1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Truyện cười Azit Nexin...

Chủ đề trong 'Truyện cười' bởi doubleblue, 06/12/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Xếp hàng
    Tôi vòng từ cửa hiệu ?oHàng nội hóa? ở phố Bacchêcana sang nhà Bưu điện mới và thấy một dòng người xếp hàng dài lũ lượt. Hàng người như một cái đuôi! Mà không phải chỉ là một cái đuôi thường, đây là một cái đuôi có xoắn có nút hẳn hoi, như là một cái đuôi ngựa thồ.
    Ngã tư bị nghẽn tắc. Bọn tài xế thò tay ra cửa sổ, đập thình thình vào thành xe, càu nhàu :
    - Đúng lúc này thì cấm còi! Các cậu cứ phóng qua cái đám này xem sao nào!
    Còi nào cho lại được, có bắn cao xạ cũng chẳng ăn thua. Đoàn xe dùng chắn sốc gạt người để mở đường tiến lên với tốc độ mỗi mét 5'', có khi còn ít hơn.
    - Chen đi đâu thế!
    - Nhìn đằng trước kia!
    - Nhìn đằng sau xem!
    - Đứng vào hàng đi!
    - Hàng nào?
    - Hàng nào chẳng được, cần gì!
    - Bạn ơi những người này không sao bảo cho biết phép văn minh được. Chúng ta đang ở thế kỷ 20. Mà thế nào là thế kỷ 20? Là văn minh. Thế nào là văn minh? Văn minh thứ nhất là bom nguyên tử, thứ hai là xếp hàng. Muốn sao thì sao bạn cũng phải nắm được hai thứ này. Cẩn thận! Khéo bước hụt đấy!
    - Không, ông bạn ơi, chưa đủ đâu. Văn minh còn là cả nylông, chất dẻo, kẹo cao su. Ngoài ra, xin báo cáo với ngài là cả quần áo tắm nữa... Cẩn thận, mù à? Dẫm ngay vào chỗ chân rộp của người ta!...
    - Còn lưỡi dao cạo an toàn ?oGilét? thì sao? Các ngài quên à? Đã nói đến văn minh là phải đến ?oGilét?.
    - Thế còn ?ohu-la-húp?? Này, đừng có chen, đồ khỉ!
    - Tôi biết rõ một điều: chừng nào chúng ta còn chưa biết cách xếp hàng thì còn chưa ra người gì cả. Ối! Lách đi đâu thế này?...
    Đằng sau có người quát :
    - Dẹp ra một tí! Bẩn đừng có trách!
    Một người qua đường bảo bạn cùng đi :
    - Đã có hàng thì phải xếp mới được.
    Nghe lời khuyên thông tuệ đó, tôi cũng đứng vào. Thật ra là thế này: Chỉ cần anh dừng lại một cái là đằng sau có một hàng nối ngay lập tức.
    - Lạy Trời phù hộ cho cái người nghĩ ra xếp hàng!
    - Đừng quên tắc-xi đấy nhé! Xếp hàng là một, tắc-xi là hai.
    Bà lão đứng trước tôi hỏi :
    - Xếp hàng để mua gì thế này?
    - Mua gì chẳng được? Đã có hàng thì cứ xếp.
    - Chắc chắn người ta sẽ bán cho một thứ gì đấy.
    Mấy phút sau chính cái người nói câu đó lại hỏi người bên cạnh :
    - Cậu biết xếp hàng mua gì không?
    Rồi anh ta lại phải trả lời đúng câu hỏi của một người khác :
    - Mua gì chẳng được.
    Một người nói :
    - Không có hàng thì làm sao dẹp nạn đầu cơ.
    Một người khác hùa theo :
    - Cái bọn đầu cơ làm cho chúng ta khánh kiệt! Ai nghĩ ra cái lối xếp hàng này hay thật...
    Hai anh cảnh sát, một đứng cuối, một đứng đầu hàng luôn miệng hô :
    - Đừng ồn!
    - Đứng vào hàng!
    - Dẹp ra vào xe đi!
    Chúng tôi nối bước nhau tiến lên, đúng hơn là nối nhau từng tấc đất mà tiến. 9h sáng tôi có hẹn gặp một người. Bây giờ đã gần 9h.
    - Này ông bạn, ông đến sau tôi. Đừng có làm trò cù lần như thế!
    - Có nhà ông cù lần thì có, ông bạn chí tên ạ. Tôi đứng đây từ bây giờ sáng. Người này đến cũng chen lên trước, người kia đến cũng chen lên trước, tôi đã không thèm nói, nhưng xem ra không nói không được.
    Một người đứng trong hàng nói :
    - Cuộc đời là thế, bạn ơi, không làm gì được đâu. Như tôi đây ăn lương nhà nước đã 22 năm. Những bọn nhãi ranh hôm qua, nay đã là trưởng phòng, giám đốc cả. Ai cũng thế, cứ đến là chen lên trước...
    - Xin lỗi ông, sắp bán gì thế?
    - Chào! Chính tôi cũng chẳng biết nữa. Đứng 2 tiếng rồi, người bảo bán lốp ô tô, người lại bảo bán dầu hỏa.
    - Tôi mua lốp làm gì?
    - Cái nhà cô này, thế mà cũng đòi nói! Nếu thánh Ala đã cho ta lốp thì ắt mai đây sẽ cho ta cả chiếc ô tô.
    - Liệu có bán cả 4 chiếc lốp một lúc không đấy?
    - Cái đó thì không biết. Chưa ai ra khỏi hàng, có ai mà hỏi.
    - Thế họ chuồn đi đằng nào cả?
    - Người ta cho ra cửa sau để khỏi chen lấn.
    Đến 10h30. Dòng người mỗi lúc một dài.
    - Nếu bán lốp thì phải có giấy cơ đấy. Không giấy không bán cho đâu.
    - Giấy nữa? Giấy của Đảng dân chủ à? Sáng danh Chúa chúng ta đều là người dân chủ cả đấy!
    - Bán đầu thì thèm vào đứng.
    - Bán gì chẳng được, miễn là có.
    - Dầu đựng vào túi à? Ác thật, nhà có can mà không mang đi kia chứ.
    - Lấy tích-kê đã, rồi chạy về lấy can vẫn kịp.
    - Lại còn tích-kê nữa cơ à?
    - Cậu ở đâu ra mà nghe thế? Chẳng nhẽ người ta biến không cho cậu hẳn! Đừng có hòng!... Này, còn phải nói thế nào nữa, đừng xô anh em thế!...
    - Xin lỗi anh, đằng sau họ đẩy đấy.
    - Ông hiểu cho, tôi còn có việc cần...
    - Việc cần!... Xem ông ấy kìa! Theo ông, những người khác đều ăn không ngồi rồi cả hay sao? Ai chả có việc. Ông cứ chờ đấy, chẳng sao cả đâu.
    - Tôi xin hỏi, không biết đến trưa có mua được không nhỉ?
    - Tôi nghĩ rằng... Chen đi đâu thế này? Anh muốn ngồi lên vai tôi à?
    - Không kính lão tí nào. Giáo với chả dục!
    - Hẳn là ông ngoài 40?
    - Sao anh lại nghĩ thế?
    - Bởi vì khi người ta ngoài 40 xuân, người ta thường cho rằng trên đời không còn ai lịch sự và tử tế cả...
    - Ông có biết hắn gì không?
    - Inxulin.
    - Inxulin? Nó là cái gì thế?
    - Thuốc chữa bệnh đái đường.
    - Vậy tôi dùng làm gì? Của nợ!
    - Người anh em gằn quá đấy! Thế nào là của nợ? Cứ mua đi rồi sau bán lại. Ông Giunưu hàng xóm nhà tôi chỉ có thế mà giàu to đấy. Mua ở đây có 2 đồng rưỡi mà bán được những 25 đồng.
    - Các ông biết không, thế hóa ra nước nhà có những lĩnh vực hoạt động mới.
    - Thế ông nghĩ sao? Này, xếp hàng không phải là chuyện đùa đâu. Người ta đi xếp hàng mà xây được nhà đấy... Bỏ cái cùi tay ra khỏi đầu tôi đi!
    - Tốt nhất là ông cất cúi đầu ra khỏi cùi tay tôi thì có.
    - Xin lỗi, ông làm ơn cho biết người ta bán gì vậy?
    - Vải thô.
    - Vải thô gì?
    - Gì nữa? Mỹ chứ còn gì. Bây giờ cái gì cũng Mỹ cả.
    - Không phải vải thô đâu. Không biết cũng đòi nói. Xi măng!
    Bà già đứng trước tôi nổi giận :
    - Không phải vải thô, không phải muối, cũng không phải dầu hỏa. Các người không nghe đài hả?
    - Nghe chứ. Nhưng sao?
    - Ngài thị trưởng cấm mọi thứ xếp hàng, trừ xếp hàng mua cà phê thì được. Bây giờ không còn xếp hàng gì khác ngoài cà phê nữa.
    Cái tin cà phê truyền như điện trong đám xếp hàng.
    - Cà phê à? Hay quá nhỉ!
    - Cà phê thì tôi xếp hàng hai ngày cũng được. Có phải là mua được rồi mới chịu đi.
    - Lệnh thế này: chỉ được phép xếp hàng mua cà phê thôi. Xếp hàng mua cái khác là bị trừng phạt!
    11h trưa... Chỉ còn độ mươi bước nữa là đến quầy hàng. Các rèm cửa sổ đều buông kín nên không biết bên trong làm gì.
    - Người ta có bán nhiều không?
    - Mỗi người 50g.
    - Đừng hòng. Mỗi người 50g thì làm sao đủ cho mọi người được.
    - Được có 50g thì riêng tôi, tôi chẳng thể đứng lâu như thế này được.
    - Thì cốt sao được 50g đi. Rồi sau mình cho thêm 2 cân đậu vào, trộn đều lên, thế là có 2 cân rưỡi cà phê hảo hạng rồi.
    Một người bảo bạn :
    - Này, mình quên không mang tiền, cậu đưa mình 2 đồng rưỡi đi.
    Người kia đáp :
    - Được thôi, nhưng không phải cho vay: cậu đưa cho mình nửa suất cà phê của cậu.
    Người la, người kêu cứu, người bị chen bẹp, người đánh rơi ví, người bị lạc bạn... Tóm lại, đủ mọi cách trên đời!... Người ta xô đẩy mọi phía, chèn ép mọi phía... Cuối cùng, tôi cái đầu xuống chui vào dưới tấm rèm sắt hé mở.
    Người bán hàng hỏi bà già trước tôi :
    - Cụ mua số mấy?
    - Lại còn số nữa?
    - Không số sao được? Cụ ơi, mau lên, hất giờ rồi. Nói đi cụ!
    - Đã xay rồi à? Cháu ơi, bảo họ xay cho già mịn vào nhé. Mịn nhất ấy...
    - Mịn hay không thì cũng thế thôi, cụ ạ. Chỉ còn đằng có tuyết thôi.
    - Cha mẹ ơi, già này sống đều bạc đầu mà chưa bao giờ thấy cà phê có tuyết cả.
    - Cà phê gì nữa? Cháu hỏi cụ mang số mấy cơ mà?
    - Số 35. Cho già loại có nơ ấy...
    - Cụ lại nói chuyện gì vậy?
    - Thế không phải cháu hỏi số giày à?
    - Cháu bán mũ, cụ ơi, mũ ấy mà...
    Người bán hàng lấy mũ trong hộp ra.
    - Cha mẹ ơi, già mua mũ làm gì? - Bà già nói - mà lại là mũ đàn ông nữa chứ... À, mà thôi, đã xếp hàng chắc là rẻ hơn. Thôi, cứ cho già một chiếc, già mua cho thằng con trai. Bao nhiêu ấy nhỉ?
    - 68 đồng 7 hào 3.
    Bà cụ trả tiền và lấy một cái mũ màu cà phê.
    Bây giờ đến lượt tôi. Người bán hàng nói :
    - Mũ Ý đấy thưa ông, ngày mai ông không mua nổi nữa đâu. Bây giờ mua cái gì cũng thế, không phải là dễ. Ông chọn mau lên...
    Đông cũng như hè, có bao giờ tôi đội mũ đâu. Nhưng, nghĩ một tí, tôi quyết định rằng nếu đã xếp hàng thế này hẳn là phải rẻ, tôi liền mua một cái.
    Người đứng sau tôi kêu ầm lên vẻ nóng ruột, tựa hồ người ta sắp bán hết mất mũ, không còn đến lượt anh ta nữa :
    - Cho tôi 4 chiếc đấy nhé. Một chiếc số 56 và ba chiếc số 57. Màu nâu hoặc màu be.
    Tôi trả 68 đồng 7 hào 3 xu và lấy một cái. Lối ra đầu kia. Phải trèo lên một cái cầu thang rồi đi cửa sau phố khác. Lúc ấy là 12h kém 15. Mua được cái mũ rẻ tôi mừng quá quên cả mệt. Tôi ôm hộp mũ đi cho đến chiều tối. Lúc 5h chiều, tôi ra bến ca nô về nhà. Đến quầy về tôi thấy có người gọi tôi :
    - Giepđét!
    Tôi quay lại thì ra anh Buckhan - gương lé, bạn học cũ với tôi. Anh ta bị đuổi khỏi trường Lixê vì hạnh kiểm xấu. Tôi sẽ kể hành tung của anh ta cho các bạn nghe. Dưới chân bàn anh ta đặt một cái gương con để ngắm đùi các cô giáo. Một bữa anh ta bị phát hiện và bị đuổi học. Từ đấy anh ta mang cái biệt hiệu ?ogương lé?. Lâu lắm rồi tôi không gặp anh ấy.
    - A, Buckhan, xin chào! Thế nào, khỏe chứ?
    - Cám ơn, cũng khá.
    - Bây giờ cậu làm gì?
    - Phò phạch.
    - Phò phạch gì?
    - Có gì làm nấy. Mình phò bọn con buôn đi bán hàng ế. Chẳng hạn, hôm nay mình giúp một thằng Do Thái bán chạy 970 cái mũ.
    Nghe đến chữ ?omũ? tôi đã giật mình, bèn hỏi :
    - Cậu bán thế nào?
    - Dễ thôi. Hàng của người ta 3 năm xếp xó. Trong làng buôn ai cũng biết mình cả. Hắn ta đến chỗ mình. Đôi bên thỏa thuận 25% lãi suất. Đến 3h chiều mình bán hết trơn. Cầu trời phù hộ cho hắn, hắn phải trả mình 850 đồng. Đáng lẽ mình được 900 đồng, nhưng cửa kính quầy hắn bị vỡ, thiệt hại chia đôi.
    - Nhưng cậu làm sao bán được đống hàng ấy?
    - Chỉ cần vài 3 đồng là mình thuê được chừng 15 thằng ma cà bông. Trong nửa giờ bọn ấy tổ chức được một dây xếp hàng trước cửa hiệu. Cũng chả đến nửa giờ đâu. Ai đi qua thấy xếp hàng cũng đứng lại. Cậu biết không, ở nước ta bây giờ người ta đâm mê xếp hàng. Mà khi đã xếp hàng rồi thì đuổi họ cũng không được... Sau đó thì cậu biết đấy... Như chiều nay chẳng hạn: chúng nó bán được hết mũ và đóng gọn cửa hàng. Dân chúng mua như cướp ấy. Vất vả lắm mới kìm được. Bọn ngốc nhiều lắm, bạn ạ.
    - Đúng đấy - Tôi hiểu đồng tình.
    - Cậu không thể hình dung có bao nhiêu thằng ngốc trên đời.
    - Hình dung được chứ. Lại còn những thằng ngu đến mức...
    - Thật là vô khối giống lừa.
    - Nhiều thật, nhiều thật, bạn ạ.
    - Giá cậu được nhìn mặt những thằng ngốc ấy...
    - Nhìn làm quái gì? Mình biết thừa rồi. Nhưng loại mũ ấy có rẻ được chút nào không?
    - Rẻ gì, thứ ấy cửa hàng nào chả có.
    - Mình cũng muốn xem... Không, không phải phải xem lũ ngốc đâu, mình muốn xem mũ ấy...
    - Còn 15'' nữa ca nô mới đến. Đi với mình, mình sẽ chỉ cho cậu xem mũ ấy trong các cửa hàng.
