vế nhất trong số đó cũng là một Tổng giám đốc. Tôi lại còn để ý thấy thêm một điều này nữa: các nhà hoạt động chính trị có tên trong sổ đều là những người hiện đang cầm quyền. Ai ở vào địa vị tôi mà chẳng phải ngạc nhiên? Ðối với tôi, cuốn sổ ghi địa chỉ những người có thế lực thật chẳng khác gì một trái bom nổ chậm. Ðúng là có kẻ nào thù hằn đã ném nó vào nhà tôi. Tôi chưa hình dung được cuốn sổ ghi địa chỉ những nhân vật tiếng tăm này có thể gây cho tôi điều gì rủi ro. Nhưng có điều không nghi ngờ gì nữa là nó được ném vào gầm bàn tôi với một ý đồ xấu xa. Tôi hoảng sợ vô cùng. Rất có thể, sắp có người bấm chuông gọi cửa ngay bây giờ, rồi bọn cảnh sát mặc thường phục sẽ ập vào nhà tôi và bảo: ?oÐưa quyển sổ đây!? Còn tôi thì sẽ run như cầy sấy, hỏi lại: ?oQuyển sổ nào ạ?? Họ sẽ lục soát căn phòng tôi và tìm thấy ngay cuốn sổ dưới gầm bàn, như thể chính tay họ đã đặt vào đấy vậy.
    Tôi biết chắc mọi việc sẽ xảy ra đúng như thế. Ðứa khốn kiếp nào ném quyển sổ vào nhà tôi, hắn đã đi báo cảnh sát! Rõ ràng la tôi đã sa vào cái bẫy hết sức nham hiểm rồi!
    Bọn cảnh sát vớ được cuốn sổ sẽ hỏi ngay: ?oNào, nói đi! Anh ghi địa chỉ tất cả những quan chức lớn nhỏ vào đây để làm gì? Anh muốn lập hồ sơ theo dõi lý lịch cá nhân của họ à? Anh sửa soạn tống tiền họ chăng? Hay anh định mưu sát??
    Lạy chúa! Lúc ấy tôi biết trả lời họ ra sao? Mà dù tôi có phân trần, thanh minh thế nào chăng nữa, chắc đâu họ đã tin tôi?
    Thôi, tôi phải đem đốt ngay cuốn sổ rồi tung đám tan ra cho gió cuốn đi thôi!
    Nhưng không biết đứa khốn nạn nào đã giăng bẫy đưa tôi vào tròng mới được cơ chứ? Tối hôm qua tôi có ba người bạn đến chơi. Trong bọn họ thì một người là giảng viên trường đại học, một người làm việc ở thư viện trường tổng hợp, còn người nữa là giáo viên văn học...
    Tôi đang đút cuốn sổ vào lò sưởi nhà tắm để chuẩn bị đốt thì có chuông gọi cửa. Anh bạn Halit của tôi đến.
    Tôi quen anh đã 20 năm nay, anh làm việc ở thư viện trường đại học tổng hợp, và là một trong ba người đã ngồi chơi ở nhà tôi tối hôm qua. Halit cũng đang hoảng hốt như tôi. Anh hỏi tôi :
    - Sao trông anh tái nhợt đi thế?
    Tôi cũng hỏi lại anh :
    - Này, nhưng cậu cũng làm sao vậy?
    - Lạy chúa, anh có thấy cuốn sổ tay tôi đánh rơi ở đây hôm qua không?
    Tôi đưa cho anh quyển sổ :
    - Quyển này phải không?
    Anh nắm lấy tay tôi, reo lên :
    - Giời đất ơi, đúng rồi! Thế mà tôi cứ tưởng đánh mất ở đâu, lo không thể tả được!
    Tôi dẫn anh vào phòng làm việc.
    - Còn tôi thì cũng được một mẻ hết hồn - Tôi thú nhận - Cậu hãy nói thật cho tôi biết, cậu ghi từng ấy địa chỉ của những người có tai mắt để làm gì vậy?
    Ðến lượt anh ngạc nhiên :
    - Ô hay! Thế chả nhẽ anh chưa có quyển sổ ghi địa chỉ những người tên tuổi à?
    - Chưa!
    - Lạy Chúa, thế thì anh phải lập tức ghi ngay đi, rồi nhét nó vào túi ấy! Anh muốn biết tôi viết những địa chỉ ấy vào sổ để làm gì phải không? Ðây này, tôi sẽ nói cho anh nghe. Anh chắc biết tôi vốn thích sưu tầm bút máy. Một số bút thì tôi mua, còn một số thì người ta cho, trong túi tôi có được đến mươi, 15 chiếc. Một hôm, tôi đến khách sạn thăm một nhà thơ Ðức mới sang. Anh ta biết tôi thích chơi bút máy nên tặng tôi một chiếc. Vừa ra khỏi khách sạn là tôi rẽ ngay vào một góc phố và không nhịn được ?oTa phải xem cái bút thế nào đã!? - Tôi tự nhủ. Chắc anh biết trong túi tôi lúc nào cũng có chiếc kính lúp. Tôi lấy kính ra soi cái ngòi và thấy nó có vẻ hơi thô. Tôi viết thử vào cuốn sổ mấy chữ tình cờ hiện trong óc: ?oNhỏ và đẹp?. Thường tôi vẫn mang theo một tờ giấy ráp mịn hạt để mài ngòi bút. Cái ngòi này nếu về nhà tôi mài thêm tí nữa thì nét sẽ nhỏ và đẹp hơn. Tôi cầm lấy kính định xem lại cái ngòi một lần nữa, thì bỗng có ai nắm lấy hai vai :
    - Anh đang làm gì vậy?
    - Tôi ấy à? Tôi đang xem chiếc bút máy chứ có làm gì đâu!
    - Thế đấy! Nghĩa là xem bút máy hả? Vậy chứ anh làm nghề ngỗng gì?
    - Tôi ở trường đại học... - Tôi không kịp nói hết câu.
    - Ái chà, nghĩa là giáo sư cơ đấy! Thưa ngài giáo sư, rất hân hạnh!... Chà!...
    Một ngươi trong bọn họ thụi cho tôi một quả vào sườn bên trái khiến tôi loạng choạng.
    - Thôi, alê, đi!
    - Các ông xem lại cho. Chắc có sự hiểu nhầm gì đây!
    - Ði!
    Tôi lại bị quả đấm nữa vào sườn bên phải và đành phải bước. Biết làm sao được!
    Chúng tôi đi về bóp. Tôi bị đẩy vào một căn phòng. Nhưng chờ mãi mà không thấy ai đến. Lát sau có một tay bước vào :
    - Ngồi xuống đất ấy! - Lão ta nói.
    - Tôi không ngồi thế được! - Tôi đáp.
    - Cái gì? Không ngồi thế được hả? Ái chà, ra cái điều ta đây giáo sư cơ đấy! Ghê chưa? Thôi, có gì trong túi bỏ hết ra đây!
    Tôi đặt lên bàn tất cả mọi thứ trong người: 14 chiếc bút máy, hai quyển sách, cuốn sổ tay, hai tờ giấy ráp mịn hạt. Lão ta chỉ vào những chiếc bút :
    - Ðây là cái gì?
    - Bút máy.
    - Ra thế!... nghĩa là bút máy đấy! Ái chà, giáo sư mà lại! Oai quá nhỉ?
    Tôi không sao nói xen được một câu để giải thích cho lão ta hiểu rằng tôi không phải là giáo sư, mà chỉ là một nhân viên trông thư viện ở trường đại học thôi! Lão ta cầm lấy chiếc kính lúp :
    - Còn đây là cái gì?
    - Kính lúp!
    - Ra kính lúp đấy! Chà, giáo sư! Chà!...
    Thêm ba người nữa đến. Họ cũng xúm vào xem đồ vật của tôi. Một người cầm tờ giấy ráp lên hỏi :
    - Cái gì thế này?
    - Giấy ráp.
    - Giấy ráp gì mà lạ thế? Nhẵn như không ấy! Anh định bịp ai vậy hả?
    - Ðây là loại giấy ráp mịn hạt!
    - Ra thế! Giấy ráp mịn hạt cơ đấy! Chà, giáo sư! Này, giáo sư này!
    Vừa nói, lão ta vừa nện vào vai tôi một cái. Xem chừng sự việc đâm ra lôi thôi.
    - Thưa các ông - Tôi nói - chắc có sự hiểu lầm thế nào đây. Tôi không rõ tại sao các ông lại đưa tôi về đây, chứ tôi thì cả trường đại học ai cũng biết, nhà báo nào tôi cũng quen. Tôi không làm gì đáng để các ông đối xử như vậy.
    Một tay đang giở cuốn sổ của tôi ra xem, quát :
    - Im ngay!
    Bỗng mắt hắn chợt sáng lên :
    - Thế còn cái này là cái gì?
    Hắn chỉ vào mấy chữ ?oNhỏ và đẹp? tôi viết trong quyển sổ để thử chiếc bút máy người ta vừa cho.
    - ?oNhỏ và đẹp? - Tôi nói.
    - ?oNhỏ và đẹp?? Hay nhỉ!
    - Vâng, ?onhỏ và đẹp?!
    - Thế là cái gì?
    - Chẳng là cái gì cả!
    - Chẳng là cái gì thì anh viết vào đây làm gì?
    - Ðể tôi thử ngòi bút...
    - Thế đấy! Ðược, nhưng sao anh không viết chữ gì khác mà lại chọn đúng chữ ?onhỏ và đẹp??
    Quả tình nào tôi có nghĩ gì đến chuyện ấy.
    - Tôi không biết - Tôi nói - tự nhiên tôi nghĩ ra mấy chữ ấy, thế là tôi viết luôn vào...
    - Thế đấy! ?oNhỏ và đẹp?! Chà, giáo sư đấy! Chà... Chúng tôi sẽ cho anh biết thế nào là ?onhỏ và đẹp?! Các ông nghe thấy hắn bảo gì chưa? Hắn bảo tự nhiên hắn nghĩ ra đấy! Thế sao tự nhiên anh không nghĩ ra chữ khác?
    Một người trong bọn họ bước lại chỗ cô thư ký đánh máy. Họ bắt đầu lập biên bản. Tôi sợ vã mồ hôi. Biết đâu những chữ ?onhỏ và đẹp? tôi tình cờ viết ra lại là mật mã của một tổ chức gián điệp thì nguy to! 14 chiếc bút máy, cuốn sổ tay, chiếc kính lúp, hai quyển sách, tờ giấy ráp mịn, ?onhỏ và đẹp?! Ai mà chẳng phải nghi ngờ! Tôi bối rối không còn biết làm gì nữa. Trong lúc đang lập biên bản, một tay vẫn tiếp tục giở cuốn sổ của tôi ra xem. Bỗng hắn dừng lại ở một trang, sau đó đưa trang này cho cả bọn xem. Họ thì thầm gì với nhau một lúc, rồi tình thế bỗng nhiên thay đổi hẳn. Người vừa xem cuốn sổ của tôi đã chỉ cho cả bọn xem một chỗ ghi trong sổ.
    - Xin lỗi ngài - Lão ta quay lại hỏi tôi - người này đối với ngài là thế nào ạ?
    - Ðấy là bạn học cũ của tôi - Tôi đáp - Chúng tôi gặp nhau hôm kia. Anh ta đưa tôi đi ăn hiệu, cho tôi địa chỉ và tôi ghi vào đây.
    Những điều tôi nói hoàn toàn đúng sự thật. Quả tình tôi có gặp một người bạn xa nhau đã lâu. Tôi cũng không biết rằng anh ta là một Tổng giám đốc.
    Gã cảnh sát vẫn đang cầm cuốn sổ của tôi bỗng nở một nụ cười, xun xoe bảo :
    - Chết chửa! Thế ra ông Tổng giám đốc là bạn thân của ngàỉ
    - Ðúng thế... Hồi còn đi học chúng tôi thường trêu chọc anh ấy.
    - Thật hân hạnh quá! Ấy kìa, sao ngài không ngồi xuống? Ghế đây ạ! Xin mời ngài!
    Sau đó, gã quay lại bọn kia :
    - Ai bảo các anh dẫn ngài về đây hả?
    Rồi quay lại phía tôi :
    - Xin mời ngài!
    Chúng tôi bước vào một căn phòng bày biện sang trọng, tôi đi trước, bọn họ theo sau. Họ mời tôi ngồi vào chiếc ghế bành. Một tay nói :
    - Hôm nay nóng quá. Ngài dùng một chút nước giải khát nhé?
    - Ấy chết, xin các ông chớ bận tâm làm gì!
    Tuy vậy nước giải khát vẫn được mang ra. Chúng tôi chỉ còn lại hai người trong phòng. Bọn kia kéo nhau ra ngoài cả.
    Người đang tiếp chuyện hỏi tôi :
    - Thưa ngài, ngài đến thăm chúng tôi có việc gì không? Ngài có cần gì không ạ?
    Thánh Ala ơi! Thế là thế nào nhỉ? Tôi có cần gì không à? Chả nhẽ không phải chính họ đã vừa tóm cổ tôi mà lôi về đây hay sao?
    Nhưng bây giờ, giữa lúc họ đang đối xử lịch sự với mình như thế, mà lại đi bảo rằng mình bị lôi cổ đến và bị đánh thượng cẳng tay hạ cẳng chân, thì xem ra không tiện.
    Vì thế nên tôi đáp :
    - Tôi đến... chẳng qua để hỏi thăm sức khỏe các ông thôi!
    - Ôi, thật quý hóa! Chúng tôi rất đội ơn ngài! Chúc ngài cũng được khỏe mạnh! Thật quả là vinh dự cho chúng tôi. Lạy Chúa! Ðược ngài đến thăm!
    Tình thế không ngờ lại xoay chuyển một cách tốt đẹp như vậy. Nhưng dù sao, tôi nghĩ cũng phải chuồn ngay, kẻo nhỡ đâu sự việc trở nên rắc rối.
    - Các ông cho phép tôi về! - Tôi nói.
    Lão ta đứng lên tiễn tôi ra tận cửa. Tôi bước thật nhanh để mau mau thoát khỏi chốn này, không dám nghĩ đến chuyện đòi lại bút máy, cuốn sổ và chiếc kính, vì sợ phải nhắc đến chuyện hiểu lầm vừa xảy ra. Thôi! Chả cần!
    - Thưa ngài!... Thưa giáo sư! Ngài còn quên đồ đạc!
    Một tên trong bọn bỗng chạy theo tôi, gọi. Hắn mang bút máy, tờ giấy ráp, cuốn sổ và kính lúp lại cho tôi.
    - Thưa giáo sư, ngài là bạn của ông Tổng giám đốc thật đấy ạ? - hắn hỏi.
    - Ðúng thế - Tôi đáp - Nhưng sao ông lại hỏi vậy?
    - À, chả là dạo này đang có ?omốt? như thế. Ai thấy người sang cũng muốn quàng làm họ cả. Ngài hiểu chứ ạ? Ðể lúc nào có việc cần thì bảo: ?oÐây là bạn tôi!? và thế là thoát. Mà chúng tôi thì làm sao biết được kẻ ấy có đúng là bạn thật hay không? Nhưng ngài thì đúng là bạn thật chứ ạ?
    - Ðúng, tôi là bạn thật.
    Hắn chìa cho tôi mẩu giấy.
    - Thưa ngài, tôi đã viết lai lịch của tôi ra đây. Là để phòng xa như vậy. Nếu ngài có dịp gặp ông Tổng giám đốc thì... e hèm...
    Kể đến đây, Halit bảo tôi :
    - Từ hôm ấy, cứ biết được địa chỉ của ai trong số những bậc tai mắt của ta là tôi ghi ngay vào sổ. Ðến lúc tưởng mất quyển sổ, tôi lo quá anh ạ! Có những địa chỉ này chẳng khác gì được bảo hiểm tài sản và tính mạng vậy. Anh cũng nên có một quyển sổ như thế mới được. Nhưng cần nhớ một điều là hễ có ai về hưu do sức khỏe hay bị cách chức thì phải lập tức xóa ngay tên khỏi sổ, nếu không thì có khi mang vạ vào thân đấy!... Thế thật anh không biết gì về những quyển sổ ghi địa chỉ những bậc có thế lực trên cõi đời này à?
    - Không!