    Tôi nhìn những ô kính tủ hàng mà không dám tin mắt mình nữa: ở đâu cũng toàn thứ mũ tôi vừa mua sáng nay. Giá đồng loạt: 68 đồng 7 hào 3 xu.
    - Như thế nghĩa là đáng lẽ được mua thoải mái trong bất cứ cửa hàng nào thì bọn ngốc kia nhất thiết phải chen lấn nhau xếp hàng, huých đạp lẫn nhau, xé quần xé áo của nhau rồi mới mua được vẫn thứ hàng đó với giá cả đó - Tôi hỏi, giả bộ như không có chuyện gì xảy ra cả. Trên đời này nhiều thằng ngốc thật đấy.
    - Ngốc khổ ngốc sở ấy chứ! Ngày mai mình sẽ đi bán điếu cho cửa hàng Grant. Lão còn ế đến hàng ngàn chiếc chứ không ít.
    - Điếu cũng mua à?
    - Bọn ngốc ấy cái gì chẳng mua. Bát điếu cũng mua mà thậm chí đến xe điếu cũng mua hết, miễn là xếp hàng. Mình chỉ sợ độc có một điều.
    - Điều gì?
    - Sợ không đủ hàng bán. Đám người ấy phá nhà chứ chẳng chơi.
    Tôi với Buckhan - gương lé trở về chỗ ca nô. Đến nơi anh ta hỏi :
    - Cậu cầm cái gì thế?
    Tôi giấu hộp ra sau lưng để anh ta khỏi nhìn thấy cái nhãn.
    - Mua một đôi dép về đi ấy mà - Tôi trả lời qua quít.
    Về nhà tôi đè mũ lên bàn.
    Lúc làm việc thỉnh thoảng tôi ngẩng đầu lên nhìn. Một mặt nó gợi nhớ cái xuẩn ngốc của tôi, mặt khác, nó cũng là một nguồn an ủi thật hú vía? Suýt nữa ngày mai tôi đi mua một cây xe điếu thì sao? Biết dùng nó làm gì cho được?

  2. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Thôi thì ở lại
    Lần cuối cùng anh ngồi tù thật là cực. Ra tù anh lại bị đày về một hoang trấn, sự ấy làm anh bải hoải tinh thần. Mãn hạn đày, anh về thủ đô, cô đơn như một chiếc bóng. Vợ thì bỏ từ lúc còn ngồi tù. Ai ở địa vị anh mà chẳng não ruột: người thân không một ai, tiền lương không một hạt... Chẳng lẽ lại phải hoàn toàn dứt bỏ chính trị, đoạn tuyệt hẳn với tất cả những gì thương mến để mà sống mòn trong xó tối hay sao? Trước hết phải tìm được một chỗ nào trú chân cái đã. Tiền thuê nhà giữa thành phố thì túi anh chịu không nổi, mà ở ngoại ô cũng rất đắt... Anh đã mệt nhoài vì công nợ và phập phồng lo sợ. Bất kỳ lúc nào người mõ tòa cũng có thể xuất hiện để tịch biên cái máy chữ cọc cạch và ba cái đồ tầm tầm của anh. Anh cảm thấy hết sức ghê tởm mấy thằng hàng xóm, những đứa tò mò, những kẻ đầy sợ sệt và thù hận lúc nào cũng nhìn anh từ đầu đến chân như nhìn một vật tởm lợm chẳng có gì đáng thương hại. Vì thế anh chỉ ao ước tìm được một căn nhà nhỏ bé, rẻ tiền tít ngoài ngoại ô khuất xa những con mắt người đời.
    Tìm kiếm mãi, cuối cùng anh cũng thỏa nguyện: một túp nhà bằng một gian rưỡi trong một xóm nghèo lơ thơ 50 túp như thế trên một quả đồi cách thành phố cũng đến 1h rưỡi đường bộ. Tìm được chỗ ẩn dật, anh mừng lắm. Gia tài của anh chỉ có hai cái vali tàng toàn là sách và mấy cái giẻ rách.
    Khi anh che được cửa sổ bằng mấy tờ báo cũ anh mới cảm thấy đấy là nhà mình và mới thấy thật sự an toàn. Hạnh phúc thật! Bây giờ chỉ cần tìm được một việc vớ vẩn gì đó đủ sống là được.
    Gần trước cửa nhà anh có một quầy hàng khô bán những thứ măng, miên... xế trái một chút, dưới một cái mái vẩy tạm, một ông hàng hoa quả bày ra đủ các thứ thúng mẹt. Thực phẩm anh mua của họ cũng đủ. Chẳng bao lâu sau, anh cũng đi lại với họ và đôi bên cũng thổ lộ đôi điều. Các nhà hàng bắt đầu than thở đời sống khó khăn, hàng họ cứ ế ẩm, mỗi ngày chỉ được dăm ba khách mua (như thế làm sao đủ sống!?!?), tiền thì không có nhiều nên chẳng làm thế nào dọn hàng đến một nơi đắt khách được.
    Sau khi anh dọn về nhà mới mấy hôm, cạnh quầy hàng khô có thêm anh chàng bánh nếp, anh chàng này cứ vào tầm ăn trưa xong lại đến bán hàng cho đến tối mịt. Sau đó cạnh anh chàng bánh nếp lại có anh chàng ngô luộc đến ngồi ké. Trước mái lều anh chàng hoa quả lại có thêm một người lạ mặt đến bày những phễu thuỷ tinh bán ô mai, táo dầm. Rồi lần lần xuất hiện thêm một thằng đánh giầy, mấy bác bán rong mứt kẹo. Một ông thợ giầy cũng đến cắm một cái dù tã che nắng. Giữa quầy hàng khô với quầy hoa quả là một cái bạt dài của một hàng cà phê.
    Thế là chẳng bao lâu trước mặt túp lều của anh như có chợ họp. Bọn bới rác có việc làm từ sáng đến tối, kẻ qua người lại đông hơn, phố xá thành ra tấp nập. Mấy cái nhà toen hoẻn trước kia bỏ trống, nay cũng đầy người đến thuê. Anh cảm thấy hạnh phúc khi cuộc sống bỗng tươi vui nhộn nhịp. Tuy vậy anh vẫn thất nghiệp. Mòn chân các nơi cũng không đạt kết quả gì. Biết bao lần tưởng chừng có việc làm đến nơi, nhưng cứ nghe cảnh sát nói đến thân thế anh thì ông chủ nào cũng lót tay lá chuối đưa anh ra côngr. Bạn bè anh cũng vậy, chẳng ai kiếm được đồng tiền nào thành thử chẳng biết vay đặt vào đâu. Để đỡ tiền nhà, anh liền quyết định về ở với một người bạn trong phố. Hai người đã thỏa thuận với nhau. Tuy nhiên anh đã trót vay nợ ít nhiều của anh hàng khô, hàng hoa quả và mấy anh hàng khác. Bởi thế, trước khi dứt áo ra đi, anh phải tính toán với họ cái đã.
    Một buổi tối khi anh đi dạm bán mấy thứ và nói chuyện sắp dọn đi chỗ mới, thì có tiếng gõ cửa. Ba người bước vào: anh hàng khô, anh hàng hoa quả và chủ tiệm cà phê... Anh bối rối mời khách vào trong căn phòng sơ sài của mình :
    - Xin thất lỗi, tôi chẳng có gì để mời các bạn cả.
    - Không hề gì - anh hàng khô mỉm cười - chúng tôi cũng đã mang theo mấy thứ, đây là cà phê, đây là đường kính. Rồi anh ta bày ngay mấy gói giấy lên bàn.
    Anh kinh ngạc nhìn mấy cái gói. Thế là thế nào? Lúc họ vào, anh đồ rằng họ đến đòi nợ. Vậy họ mang quà đến làm gì?
    - Bạn định dọn nhà đi, có thật không vậy! - Anh chàng hoa quả hỏi.
    - Đúng thế đấy, nhưng sao các bạn lại biết?
    - Cái gì chúng tôi chả biết - Chủ hiệu cà phê nói một câu đầy ý tứ.
    - Các bạn đừng ngại, tôi không có ý trốn các bạn đâu. Các khoản tôi sẽ thanh toán đầy đủ...
    - Bạn thân mến, những chuyện vặt như thế chúng mình nói với nhau làm gì, chả bõ thêm ngượng! Bạn tưởng chúng mình đến bắt nợ hay sao.
    - Chuyện ấy chả có gì đáng nhắc đến cả, ông bạn quí của chúng tôi ạ - Anh hàng khô nói - Và chẳng hiểu ấy có bõ bèn gì cho cam.
    - Còn nể khoản tiền nợ của tôi - Anh chàng hoa quả nói - tôi xin biếu bạn làm quà. Tôi sẽ chẳng bao giờ nhắc đến, mà nếu bạn có đòi trả, tôi cũng không nhận...
    - Sao các bạn lại thế?
    - Chúng tôi thực quý trọng bạn...
    - Bạn đã mang lại cho chúng tôi bao nhiêu điều lành...
    - Cầu thánh Ala phù hộ cho các bạn, các bạn nói những gì vậy! - Cổ anh nghẹn lại, mãi mới nói được một tiếng.
    Thế nghĩa là họ cũng biết rằng anh đã làm việc cho dân... Mà anh thì lại sầu khổ, bi quan, lại định từ bỏ con đường chính trị. Những con người như thế này làm sao có thể bỏ được!
    - Anh đừng đi đâu cả! Chúng tôi tha thiết mong mỏi như vậy! - Chủ hàng cà phê nói liền một hơi.
    - Phải đấy, chúng tôi đến đây để xin bạn đừng đi đâu cả! - Anh hàng hoa quả dịu dàng nói thêm.
    - Tôi đành làm thế vì tôi không trả nổi tiền nhà...
    - Chúng tôi biết - Anh hàng hoa quả nói - chúng tôi biết hết. Mấy anh em chúng tôi bán hàng ở đây đã quyết ý gom góp trả tiền nhà dùm bạn, chỉ xin bạn đừng đi đâu nữa...
    Đôi mắt anh ngấn lệ và tâm hồn anh sau bao năm tranh đấu và khổ ải lần đầu tiên biết thế nào là sung sướng.
    - Không, không, tôi đâu dám thế - Anh từ chối - Tôi không có việc làm. ở đây khó sống lắm, tôi phải đến ở nhờ nhà bạn.
    - Chúng tôi, anh em bán hàng ở đây - Chủ hiệu cà phê lại nói - đã bao ngày nay chúng tôi chỉ toàn ngồi nghĩ cách giúp bạn thôi. Dù bạn có tiêu pha tốn bao nhiêu chúng tôi cũng gánh vác hết... Chỉ xin bạn đừng có đi đâu... Đừng bỏ chúng tôi... Chúng tôi van bạn!...
    Gắng lắm anh mới kìm được tiếng nấc. Dù người ta có nói thế nào đi nữa, cũng phải nhận chân rằng đất nước đã có tiến bộ - ngay đến những người buôn bán cũng đã bừng tỉnh về chính trị! Nghĩa là anh đấu tranh như thế cũng chẳng uổng công. Cứ như mấy năm về trước thì những người này gặp anh đâu có thèm hỏi.
    - Đa tạ các bạn - Anh nói - cám ơn các bạn, các bạn đã làm tôi xúc động thực sự. Nhưng tôi không thể nào nhận phần giúp đỡ của các bạn được...
    Khách lại bắt đầu van vỉ.
    - Quả là chỗ ở này không xứng đáng với bạn - Anh hàng khô nói - ở đây không thể sống được... Bạn biết không, gần đây có một cái nhà hai tầng, tầng trên người ta thuê. Trên đó có phòng tắm, có... Chúng tôi sẽ thuê tầng đó cho bạn.
    Chủ tiệm cà phê nói :
    - Chúng tôi không muốn bạn rời khỏi khu này, chúng tôi chỉ muốn mãi mãi có bạn bên cạnh...
    - Tôi không hiểu gì cả. Sao lại thế nhỉ?
    - Có gì đâu mà, bạn thân mến của chúng tôi, nhờ có bạn cánh buôn bán chúng tôi ở đây mới mở mặt ra được...
    - Trời ơi, các bạn nói gì vậy! Nào tôi có sắm sửa gì mấy đâu...
    - Ối dào, bạn mua bán thì đáng kể gì... Những người khác mua mới là điểm chính... Bạn đã mang hạnh phúc về cho chúng tôi... Hồi bạn chưa về đây, cửa hàng tôi chỉ lèo tèo ngày 3, 4 ông khách, còn bây giờ thì xoay người cũng chả kịp. Khách khứa tấp nập cứ như thành phố...
    - Vạn sự đều là ở nhờ bạn mà ra cả... - Anh hàng khô đế thêm.
    - Mong bạn nể tình chúng tôi - Chủ tiệm cà phê nói - Một khi bạn đi, mọi sự rồi sẽ đổ vỡ. Tôi đến phải đóng cửa tiệm chứ không chơi!
    Rồi cả dám khách lại nhao nhao mời anh ở lại.
    - Đội ơn các bạn, nhưng nào tôi có công cán gì cho cam? Tôi làm được gì mà các bạn cứ khăng khăng bảo đừng đi như vậy?
    - Ôi chao, bạn đã làm một việc vĩ đại! - Anh hàng hoa quả nói - Bạn vừa mới đến xó này là chúng nó xua cả một đàn cảnh sát đến dò. Bọn này núp dưới danh nghĩa bới rác, đánh giầy... Rồi sau đến bọn cảnh sát buôn bán. Bọn này kiểm tra hoạt động của bọn thứ nhất rồi bọn thứ 3 lại đến dò la bọn thứ 2... Cứ thế mà ở đây sầm uất hẳn lên.
    - Đầu tiên chúng nó vặn vẹo bọn tôi xem bạn làm gì - Anh hàng khô nói.
    - Chúng la cà các quán mua bán vớ vẩn - Anh hàng hoa quả bổ sung.
    - Chính nhờ bạn mà hàng tôi mới chạy được thế. Chúng ngồi từ sáng chí tối, cà phê rót lia lịa...
    - Thế hóa ra cả bọn chúng đều là cảnh sát? - Anh xót xa hỏi.
    - Có thằng là cảnh sát, có thằng không phải là cảnh sát... Chỉ cần đâu đo tụ tập mươi người là lập tức có đến 50 thằng xáp đến... Bây giờ mà bạn bỏ đi thì cuộc đời lại heo hắt như xưa. Bọn cảnh sát lại lần đi theo gót chân bạn...
    - Chúng tôi sẽ chết mất - Anh hàng khô nói.
    - Bạn hãy thương lấy những người nghèo khổ chúng tôi - Anh hàng hoa quả rầu rĩ.
    - Bạn ở lại đi, cho tôi kiếm thêm đồng bạc - Chủ tiệm cà phê van nài.
    Anh đâm ra tư lự. Cho dù anh có đi đến đâu thì cảnh trạng rồi cũng ra vậy.
    - Thôi - Anh đáp - Tôi sẽ ở lại. Nhưng xin các bạn cất hết những của này đi - và anh trả người bán hàng khô cả 4 cái gói.
    - Tin vui này có thể loan cho mọi người được không? - Anh hàng hoa quả hỏi thêm lúc cáo biệt.
    - Vâng. Tôi sẽ không đi đâu nữa...
    - Xin đức Ala phù hộ cho bạn!

  3. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Rất tiếc là không xong rồi
    - Muốn gì thì muốn, chúng tôi cũng cứ cưới vợ cho anh! - Mọi người xúm vào bảo tôi vậy.
    Tôi giãy nảy lên, làm ra bộ không thích. Nhưng kỳ thực trong thâm tâm không có gì phản đối cả.
    - Cô này chăm chỉ nết na lắm! - Họ tìm cách thuyết phục tôi.
    Con gái mà điều đầu tiên được khen là nết na chăm chỉ, thì ắt là nhan sắc không ra gì rồi! Chắc thế nào cũng có khuyết tật gì đó.
    - Nết na hay không tôi cũng không cần lắm. Cốt nhất là làm sao mặt mũi phải dễ coi một tí, để nếu không phải suốt ngày, thì ít ra đôi lúc có thể ngắm được - Tôi rụt rè bảo họ.
    - Cô ấy đi với anh thì xứng đôi lắm rồi - Họ nói cốt để tôi yên lòng.
    Nhưng chính đó lại là điều tôi sợ nhất......