    - Vậy thì hỏng to rồi người anh em ạ! Bây giờ ai cũng phải giữ cái của này trong túi áo để phòng khi bất trắc thì giở ra. Vì có ai biết được điều gì sẽ xảy ra với mình lúc bước chân ra khỏi cửa? Ngày xưa thì có những tấm bùa hộ mệnh hay câu thần chú giúp người ta thoát khỏi ốm đau, tai họa. Bây giờ thì có sổ ghi địa chỉ thay cho những thứ ấy. Mà lại hiệu nghiệm hơn nhiều!...

  8. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Chiếc gương kỳ diệu
    Tại nhà Ðavút Xêiuva, chủ hãng buôn các đồ nhập khẩu có tổ chức một bữa cơm khách. Trong số những người được mời có giám đốc nhà băng ?oLabát? cùng người vợ trẻ và cô em vợ to béo của ông ta; nhà chính khách Khanda Iátma, một trong những nhân vật ?obảo thủ hạng nhất? của chúng ta, cùng đức phu nhân không có con của mình; nhà đại điền chủ kiêm thu tô Mêđêni cùng cô thư ký có đôi mắt hạt nhãn là nàng Ipêch; nhà buôn Hátgi Ôxman Barua, một thương gia cỡ lớn của tỉnh Ađăng chúng tôi, cùng cô nhân tình là nàng Phưxtưca.
    Từ chiếc máy thu thanh, tân khách bỗng nghe thấy giọng một phát thanh viên nói :
    - Thưa quí vị thính giả! Ðến đây chúng tôi xin tạm ngừng chương trình nhạc cổ điển Thổ Nhĩ Kỳ tối nay. Bây giờ mới quý vị nghe buổi phát hành thường kỳ ?oNhững phát minh mới? Thuyết trình buổi này là một chuyên gia nổi tiếng, kỹ sư Mếchki Makinétgi.
    Bà vợ trẻ của ngài giám đốc nhà băng Labát nhăn mặt :
    - Sao tôi ghét giọng cái thằng cha này thế!
    Nhà buôn Ôxman năn nỉ :
    - Van bà! Xin bà cho phép chúng tôi được nghe cái mục này. Tuần trước anh ta đã nói về cách làm bông bằng giấy đấy.
    Trên máy thu thanh, kỹ sư Mếchki Makinétgi bắt đầu câu chuyện :
    ?oThưa quý vị! Trong lúc chúng tôi bắt đầu buổi phát thanh hàng tuần ?oNhững phát minh mới? này, thì tại thành phố Nguyên tử ở bên Mỹ người ta cũng bắt đầu khánh thành một nhà máy nguyên tử mới, hoạt động theo chương trình ?oNguyên tử phục vụ con người?. Từ nhà máy này, những tia sáng nguyên tử sẽ được phát đi khắp thế giới. Phát minh mới về năng lượng nguyên tử này sẽ là một sự kiện kỳ diệu làm chấn động toàn nhân loại. Khi tia sáng nguyên tử chiếu vào các tấm gương soi ở bất kỳ nơi nào trên trái đất, thì lập tức tất cả những hình ảnh đã được soi vào gương, kể từ lúc nó được chế tạo đến nay, sẽ lần lượt tái hiện trên mặt gương.
    Chẳng hạn, nếu ở nhà quý vị có một tấm gương mà quý vị đã dùng từ 20 năm nay, thì khi gặp tia sáng nguyên tử này chiếu vào, hình ảnh của tất cả những người đã soi vào gương từ 20 năm nay sẽ nối tiếp nhau xuất hiện lại trên mặt gương.
    Các cuộc phát thí nghiệm tới nay đã hoàn tất và đã cho những kết quả mỹ mãn. Như vậy, nhờ phát minh mới này, quý vị có thể được sống lại tuổi thơ, được nhìn lại tuổi thiếu niên hay ôn lại những kỷ niệm thời yêu đương của mình.
    Từ sau 9h sáng mai, xin quý vị nhớ đứng ra trước gương!?
    Bà vợ trẻ của viên giám đốc nhà băng Labát vỗ tay :
    - Trời ơi! Tuyệt quá! Ở nhà tôi có chiếc gương tôi đã soi từ hồi bé. Vậy là ngày mai tôi sẽ được xem lại cả một quãng đời của tôi.
    Khách khứa rời phòng ăn sang phòng khách, tụm lại thành từng nhóm, bắt đầu bàn tán sôi nổi về cái phát minh mới kỳ diệụ
    Khanda Iátma, nhà chính khách bảo thủ hạng nhất, ghé vào tai nhà thu tô Mêđêni thì thầm :
    - Ông bạn ạ! Thế thì cái phát minh mới này quả là kỳ diệu! Nó sẽ giúp ta nhớ lại nhiều sự kiện đã quên. Có một lần ở đồn cảnh sát tôi bị người ta nện cho một trạn nhừ tử, ông tha lỗi cho cách nói hơi thô tục của tôi... Lúc chuồn được khỏi đó, tôi lập tức đến ngay phòng giám định y khoa để xin giấy chứng nhận là bị đánh, rồi mang ra tòa kiện. Nhưng các ông ở tòa chẳng thèm xem xét kẻ nào đã đánh tôi, mà rồi không hiểu thế nào họ lại kết luận là chính tôi đánh tôi mới tức chứ!
    Nhà thu tô bảo :
    - Nhưng mà bác Khanda ạ. Chuyện ấy có liên quan gì với chuyện cái gương nàỷ
    - Ấy chết! Liên quan quá đi chứ lại! Vì lúc tôi bị đánh, tôi nhìn thấy trên đường có treo một cái gương. Bây giờ thì mọi việc sẽ được khám phá ra hết.
    - Ừ phải - Mêđêni hưởng ứng - Còn tôi thì nhờ những chiếc gương thần kỳ này tôi sẽ phải vớ được ít nhất là bốn, năm vạn bạc.
    - Làm thế nào mà vớ được?
    - Có gì đâu! Ở nhà tôi có một cái tủ gương. Và chuyện tôi một dạo dan díu với con gái lão Kaliavi là cô ả Antưguyn thì chắc bác đã biết rồi.
    - Chuyện ấy thì ai mà chả biết!
    - Lão bố nhất định không chịu gả con gái cho tôi, còn cô ả thì cũng quên phắt ngay những tình cảm của mình. Nhưng giờ thì không xong với tôi đâu! Lão ta sẽ phải gả con gái cho tôi và tôi sẽ trở thành triệu phú cho mà coi!
    - Nhưng ông định làm cách nào mới được chứ?
    - Tôi và cô ả Antưguyn đã từng ân ái với nhau bao nhiêu lần ở nhà tôi, ngay trước cái tủ gương ấy. Sáng mai tất cả những cảnh yêu đương ấy sẽ diễn lại trong gương. Tôi sẽ mang cái gương đó cho lão Kaliavi xem, ông hiểu chưa? Thế là lão ta sẽ phải gả con gái cho tôi, bằng không thì phải chuộc lại cái gương ấy.
    - Thế lão ta không chịu thì sao?
    - Thì càng hay! Tôi sẽ mang cái gương ấy cho mọi người xem. Hay không kém gì xem hát ấy chứ! Và tôi sẽ thu được ối tiền! Hoan hô những cái gương kỳ diệu!
    Vợ nhà buôn hàng nhập khâu to nhỏ với ả nhân tình của ngài Hátgi Ôxman là Phưxtưca :
    - Tôi vẫn không sao quên chàng được!
    - Chị bảo ai? Kaplan ấy à?
    - Ừ, Kaplan ấy! Thế mà chàng thật chóng thay lòng đổi dạ. Nhưng thôi, ngày mai tôi sẽ đứng ra trước gương để được sống lại những giây phút êm đềm với chàng.
    - Tôi cũng phải trả thù lão già nhà tôi mới được! Tôi sẽ đưa gương cho hắn xem, để hắn thấy rằng hồi tôi mới quen hắn, tôi còn trẻ và xinh đẹp như thế nào! Thế mà bây giờ, chắc chị biết đấy, hắn ta đã chán tôi rồi. Tất cả bọn đàn ông đều thế cả!
    Khách khứa ai nấy đều sung sướng khi bàn tán về cái phát minh mới.
    Cô nàng Phưxtưca luôn mồm nói :
    - Ước gì chóng đến ngày mai nhỉ!
    Cô em vợ béo nục nịch của viên giám đốc nhà băng phụ họa thêm :
    - Vâng, ước gì chóng đến ngày mai! Em thấy sốt ruột quá! Trời ơi, những kỷ niệm thời quá khứ của em! Tuổi thanh xuân của em!
    Người thì mơ ước được gặp lại trong gương hình ảnh người mẹ đã khuất của mình, người thì muốn được thấy lại thời thơ ấu.
    Bỗng ngoài cửa có tiếng chuông, rồi một vị khách mới bước vào. Ðó là Sakháp Giênabétđia, một bác sĩ phụ khoa nổi tiếng. Mặt ông ta tái nhợt như người chết.
    - Có chuyện gì vậy, bác sĩ? Anh bị ốm hay sao thế? - Vị chủ nhà hỏi.
    Viên bác sĩ lắp bắp :
    - Các vị không nghe nói gì cả à? Các vị không biết tin gì hay sao?
    - Tin gì cơ, anh Sakháp? Có tin không hay à?
    - Ðài phát thanh vừa nói xong mà! Ngày mai, nhờ việc phát minh ra tia sáng nguyên tử nên tất cả các gương sẽ hiện lại toàn bộ những hình ảnh từ trước đến nay! Thế mà các vị không hay biết gì cả hay sao?
    Mọi người bật cười ngạc nhiên :
    - Thế thì tuyệt quá chứ sao, hả bác sĩ?
    Bác sĩ Sakháp kêu lên một cách chán ngán :
    - Trời ơi! Té ra các vị mất trí cả rồi!
    Ðoạn ông kéo phái nam giới sang một phía.
    - Cái phát minh mới này đúng là giết tôi. Trong phòng mổ của tôi, trước bàn mổ, chắc các vị cũng biết đấy, có một tấm gương lớn.
    - Thế thì sao?
    - Thế thì chết tôi chứ còn sao nữa! Các vị còn chưa hiểu hay sao? Tất cả những vụ phá thai, nạo thai và còn nhiều chuyện khác nữa sáng mai thế là vỡ lỡ hết cả...
    Ðám các ông lo lắng nhìn nhau.
    - Ừ nhỉ, bỏ mẹ thật!
    - Thế mà mình không nghĩ ra!
    - Nếu thế thì ê mặt quá nhỉ!
    - Thậm chí phải nói đó là tội ác mà bọn mình đã... Ấy chết, xin lỗi, nghĩa là tôi không có ý nói thế...
    Nghe các ông xì xào to nhỏ, đám các bà cũng đâm nhốn nháo. Bà vợ ông Ðavút Xôinva rên rỉ :
    - Hạnh phúc gia đình tôi, cuộc sống êm ấm 20 năm nay của vợ chồng tôi thế là hết! Ngày mai chồng tôi sẽ biết hết mọi chuyện. Ðầu tiên là chuyện với một tài xế của ông ấy, rồi sau là với một tài xế khác... Tất cả sẽ diễn ra trước gương...
    Cô nàng Phưxtưca than thở :
    - Thì ai mà ngờ được có ngày những cái gương kia lại làm vỡ lở mọi chuyện...
    - Còn tôi thì sáng nào cũng lục túi, lấy cắp tiền trong ví ông ấy... Sáng nào cũng thế... Lúc ông ấy còn đang ngủ... Ðến bây giờ ông ấy vẫn chưa hay biết gì. Nhưng ngày mai thì thôi... ông ấy sẽ biết hết.
    Ngài Hátgi Ôxman cứ lẩm bẩm một mình :
    - Lẽ ra mình không nên dan díu với con hầu gái ấy. Mẹ kiếp! Ðúng là ma dẫn lối quỷ đưa đường!...
    Những tiếng kêu ?otrời? vang lên mỗi lúc một to. Sau đó không khí trong phòng lại im lìm như chết.
    Bỗng giọng nói ồm ồm của bác sĩ Sakháp phát tan bầu không khí im lặng :
    - Thưa các vị, chả lẽ các vị vẫn chưa tin rằng cái phát minh mới này, cái thứ gương kỳ diệu này sẽ làm tan vỡ hạnh phúc của chúng ta hay sao?
    - Không, không... Ðúng là những cái gương này sẽ giết tất cả bọn ta!
    Viên bác sĩ nói tiếp, dằn từng chữ :
    - Thế là rõ rồi! Những chiếc gương bị tia sáng nguyên tử chiếu vào sẽ phá vỡ hết trật tự xã hội.
    Khắp phòng lại nhao nhao cả lên :
    - Ðúng thế! Nhưng chúng ta biết làm gì được!?
    - Ðối phó cách nào bây giờ?
    - Có cách gì cứu vãn được không nhỉ?
    Ông bác sĩ tuyên bố :
    - Chỉ có một cách thôi, là phải đập vỡ hết các tâm gương đi!
    Ngài Mêđêni đế thêm :
    - Thế chưa chắc, phải nghiền vụn chúng ra mới được!
    Cô thư ký có đôi mắt hạt nhãn, có giọng nói thỏ thẻ, cũng lên tiếng :
    - Phải cho vào cối mà giã thành bột ấy!
    Rồi khách khứa giải tán ai về nhà nấy.
    Suốt đêm hôm đó trong thành phố đâu đâu cũng vang lên tiếng kính vỡ. Người ta thi nhau bỏ gương vào cối mà giã.
    Sáng ra những người phu hốt rác sửng sốt trước một cảnh tượng chưa từng thấy: khắp nơi chà nào cũng ngổn ngang những đống gương vỡ, phố xá thì tràn ngập bụi kính.
    Ðúng 9h sáng, giọng người phát thanh viên vang lên trong tiếng nhạc :
    ?oXin quý vị lưu ý: Loại gương soi tốt nhất thế giới là gương mang nhãn hiệu ?oKỳ diệu?. Dùng gương này quý vị có thể nhìn thấy ảnh của mình chỉ những lúc nào quý vị soi vào nó mà thôi! Xin quý vị nhớ cho nhãn hiệu của nó là ?okỳ diệu?... Gương ?okỳ diệu?...?
    Trong vòng một ngày chủ hãng gương ?oKỳ diệu? đã trở thành triệu phú!

  9. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Cơn ác mộng

    Ðài phát thanh Xtămbun đã chấm dứt chương trình phát thanh. Nghĩa là lại hết một ngày cũ bắt đầu một ngày mới. Ðêm nay tôi có bao nhiêu việc phải làm: phải viết xong hai truyện ngắn, một bài châm biếm và trả lời thư yêu cầu của một tạp chí. Những thứ này sáng mai là họ lấy. Ngoài ra còn phải đọc ba tạp chí do nhà bưu điện đưa đến và một cuốn sách mỏng nữa. Nhưng cuối cùng tôi chỉ viết xong có mỗi một truyện ngắn. Vì hôm nay tôi thấy trong người mệt mỏi quá.
    Tôi đã sắp sẵn một xếp giấy để viết truyện ngắn thứ 2, nhưng ý tưởng bay đi đâu hết cả. Tôi giở lại cuốn sổ tay, hy vọng có thể tìm ra một ý nào đó trong những mẩu ghi chép cũ, nhưng cũng chẳng ăn thua. Không có ý nào có thể phát triển thành truyện ngắn được.
    Tôi bỗng cảm thấy đói. Cái bệnh tôi nó như vậy. Nghĩa là cứ khi nào không viết lách gì được, là y như lại nghĩ đến chuyện ăn uống hay một chuyện linh tinh gì đó. Tôi leo lên gác. Trong nhà im lặng như tờ. Mọi người đã ngủ cả. Tôi mò xuống bếp. Cơm canh đã nguội ngắt. Ai mà đi hâm được?... Cuối cùng tôi kiếm được đĩa cá sácđin, mấy quả cà chua, một ít mỡ và dăm miếng dưa.
    Sau đó tôi lại quay về bàn làm việc, ngồi bóp trán suy nghĩ. ?oMình buồn ngủ hay sao thế này?? Tôi nghĩ vậy, rồi dần dần thiếp đi thật. Tôi lại còn nằm mơ nữa. Tôi mơ thấy hình như tôi lạc đến một nước nào xa lạ. Tôi không biết đích xác đó là nước nào. Tôi bước vào một gian phòng rộng mênh mông. Không hiểu các bạn thế nào, chứ tôi thì tôi tin rằng những cái gì thấy trong mơ thì không bao giờ có trong thực cả.