    - Cô ấy là người có học thức. Tiếp xúc với cô ấy thế nào anh cũng sẽ thấy hợp ngay!
    Điểm này thì tôi thích. Một cô gái có học thức! Phải nói rằng học thức dù sao cũng là một nét hấp dẫn đấy chứ! Các bạn cứ đọc các mẩu rao vặt kết hôn trên báo thì biết đấy. Từ anh thợ mới học nghề quét vôi cho đến nhà hoạt động xã hội có tên tuổi, có ai là người không muốn kiếm một cô vợ có học thức đâu nào!
    - Mẹ cô ta là người Đức, còn bố là người Thổ.
    - A! Điểm này cũng hay đấy!
    Giống vật lai cũng giống như người lai, bao giờ cũng có những phẩm chất tốt lắm nhé! Tôi chợt nhớ đến phu nhân Phôn Xađrextainơ trong truyện ngắn trứ danh của Hôme Xaiphetiin. Đó là một phụ nữ có thân hình rắn rỏi. Sáng nào cũng vậy, ở chợ về, mình mặc bộ quần áo thể thao, tay xách làn, bà vừa đi vừa nện gót dày cộp... cộp... trông rất oai vệ.
    - Cô ta nói được cả tiếng Đức, tiếng Pháp lẫn tiếng Ý!
    Tôi thầm nghĩ: nếu săn được con chim này thì cũng thật bõ công chờ đợi hơn 40 năm giời! Người ta nói thế mà đúng: chỉ kẻ nào biết nhẫn nhục chờ đợi thì mới đạt được ý nguyện.
    Bà mối chính trong chuyện này là Mađơmoađen Êléplơra, 59 tuổi, người gày đét như con cá nắm.
    - Cô này rất xinh, thuộc loại tơrétgiôli (rất đẹp) đấy! - Bà ta nói - người cao, thon thả... trông tơrécuyntivê (rất có văn hóa), mà lại dòng dõi con nhà quí phái nhé!
    - Bà Êléplơra này - Tôi bảo - Thế bà đã nói cho cô ấy biết rằng tôi đã ngoại tứ tuần chưa?
    - Nói rồi! Cô ấy bảo đàn ông cứ phải ngoại cái tầm 40 mới có thể gọi là đàn ông được!
    - Thế bà có bảo với cô ấy là vóc người tôi thấp bé không?
    - Có, nhưng cô ấy bảo được cái chắc anh thông minh!
    - Nhưng bà có kể cho cô ấy biết tôi chỉ là một nhà báo quèn, lương tháng không hơn gì mấy cô thợ đan bít tất, tức là chỉ có 50 lia một tuần, mà với điều kiện là phải làm vừa lòng ông chủ đấy! Bà đã kể cho cô ấy biết điều ấy chưa?
    - Rồi, kể hết rồi! Cô ấy có những ba cái nhà cơ, đồ đạc đủ hết, chả thiểu thứ gì!
    Nếu vậy thì được. Không có sau lại bảo không nói trước! Đã biết thế rồi mà cứ lao vào, sau này khổ thì đừng có trách! Đúng là cô ả muốn chuốc nợ vào thân, mà tôi thì hoàn toàn có khả năng làm cô ta được toại nguyện.
    Nói thật ra thì tôi cũng chẳng quan tâm mấy đến tất cả những chuyện này, nhưng chết nỗi một ông bạn cứ thiết tha muốn tôi lấy vợ.
    - Thôi, cưới quách đi cho rồi cậu ạ! Cho đời nó dễ chịu - Anh ta thuyết phục tôi - và cũng để bọn tớ khỏi lo lắng về cậu nữa. Lo mãi cho cậu, tụi tớ cũng phát ngán lên rồi.
    - Sao cậu lại nói thế? - Tôi bảo anh ta. - Cậu tưởng thời buổi bây giờ, một người con gái như thế... Chắc gì cô ta đã chịu lấy một thằng ngu như tôi!
    - Thôi, đừng có nói vớ vẩn! Đã bao năm cậu không được biết hạnh phúc là gì, thì bây giờ hạnh phúc tự đến với cậu. Chuyện ấy là thường chứ!
    Tôi đắn đo suy nghĩ mãi, rồi cuối cùng đành liều gật đầu, mặc cho mọi sự đi đến đâu thì đến.
    Theo sắp đặt, người con gái mà số phận đã định cho tôi sẽ lấy làm vợ, sẽ đi cùng Êléplơra đến sở chúng tôi. Người bạn tôi sẽ phải có ở đó để đón họ.
    Ngày hẹn đã tới. Phải người nào đã từng nến mùi cuộc sống độc thân mới hiểu rõ cuộc sống có ý nghĩa như thế nào. Từ ngày hôm trước tôi đã phải lấy chiếc áo sơ mi trắng ra giặt, rồi phơi lên trên ban công cho khô. Nhưng ác một cái là hôm sau trời mưa tầm tã đến tận chiều. Áo rút từ trên dây xuống mà nước từ hai ống tay vẫn còn chảy tong tong. Tôi còn hai cái áo nữa, nhưng một cái thì bẩn quá, cái kia thì nhàu nát. À, thôi được, không sao. Tôi quyết định vắt thật khô... Lấy hồ phết vào cổ và hai ống tay, rồi cắm bàn là cho thật nóng... Áo may sẵn cái nào cũng thế, mặt trong cổ bao giờ cũng rộng hơn mặt ngoài, là thế nào cũng không phẳng được! Hoá ra tôi để quên bàn là ở trên quần. Tôi chạy vội đến nhấc ra, nhưng nó đã kịp làm cháy một miếng tướng ở đầu gối... Chà! cái cảnh sống độc thân đáng nguyền rủa này! Thôi, muốn gì thì muốn, tôi cũng phải lấy cô gái này thôi.
    Rút cuộc tôi đành phải mặc cái áo hãy còn ẩm, vác cái bộ mặt xây sước như bộ que tính có khía nấc, hãy còn rớm máu vì cạo vội, mà ra đi.
    Muộn mất rồi! Tôi nhảy đại lên một chiếc taxi, phóng như bay đến sở. Vừa đến nơi, anh bạn tôi đã nhảy bổ ra, nghé sát vào tai tôi bảo :
    - Cậu chết rấp ở đâu đấy? Để người ta chờ hơn một tiếng đồng hồ rồi!
    - Thế nào?... Trông được chứ hả?
    Anh bạn tôi mặt không còn thần sắc.
    - Cứ vào xem khắc biết!
    Tôi hồi hộp quá! Ngay cả lúc sắp bước vào phòng thi hay thậm chí lúc sắp bị đưa ra toà án tối cao, tôi cũng chẳng thấy hồi hộp như thế... Mađơmoađen Êleptơra đây rồi!... Một sinh vật kỳ dị. Nó đưa mắt nhìn tôi có vẻ sợ sệt. Tôi ngoảnh vội sang phía người này, nhưng anh ta đã quay mặt vào tường. Thế là hết người cầu cứu.
    - Rất hân hạnh được gặp ông!
    - Xin lỗi vì đã làm cô phải chờ!
    Hai ánh mắt chúng tôi chợt gặp nhau... Trời ơi! Tôi muốn bê lấy cái bàn mà đập vào đầu Mađơmoađen Êleptơra một cái! Tôi tuy khù khờ thật, nhưng đâu đến nỗi để... Cái người đàn bà mà bà ta định giới thiệu làm vợ tôi này chỉ có thể dùng vào một việc thích hợp nhất là đem nhốt vào một cái lều, rồi đứng ngoài mà kêu :
    - Vào xem đi! Vào xem đi! Kỳ quan thứ 8 của thế giới đây!
    - Một quái vật kinh dị chưa từng có đây! Nói đúng hay sai vào xem sẽ rõ!
    Thoạt tiên có thể mang y đi trưng bày ở các chợ phiên hay các đám hội, sau đó mang đi trưng bày ở các tỉnh, rồi dẫn đi khắp vùng Anatôli. Rồi can đảm nữa thì làm một vòng quanh châu Âu, châu Mỹ, cho các nước người ta biết hệ động vật của nước ta còn thêm loại gì.
    Chúng tôi bắt tay nhau.
    - Cô có được khỏe không ạ?
    - Mécxi! Còn ông?
    Đột nhiên Mađơmoađen Êleptơra to giọng hỏi tôi :
    - Ông thấy cô ta thế nào?
    - Bà Êleptơra ạ, bà có nghe nói ở Xtămbun người ta mới mở một vườn bách thú không? - Tôi hỏi.
    - Không! - Bà mối buông một tiếng cộc lốc.
    Người con gái mà bà ta muốn sẽ làm tôi sung sướng, trông chả khác gì một con ngựa thồ nòi Hung-gia-lợi mà trước kia trong pháo binh người ta vẫn dùng để kéo những cỗ pháo nặng. Khi duyệt binh thì nó sùi cả bọt mép ra. Nói của đáng tội, giống ngựa thồ dù sao còn có ưu điểm là nó biết im lặng. Chứ đằng này vị hôn thê của tôi không lúc nào ngơi mồm. Y nói liến thoắng át hết cả chúng tôi. Những câu y nói không ai hiểu gì cả, vì cái miệng y, giống như kim địa bàn, lúc nào cũng muốn bật lên phía trên. Tuy vậy, để câu chuyện khỏi bị đứt quãng, thỉnh thoảng tôi lại phải đáp lại những câu y hỏi, mặc dù thực tình tôi không sao hiểu nổi y muốn hỏi gì. Nhưng bất cứ hoàn cảnh nào đề có lối thoát của nó. Nên tôi cứ nhìn mắt y mà trả lời ?ovâng? hoặc ?okhông?. Vì nhìn mắt bao giờ người ta cũng đoán được phần nào ý nghĩ. Nhưng đôi mí to mọng úp sụp làm mắt y trông thật dễ sợ. Y nhìn chúng tôi một cách lấm lét, như anh chủ hiệu tạp hoá giấu hàng lậu trong quầy bán trộm vào những hôm chủ nhật.
    Nói tóm lại, đấng tạo hoá chí tôn khi nặn ra kẻ tội đồ đáng thương này đã tỏ ra vô cùng sành sỏi về các kỳ hình quái dạng! Thánh Ala muốn nói gì, là điều ấy được thực hiện.
    Người ta bảo y biết bốn thứ tiếng, chao ôi! Lời đồn sao quá điêu ngoa! Có một hồi, đứng bán ở quầy, y cũng bập bẹ được dăm ba câu tiếng Pháp. Nhưng sau ít khách người ta không mướn y nữa. Người ta bảo mẹ y là người Đức. Cả chuyện này cũng đã sai lạc ít nhiều. Không phải mẹ y, mà bà hàng xóm ở cạnh nhà y cách đây mươi năm, là người Đức. Rồi, hẳn các bạn còn nhớ, người ta bảo y có ba căn nhà. Té ra không phải ba căn nhà, mà là một căn nhà có ba buồng. Mà bây giờ cũng đã bị cấm rồi. Ấy là chưa kể tám anh chị em y cùng chui rúc vào đó...
    Mađơmoađen Êleptơra hỏi lại tôi lần nữa :
    - Thế nào? Anh có ưng cô ta không? Bằng lòng nhé?
    Nếu vì lịch sự tôi bảo bằng lòng, thì sẽ hết đường rút lui. Người ta sẽ thít lấy cổ tôi mà bắt làm lễ cưới ngay. Vì thế tôi cứ ậm à ậm ừ...
    - Bà biết đấy... về những vấn đề như thế này thì... Có phải thế không ạ?... Trước hết người đàn ông phải... đúng không ạ? Người phụ nữ trong chuyện này thì... Vâ...â...ng! Còn về phần tôi... nhất định là tôi sẽ... thưa chuyện với bà sau...
    Tôi liếc người con gái đáng thương. Đôi mắt cô ta dán chặt vào tôi. Không khí bỗng trở nên nặng nề.
    - Trời hôm nay đẹp quá!
    Tôi vội chộp ngay lời cô ta như vớ phải cọc.
    - Vâng, thưa cô, trời hôm nay thật là tuyệt! Năm nay...
    Gì chứ đề cập đến chuyện thời tiết thì tôi có thể nói cả tuần liền không nghỉ!
    Nhưng bỗng tôi cảm thấy có một cái gì đau nhói ở trong lòng. Các bạn cứ nghĩ xem: người con gái xấu xí ấy muốn lấy chồng mà tôi lại là niềm hy vọng cuối cùng của cô ta... Nói ra sợ các bạn không tin, chứ quả thật mắt tôi lúc ấy bỗng rớm lệ. Nhưng tôi phải vội vàng quệt ngay nước mắt, vì sợ cô ta lại tưởng đó là dấu hiệu của bệnh già.
    ?oMi hãy cưới người đàn bà ấy làm vợ đi! Tôi tự nhủ thầm vậy, dù sao đây cũng không phải là hành động điên rồ đầu tiên của mi cơ mà! Hãy lấy cô ta đi, rồi hãy cứ là một thằng ngốc như từ trước đến nay mi vẫn là như thế. Hãy tự hy sinh thêm một lần nữa để cứu lấy người đàn bà khốn nạn này!...?
    - Năm nay thời tiết không giống như năm ngoái...
    - Vâng, đúng ạ!
    Tôi nhìn người đàn bà. Chẳng giấu gì các bạn, trong lúc nhìn như thế, tôi tự hỏi: không biết sau khi cưới nhau, người ta còn phải làm gì nữa? Gì chứ việc tôi phải hôn y là cái chắc rồi! Với những ý nghĩ hết sức thiện chí ây, tôi bắt đầu quan sát kỹ khuôn mặt y, cố tìm xem có chỗ nào khả dĩ có thể đặt môi vào được. Nhưng... hỡi ôi!... Không một mi-li-mét vuông nào là không có nốt sần hay mụn trứng cá. Vẫn với một động cơ đầy thiện chí như thế, tôi lại quan sát các chỗ trên đôi cánh tay và mái tóc y. Nhưng than ôi, cũng chẳng thấy một khu vực nào nhẵn nhụi.
    ?oĐó chẳng qua là tâm hồn mi quá thơ mộng và óc tưởng tượng của mi quá phong phú đấy thôi! Tôi tự bảo mình như vậy. Mi cứ hãy nhìn khuôn mặt này rồi lại tưởng ra khuôn mặt khác!?
    Rút cuộc là buổi gặp mặt hôm ấy chúng tôi cứ loanh quanh suốt hai tiếng đồng hồ về chuyện thời tiết. Khi Mađơmoaden Êleptora và y đứng dậy ra về, tôi còn để ý thấy chân trái của y ngắn hơn chân phải đến năm sáu đốt. Nhưng bây giờ thì cái tật thọt của y chỉ khiến tôi càng thêm thương y mà thôi!
    Khi cách cửa vừa đóng lại sau lưng các vị khách bạn tôi hỏi :
    - Cậu thấy cô ta thế nào?
    - Tôi sẽ cưới người con gái này - Tôi đáp.
    - Cậu điên à!... - Anh bạn tôi quát lên.
    - Tôi không thể tìm được người đàn bà nào khá hơn thế đâu! Nhất định tôi sẽ cưới cô ta!
    Buổi tối, Mađơmoaden Êleptơra đến nhà tôi.
    - Tôi bằng lòng cưới đấy! - Tôi bảo bà ta.
    - Cưới ai? - Bà ta hỏi.
    - Còn ai nữa! Người con gái mà bà dẫn đến ấy!
    - Ồ, rất tiếc là không xong rồi!... Cô ấy lại chê anh!

  4. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Đừng quên mua dây thun cho quần đùi nhé!
    Sáng ra tôi chuẩn bị đi làm. Thế là lập tức bắt đầu...
    - Đã ba ngày rồi chúng tôi đã bảo anh mà anh cứ quên hoài... ở nhà không còn chút phô-mai nào cả!
    Người ta bảo tôi suốt ba ngày nay rồi! Nhưng lấy tiền đâu ra nào?
    - Thế nào, mua phô-mai rồi chứ? - Buổi chiều người ta hỏi tôi. Tôi, như một nghệ sĩ bi kịch, lấy hết sức đập tay vào trán và kêu lên: ?oÔ-ô! Tôi quên khuấy đi mất!?
    Tôi cứ thích ứng như vậy. Buổi sáng người ta lệnh cho tôi mua cái gì đó. Tôi trả lời: sẽ mua. Còn buổi chiều khi tôi trở về - lại vẫn cái tiết mục ấy: ?oÔ-ô! Tôi quên khuấy đi mất!?
    Nhưng ông bố biết tỏng tôi rồi. Khi tôi trả lời câu hỏi muôn thuở lần thứ ba: ?oPhô-mai đâu?? - Và định giơ tay lên trán thì bố tôi kêu lên thay tôi: ?oÔ-ô!? - rồi quay lại phía cả nhà mà mỉa mai tuyên cáo: ?oAnh ta quên!?
    Từ hôm ấy tôi không còn được quyền quên nữa. Sáng hôm sau, khi tôi cạo râu, người ta lại bảo tôi :
    - Đừng quên phô-mai nhé!
    - Được rồi.
    Tôi đi giày, khi vang lên :
    - Cả xà bông cũng không còn, mua nhé!
    - Được.
    Trong lúc đi xuống cầu thang, tôi nghe thấy :
    - Cả đường cũng hết, đừng có quên đấy!
    - Được rồi, được rồi!
    Vừa nắm tay vào quả đấm cửa ra vào thì từ trong nhà vọng xuống tiếng la ơi ới :
    - Anh nghe thấy không? Cà phê, cà phê!
    - Cà phê làm sao?
    - Hết rồi, nhớ mua nhé!
    - Tôi sẽ mua, sẽ mua hết!
    Tôi đóng cửa, thở phào nhẹ nhõm, nhưng ngay lúc đó người ta đập vào cửa sổ.
    - Còn gì nữa?
    - Trời ơi, anh đi đâu mà lao dữ vậy? Quay lại lấy chai đựng. Anh còn phải mua dầu ô liu.
    - Sẽ mua, sẽ m-u-a!
    Đi được vài bước - từ trên cửa sổ lại có tiếng réo :
    - Này, gạo ở nhà không còn một hạt! Chiều nhớ mang về!
    - Sẽ mang về!
    Đấy, cứ mỗi buổi sáng là đầy những lời tiễn đưa như thế đó. Nhưng vấn đề không phải kết thúc ở đó. Từ những khung cửa sổ ra vào và cửa sổ mở toang dội ra đủ thứ giọng nói, đòi hỏi và lo lắng, trầm trầm và lanh lảnh, êm ái và khàn khàn: ?oN-à-y!? cứ lan đi, lan đi, đuổi theo tôi trên đường phố.
    - Mua dây thun cho quần đùi nhé! Loại tôn tốt ấy! Đừng có mà quên đấy!
    - Thông phong cho đèn năm dây!
    - Bấc cho bếp dầu hỏa!
    Tôi lao chạy, hoảng hốt như tên bán hàng rao nhìn thấy đại diện chính quyền, nhưng chưa kịp rẽ qua góc phố thì một chú bé đuổi kịp tôi.
    - Có một dì sai cháu nhắn lại...
    - Dì ấy bảo sao?
    - Hành cũng không còn.
    - Nói với dì ấy hãy liệt kê những thứ gì vẫn còn. Những thứ khác chú sẽ mang về.
    Đấy, tôi đi làm mỗi buổi sáng như vậy đó. Bạn hẳn rõ là đầu óc tôi chất đầy những thứ gì chứ? Cho suốt tới chiều tối trong đó chen chúc nhau những phô-mai, dầu, hành, dây thun cho quần đùi...
    Và hôm nay, khi tôi bước vào văn phòng, đầu tôi như thường lệ chất đầy ắp đủ thứ các thứ hàng thực phẩm và tạp hóa.
    Tôi phải hoàn tất những tài liệu cần gấp đã nằm từ hôm qua trên bàn làm việc của tôi. Xong xuôi tôi gửi chúng lên qua các cấp.
    Ít lâu sau ông giám đốc bước vào phòng. Mặt đầm đìa mồ hôi, cánh mũi phập phồng. Ông chìa cho tôi những tờ giấy.
    - Cái gì thế này?
    - Những tờ giấy...
    - Đọc đi! Đọc to lên!
    Tất cả những ở trong phòng: các cô đánh máy chữ, thư ký, viên chức - đều vểnh tai lên nghe. Tôi bắt đầu đọc: ?oGửi Tổng cục, người có chức trách cao nhất. Phúc đáp mệnh lệnh ngày tháng ấy, số bao nhiêu. Dưới đây liệt kê những biện pháp cụ thể về phần các điểm cần phải xem xét ngay và đã được nghiên cứu cẩn thận. Xin trình để ngài biết rằng chúng tôi cho là cần thiết phải:
    - Không mua phô-mai dưới quê đem lên vì quá mắc đối với chúng ta.
    - Mua dây thun cho quần đùi ở chỗ bán hàng rong tại quận Macmut Pasa.
    - Mua hai trăm gam thịt bò làm cốt lết, đề nghị chặt làm đôi.
    - Mua thông phong đèn thì chọn cái nguyên lành, đừng lấy cái bị nứt như lần trước.
    - Do giá xà bông cao quá, nước xà bông phải dùng cho hết chứ đừng phí phạm.
    - Nhằm tiết kiệm, cà phê phải pha lần thứ hai, đổ thêm nước sôi vào nước cà phê đặc.
    Tài liệu này gửi tới ngài như một thông tư để thi hành?.
    - Cái gì thế này? - Ông giám đốc lại gầm lên.
    Tôi hiểu ra rằng mình đã làm hỏng một văn kiện chính thức, tương vào đó tất cả những gì chứa trong cái đầu khốn khổ của tôi đang đầy ắp các thứ hàng hóa linh tinh.
    - Sao anh lại đến nỗi thế này? - Ông giám đốc nói tiếp.
    - Chính tôi cũng không biết nữa.
    - Thôi được, anh bị lú lấp ruột gan. Nhưng tại sao sếp của anh lại ký vào cái này?
    - Bậy thật! - Tôi kêu lên.
    - Giả sử rằng sếp của anh bị quáng mắt... Làm sao mà chánh văn phòng lại chuyển cái đó lên cấp khác?
    - Cái đó thì quá tệ!
    - Thôi cứ cho rằng thủ trưởng đãng trí. Nhưng phó giám đốc thì mắt để đâu?
    - Thật xấu hổ và nhục nhã!
    Giám đốc trầm ngâm.
    - Họ đã sơ xuất, cái đó rõ rồi. Nhưng còn tôi, làm sao mà tôi lại gửi cái thứ nhảm nhí ấy cho tổng giám đốc?
    - Cái đó thì thật...
    - Cái gì hả?
    - Thật là tuyệt!
    - Thế nếu cả tổng giám đốc cũng nhắm mắt ký vào cái ?othông tư? của anh, rồi không đọc và gửi lên cho bộ trưởng?
    - Thế thì chúng ta chết mất! - Tất cả đồng thanh kêu lên.
    - Lạy trời, tai qua nạn khỏi rồi! Tổng giám đốc đãng trí, lộn phong bì và gửi tài liệu không phải cho bộ trưởng mà cho một bà quen.
    - Ồ!
    - Ở bưu điện do đãng trí nên phong bì để gửi cho bà ấy lại chuyển cho tôi, còn cái gửi cho ông bộ trưởng thì lẫn đi đâu mất không biết.
    Tới đây tất cả chúng tôi đều thở phào nhẹ nhõm.
    Cảm ơn những người đãng trí! Đúng là vì họ mà trên báo chí có những thông báo thế này: ?oNhằm mục đích tiết kiệm, đã thải hồi hai chục viên chức khỏi cơ quan như thế như thế. Thay cho họ đã tuyển vào ba trăm người có trọng trách?. Chuyện gì cũng xảy ra được cả!

  5. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Phụ tùng thời đại văn minh
    Một người khách mới bước vào phá vỡ bầu không khí trầm mặc mơ màng trong quán cà fê. Vừa thở hổn hển, vừa để rơi người xuống ghế, không thèm chào hỏi ai cả. Mọi cái đầu quay về phía ông :
    - Chào ông Hamít - Một ông già đang đăm đăm nhìn bể nước phun ngoài sân ngoảnh lại chào.
    - Không dám...
    - Ông làm sao thế hả ông Hamít? Có gì mà thở dốc như bò già leo núi vậy?
    - Lạy thánh Ala, ông Ali ơi, tôi vừa mới thoát một cơn hoạn nạn... Lạy thánh Ala!... Dù sao trên đời này vẫn còn có công lý. - Ông Hamít đạo mạo nói.
    - Xin chúc mừng ông bạn già của tôi! Ông vừa xong nợ nhà băng hay sao?
    - Đâu có... Thời buổi bây giờ mà ông còn có thể nghĩ được đến nhà băng à? Tôi thoát là thoát cái máy kéo của nợ của tôi ấy...
    Mấy ông già nghe đến hai chữ ?omáy kéo? thảy dướn cả người lên, nhổm đít trên mấy chiếc ghế đan rồi ngồi xích lại chỗ ông Hamít
    - Thật thế ư, ông?
    - Tôi thoát được thật đấy!
    - Ông thử kể xem nào!...
    - Bỏ của chạy lấy người... - Ông Hamít thở dài như trút một gánh nặng. - Ngàn lần đội ơn thánh Ala. May mà tôi còn sống đến ngày hôm nay!
    Mọi người sốt ruột đợi chờ. Mấy cái ghế đẩu lại nhích gần thêm về phía Hamít.
    - Đấy là cả một thiên lụy sử... Hồi thằng con tôi được giải ngũ, nó bảo: ?oBố ơi, ở quân đội con học được nghề lái xe. Bây giờ bố mua máy kéo đi?. Mấy hôm ấy vợ chồng con em gái nó cũng về chơi. Hai đứa đều tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, ra làm giáo viên cả. Gặp dịp nghỉ hè chúng về chơi ngay. Vợ chồng nó cũng bảo: ?oBố mua máy kéo đi thôi, tội gì mà chịu khổ mãi!... Đôi bò thời nay nào có giá trị gì đâu?? Theo chúng thì tôi là người đầu óc còn lạc hậu. Con gái tôi còn chỉ lên tấm lịch tường: ?oBố xem, chúng ta đang sống ở thế kỷ nào đây? Thế kỷ 20, bố có hiểu là thế nào không?...?
    Còn thằng con rể thì tối nào ăn cơm xong cũng cho tôi một bài giảng: ?oChúng ta đang sống trong thế kỷ máy móc. Thời nay mà còn cày bò thì thật xấu hổ...?
    Con trai thì làm khổ tôi bằng những con toán thống kê: ?oBố đã thuê bao nhiêu thợ cày? Mười người chứ gì... Họ làm mất bao nhiêu ngày? Một tháng, bố thấy chưa, còn nếu chúng ta mua máy cày thì chỉ cần con làm trong một tuần lễ là đâu vào đấy. Ngoài ra con còn làm thuê cho người khác và người ta còn phải hôn tay cầu cạnh con nữa. Chỉ một năm là chúng ta hoàn vốn?.
    Con trai im thì con gái mở miệng, con gái im thì con rể mở máy! Nào là bò nghỉ bò cũng phải nhai, còn máy đã nghỉ là nghỉ. Máy muốn chạy thì chỉ cần vài chén dầu xăng là tha hồ bon... Lúc nghỉ nó có đòi hỏi gì đâu. Nào là bò suốt mùa đông ngốn không biết bao nhiêu là cỏ cho vừa cái túi nhai lại của nó.
    Một mình tôi đương đầu với lũ con, nhưng những lời tôi nói ra cứ như nói ngoài sa mạc. Chúng còn thuyết phục tôi rằng bò có thể ngã bệnh, già yếu và gục chết. Còn cái máy kéo là sắt là thép. Nó có già yếu mệt mỏi, chết đứt bao giờ đâu...
    Tôi còn chưa chịu đầu hàng thì bà lão nhà tôi lại bồi cho một đòn nữa: ?oNhà Muxa mua rồi, nhà Mêmét đầu hói cũng mua rồi đấy?.
    Tối cũng chuyện máy kéo, sáng cũng chuyện máy kéo. Nhưng tôi chịu nhất là lời của bà lão: ?oNhà trưởng thôn mua máy kéo rồi... Còn ông thì cứ nấn ná... Đến thằng Huyxên con nhà Mêmít cũng mua nữa là...? Thú thật tôi không còn cách nào khác là đành phải...
    - Thế nào, ông Hamít? Về sau thế nào? - Mọi người tò mò hỏi.
    Có thánh Ala chứng giám, tôi vẫn cứ phân vân trong bụng. Nhưng rồi ông giáo làng tôi bảo: ?oÔng Hamít, ông vẫn còn phải nghĩ ngợi kia à? Một máy kéo là 80 sức ngựa chứ có ít đâu?.
    Câu ấy làm tôi tỉnh người. Tám mươi sức ngựa!... Ghê thật đấy! Nó húc đổ cả núi chứ chẳng chơi đâu! Tôi không chịu đựng được nữa. Phải mua thôi! Nhưng cái của nợ ấy giá bao nhiêu? Có người bảo nhà băng sẽ cho vay tiền. Còn máy thì có ba loại: nhỏ, vừa và lớn. Tôi định mua loại nhỏ nhưng thằng con tôi lại nói: ?oThứ nhỏ ấy con không thích đâu?.
    Con gái rằng: ?oĐã mua thì mua hẳn cái lớn?.
    Con rể rằng: ?oNgười ta ai cũng mua có một lần?.
    Bà lão rằng: ?oMọi người mua đằng to, làm sao mình lại chịu nhục?.
    Thế là mấy bố con chuẩn bị lên đường ra tỉnh. Đến nơi gặp một anh chàng cũng tốt bụng. Anh ta hỏi: ?oÔng có bao nhiêu ruộng?? Tôi đáp: ?oTám mẫu?. Anh ta bèn khuyên: ?oMua cái đằng nhỏ ấy. Tám mẫu chứ đến chục mẫu nó cũng cày bay?.
    Nhưng tôi không làm sao thuyết phục được con cái. Chúng nó bảo: ?oThằng cha ấy lừa bố đấy thôi, chúng con cứ thích đằng to?.
    ?oBốn ngàn đồng tiền mặt, còn đâu tín dụng ngân hàng? - người bán hàng nói. Ở đây làm gì có chuyện mặc cả, cũng không thể dấu được anh ta là mình không đủ tiền. Chúng tôi đành về nhà vác bò ra chợ. Mấy con bò sinh ra trong chuồng nhà tôi, chính tay tôi đã tắm rửa cho chúng, nuôi nấng chúng. Con bò xám cứ nhìn chằm chằm vào mắt tôi mà khóc, con bò hung thì cứ liếm mãi hai bàn tay tôi. Tóm lại chúng tôi bán đôi bò đi kiếm được ba ngàn. Còn một ngàn nữa lại vay tín dụng. Cuối cùng mua được cái máy kéo hạng to... Con quái vật ấy đứng lừng lững như một trái núi. Các con tôi kêu hai chén dầu xăng là máy nổ ầm ầm. Làm gì có của ấy!
    Chúng tôi đổ vào một biđông madút, còn dầu nhớt thì không biết bao nhiêu mà kể. Con trai tôi trèo lên cầm lái. Chúng tôi cũng trèo lên. Xe chạy xình xịch. Máy tốt hết ý. Theo tục lệ chúng tôi treo lên xe một chiếc giày cũ, một củ tỏi và một dây hạt cườm xanh để tượng trưng cho hạnh phúc. Tối hôm đó khi về đến nhà, chúng tôi cho xe lượn quanh nhà bốn vòng rồi mới đắc ý đỗ lại.
    Tất cả những người hôm ấy nhìn thấy chúng tôi, hôm sau thảy đều đi mua máy kéo hết. Ngay cả lão Giuxup có mỗi một mẫu đất chua lại nợ nần như chúa chổm cũng đi tậu máy kéo mới khiếp chứ.
    Từ đó chiều chiều, hai bên đường làng máy kéo xếp hàng thẳng tắp. Thằng con tôi lái cái máy ấy cũng thấy vừa tay, chẳng cần gì hơn. Trên đường nó đi đã cũng phải nát. Một lần nó húc phải xe Huyxên, con trai Mêmít. Thực thà mà nói cái xe ấy hoá ra đống sắt vụn. Nó bị lật chỏng gọng như một con rùa nằm ngửa vậy.