    Xung quanh chiếc bàn dài kê ở giữa phòng có nhiều người đang ngồi. Tôi đến đây với một trọng trách. Tôi không biết chính xác tôi đang ở đâu và người ta đang làm gì ở đây, nhưng không dám hỏi, vì sợ người ta cười, bảo tôi là anh ngố, không biết cả chỗ mình đang ở là chỗ nào nữa! Vì thế tôi cứ phải xem mọi vậy xung quanh mà cố tự phán đoán lấy. Có lẽ tôi đang ở Châu Mỹ, nhưng có thể tôi đang ở Châu âu cũng nên...
    Người ta đang hội đàm. Ðại biểu nước tôi chỉ có độc mình tôi. Trông người nào cũng bệ vệ.
    - Rất hân hạnh được đón tiếp ngài! - Một vị đại biểu nói với tôi.
    - Cám ơn các vị! - Tôi đáp.
    - Ngài sẽ cho chúng tôi được biết tình hình đất nước ngài chứ?
    Tôi run quá, nhưng rồi cũng tự động viên: ?oCó gì mà run! Ðây chỉ là mơ thôi mà!? Nhưng mơ thì mơ, chứ nhỡ ra...
    - Vâng. Tôi sẵn sàng kể cho các vị nghe tất cả những gì tôi biết.
    - Nước ngài đang ở tình trạng chậm tiến có phải không? - Người ta hỏi.
    Tôi bỗng thấy ngột thở. Lạy thánh Ala! Tôi biết trả lời với họ thế nào bây giờ? Nếu tôi bảo: ?oVâng. Tôi ở nước chậm tiến đến!? thì có nghĩa là tôi tự thóa mạ nước tôi trước mặt các quan khách quốc tế. Và theo luật hình, như thế tôi sẽ bị khép vào tội khinh quốc thể. Nhưng nếu bảo: ?oKhông phải. Sao lại chậm tiến? Nước tôi tiến ghê gớm ấy chứ lại!? thì hóa ra tôi nói dối! Nhưng thôi. Thà nói dối còn hơn bị kết tội khinh quốc thể. Nói dối thì chẳng bị tội gì cả.
    Tôi bèn hét lên :
    - Ai bảo các ngài thế? Ðó là điều bịa đặt và xuyên tạc, thưa các vị! Xin các vị chớ quên rằng chúng tôi có rất nhiều kẻ thù. Chúng luôn luôn tìm cách tuyên truyền nói xấu chúng tôi.
    Mọi người há hốc mồm kinh ngạc.
    - Nghĩa là chúng tôi đã nhận được một thông tin không chính xác?... - Một người nào đó nói, nhấn mạnh từng chữ.
    - Vâng, tất nhiên rồi!
    - Chúng tôi hiểu. Các ngài là dân tộc rất tự trọng, nên khi người ta gọi các ngài là ?ochậm tiến? thì các ngài tức giận. Nếu vậy, chúng tôi sẽ không dùng cái tên ấy nữa, mà sẽ thay bằng mấy chữ ?ochậm phát triển?. Như vậy chắc ngài thấy ổn chứ?
    - Không! Như thế cũng không được! Chúng tôi không phải là những người chậm phát triển, mà trái lại, chúng tôi là những người rất, rất chi là phát triển!!
    Một lần nữa, mọi người lại sửng sốt, quay sang xì xào với nhau.
    - Thế hiện nay ở nước ngài còn nhiều thành phố chưa có điện không?
    Nếu tôi bảo còn, thì rõ ràng tôi tự bôi nhọ nước tôi. Chà! Quỷ bắt tất cả các người đi!
    - Không! Ở nước chúng tôi, từ các thành phố lớn cho đến các làng mạc xa xôi hẻo lảnh, nơi nào cũng có điện hết!
    - Hoan hô!... Hoan hô!... Tuyệt thật!
    - Nhưng nghe nói giá điện bên nước ngài đắt lắm thì phải? Bao nhiêu tiền 1 kw nhỉ?
    - Cái gì? Ðiện ấy à? Ðiện bên chúng tôi đắt ấy à? Nhưng bên nước tôi điện có mất tiền đâu!... Không mất tí nào cả! Lại còn mất tiền điện nữa có mà chết!
    - Tuyệt quá nhỉ!... Trứ danh thật!...
    Tôi hả hê lắm: tôi đã khéo giới thiệu nước tôi với quan khách quốc tế. Ước gì báo chí đăng lại những lời phát biểu của tôi để đồng bào tôi thấy được tôi đã biết cách tuyên truyền có lợi cho đất nước như thế nào!
    - Người ta đồn rằng tiền nhà bên nước ngài rất cao. Nhà cửa thì khan hiếm... Một người dân trung lưu phải mất đến nửa số thu nhập vào tiền nhà. Phải thế không?
    Một tiếng nói bên trong thúc giục tôi: ?oNói đi! Nói hết sự thật đi!? Tôi bảo nó: ?oTôi sợ lắm! Mọi người sẽ phản đối tôi?. Giọng nói vẫn năn nỉ: ?oSợ gì! Ðây chỉ là mơ thôi mà! Họ có thấy giấc mơ của anh đâu. Họ có biết đâu những điều anh nói! Cứ nói hết sự thật đi.?
    Mồ hôi tôi vã ra như tắm. Tôi lấy khăn lau trán, rồi cười lớn :
    - Hahaha!... Té ra các vị hình dung nước tôi như vậy đấy! Tôi không thể phát biểu gì thêm về chuyện này. Chỉ cần chúc cho cái bọn độc mồm độc miệng chết quách đi cho rồi! Dân nước tôi không hề biết thế nào là nhà cửa khó khăn cả! Các vị nghe rõ chưa? Cũng như ở tất cả các nước văn minh, chúng tôi được sống trong những ngôi nhà rất đẹp, tiện nghi đầy đủ, mà chỉ mất có 10% thu nhập thôi!
    - Thế còn các công chức?
    - Các công chức thì được phân nhà tuỳ theo số người trong gia đình. Nói chung là họ được ở rất rộng rãi, và tiền nhà phải trả rất ít, đến mức gần như là được cho không.
    - Nghe nói bên nước ngài, những người chủ nhà không cho các gia đình có con thuê nhà có phải không?
    - Ha ha ha! Láo toét! Ai nói với các vị thế? Bên chúng tôi người thuê nhà thậm chí không biết mặt mũi chủ nhà là ai cả. Chỉ biết mỗi cái gọi là Hội đồng nhà cửa thuộc Toà thị chính thôi! Khi nào cần nhà, người ta chỉ việc đến đó mà nó đại khái như: ?oTôi cần một căn nhà năm buồng. Nhà tắm có lát gạch men xanh, chứ màu hồng thì không thích hợp. Vì màu hồng ảnh hưởng đến thần kinh vợ tôi.
    - Chà! Nước thế mới gọi là nước chứ! - Các đại biểu trầm trồ thán phục - Hoan hô! Hoan hô nước ngài!
    Tôi được thể càng ra sức khoe khoang tâng bốc nước tôi.
    - Nhưng nghe đâu đời sống bên nước ngài khó khăn lắm thì phải. Những người lương thấp sống rất thiếu thốn. Ngay tầng lớp trung lưu cũng thế?
    - Lại còn có chuyện thế nữa kia đấy! Thưa các vị, các vị nhớ cho rằng dân nước tôi mà sống khó khăn thiếu thốn, thì đó chỉ là theo giọng lưỡi của báo chí nước ngoài mà thôi. Ðồng bào chúng tôi rất nhân đạo, nên hết sức thông cảm với những người nghèo khổ. Dân nước tôi không hề biết đến những khó khăn về đời sống, và nói chung là họ không biết đến bất cứ khó khăn gì! Cầu thánh Ala cho đồng bào tôi đừng bao giờ biết đến những chuyện đó! Còn tầng lớp trung lưu ở nước tôi sống rất hạnh phúc. Họ có nhờ tôi chuyển đến các vị lời chào đặc biệt. Họ còn dặn tôi khi đến đây phải cải chính các tin đồn nhảm mà các vị nghe phải.