    Máy kéo để tiêu khiển cũng hay. Cứ đến thứ bảy chúng tôi lại đánh xe ra tỉnh. Thằng con trai tôi xoắn ngược bộ râu lên mà lái. Đến cửa rạp chớp bóng, chúng tôi cho xe đậu vào dãy những xe kéo khác. Lúc về là lúc đua tài. Ai lái giỏi hơn thì vượt lên trên. Bỗng nhiên đang chạy có thằng mất dạy nào húc phải xe của chúng tôi. Rắc một cái, thế là chúng tôi đứng lại. Cầu thánh Ala che chở! Đèn pha vẫn sáng mà xe không nhúc nhích. Không biết hỏng ở đâu, chúng tôi loay hoay mãi, đành chịu bỏ xe dọc đường cuốc bộ đi về...
    - Kể đi ông Hamít, rồi sau thế nào?
    Chúng tôi thuê một đôi bò kéo con quái vật ấy về. Chỗ hỏng vẫn không tìm được. Chúng tôi đành đến chỗ mua trước nhờ họ đến giúp, hết bao nhiêu xin trả. Đến nơi họ bảo: Không được, không có phụ tùng! Chao ôi, con bò màu hung yêu dấu của tôi ơi! Nó làm gì có phụ tùng ốc vít cơ chứ... Nó chẳng hỏng môtơ, chẳng hỏng guồng máy bao giờ. Thằng con tôi bảo: ?oĐể con đi Stănbum mua cái phụ tùng ấy cho...? Tôi sốt sắng: ?oCon ơi, đến vụ cày rồi, có đi thì đi nhanh nhanh, con nhé!? Thằng ấy đi Stămbun rồi không thấy về nữa...
    - Rồi sau thế nào hả ông Hamít... Ông kể tiếp đi!
    Các bạn quí mến ạ, rồi sau tôi không được tin gì của cháu cả. Thật xấu hổ với hàng xóm. Tiền hết, muốn mua bò cũng chẳng có, đành đi thuê tạm một đôi về cày. Mãi mới thấy có tin con: ?oBố ơi, con đã tìm được phụ tùng rồi, nhưng suốt thời gian con đi tìm, con đã tiêu sạch cả túi. Bố gửi ngay cho con một ngàn đồng nhé?. Tôi chạy đến ngân hàng gửi tiền đi ngay theo đường dây thép. Mấy hôm sau nó về mang một mũ ốc to bằng đồng hào ?oCái này mà một ngàn ư con?? - Tôi hỏi. Chúng tôi đi gọi thợ máy bắt ốc. Xe lại chạy tốt... Đến mùa đông tuyết xuống, chúng tôi cho xe vào chuồng bò, buộc vào cái cọc của con bò hung khi xưa. Bấy giờ cũng là lúc phải trả ngân hàng và trả dần món nợ. Mà tiền thì hết... Lại phải đi vay chỗ khác đập vào. Sang hè tôi bảo con trai tôi: ?oNào con, cho xe ra đồng đi!? Nó nổ máy. Nhưng bỗng có những tiếng răng rắc chát chúa, rồi cái máy câm tịt. Làm thế nào nhỉ? Không ai biết đằng nào mà lần. Thế là lại phải đi mời người ở cái cửa hàng bán máy. Đến nơi anh ta phán: Tuột đâu mất một bánh răng xe rồi.
    Chúng tôi hỏi mua, anh ta rằng không có bán. Không có bánh răng mà dám bán máy. Thế có phải là lừa dân đen không? Hỏi thế thì họ bảo: ?oNếu mọi người mua một cái máy kéo nữa thì sẽ đủ phụ tùng cho cái máy cũ?. Nhìn mặt người làng tôi thực xấu hổ. Nhục nhã thật... Bấy giờ cánh đồng nào cũng có một vài cái máy kéo đứng im như xác ướp. Thỉnh thoảng dân làng lại vấp chân phải những đống sắt vụn, dây xích, guốc xích...
    Ôi chao, con bò mầu nâu, con bò mầu hung của tôi... Dùng nó tha hồ mà bền. Sống nó cũng là tiền, chết nó cũng là tiền. Còn cái con bọ sắt này có phải là bò đâu, chẳng chọc tiết được, cũng chẳng xài được.
    Lại đến đợt hai phải trả tiền ngân hàng... ?oTôi trả máy nhà các ông đấy? - Tôi bảo thế. Họ liền đáp: ?oChúng tôi lấy làm gì cái rả rách ấy?.
    Phát điên lên được! Bỗng có tin đồn rằng ở Ađana sản xuất phụ tùng. Tôi liền quát con: ?oÊ, cái thằng già mồm kia, mày bắn súng không nên thì phải đền đạn. Đi mà sắm phụ tùng đi cho rồi...?
    Thằng con tôi đi Ađana. Đến nơi thằng thợ bảo: ?oKhông thấy người ốm làm sao chữa bệnh?.
    - Kéo nó đi Ađana chứ sao - Tôi bảo.
    Thế là phải thắng một đôi bò mộng.
    Hai tuần mới mò đến được Ađana. Cái thằng thợ máy ấy đòi đúng năm trăm mới nhả ra cái con bánh răng ấy. Để đỡ mất mặt với bà con, tôi đành phải bán đỡ hai sào ruộng rồi gửi năm trăm đi Ađana cho nó... Lúc ấy vợ chồng đứa con gái tôi đến chơi. Tôi nghĩ: ?oĐã mất bao nhiêu tiền cho cái xe khốn khổ kia thì cũng phải hưởng được đôi chút chứ?. Thế là cả nhà tôi trèo lên xe. Tôi bảo con trai: ?oCái của này không phải như con ngựa đua đâu, cẩn thận đấy con, dọc đường gặp cái gì phải tránh cái đó!? Nhưng con trai tôi đâu có nghe. Nó vừa trông thấy xe nhà Huyxeen, con trai Mêmít là lao ngay vào. Cái đầu máy rền như con lừa đực gặp con lừa cái... Tôi chưa kịp quát con hãm lại thì cái các-bua-ra-tơ đã nổ rồi. ?oThằng mất dạy, đồ khốn - Tôi sấn đến cạnh nó. - Đến ngựa chiến bên A rập cũng không chịu được nữa là... Mà đây lại là máy móc nước ngoài. Mày có còn đầu óc không đấy?? Chúng tôi hò nhau xuống đẩy nhưng nó không thèm nhúc nhích nữa. Lúc ấy làm sao tôi quên được đôi bò tuyệt diệu của tôi kia chứ?
    Tôi kéo con gái và con rể ra bảo: ?oHai con trả lời cho bố một câu. Chúng ta đang sống ở thời đại nào đây? Có phải là thế ký 20 không? Cái thời của bố thì chỉ dùng một con bò xám, cho nó nắm rơm, cột nó vào xe là ra nương, ra rẫy...?
    - Rồi thế nào nữa hả ông Hamít?
    - Thế rồi, các ông anh ạ, lại đến lãi xuất nhà băng, lại tiền trả vốn ngân hàng. Trời phạt tôi đấy. Tôi phải đi bán thêm mười sào nữa. Còn cái máy kéo lúc thì mất bù -loong - 500 đồng, lúc thì một cái ốc một nghìn đồng... Giá thử cái xích mà đứt thì chịu không thể tìm đâu ra cái khác mà thay. Phụ tùng không có... vá víu chỗ này, vá víu chỗ kia, cái máy kéo yêu dấu của chúng tôi giống hệt như cái áo rách.
    Lúc ở ngoài đồng toàn thân nó run lên bần bật như phải cơn sốt, còn ngoài cánh đồng thì vướng vãi toàn những ốc, những mũ, những mẩu sắt gì nữa, tựa hồ chúng tôi rắc những phụ tùng vứt đi ấy thay cho hạt giống.
    Một hôm có một nghị sĩ đảng dân chủ về làng. Tôi gặp ông ta, nói: ?oBây giờ ông bảo chúng tôi làm thế nào? Cái máy lừng lững như con voi, mà chỉ thiếu một chi tiết bằng đồng xu là đứng im. Còn chi tiết ấy thì không kiếm đâu ra được?.
    - Nói tiếp đi, ông Hamít! Cái nhà ông nghị sĩ ấy bảo sao?
    - Ông ấy còn nói gì được nữa... Ông ấy cũng có nói một thôi dài, thậm chí tôi cũng không hiểu gì lắm. Ông ấy bảo trước kia người ta sống ở thời kỳ đồ đá, bây giờ là thế kỷ đồ sắt. Nền văn minh xâm nhập vào đất nước ta cùng với sắt thép. Tôi bảo: ?oThôi được, các ông đã chuyên chở văn minh vào nước ta là tốt, nhưng phụ tùng của nó đâu? Ông thử ra ngoài đồng chúng tôi mà coi, những văn minh vứt đi còn đầy như xác chết cả đó. Vậy có nên hạn chế bớt văn minh đi không??
    - Rồi sau thế nào nữa, ông Hamít? Ông ấy trả lời ra làm sao?
    - Các bạn quí mến ạ, sau đó ông ấy đáp: ?oThứ này chúng ta đặt mua ở Mỹ. Mai đây chúng ta sẽ xây dựng nhà máy riêng! Các bác chịu khó chờ ít lâu nữa thôi, phụ tùng sẽ tràn về như lũ tháng bảy?, ông ta hứa thế. ?oChúng tôi thì chờ được, nhưng nhà băng có chờ đâu - Tôi đáp - Ông làm ơn bảo nhà băng họ cũng nán chịu?.
    Lại đến kỳ trả nợ không xê xích ngày nào. Thật tình tôi tiếc đôi bò quá. Lúc đem chúng ra chợ bán tôi đã khóc thầm trong bụng... Tóm lại, thế là tôi phản bán hết cả ruộng đất để trả nợ nần.
    - Rồi sau ta sao, ông Hamít?
    - Rồi sau tôi gọi con gái và con rể đến. Tôi lại lôi bà lão và con trai tôi ra. Tôi dẫn họ ra chỗ con quái vật ngốn tiền ngốn đất của tôi mà rằng: ?oHoặc là các người giết sống tôi đi, hoặc là tôi buộc các người vào xe làm bò cày ruộng...?
    Họ lại ra sức nổ máy, tiếng máy đinh tai nhức óc, cua-roa chạy văng mạnh, sửa chỗ này hỏng chỗ kia, lắp được cái ốc lại gãy bánh răng, cứ thế không cùng.
    - Rồi sau thế nào, ông Hamít?
    - Sau đó, các bạn quí mến ạ, tôi hiểu ra rằng chẳng ăn thua gì cả. Vợ con tôi dúm dụm vào nhau. Tôi liền vác ra một cái búa và quát: ?oĐồ súc vật, lui hết cả ra, để ta dậy cho cách sửa chữa?. Rồi tôi cứ thế quai búa vào tay lái, vào máy móc... vừa quai vừa quát: ?oNày thế kỷ hai mươi này, này văn minh này, này phụ tùng này?. Tôi quai búa đến mỏi nhừ tay ra thì thôi. Bấy giờ bà lão nhà tôi bỗng kêu váng lên :
    ?oỐi giời ơi, cứu chúng tôi với, ông lão nhà tôi điên rồi...? Các con tôi mỗi đứa chạy một đường. Tôi vứt búa rồi đến thẳng đây đấy. Cho tôi một cốc nước với.
    - Rồi sau sao nữa, ông Hamít? - Những người nghe tròn mắt thúc giục.
    - Thế là hết. Tôi đã thoát được con quái vật. Ngàn lạy ơn thánh Ala chí công... Tôi thấy mình như được thoát xác. Cho tôi một tách cà phê mau lên và đặc vào nhé! - Lão Hamít sung sướng quát gọi chủ quán.

  6. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    Người phụ nữ xã hội
    Ai bảo rằng việc người phụ nữ tham gia công tác xã hội là nguyên nhân làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, người ấy hoàn toàn nói bậy! Tôi có thể lấy ngay cuộc sống êm ấm của chính gia đình tôi đây để chứng minh.
    Hồi ấy, do kết quả của sự nhập cảng dân chủ vào nước ta và nhờ chiến dịch vận động tranh cử rùm beng khắp nơi, mà việc bầu nghị sĩ cũng trở nên dễ dàng hơn, những sinh hoạt thì lại đâm khó khăn hơn, tôi buộc lòng phải cưới cô vợ có công ăn việc làm.
    Vợ tôi là một viên chức hết sức mẫm cán. Những lúc rảnh rỗi, không có việc gì đan lát, nàng thường thích gây gổ cãi lộn với những bạn đồng sự. Tôi thì làm việc ban đêm ở một tòa soạn.
    Vào đúng cái hôm chúng tôi quyết định cưới nhau, vợ tôi được nhà băng cho nghỉ bù. Tuy thức suốt đêm làm việc, nhưng ngày hôm đó tôi vẫn không sao ngủ được. Chúng tôi đến phòng khai giá thú để đăng ký kết hôn. Ngay tối hôm ấy, để người vợ yêu ở lại nhà một mình trong căn buồng ấm cúng, tôi đến tòa soạn làm việc. Sáng hôm sau, lúc trở về tổ ấm, tôi thấy mảnh giấy của vợ gài trên cửa buồng ngủ :
    ?oChồng yêu của em! Em đến nhà băng đây. Hôn đôi mắt nhỏ của anh?.
    Tôi được mảnh giấy của vợ mà cảm động đến rơi lệ.
    Sau đó tôi leo lên giường làm một giấc đến tận chiều. Khi tỉnh dậy, vợ tôi vẫn chưa đi làm về. Sợ đến tòa soạn trễ, tôi cũng viết cho vợ một mẩu giấy và gài lên đúng chỗ đó :
    ?oCon mèo nhỏ của anh! Anh đi làm đây. Vì đã trễ giờ rồi! Hôn đôi má thơm tho của em!?
    Sáng hôm sau chúng tôi vẫn không gặp được nhau. Nhưng người vợ chung tình của tôi vẫn không quên để lại cho tôi một lá thư nồng nàn âu yếm, với những lời lẽ ngắn gọn, cô đọng như mệnh lệnh của viên chỉ huy dũng cảm trước giờ tấn công.
    ?oAnh bé bỏng của em! Em đi đây. Hôn anh một ngàn, ngàn, ngàn cái?
    Tôi lại viết trả lời ngay :
    ?oEm bé bỏng của anh! Anh đã nhận được thư của em. Cám ơn em nhiều nhiều. Hôn đôi môi ngọt ngào của em. Chồng của em Haxan Kaphađan?.
    Từ đó chúng tôi bắt đầu ôm và hôn nhau qua các bức thư. Ba tháng sau kể từ ngày chúng tôi cưới nhau. Trong một bức thư để lại cho tôi vẫn ở chỗ cũ trên cửa buồng ngủ, vợ tôi viết :
    ?oAnh thân yêu! Cám ơn anh một ngàn lần vì đã gửi thư cho em. Em vẫn rất khỏe và mong anh cũng khoẻ như thế. Em xin báo ngay để anh biết tin mừng là chúng ta sắp có con. Em cảm thấy hình như em hơi có mang. Nhưng không sao cả đâu, anh đừng lo lắng gì cả! Bác sĩ bảo rằng đã đến tháng thứ tám. Em rất muốn đứa con của chúng ta lớn lên sẽ thành một công dân có ích cho xã hội. Nhưng muốn vậy chúng ta phải sát cánh cùng nhau làm việc thật hăng say hơn nữa, anh nhé! Anh nhớ viết thư cho em luôn đấy. Em chờ. Pakidê Kaphađan riêng của mình anh?.
    Như bất cứ một ông bố nào, tôi sung sướng vô hạn khi nhận được tin đó. Tôi lập tức viết thư trả lời vợ dán lên cửa buồng ngủ :
    ?oNàng tiên của anh. Anh sung sướng không sao tả xiết. Anh đã mua tặng em cái trâm cài đầu. Em cứ lật gối lên sẽ thấy. Hôn em nghìn, nghìn, nghìn lần?.
    Tất nhiên, vợ chồng tôi sống với nhau lâu dần cũng quen đi, và ngọn lửa yêu đương nồng đượm ban đầu cũng dần nguội lạnh.