    - Thế còn các vấn đề như nạn thất nghiệp, điều kiện lao động vất vả và lương công nhật thấp kém thì sao?
    - Trời ơi các vị! - Tôi kêu lên - Các vị muốn tin ai? Tôi hay những lời đồn nhảm nhí linh tinh?
    - Tất nhiên chúng tôi tin ngàị
    - Nếu vậy các vị hãy nghe đây: Trước hết tôi xin nói về công nhân: Công nhân bên nước chúng tôi sống rất sung sướng, các vị có hiểu không? Tôi không biết có nước nào công nhân được hưởng lương cao như công nhân nước tôi không? Tôi chắc là không! Không có nước nào cả! Lương công nhân nước tôi cao đến nỗi họ không biết tiêu gì cho hết. Tôi xin tiết lộ với các vị một điều bí mật: nếu người công nhân của chúng tôi tích lại số tiền thừa của mình, thì chỉ trong một tháng anh ta có thể xây được cả một nhà máy! Nhưng anh ta cần nhà máy làm quái gì? Cái gì anh ta cũng có đủ rồi.
    - Chà! Chà!... Thế mới gọi là nước chứ!
    Ôi! Giá hãng thông tin quốc gia biết được chuyện tôi ca tụng nước tôi và đưa tin cho tất cả mọi người biết về giấc mơ này của tôi thì hay biết chừng nào!
    - Thế vấn đề giáo dục ở bên ngài ra sao? Người ta bảo 80% dân số nước ngài còn mù chữ có đúng không?
    - Bậy! Ở nước tôi ai cũng biết đọc biết viết hết! Mà còn biết nhiều đến nỗi người ta chán không muốn đọc muốn viết nữa. Tôi đố các vị tìm thấy ở nước tôi một người nào mù chữ đấy! Các giáo sư, nhà báo, nhà văn của chúng tôi hoặc là làm nghề viết, hoặc làm nghề đọc. Số người làm được cả hai nghề tuy không nhiều lắm, nhưng văn sĩ và độc giả ở bên tôi cứ gọi là vô thiên lủng! Trường học ở nước tôi nhiều đến nỗi muốn làm đường sá mới thì phải phá bớt trường đi mới có chỗ mà làm. Còn giáo viên thì không đếm xiết được! Ði đâu cũng gặp toàn giáo viên là giáo viên!
    - Thế sao bảo các ngài phải xin nước ngoài viện trợ cho các tấm lều bạt để làm lớp học?
    - Ha ha! Ðó là chúng tôi nói đùa thế thôi! Vì không muốn để các nước khác biết sự hùng mạnh của chúng tôi, nên chúng tôi phải vờ làm ra vẻ thiếu trường học.
    - Tôi thấy hình như không phải thế! - Một vị đại biểu đứng phắt dậy - Tôi có đọc báo của các ngài. Trong những bài châm biếm của ngài, tôi thấy ngài luôn luôn kêu về nạn thiếu trường sở và thiếu giáo viên.
    Tôi cười lớn:
    - Ha ha ha! Thế mà các ngài cũng tin là thật ư? Tôi viết thế chẳng qua cốt tạo ra cái chuyện trái ngược mà thôi! Vì dân nước tôi rất thích những chuyện ngược đời. Nếu viết rằng mọi chuyện đều tốt đẹp cả thì họ lại không thích. Vì thế muốn tạo ra những chuyện trái ngược, tôi phải viết rằng ở nước tôi thiếu trường học vân vân... Có thế họ mới mua báo. Nhưng đó là cách tuyên truyền trong nước thôi, còn tuyên truyền ra nước ngoài thì lại khác...
    - Nghe nói bên nước ngài đường sá mở mang cũng chậm lắm thì phải. Những con đường hiện có thì rất tồi!
    Tôi đã ngán ba hoa lắm rồi, nên đứng dậy bảo :
    - Thôi đủ rồi, tôi phải đi đây!
    - Ði đâu? Ngài không thể đi đâu cả, vì ngài đang nằm mơ kia mà!
    Nghĩa là họ cũng biết đây là một giấc mơ!
    - Thôi, các ngài buông ra để tôi đi!
    - Nhưng ngài định đi đâu?
    - Về nước tôi chứ còn đi đâu?
    Tôi định tiến ra cửa, nhưng bị mọi người chặn lại, dồn vào góc phòng.
    - Buông tôi ra! - Tôi hét lên.
    - Ngài đang nằm mơ, ngài không thể đi đâu cả.
    Các bạn đã từng gặp những cơn ác mộng nên chắc biết: trong cơn mộng mị, lúc sợ quá, bạn định bỏ chạy, nhưng chân bỗng ríu lại, muốn thét thật to lên, nhưng tiếng tự nhiên mất hẳn. Lúc này chính tôi cũng đang ở trong tình trạng như thế. Tôi muốn bỏ chạy mà chân không sao cử động nổi.
    - Chúng tôi muốn hỏi ngày một câu nữa - Một người khác đứng dậy bảo - Ở nước các ngài có tự do hay không?
    Sợ quá, tự nhiên tôi nói không thành tiếng nữa.
    - Hừm... hừm... hừm... - Tôi cứ ú a ú ớ. Tiếng nói bị tắt trong họng.
    - Ngài nói đi chứ! Ở nước ngài có tự do hay không?
    Tôi tự khích lệ: ?oCó quái gì mà sợ! Dù sao đây cũng chỉ là mơ thôi. Ta chẳng sợ ai hết.? Nhưng sao tôi vẫn thấy run quá. Giọng nói bên trong lại thì thầm giục tôi: ?oÐúng rồi! Ðây chỉ là giấc mơ thôi!?
    - Nói đi! Nói đi! Có tự do ở nước ngài hay không? - Mọi người lại nhao nhao giục tôi.
    Cuối cùng tôi cũng lấy lại được tiếng nói. Tôi lắp ba lắp bắp :
    - Có!... Có nhiều... Nhiều lắm!....
    - Mọi thứ tự do đều có chứ?
    - Các ngài muốn hỏi những thứ tự do gì?
    - Tự do báo chí chẳng hạn!
    - Ồ, cái đó tất nhiên là có rồi! Tự do gì chúng tôi cũng có hết! Chúng tôi có đủ các thứ tự do. Cả tự do báo chí nữa! Muốn bao nhiêu cũng có. Nhưng thôi, các ngài cho tôi đi đi!
    - Nghĩa là ở nước ngài có đủ các thứ tự do?
    - Tôi đã trả lời rồi mà: Có đủ hết!
    - Tốt lắm! Nhưng nghe nói luật báo chí cũ ở nước ngài vẫn còn có hiệu lực. Thế thì đó là cái tự do gì?
    Ðến phải biến thành hơi nước thì mới thoát khỏi tay họ được! Trong giấc mơ, người ta thường hay bay. Tôi giang hai tay như đôi cánh định bay, nhưng bị cái gì như cục chì giữ chân lại, không sao rời khỏi mặt đất được. Chắc tại tôi ăn no quá nên nặng bụng, chứ không thì tôi đã bay bổng như chim rồi!
    - Thế nào? Có đúng là luật báo chí cũ vẫn còn hiệu lực không? Ngài trả lời đi!
    - Ừ, đúng là vẫn còn cái luật ấy đấy! Nhưng việc gì đến các ông nào! Cái luật ấy còn, nhưng chúng tôi không áp dụng... Cũng như chúng tôi vẫn còn giữ những khẩu đại bác mà Phatích đã dùng chiếm lại Xtămbun, nhưng chúng không bắn được nữa. Thế thì sao? Chả lẽ cũng phải phá đi à? Sở dĩ chúng tôi cố ý không thay luật báo chí phản dân chủ cũ, chẳng qua là muốn để nhắc nhở mọi người rằng họ đã từng phải sống một thời kỳ nghẹt thở như thế đấy! Nhưng bây giờ chúng tôi đã có tự do báo chí và nhiều thứ tự do khác nữa. Tự do ở nước chúng tôi nhiều đến mức người ta không biết dùng chúng làm gì nữa!
    Thế còn tình hình kinh tế? Nghe nói ngân sách của các ngài bị thiếu hụt nhiều phải không? Xin ngài cho bíêt ý kiến về vấn đề này.