    Chúng tôi đã quen với cuộc sống gia đình, nên đã bắt đầu ít quan tâm đến nhau hơn. Thậm chí chúng tôi đã quên cả viết thư cho nhau, hoặc viết rồi nhưng quên không gài lên cửa. Mấy năm sau thì chuyện thư từ thôi hẳn. Nhưng căn cứ vào những chiếc bít tất hay những cái quần áo lót của vợ tôi để vương vãi trên bàn ăn hay trên mặt radio mà lần nào dọn buồng tôi cũng nhặt được, tôi biết rằng vợ tôi vẫn thường xuyên đảo về nhà.
    Cuộc sống hạnh phúc của gia đình chúng tôi cứ thế trôi qua nhiều năm như thế.
    Một hôm đi làm về, thấy người mệt mỏi, tôi rẽ vào rạp xem phim. Ở trong rạp, tôi đã gặp một chuyện hết sức bất ngờ. Tôi đang ngồi thì có một phụ nữ ăn mặc rất đứng đắn, tự nhiên ôm choàng lấy cổ tôi mà kêu :
    - Ôi, anh yêu, anh thương, anh quí của em!
    - Ấy... ấy!.. xin lỗi bà! - Tôi hoảng quá, nói lắp ba lắp bắp. - Tôi là người đã có gia đình rồi. Tôi là bố của một gia đình. Xin bà buông tay ra. Tôi không thích những chuyện lả lơi như vậy.
    Người đàn bà nói :
    - Anh không nhận ra em ư? Chao ôi, thật là xấu hổ. Em là Pakidê Kaphađan, vợ anh đây mà.
    Tôi ngượng quá, đỏ dừ cả mặt.
    - Nghĩa là... bà... à... em là cô vợ Pakidê yêu quí của anh đấy à? Xin lỗi em, thế mà anh không nhận ra. Từ ngày không gặp em đến giờ. Em lớn ra nhiều quá!
    Vợ tôi chỉ vào ba đứa trẻ ngồi sếp hàng thong dong từ bé đến lớn, một đứa gái và hai đứa trai, bảo tôi :
    - Con chúng mình đấy.
    Tôi làm điệu bộ của một ông bố, âu yếm nắm tay mấy đứa bé và bảo chúng :
    - Rất hân hạnh được làm quen.
    Nhưng tảng lờ đi như không nghe thấy câu nói của đứa con gái yêu của tôi nói thầm vào tai mẹ nó :
    - Mẹ chẳng có mắt nhìn người gì cả. Mẹ không chọn cho chúng con một người bố đẹp hơn hay sao?
    Đoạn nó chỉ vào một người đàn ông trông rất bảnh bao ngồi bên cạnh, bảo tôi :
    - Đây là bác cháu.
    Đã bao nhiêu năm trôi qua mà cuộc sống của gia đình tôi vẫn hòa thuận, yêm ấm, không có điều gì phàn nàn cả. Nói ví thử, giá tôi không lấy một người vợ có công ăn việc làm, thì suốt ngày chúng tôi sẽ mắng chửi nhau mất. Đằng này, lấy nhau đã từng ấy năm trời, mà giữa chúng tôi vẫn không hề xảy ra chuyện gì có thể làm tổn hại đến hạnh phúc gia đình. Và bởi vì không sao tìm được thời gian gặp nhau, nên giữa hai vợ chồng tôi cũng chẳng bao giờ xảy ra chuyện xích mích cãi cọ. Chúng tôi sống êm ấm, bình lặng, không hề giận hờn, cũng chẳng bao giờ đánh đập nhau.
    Tấm gương của gia đình chúng tôi há chẳng phải là bằng chứng hùng hồn cho việc người phụ nữ tham gia công tác xã hội là hoàn toàn không có hại gì đến hạnh phúc gia đình hay sao?

  7. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    VẬN RỦI THÌ ĐÂU CÓ GẶP MAY
    Y đã len tới các văn phòng cung và cầu. Thấy báo đăng chỗ nào "Cần nhân viên". "Cần thợ" thì lao như tên bắn đến chỗ đó ngay. Nếu người ta bảo:"Cứ để địa chì lại, chúng tôi sẽ báo sau" và ghi địa chỉ vào cuốn lịch bàn thì y hiểu ngay là không có hy vọng gì.
    Mỗi tối về nhà, câu đầu tiên của vợ là:
    -Có tìm được việc làm không ?
    Lúc này tìm được việc làm khó hơn là bắt được tiền ai đánh rớt trên đường.
    -Tôi chưa bao giờ gặp kẻ nào đần độn, thảm hại, hèn hạ như cái thứ anh !
    Vợ y thường mở đầu cuộc oanh kích của mình bằng những lời lẽ tệ hại như vậy đấy.
    Để vợ im miệng, y phải viện đến trò nói dối:
    -Một người bạn hứa là: "Mai cứ đến, chúng tôi nhất định sẽ giải quyết !".
    -Giải quyết cái gì ?
    -Thì công việc chứ còn gì nữa ! (vô tình vợ y đã biến y thành kẻ nói dối ).
    -Công việc thế nào ?
    -Một công việc rất tốt, rất dễ chịu. Một công việc tuyệt vời !
    -Hiểu rồi ! Cơ mà có công việc gì ?
    -Đây là thứ công việc...làm bằng chân, nhưng lại ngồi yên tại chỗ.
    -Chả lẽ lại có thứ công việc làm bằng chân mà lại ngồi yên tại chỗ sao ?
    -Dĩ nhiên là có ! Tôi sẽ đạp máy khâu mà !
    -Họ trả lương bao nhiêu ?
    -Ba trăm đồng.
    Những câu hỏi và câu trả lời dối trá như thế kéo dài tới hàng tiếng đồng hồ.
    Tối hôm sau, như thường lệ vợ lại hỏi:
    -Thế nào, anh đã nhận việc chưa ?
    -Anh tới rồi !...Cơ mà chưa xong! Vợ anh ấy mới mất nên anh ấy không tới cơ quan được. Người ta hẹn thứ tư đến.
    Mấy thứ tư thứ nam qua rồi mà vẫn chưa chấm dứt được trò bịa đặt, dối trá.
    Thế là vợ phải ra tối hậu thư cho y:
    -Đồ đốn mạt ! Anh chỉ quen thói ăn không ngồi rồi ! Mai mà không tìm ra việc làm thì đừng có mà vác mặt về nhà nữa đấy !
    Hôm đó, y phải để địa chỉ lại ở bốn năm chỗ. Lúc y về nhà, cánh cửa không chịu mở ra.
    -Mình ơi, có tin vui này ! Anh tìm được việc làm rồi. Anh đã nhận việc và bắt đầu làm rồi.
    Sau câu nói đó cánh cửa mới chịu hé ra.
    Y làm ra bộ hết sức hân hoan, tả lại cho vợ nghe công việc làm của y nó ra làm sao. Y bịa khéo đến mức chính y cũng tin vào lời y.
    -Thôi được rồi, mình đi ngủ sớm đi kẻo mai lại trễ giờ đi làm.
    Sáng sớm tinh mơ vợ đã đánh thức chồng dậy đi làm. Suốt ngày y lang thang trên các đường phố, công viên, lê gót tới các văn phòng, bàn giấy, le lói chút hy vọng tìm được việc làm. Tối về nhà, hệt như bất cứ người đàn ông có công ăn việc làm nào, y gây chuyện với vợ, la hét ầm ĩ.
    Hai mươi ngày kéo dài trong niềm hy vọng tràn trề. Sắp tới ngày phát lương rồi, y lo quá, tự nhủ: "Mình phải kiếm cho ra ba trăm lia". Đêm nào vợ cũng mơ thấy món tiền chồng sắp đưa cho. Y bảo vợ:
    -Em đem con về ngoại chơi đi. Ngày mồng một anh lãnh lương em hẵng về.
    Vợ ngoan ngoãn dắt con đi. Anh chàng quyết định phải đi ăn trộm. Y đã nhắm được căn nhà để hành sự vào lúc đêm xuống.
    Đêm cuối tháng. Từ chập tối y đã lảng vảng quanh ngôi nhà y sẽ vào vơ vét. Ở đúng lầu hai đèn lại tắt ngóm. Không mấy người ở nhà. Cả chủ nhà cũng đi vắng - đúng là gặp may. Bây giờ y có thể đàng hoàng đi vào ngôi nhà đó. Y còn loanh quoanh bên ngoài một lát. Không thấy ai, y bèn nhảy qua hàng rào thấp bao quanh vườn. Y lần theo khung cửa sổ, leo ống máng lên ban công, hoàn toàn không khó nhọc gì. Đúng là vận may đã tới. Cánh cửa thông ra ban công lại mở. Vào đến trong nhà rồi, y dạn dĩ hẳn lên, bật điện rồi nhìn quanh. Y không ngờ rằng ăn trộm hóa ra lại là một công việc dễ làm đến như vậy.
    Ở tủ, những chiếc chén quý đặt trên những chiếc đĩa bằng vàng. Y vươn tay về phía mắc áo. Khi y mở chiếc bóp dày cộp móc trong túi áo vét ra thì mắt y chợt hoa lên: nguyên một xấp giấy bạc một trăm năm chục lia. Y mở ngăn kéo bàn kê trong phòng ngủ: những tập giấy bạc mới toanh như vừa mới in xong. Đâu đâu cũng thấy tiền là tiền.
    Y rút trong ví ra ba trăm lia, rồi viết vào một mảnh giấy:
    "Thưa ngài kính mến, tôi vào nhà để ăn trộm. Tôi chỉ lấy số tiền ba trăm lia cần thiết cho tôi. Hãy tin rằng bao giờ có tiền tôi sẽ hoàn lại. Xin gửi lời chào trân trọng !"
    Y đặt mảnh giấy lên bàn, rồi thản nhiên ra khỏi nhà bằng con đường đã vào. Như thế là y sẽ thoát được sự mắng nhiếc những một tháng nữa. Lần đầu tiên sau nhiều tháng trời, y cảm thấy thư thái trong lòng.
    Y đi về nhà mình, thấy ở cửa sổ sáng ánh đèn. Có nghĩa là vợ y đã về. Giờ thì y sẽ ném ba trăm lia vào mặt vợ y, sẽ la hét om sòm để tỏ rõ "cái tôi" của mình.
    Y lấy chìa khóa, mở cửa. Bất ngờ có hai nòng súng lục gí sát vào ngực y:
    -Giơ tay lên !
    Một gã cười nói:
    -Nghe đây, anh là một thằng vô lương tâm ! Bọn ta lục lọi suốt hai tiếng đồng hồ rồi mà không tìm được thứ gì đáng lấy. Người nào cũng phải có món đồ gì kha khá phòng trường hợp có kẻ trộm tới thăm chứ !
    Chúng lục người y, lấy được ba tờ trăm lia mới toanh rồi bỏ đi mất.
    Còn anh chàng kia cứ thế ngồi cho tới lúc mặt trời mọc để nghĩ ra lý do nói với vợ. Tờ mờ sáng, nghe có tiếng gõ cửa. Vợ đó ! Y run run mở cửa và trông thấy trước mặt y lù lù hai cảnh sát viên và hai gã trộm bị còng tay - đúng những gã đã lấy của y ba trăm lia đêm qua. Mắt y ánh lên, vui vẻ. Nghĩa là bọn trộm đã bị thộp cổ !
    Một viên cảnh sát chìa ba tờ trăm lia mới cứng cho y:
    -Tiền này của ông ?
    Tim y đập thình thịch. Chính y cũng đi ăn trộm số tiền này mà !
    Y toan nói:"Không, không phải của tôi !" để cứu hai gã khốn khổ kia. Song viên cảnh sát đã nói trước:
    -Hai tên tội phạm này thú nhận là đêm qua chúng lẻn vào nhà ông và dùng vũ lực cướp của ông ba trăm đồng lia này!
    Không thể khước từ niềm hạnh phúc của mình :
    -Vâng, của tôi - Y nói.
    Viên cảnh sát hỏi:
    -Ông lấy chúng ở đâu ?
    Anh chàng tái mặt. Chẳng lẽ họ biết là y cũng đi...ăn trộm ?
    -Sao ông lại hỏi thế ? - Y lắp bắp.
    -Tiền này là tiền giả nên chúng tôi mới hỏi. - viên cảnh sát đáp.
    Anh choáng váng. Viên cảnh sát nói thêm:
    -Yêu cầu ông theo chúng tôi về đồn !


  8. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    BÀ CHỦ
    Mọi người trong tòa báo làm việc hối hả. Hồi đó tôi đang làm phóng viên trong mục cảnh sát và hình sự. Bỗng có người bước vào phòng tôi, đó là Haxan, anh ta phụ trách những vấn đề báo chí tại phòng số một cục an ninh, khuôn mặt phì nộn của anh ta đang tươi rói một nụ cười. Nụ cười ấy chẳng báo cho chúng tôi điều gì tốt lành, bởi vì thậm chí cái tin báo tử của một anh bạn đồng liêu anh cũng mang đến đây với một nụ cười như tin báo hỷ.
    Một biên tập viên nhìn thấy bộ mặt tươi cười ấy liền bảo:
    -Nguy rồi ! Chắc lại có chuyện gì tồi tệ rồi đây !
    Haxan lập tức tuyên bố "tin vui":
    - Tôi xin báo một tin : Tòa báo các anh bị đóng cửa !
    "Xin báo một tin" - anh ta nói cứ như là "Báo một tin vui" vậy.
    - Vì sao thế ? - biên tập viên hỏi.
    - Lệnh chính quyền, vì có tình hình khẩn cấp. - Khi anh ta thốt lên " Tình hình khẩn cấp", giọng anh ta thậm chí còn rung rung sung sướng là khác.
    -Thế nào, đã có lệnh chính thức rồi à ? - Biên tập viên hỏi.
    - Rồi sẽ có - Haxan đáp.
    Haxan, cái tên trung thành đến tận xương tủy ấy bao giờ cũng phải vội vã trong bất cứ tình huống nào, không thể chờ kịp đánh máy xong nội dung một bức điện thoại, tất cả những tin xấu anh ta cứ phải tự mình đi báo lấy. Lạy thánh Ala, thời đại bây giờ cũng đã dễ dàng hơn. Bây giờ có thể hỏi:"Có lệnh rồi à ?". Chứ mười sáu tháng trước đây thì một câu như thế không được phép hỏi.
    Vừa lúc ấy từ xa vọng lại tiếng xe máy. Cái thứ tiếng xe máy lọc xọc kia bao giờ cũng báo trước những tin kiểm duyệt, cấm xuất bản, hoặc một cái gì đó tương tự. Quả nhiên đó là tên cảnh sát chở mô tô đến đây cái lệnh đóng cửa tòa báo.
    Chúng toi nghiến răng im lặng rồi lập tức giải tán. Hai mươi sáu nhân viên chúng tôi rời tòa báo.
    Trong chúng tôi có bảy người vừa mới chuyển sang đây từ một tòa báo bị đóng cửa cách đây 10 ngày.
    Lúc này các ông chủ báo không chi tiền tạm nghỉ cho các nhà báo bị thôi việc mà công đoàn cũng chẳng có. Thế là chúng tôi vừa mất việc lại vừa mất tiền. Trong hai tháng tôi thay ba tòa báo vì lần lượt bị đóng cửa.
    Ở những nơi đột nhiên có chỗ trống thì lập tức lại có hàng chục người xin vào.
    Sau hai tháng thất nghiệp, tôi đã kiệt sức.
    -Tòa báo chỗ tôi khuyết một chân phóng viên đấy. Tôi đã giới thiệu anh, có lẽ là người ta sẽ nhận. Anh đến mau lên và đừng nói với ai nhé - một anh bạn tỏ lòng thương cảm.
    Tờ báo này được cấp trên tin cậy đặc biệt. Ông chủ báo là nghị sĩ thuộc đảng cầm quyền.
    Khi tôi đi làm, ông nghị còn đang chu du châu Âu.
    Với tính tiết kiệm chi li, ông chủ tôi không cho mắc điện thoại từng phòng. Một tòa báo lớn như thế mà vẻn vẹn chỉ có hai máy điện thoại: một ở chỗ ông, một trong phòng biên tập. Đêm đêm tôi thường làm việc trong phòng này vì là chỗ trống vắng. Anh thư ký tòa soạn trực đêm thì ngồi phòng bên. Khi nào gọi anh sang nghe điện thì tôi đấm tường.