    Tôi lại bắt đầu vã mồ hôi. Biết trả lời thế nào bây giờ đây, lạy thánh Ala?
    - Chả lẽ tôi cứ mơ mãi, không bao giờ tỉnh lại hay sao? - Tôi kêu lên tuyệt vọng.
    - Nếu ngài không nói thật thì không bao giờ ngài tỉnh lại được đâu!
    Nhưng nói thật thì tôi lại bị mang tội nói xấu Tổ quốc mất! Ôi, sao mà khó xử thế này hả trời!
    - Tình hình kinh tế nước tôi không đến nỗi tồi tệ như các vị tưởng đâu. Ý tôi muốn nói là nó... rất... tốt đẹp, rất rực rỡ. Rực rỡ đến nỗi có thể làm người ta lóa mắt!... Còn ngân sách thì lúc nào cũng rất thăng bằng.
    Tôi còn định nói nhiều nữa, nhưng bị mọi người ngắt lời.
    - Thôi được rồi! - Một vị ngồi dự nói - Chúng tôi mời ngài đến đây cốt để ngài cho biết rõ sự thật, để nếu thấy cần thiết, thì tổ chức quốc tế sẽ giúp đỡ các ngài, chẳng hạn ưnh cấp vốn, hoặc cho ngài vay tiền... Nhưng vì tất cả mọi thứ ở nước ngài đều tốt đẹp cả, nên chúng tôi thấy không cần phải giúp đỡ gì nữa. Thôi xin chúc ngài mọi điều may mắn. Tạm biệt ngài.
    Ðến lúc này tôi mới chợt tỉnh và hiểu ra rằng hóa ra người ta phái tôi đến đây là để xin viện trợ của nước ngoài.
    - Tốt quá! Nhưng sao các ngài không cho tôi biết trước? Nếu biết trước, có phải tôi đã tuyên truyền nước tôi theo cách khác rồi không?
    - Thôi xin chào ngài!
    Tôi khóc nức lên vì đau xót. Thì các bạn cứ nghĩ xem. Giá tôi dám nói hết sự thật, thì có phải nước tôi đã nhận được trợ giúp của các nước rồi không? Thế nhưng tôi lại sợ nếu nói thật thì sẽ bị kết tội nói xấu quốc gia. Thế là tôi đã bỏ lỡ một dịp may hiếm có!
    Tiếng khóc làm tôi bừng tỉnh. Trời vẫn chưa sáng.
    Tôi bật đèn lên. Ðúng là trong mơ tôi đã khóc thật. Tôi lau những giọt nước mắt, rồi ngồi ghi ngay lại cơn ác mộng này.
    Chả lẽ đêm cứ tối mãi và trời không bao giờ sáng được hay sao?

  10. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Tội đồ bất đắc dĩ
    Chiếc ô tô buýt chật ních người. Nhưng giữa đám người chen chúc ấy vẫn nổi bật lên một vị khách mà thoáng trông cũng biết ngay là đi nhầm xe. Chỗ của ông ta lẽ ra là trong xe cấp cứu mới phải. Vì tay trái ông ta bị buộc treo lên vai bằng một dây vải trắng, đầu thì băng bó chằng chịt, một mắt thì sưng húp lên, còn mắt kia thì thâm tím khắp xung quanh. một tay bám lấy thanh vịn, ông khách vừa có xoay xở tìm cách đứng cho thuận tiện, vừa rên rỉ luôn miệng. Thấy vậy, một hành khách đang ngồi tỏ ý thương hại, đứng dậy nhường chỗ cho ông ta.
    - Cám ơn ông! - Ông khách mình đầy thương tích rên rỉ nói.
    - Ủa! Bác Xenman đấy à? Thế mà tôi không nhận ra! - Người khách vừa đứng dậy nhường chỗ kêu lên - Bác bị làm sao thế này? Ðứa nào đánh bác hay sao mà mặt mày thâm tím hết cả lên thế kia?
    - Bác Xaraphettin đấy à? Chào bác! Chà, bác hỏi làm gì cho tôi thêm buồn... Cái thân hình tôi nó thế này đã hai tháng nay rồi...
    - Rõ khổ! Thế nhưng bác làm sao vậy?
    - Lạy Chúa! Xin người thương xót con! Con hoàn toàn kiệt sức mất rồi...
    - Thế các đốc tờ bảo thế nào ạ? Bác bị bệnh gì vậy?
    - Ôi dào! Ðốc tờ mà làm quái gì! Ðốc tờ cũng chả chữa được bệnh của tôi... Lạy thánh Ala! Sao người lại bắt con chịu cái cực hình như thế này! Mà lại không bắt các kẻ thù của con phải chịu!... Ôi, khắp người tôi đau như dần, đến chân tay cũng không cử động nổi nữa!
    - Nhưng dù sao bác cũng phải đi bệnh viện cho đốc tờ họ khám xem thế nào chứ!
    - Bệnh viện gì! Ðến nhà thương điên thì có! Chẳng giấu gì bác, tôi bị mắc một cái bệnh truyền nhiễm!...
    Nghe nói thế, Xaraphettin bỗng lùi hẳn người lại.
    - Chết! Thế sao bác còn đi ra phố làm gì?
    - Chao ôi! Nói thì dễ đấy, nhưng nào có ngồi nhà được cho cam! Tôi bị lây cái bệnh thằng con tôi mất rồi...
    - Thế cậu nhà cũng bị ạ?
    - Nó còn bị nặng bằng mấy tôi ấy chứ! Bệnh của nó đã thành mãn tính rồi. Tôi bây giờ cũng vậy. Có mỗi cái trường phổ thông mà nó không làm sao tốt nghiệp được! Năm lớp 9 đã bị đúp rồi, lên lớp 10 cũng lại thế nốt! Mà cũng chỉ tại cái trò bóng bánh chết tiệt! Ðã bao nhiêu lần tôi lạy van nó, bảo: ?oMày quăng ngay cái trò bóng bánh khốn nạn ấy đi cho tao!? Nhưng nó lại trả lời tôi: ?oCon không quăng được!?. Nó tự hủy hoại cái thân xác nó thật là ghê gớm. Ðến nỗi tôi với mẹ nó không còn dám nghĩ đến chuyện mong cho nó học giỏi nữa, mà chỉ lo làm sao cứu vãn lấy tính mạng của nó mà thôi! Mỗi lần đi đá bóng về trong nó cứ như vừa đi đánh giặc vậy! Ðội ơn thánh Ala! Bây giờ nó đã bị gãy chân trái rồi, nên không đá bóng được nữa. Thấy nó bị gãy chân, tôi sung sướng quá, vì không thế thì thể nào có ngày nó cũng bị người ta đánh chết. Ôi, xin Chúa hãy tha thứ cho chúng con! Tôi và mẹ nó thường bảo: ?oThôi cho nó gãy chân cũng được! Chỉ cốt sao nó thoát khỏi cái bệnh truyền nhiễm ấy mà còn sống là mày rồi!? Nhưng từ khi bị gãy chân, nó lại quay sang mê xem đá bóng quá thể! Hôm nào có đá bóng thì có trời mà giữ được nó ở nhà! Ðá ở đâu nó cũng mò đi xem cho bằng được. Ðá ở Ăngcara là nó nhảy đi Ăngcara, đá ở Iđơmia là nó tếch đi Iđơmia! Nhưng cái chuyện nó cứ đi đi về về như con thoi ấy cũng chưa hẳn là nhục! Nhục nhất là mỗi lần đi về trông nó lại phờ phạc không còn ra hồn người nữa! Chân đứng không vững, giọng thì khản đặc lại! Có đến hàng bao nhiêu lần tôi bảo nó, là đừng có la hét như điên ấy cho nó khản tiếng ra. Nhưng nó bảo tôi: ?oBố chỉ được cái ngồi nhà mà nói! Bố cứ thử ra sân mà không la hét xem nào!?... Có hôm nó đi xem về thế nào mà đầu vỡ toác ra, còn hôm khác thì mũi bị giập nát và mắt thì sưng húp lên. Giá bảo nó còn đá bóng như hồi xưa mà bị như thế thì khả dĩ còn hiểu được, chứ đằng này nó chỉ xem người ta đá thôi cơ mà!... Nhưng nó lại cãi: ?oAi đi xem mà chẳng phải đánh nhau! Bố cứ thử ra đấy mà ngồi im xem nào!? Có lần chúng tôi phải đến bốt cảnh sát để nhận nó về. Những người đi xem đá bóng đánh nhau dữ quá, cảnh sát phải giải tất cả về bốt. Có đến hai lần chúng tôi phải khiêng nó từ xe cấp cứu xuống!
    ?oTrời ơi! Sao con không thương xót lấy cái thân con một chút, mà lại đi hủy hoại nó thế hở con??, tôi nói với nó như vậy. Nhưng nó bảo rằng tuy cũng biết thế, nhưng nó không làm thế nào được! Nghe nó trả lời như vậy mà tôi thấy điên tiết! Tôi bèn bảo nó: ?oThôi được! Hôm nào mày dẫn tao đi với mày để tao xem cái trò bóng bánh của mày nó như thế nào??
    Và thế là tôi đi với nó đến sân vận động Mitkhatpasa. Trận đấu bắt đầu. Lẽ cố nhiên, lúc bắt đầu tôi chưa cổ vũ cho đội nào cả. Ðội nào thắng hay thua đối với tôi cũng thế cả thôi. Tôi cứ ngồi quan sát khán giả và cười một mình. Bất ngờ, có một quả sút vào lưới y như một mũi tên. Cú sút thật là tuyệt vời! Chính mắt tôi được nhìn thấy! Nhưng lão trọng tài ăn gian không cho tính điểm. Tôi tức không chịu được. Thấy mọi người ?oê? trọng tài, tôi cũng bắt chước ?oê!... ê!...? rõ to. Bỗng tôi nghe thấy có ai bảo trọng tài không cho ăn quả ấy là đúng. ?oKhông đúng! - Tôi cãi lại - Quả ấy sút rất đẹp! Nhưng trọng tài ăn gian! Ðúng là lão ta ăn đút lót rồi!? Gã kia bảo tôi: ?oÐồ con lợn! Mày có biết có những cú sút như thế nào không hả?? Tôi bảo hắn rằng bố hắn là đồ con lợn thì có! Vì mới đi xem lần đầu, nên tôi đâu có biết tính tình của cái dân ham mê đá bóng. Thế là chưa kịp nói hết câu, tôi đã bị hắn thoi cho một quả bằng trời giáng, ngã quay ra đất. May mà có những người ngồi bên cạnh can được, chứ không thì tôi đã no đòn với thằng cha ấy rồi! Còn ông con tôi thấy tôi bị đánh cũng chả thèm để ý gì cả, cứ mải xem và luôn mồm kêu: ?oXem kìa! Sắp tung lưới nữa đây này!?
    Kể từ lúc đó, cái đội mà tôi bị ăn đòn vì nó, bỗng trở thành cái đội yêu mến của tôi. Bây giờ mỗi khi bóng đến chân các cầu thủ đội này là tôi không ngồi im được nữa. Tay tôi bắt đầu vung lên, như chuẩn bị đánh nhau vậy. Còn chân thì đá tứ tung không còn biết vào đâu nữa. Giá lúc này bóng mà rơi vào chân tôi, thì có lẽ nó phải bắt tít lên tận mặt trăng chứ chả chơi! Vung vẩy chân thế nào, tôi đá bốp một cái vào giữa lưng cái ông ngồi trước. ?oẤy chết, xin lỗi bác!? Tôi vội nói, nhưng ông ta đáp lại với cái giọng của một người hiểu biết: ?oKhông hề gì! Chuyện ấy là thường!?. Một lúc sau thì chính tôi lại bị một cú đá vào lưng nảy đom đóm mắt. Bấy giờ tôi mới hiểu rằng ở trên sân vận động thì không cái gì là không thể xảy ra được!
    Những cú đấm, cú đá cú huých từ bốn phía cứ thế thỉnh thoảng lại giáng vào đầu, vào lưng. Nhưng cũng chẳng ai thèm để ý làm gì! Ấy là lúc mọi người đã ham xem quá mất rồi! Bóng ở tít tận ngoài sân cỏ, mà mình ngồi đây, cứ anh bên cạnh mà sút thật lực. Mà lạ cái lúc ấy cũng chẳng ai thấy đau cả. Sau đó... bác Xaraphettin ạ, đội của tôi lại sút tung lưới một quả nữa, nhưng thằng cha trọng tài lại không cho ăn. Lần này thì tôi không còn nhịn được nữa. ?oÐuổi cổ trọng tài ra sân!? Tôi gào lên như điên, không còn biết gì đến xung quanh nữa! Chân tay tôi run cả lên. Bên cạnh tôi là một ông bán nước chanh. Tôi cứ vớ lấy những chai nước của ông ta mà ném vào lão trọng tài. May mà đó là những chai nước chanh, chứ không phải lựu đạn!... Chẳng ai còn buồn nhìn ra sân cỏ nữa, người nào cũng quay sang choảng nhau loạn xạ. Tôi túm được cổ một thằng bé và cứ thế bóp làm nó suýt nghẹt thở. Thánh Ala, đúng vô tình mình có thể trở thành kẻ giết người là vì thế! Khốn nạn cho thằng bé, nó cứ gào lên, bảo rằng cũng ủng hộ cái đội của tôi. Tôi vừa buông thằng bé ra thì có một thằng cha cao lêu đêu bỗng vật ngửa tôi ra mà đè lấy đè để. Tôi kêu to gọi thằng con tôi, nhưng cái thằng giời đánh còn đang mải nện nhau với lão trọng tài ở trên sân. Tôi gọi cảnh sát, nhưng cảnh sát cũng đang choảng nhau. Cả khán giả lẫn cầu thủ cũng đang đám đá nhau túi bụi. Thôi được, để tôi hỏi cái thằng cha đang đè lên người tôi xem hắn cổ vũ cho đội nào? Té ra hắn cũng cổ vũ cho đội của tôi! Phải khó khăn lắm tôi mới thoát khỏi đôi chân gọng kìm của hắn, vì hắn ghì tôi chặt quá, sợ để tôi thoát ra thì không tìm được ai để đánh.
    Mãi một lúc sau, mọi người mới trở về trật tự, và trận đấu mới lại tiếp tục được. Ðể cổ vũ các đấu thủ, bây giờ, bắt chước mọi người, tôi cũng bắt hét to: ?oHoan hô! Hoan hô!? Hét được một lúc thì giọng tôi khản đặc lại. Tôi bèn quay sang gõ vào cái hộp sắt tây của ông ngồi đằng trước. Ông này mang cái hộp đi cũng là để cổ vũ các cầu thủ. Nhưng đến khi trên sân hai cầu thủ bỗng xông vào nhau đấm đá túi bụi, thì cảnh tượng mới thật là hỗn loạn. Tôi bị một thằng cha nào đó tung bổng lên cao. Thú thật, chưa bao giờ tôi nghĩ mình có thể bay cao đến thế! Sau đó... sau đó thế nào thì tôi không hay biết gì nữa! Chỉ biết lúc tỉnh lại thì đã thấy mình đang nằm trong nhà thương.
    - Thế là suốt từ hôm đó bác vẫn chưa bình phục được? - Xaraphettin hỏi.
    - Vâng, vì đến chủ nhật sau tôi lại đến sân vận động. Chả là đội của tôi chơi mà! Làm sao mà ngồi nhà được! Nói thì dễ đấy, nhưng hôm ấy cứ thử ngồi nhà xem có được không? Có mà lấy dây thừng trói chân anh lại, thì anh vẫn cứ chuồn đi được! Ôi, sao mà người tôi đau thế này!...
    Bỗng từ cánh tay băng bó của Xenman có một vật gì rơi ra.
    - À, cái hộp sắt tây đấy mà! Ðể tôi gõ vào nó khi nào không thể gào được nữa - Xenman cắt nghĩa cho tôi, khi tôi nhặt chiếc hộp đưa cho bác ta.
    Ô tô dừng lại, Xenman đứng dậy, rên rỉ nói :
    - Thôi chào bác, bác Xaraphettin!
    - Không dám, chào bác! Bây giờ bác đến khám đốc tờ chứ?
    - Ấy chết! Trận hôm nay mà bỏ thế nào được! Chà! Lạy Chúa! Chỉ mong sao cho tôi đừng đến muộn!

Chia sẻ trang này