    Anh thư ký này có tật mê gái. Anh quen gần như khắp lượt các cô ở các tiệm nhảy, các cô ca sĩ cà phê, các vũ nữ, các đào xi nê. Đêm nào cũng có mười, mười lăm cô gọi dây nói cho anh. Tôi cứ liên tục đấm tường. Nhưng anh ta thì cứ trốn miết trong phòng mình với một cô bạn gái nào đó, hoặc là anh ta không sang nghe hoặc giả có sang thì cũng còn chán.
    Tôi rất vui vì có việc làm và tôi chỉ rùng mình lo lắng sợ bị đuổi việc. Vì tôi đã phải ngồi nhà quá lâu không có việc làm, nên tôi sẵn sàng làm bất cứ việc gì nặng nhất, bất cứ việc gì người ta sai bảo.
    Anh bạn lo việc cho tôi thì bảo:
    -Đừng có sợ ai cả, anh chỉ nên sợ bà chủ mà thôi. Nếu anh tránh xa được bà ấy thì không ai động đến anh nữa.
    -Tôi thì liên quan gì đến bà chủ ?
    -Anh đừng nói thế...Bà ấy không phải đàn bà mà là cây gậy trừng phạt của Chúa. Chỗ nào bà ấy cũng nhúng mũi vào được.
    Các cộng sự trong tòa báo thảy đều run sợ mỗi khi nghĩ đến bà ta. Bà được gọi là bà chủ với cái nghĩa là kẻ quyền hạn vô lường. Bà buộc mọi người luôn luôn khiếp hãi. Còn tôi thì cố không va chạm.
    Tôi làm việc đã đầy ba tháng. Một đêm như thường lệ tôi ngồi sửa bài. Đó là một đoạn tiểu thuyết về một vận động viên. Tôi đọc say mê. Bỗng có tiếng chuông điện thoại reo vang. Tôi nhấc ống nói và thấy một giọng nữ giới. Giọng ấy hỏi anh thư ký.
    Tôi đấm tường mấy cái liền. "Chờ một phút, sang bây giờ đây" - tôi đáp và đặt máy xuống bàn, rồi lại vùi đầu vào sách. Cuốn tiểu thuyết đã hết. Mãi tới đó tôi mới nhận ra rằng ống nghe vẫn ở trên bàn. Anh thư ký vẫn không sang, chắc là anh ấy đang làm việc đại sự . Tôi treo ống lên, lập tức chuông lại reo vang.
    -Tôi nghe đây .
    -Nghe đây, anh là ai vậy ? - vẫn cái giọng lúc nãy.
    -Thế cô là ai ?
    Tôi cứ ngỡ cái người gọi lúc này là một trong các cô gái bán ba mà đêm nào cũng gọi anh thư ký.
    - Tôi đã bà anh gọi thư ký kia mà ?
    -Tôi đã bảo...Tôi đã đấm tường và gọi rồi !
    -Vậy sao anh ta không sang ?
    -Làm sao tôi lại phải biết điều đó ?
    -Anh liệu hồn, tôi sẽ đến ngay bây giờ !
    Cái giọng thật là vô giáo dục, đầu đường xó chợ.
    -Cô nói khẽ chứ có được không - tôi bảo.
    Rồi sau cô ta quát mắng tôi, tôi nói:
    -Người có học vấn như tôi không thể nói chuyện với cô được.
    Ngay sau đó mụ ta xổ ra một tràng:
    -A, cái thằng ranh con, mày lấy đâu ra cái học vấn ấy, hở ?
    -Khẽ mồm chứ !
    -Đồ con lừa !
    -Nhà cô là con lừa !
    -Thằng súc sinh !
    -Chính nhà cô là súc sinh !
    Mụ ta mắng tôi là gì , tôi lại bảo"chính là nhà cô".
    Cuối cùng mụ nói:
    -Tao sẽ cho mày biết tay.
    -Thế thì nhà cô đến đây xem ai biết tay ai ! - tôi đáp.
    -Tao nhổ toẹt vào mặt mày, thằng khốn !
    -Nhà cô khốn thì có ! Cô điên hay sao thế ? Sao cứ bám lấy tôi thế ?
    -Trời ơi, tôi điên đến ngất xỉu mất thôi ! Có phải chính tôi nhờ anh gọi thư kí không ? Có phải chính anh ta trả lời rằng anh ta sắp sang không ?
    Mụ ta cứ nổ như súng máy , chửi bới liên hồi. Còn tôi cứ một mực đáp "Chính nhà cô, chính nhà cô, chính cô, chính cô!"
    -Gọi tên thư kí cho tôi mau lên !
    -Nhà cô bớt ăn đi, để tiền mà thuê đầy tớ. Ở đây không có ai hầu đâu.
    Tôi nổi giận đấm tường và quát anh thư kí.
    -Sang mà nghe điện. Chỉ vì mấy con ranh khốn kiếp của anh mà tôi bực mình đây. Anh đào đâu ra những của nợ này thế ?
    Tôi quát những câu ấy vào máy cho mụ nghe tiếng.
    Anh thư ký sang và bắt đầu nói chuyện qua máy:
    -Tôi nghe đây, bẩm bà cứ ra lệnh, thưa bà chủ...Thế nào ạ ? Vâng...vâng..Bà nói gì nặng thế ? Xin bà tha...Kẻ đầy tớ trung thành của bà...Xin bà tha...Chúng con..dạ...biên tập viên ạ....dạ, mới đến thưa bà...Con xin có lời, thưa bà...Mặt anh thư ký đổi sang màu tro. Anh treo ống nghe lên.
    -Nghe đây, anh vừa làm gì thế ? - anh ta hỏi.
    - Làm gì ?
    -Anh quát mắng bà chủ...
    Tôi suýt chết ngất.
    -Lại đuổi đi hở ? - tôi rền rỉ.
    -Ông chủ đang ở châu Âu - anh thư ký nói - Ông ấy mà về là ông ấy đuổi anh liền.
    -Nếu tôi lạy van, xin tha, tôi nói rằng tôi nói nhầm thì sao...
    -Tôi không nghĩ thế. Ông ta rất sợ vợ. Ông ta không dám lờ đi đâu.
    Thế là tôi lại sắp thất nghiệp, lại ngồi chơi. Tôi đang nghĩ thế nao thì chuông lại reo vang. Lại mụ ta. Dù thế nào thì tôi cũng sắp bị đuổi, không đường cứu chữa..Tôi quyết định vẫn đối xử như cũ.
    -Nhà cô cần gì nào ? - tôi tấn công mụ ta trước.
    Tôi biết thế nào mụ ta cũng hét toáng lên.
    -Lúc nãy anh nói chuyện với tôi, nhưng chắc anh không biết tôi là ai phải không ?
    -Tôi biết. Bà là phù thủy mệnh danh bà chủ. Bây giờ tôi phải nói chuyện gì với bà đây ?
    Mụ tru tréo lên:
    -Ra thế-ế-ế ! Thì ra anh cũng biết...
    Tôi treo máy liền.
    Bây giờ mọi đường liên lạc bị cắt đứt.
    Chừng một tuần sau ông chủ du ngoạn trở về. Tôi vẫn rùng mình khiếp sợ. Về được một hôm ông gọi tôi lên. Tôi vào phòng ông. Tôi hy vọng: "Nếu cần xin, chắc ông ấy thương"
    Tôi đứng trước mặt ông, những ngón tay khoanh trước bụng cứ giật giật một cách hoảng hốt.
    -Ngồi xuống đây con...
    -Cầu chúa che chở cho ông ! Con không dám !
    -Ngồi xuống đây, con ngồi xuống đây...
    Ông mỉm cười, tôi ngồi xuống ghế đối diện.
    - Ta chúc mừng con. Xin cảm ơn...Ta sẽ suốt đời biết ơn con...Con đã chấn chỉnh được đầu óc của bà chủ ta...Khá lắm ! ...Con đã báo thù cho mười tám năm đau đớn của ta. Hay lắm ! Bởi vì đối với bà ấy ta không được nói một lời nào trái ý. Con hành động thật đúng. Con xuống nhà đi : ta đã bảo thưởng cho con năm mươi lia rồi đấy.
    Tôi xuống phòng kế toán lấy năm mươi lia. Từ đó tôi săn đón chờ mỗi tiếng chuông điện thoại. Có thể là bà chủ gọi đến chăng, nếu có tôi lại mắng bà ấy một trận té tát. Thế mà bà ấy không gọi đến nữa. Nhưng có một lần, buổi tối, bà đến một mình. Trong phòng chỉ có riêng tôi. Bà bước vào.
    -Anh là biên tập viên ? - bà hỏi.
    -Dạ phải.
    -Bữa trước anh mắng tôi qua máy nói ?
    Lúc đó tôi mới hiểu bà chủ là thế nào. Nói qua máy đó là một việc, còn đối mặt lại là chuyện khác. Tôi im lặng cúi đầu.
    -Tôi chúc mừng anh - bà nói - Tôi rất thích những người không thèm nịnh bợ. Anh đừng nhìn tôi: tôi bị loét dạ dày vì thế hay cáu bẩn. Tôi đã nói với ông ấy chi cho anh hai trăm lia tiền thưởng, anh đã nhận chưa ?
    Hóa ra người chi cho tôi không phải ông chủ, mà là bà chủ. Hơn thế nữa ông ấy còn khấu của tôi một trăm năm mươi lia.
    -Sao anh im lặng thế ...Hay là ông ấy không chi ? Tôi biết ông ấy không chịu chi ! - bà ta gầm lên rồi chạy lên phòng ông chồng. Có những tiếng ầm ầm vang lên. Có người gọi tôi. Ông chủ rụt rè:
    -Này con, chẳng lẽ ta không cho con hai trăm lia hay sao ?
    Bà chủ hết nhìn ông lại nhìn tôi. Mắt bà như tóe lửa. Nếu tôi nói "không đưa" thì chắc bà giã cho ông một trận nhừ xương, mà tôi nói "đưa rồi" thì chắc bà lại giã tôi. Tôi bảo ông chủ:
    -Thưa ông, con đã nhận khoản năm mươi lia đầu tiên trong tổng số hai trăm ông thưởng. Con sẽ nhận đều hàng tháng.
    -Thấy chưa, bà yêu quý của tôi, thế mà bà cứ không tin tôi...-rồi ông quay sang tôi:
    -Đi xuống nhà lĩnh nốt đi con.


  9. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    CHỈ TẠI TRỜI MƯA !
    Tôi mở vòi ra - nước không chảy.
    - Sao không có nước nhỉ ? - Tôi kêu to hỏi vợ.
    - Hễ trời mưa thì nước máy nghỉ ? - Vợ tôi kêu to trả lời.
    Phải đấy, dân Xtămbun ai cũng biết rõ: hễ trời lộp độp mưa là đường ống nước thành phố hỏng mấy tiếng đồng hồ liền, người ta bảo rằng ống nước bị bẩn, và chúng tôi đành ngồi khô với nhau.
    Nhưng sáng hôm đó trời nắng.
    -Mưa bao giờ nhỉ ? tôi lại hỏi.
    -Cách đây một lúc lâu cũng có mấy hạt mưa đấy.
    -Một lúc lâu là bao giờ ?
    -Làm gì có mưa . Thằng con tôi nói.
    -Không, cũng có ít chút - đứa con gái tôi cãi.
    Thế là tranh luận ầm ĩ : mưa hay không mưa.
    -Nếu không mưa thì hẳn đã có nước máy - mẹ hai đứa ngắt đôi câu chuyện.
    Nhưng cái lý do chết người ấy cũng không làm chúng nó im tiếng.
    Tôi bước ra ban công.
    -Có mưa không ấy nhỉ ? - Tôi hỏi ông hàng xóm trước mặt.
    Từ ban công đối diện, một người mặc Pigiama lớn tiếng:
    -Tôi không để ý, nhưng chắc là có...
    Bốc phét ! Trên đời này vẫn có khối kẻ như vậy !
    -Không để ý mà bác lại nghĩ rằng có ? Tôi giận dữ hỏi.
    -Cái đài nhiễu quá, vì thế tôi mới kết luận...-ông ta đáp - Ông cứ mở đài ra nghe mà xem.
    -Không, không có mưa đâu - một ông hàng xóm khác tuyên bố khi thấy chúng tôi lời qua tiếng lại.
    Tôi vào phòng mở đài. Quả là có nhiều tiếng rè, tiếng xoẹt. Đó là điều vẫn từng thấy mỗi khi mưa xuống.
    Ông hàng xóm tầng dưới lúc nãy bảo không mưa, bỗng kêu:
    -Có mưa, có mưa !
    -Sao tự nhiên ông lại nghĩ thế ? - tôi hỏi..
    -Hơi đốt bị cắt, hiển nhiên là...vì mưa - ông ấy đáp.
    Bây giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa là có mưa thật dù không hề ngó thấy.
    -Lạy thánh Ala, xin ngài cho mưa nhỏ thôi, kẻo điện cũng mất - vợ tôi vừa nói xong thì đèn tắt phụt.
    Tôi chạy đến máy điện thoại, nhấc ống, quay số tòa báo và nghe thấy một giọng khản đặc "A-lô!".
    Tôi biết mình quay nhầm số, bèn xin lỗi.
    -Việc gì phải xin lỗi, thưa ngài - vẫn cái giọng khản đặc từ đầu kia đáp - Chỉ cần mấy hạy mưa là đường dây điện thoại cứ loạn cả lên. Lúc nãy suốt mười phút tôi phải nói chuyện với mụ chủ nhà chứa mà cứ yên chí là nói chuyện với mẹ mình. Ngài thế là còn may lắm đấy - Rồi ông ta cười khì khì.
    Gần một nửa tiếng tôi quay máy nói chuyện với bao nhiêu người lạ, cuối cùng mới gọi được đến tòa báo.
    -Các anh đang làm gì đấy ? - tôi hỏi.
    -Tai họa ! Một người đáp.
    - Tai họa gì ?
    - Nhà dột, nước sối ào ào...Văn phòng biến thành hồ nước.
    -Nghe đây, anh ba hoa gì thế ? Trên đầu văn phòng chúng ta còn 4 tầng nhà nữa cơ mà...
    -Chính thế...Cả 4 tầng nhà đổ nước xuống...
    -Đằng ấy mưa to đến thế kia à ?
    -Hẳn là thế, người ta bảo mưa, nhưng tôi thì không nhìn thấy thực mục.
    Tôi nổi cáu ném ống nghe xuống.
    -Bưu điện đưa báo mới chưa ?
    -Nếu mưa to thì họ đã nghỉ hẳn...
    Chán nản cực kì, tôi đi ra phố, chờ mãi, chờ mãi - Ô tô buýt không có. Ngoài bến mọi người bắt đầu càu nhàu:
    -Mưa bao giờ mà xe buýt lại đến chậm thế nhỉ ?
    -Lắc rắc mấy hạt. Tôi có nom thấy...
    -Mưa chưa dính áo ấy mà...
    Mặt trời đổ lửa trên đầu. Cuối cùng xe buýt cũng đến. Người xô lên như nêm cối.
    Tàu thủy cập bến sông chậm hai mươi phút. Một ông khách đứng bên tôi đọc báo.
    -Tướng Mỹ Becđingơ Uôn sang nước Thổ ta...-Ông ta nói với người bạn.
    -Thế hử ?
    -Tướng Mỹ tuyên bố với các nhà báo "Nước Thổ sẽ chống được mọi cuộc ngoại xâm".
    Ông bạn đối diện xì ra một tiếng gì rất lạ rồi cười phá lên. Ông bạn hỏi ông ta:
    -Ông cười gì ?
    -Người ta hơi đâu mà ném bom chúng ta ? Cứ rót hai cốc nước xuống Xtămbun là cuộc sống ngừng lại.
    Tôi vốn là người rất mẫn cảm khi có ai đó đụng đến danh dự tổ quốc, vì thế tôi phải đứng ngay dậy để bước lên boong để tránh khỏi phải cho tên vô lại bẩn mồm kia một cái tát tai.
    Tôi đến tòa soạn. Hôm nay sao mọi việc cứ lộn ẩu lên. Đáng lẽ mười một giờ thì đến mười bảy giờ công văn mới đến. Cô thư ký mất mặt không thấy đâu. Thang máy không làm việc. Người đưa cà phê thì trượt chân ngã ở cầu thang. Còn vợ tôi thì gọi điện đến bảo tôi phải về sớm có khách.
    Tôi cố gắng về sớm mà không được. Cơn đau khớp của tôi nổi lên khiến tôi không bước được bước nào. Đó là điềm báo mây đen bắt đầu xuất hiện.
    Tuy thế tôi vẫn ra được đến bến tàu thủy. Cả bến tàu trang trí bao nhiêu là cờ các màu các cỡ...Cờ thế này là nghĩa gì ? Hay thật...Hôm nay không phải ngày giải phóng Xtămbun, không phải ngày độc lập, cũng không phải ngày hội Chiến thắng. Chả là ngày gì cả, chỉ là một ngày rất bình thường thôi.
    Tôi hỏi người bán vé, anh ta nhún vai.
    -Ông hỏi vì sao treo cờ ấy à ? Tôi không biết...Nhưng tôi xin hỏi ông hôm nay là ngày lễ gì ?
    Tôi hỏi anh thợ kéo tàu. Anh ta cũng ngạc nhiên vì sao lại có cờ quạt...
    -Chắc hẳn có một ông khách ngoại quốc tầm cỡ bự ?
    -Có thấy báo nào đưa tin đâu .. - Tôi trả lời.
    Giám đốc cảng cũng không biết gì. Trí tò mò của tôi sôi lên khiến tôi không sao ép mình rời xa bến cảng được. Tôi chạy ngược chạy xuôi, hỏi hết người này người kia sự thể ra sao. Một anh thủy thủ bước đến bên tôi:
    -Ngài muốn biết vì sao treo cờ phải không ? Các vị quanh đây không ai biết đâu, ngài hỏi vô ích. Ngài để tôi nói.
    -Anh nói ngay đi !
    -Hôm nay chẳng có hội hè gì hết. Sáng nay trời mưa. Mà lại mưa to.
    -Ái chà chà ! Tưởng chuyện gì ! - Tôi nghĩ.
    -Trời mưa thì kho ngập, kho ngập thì cờ ướt, cờ ướt thì phải phơi.
    Hóa ra là thế ! Bây giờ tôi mới có thể ung dung về nhà: Có mưa thật chứ !
  10. doubleblue

    doubleblue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    0
    NHỮNG NHÀ TÀI CHÍNH LỖI LẠC
    Câu chuyện này rất phức tạp và rối rắm. Tôi sợ khi kể lại cũng làm cho các bạn rối mù. Nhưng dù sao xin các bạn cứ bình tĩnh nghe. Câu chuyện không hoàn toàn bình thường này xảy ra với năm người bạn.
    Để năm người đàn ông chơi thân được với nhau cần phải có điểm gì chung liên kết được tất cả. Ba người trong số họ là những nhà hoạt động tài chính nổi tiếng, còn hai người kia là những chuyên gia kiết xuất trong lĩnh vực toán học. Đó chính là điều kiện đã gắn kết các nhân vật trong câu chuyện của tôi.
    Ngài Taliat, tổng giám đốc một trong những ngân hàng lớn nhất nước, mời bốn ông bạn thân đến ngôi biệt thự mới xây của mình ở Sauđie.
    Cuộc họp mặt diễn ra vào chủ nhật.
    Ngài Taliat là một nhà tài chính kiệt xuất và nhà ngân hàng danh tiếng của chúng tôi. Sau lưng ông là cả hai mươi bảy năm hoạt động ngân hàng. Ông giỏi trong các vấn đề tài chính và các con số đến nỗi bạn bè nói về ông:"Chỉ cần ông Taliat bước vào một cái quầy trống rỗng nào đó và treo lên cửa tấm biển "Nhà băng" thì lập tức chưa đầy hai năm sau, cái quầy này sẽ biến thành một nhà băng với số vốn hai trăm triệu lia". Ông Taliat đã cứu sống vài nhà băng đang bên bờ vực phá sản, hơn nữa còn làm cho chúng trở thành những nhà băng thịnh vượng và đáng tin cậy nhất nước.
    Một trong những vị khách được mời là Liutfi - một nhà doanh nghiệp nổi tiếng thành thạo trong công việc kinh doanh. Người ta nói về ông ta :" Trong tay của Liutfi thì hòn đất cũng biến thành vàng !". Đất đai được ông ta đụng đến lập tức biến thành tiền, và đó không phải là kết quả của ảo thuật, của vận đỏ may mắn, mà hoàn toàn là do đầu óc tính toán tài chính, bởi đối với đất đai không có triển vọng đẻ ra tiền thì ngài Liutfi không bao giờ động đến.
    Vị khách thứ hai là ngài Zêki, một trong những quan chức cấp cao của Bộ Tài chính. Người ta đồn cả Bộ đứng vững được là chỉ nhờ mình ông ta. Người nước ngoài gọi ông là nhà tài chính lỗi lạc của Thổ Nhĩ Kì.
    Hai vị khách, ngài Rêfik và Zia là bạn học từ thời phổ thông của chủ nhà. Ngài Zia là giám đốc đài thiên văn Xtămbun và được coi là nhà thiên văn học lớn - Còn ngài Rêfki thì rực sáng trong lĩnh vực toán cao cấp, là giáo sư khoa toán lý trường đại học tổng hợp Xtămbun.
    Cả bốn người đều đến cùng gia đình.
    Buổi sáng mọi người cùng nhau đi tắm biển. Sau buổi trưa họ ngồi nhấm nháp cà phê. Một người ngả lưng ngủ ngay trên ghế sa lông, những người khác thì lui về phòng ngủ cho thoải mái.
    Hai ông Taliat và Zêki thì ngồi chơi bài nácđư tăng dần tiền. Sau bốn ván với tiền đặt ban đầu là hai mươi nhăm curusơ, ông Taliat thắng ba trăm bảy mươi nhăm curusơ. Ông Zêki không có tiền lẻ, bèn đưa cho nhủ nhà tờ mười lia (1 lia = 100 curusơ). Ông Taliat muốn trả lại tiền, thò tay vào túi áo lấy ra lúc đầu năm lia, sau đó hai lia rưỡi, là tất cả số tiền lẻ ông có. Ông Zêki cầm lấy tiền và nói:
    -Như vậy là tôi nợ anh...bao nhiêu nhỉ ?
    Ông Taliat ngập ngừng:
    -Anh nợ tôi...-ông lẩm nhẩm - khoan, để tôi tính.
    Ông Zêki thò tay vào các túi quần, tìm thấy tờ một lia và đưa cho ông Taliat, muốn để cho việc tính toán dễ hơn
    -Bây giờ thế nào ? - Ông hỏi.
    -Tôi đã đưa anh bảy lia rưỡi - chủ nhà nói.
    -Phải.
    -Thế anh phải trả tôi bao nhiêu ?
    -Tôi đã đưa anh thêm một lia nữa.
    -Anh bạn, anh nợ tôi ba trăm bảy mươi nhăm curusơ, đúng không ?
    -Đúng.
    -Nghĩa là, anh hãy đưa thêm cho tôi một trăm bảy mươi nữa.
    -Phải, nhưng tôi đã đưa anh thêm một cái lia nữa. Và trước đó đã đưa mười lia. Tổng cộng là mười một lia rồi. Còn anh đã đưa cho tôi...
    -Khoan , khoan, đừng làm tôi nhầm.
    -Anh đã đưa tôi năm lia, sau đưa thêm hai lia rưỡi...
    Nghe thấy tiếng cãi nhau hai ông Zia và Rêfil tỉnh giấc.
    -Có chuyện gì mà hai ông cãi nhau vậy ?
    -Anh Rêfik thân mến - chủ nhà nói - tôi chơi bài thắng anh ấy. Anh ấy nợ tôi ba trăm bảy mươi nhăm curusơ.
    -Khoan, khoan - ông Zêki cắt ngang - để tôi kể. Chúng tôi chơi bốn ván nac đư. Mỗi ván bắt đầu từ hai mươi nhăm curusơ...
    -Khoan đã, anh Zêki ! Cần gì kể chi tiết ! Chúng ta có thể bắt đầu từ hai mươi nhăm và năm mươi. Anh nói đi, anh nợ tôi ba trăm bảy mươi nhăm curusơ, đúng không ?
    -Đúng. Nhưng tôi đã đưa anh mười một lia.
    -Đúng. Và tôi đã trả lại anh bảy lia rưỡi. Nghĩa là anh nợ tôi...
    -Được. Nhưng tôi lại đưa anh thêm một lia nữa.
    Giáo sư tóan cao cấp Rêfik nói:
    -Các anh từ từ đã !...Đừng làm tôi rối. Từng người nói một mới hiểu được .Anh đã đưa bao nhiêu , anh Zêki ?
    -Mười lia.
    -Thế anh nợ bao nhiêu ?
    -Ba trăm bảy mươi nhăm curusơ, nhưng...
    -Đừng có "nhưng" gì vậy !...
    -Sau đó tôi đưa anh ấy một lia nữa.
    -Rõ rồi. Nghĩa là anh Taliat, anh phải trả lại anh Zêki sáu trăm hai mươi nhăm curusơ. Mà anh đã đưa anh ấy bảy lia rưỡi. Như vậy, anh còn phải...Khoan, để tôi tính xem nào...Bây giờ anh còn nợ anh ấy...Lấy bảy lia rưỡi trừ đi mười một lia...Thành bao nhiêu nhỉ ?
    -Làm sao lại lấy số nhỏ trừ số lớn được ?
    -À, phải ! ...Phải lấy bảy lia rưỡi trừ đi sáu trăm hai mươi nhăm curusơ. Nào, ta thử trừ...Còn bao nhiêu nhỉ ? Một trăm hai mươi nhăm curusơ, đúng không ?
    -Thánh Ala ơi ! Nhưng tôi đưa anh ấy mười lia cơ mà !
    -Phải. Nhưng tôi lại đưa anh bảy lia rưỡi.
    Nhà thiên văn nổi tiếng Zia xen vào cuộc tranh cãi:
    -Các anh làm rối hết. Hãy kể lại từ đầu, Zêki. Anh nợ anh Taliat ba trăm bảy mươi nhăm curusơ, đúng không ?
    -Ông bạn ơi, tôi đã đưa anh ấy mười một lia rồi. Bây giờ anh ấy là người nợ tôi !
    -Nhưng anh Taliat đã đưa anh bảy lia rưỡi ? Bảy lia rưỡi cộng mười một là...
    -Sai hết rồi, ông bạn ! Tôi thua anh Taliat ba trăm bảy mươi nhăm curusơ. Bây giờ xem nào...
    -Tôi hiểu rồi. Anh hãy đưa thêm anh ấy vào một trăm hai mươi nhăm curusơ...
    -Trời ơi, cái anh này!...Tại sao lại cứ đưa thêm một trăm hai mươi nhăm curusơ. Cứ tôi phải đưa, phải đưa...Còn anh ta chẳng phải đưa cái gì cả.
    -Thế không phải anh đưa thì còn ai : Anh thua cơ mà !
    -Một trăm hai mươi nhăm ?
    -Không...
    -Nghe đây, anh Zia. Lúc đầu tôi đưa anh ấy mười lia, sau đó đưa thêm một lia nữa, tổng cộng là mười một lia.
    -Thế anh Taliat đưa anh bao nhiêu ? - Ông Rêfik hỏi.
    Nhà thiên văn thở dài:
    -Các anh làm tôi nhầm hết. Anh có hai mươi nhăm curusơ không ?
    Ông Zêki lấy trong túi ra hai mươi nhăm curusơ và đưa chúng cho chủ nhà.
    -Đây, hai mươi nhăm curusơ nữa đây.
    -Thế bây giờ còn bao nhiêu ? - ông Taliat hỏi.
    -Làm sao tôi biết còn bao nhiêu ? Các anh làm nhầm lẫn hết. Lúc đầu anh ta đưa cho anh mười lia, sau đó một lia nữa, sau đó lại hai mươi nhăm curusơ. Tổng cộng là mười một lia hai mươi nhăm curusơ. Bây giờ, Taliat, anh hãy đưa anh ấy một lia.
    -Thánh Ala ơi !... Anh nghe đây, tôi đã đưa anh ấy bảy lia rưỡi rồi.
    Chủ nhà chạy sang buồng bên cạnh, nơi nhà doanh nghiệp xuất sắc Liutfi đang ngủ ngon lành trong ghế bành, nắm tay lôi ông ta dậy kéo ra chỗ mấy người bạn.
    -Lạy thánh Ala, Liutfi, anh hãy giúp chúng tôi tính toán đi !
    -Liutfi thân mến - ông Xêki nói - Chúng toi chơi bài nac đư tăng dần tiền...
    -Này Zêki, cần gì phải nói "tăng dần tiền ".
    -Chúng tôi chơi bài nac đư...
    -Cần gì nác đư ở đây ?! Anh nợ tôi ba trăm bảy mươi nhăm curusơ, đúng không ?
    -Nhưng tôi đã đưa anh mười một lia, rồi lại thêm hai mươi nhăm curusơ.
    -Phải. Nhưng tôi đã trả lại anh bảy lia rưỡi.
    -Rõ rồi - ông Liutfi nói - Anh đưa cho anh ấy bảy lia rưỡi. Tại sao ?
    -Vì tôi không có tiền lẻ.
    -Thế tại sao anh đưa anh ta mười một lia ?
    -Anh ấy yêu cầu tôi. Tôi cũng không có tiền lẻ...
    -Thế là rõ rồi. Việc quá đơn giản. Mười một lia cộng hai mươi nhăm curusơ, rồi lại cộng ba trăm bảy mươ nhăm...
    -Anh đừng cộng, mà phải trừ đi !
    -Tôi biết rồi. Lúc đầu phải cộng, rồi sau mới trừ...Lần cuối cùng anh đưa anh ấy hai mươi nhăm curusơ...
    Việc tính toán trở nên rối tinh đến mức ngài Liutfi phải dang tay thất vọng.
    -Khoan! - cuối cùng ông kêu lên - Tôi tính ra ngay cho các anh xem đây. Bây giờ mỗi người các anh hãy thu tiền của mình về. Zêki, anh hãy lấy lại hai mươi nhăm curusơ của anh Taliat đi...Thế ! Còn anh, Taliat, hãy lấy bảy lia rưỡi của mình về. Zêki - lúc đầu anh đưa bao nhiêu ?
    -Mười lia. Sau đó lại một lia nữa...
    -Nghĩa là, mười một lia ? Anh hãy lấy lại đi.
    Cuộc trao đổi tiến hành.
    -Bây giờ anh hãy đưa mười lia cho anh ấy - nhà kinh doanh vĩ đại ra lệnh - Thế...Còn anh hãy trả lại từ số tiền mười lia này.
    -Tôi không có tiền lẻ. Chỉ có bảy lia rưỡi đây.
    -Zêki, anh hãy cầm lấy bảy lia rưỡi đi. Bây giờ anh là người nợ của anh ấy. Anh phải trả lại bao nhiêu ?
    -Tôi có một lia và hai mươi nhăm curusơ đây.
    -Hãy đưa chúng cho anh ấy. Bây giờ thế nào ?
    -Thì lại giống y như lúc nãy !
    -Tốt lắm...Bây giờ anh hãy đưa anh ấy...Thế, bây giờ...Anh hãy đưa thêm anh ấy một trăm hai mươi nhăm curusơ...
    -Nhưng đã bảo là tôi không có tiền lẻ.
    -Thế thì anh, Zêki , anh hãy đưa anh ấy một trăm hai nhăm.
    -Rồi thì sao ?
    -Cứ đưa đi, đưa đi ! Khi đó anh còn thiếu anh ta...Sao lại thế nhỉ?...Lại nhầm hết rồi.
    -Này !...
    -Ôi trời!...Anh đã đưa tôi bao nhiêu, anh bạn ?
    -Bao nhiêu ? Tôi đã đưa anh bao nhiêu ?
    -Phải, anh đưa tôi...
    -Khoan ! - giáo sư Rêfik nói - bây giờ mỗi người lại lấy lại tiền của mình về đi.
    Tiền cứ được trao cho người kia rồi lại lấy về mấy lần mà cả Taliat lẫn Zêki đều không tài nào thanh toán được với nhau.
    Nhà thiên văn học Zia muốn giúp các bạn của mình đơn giản hóa việc tính toán, bèn đổi tờ mười lia cho ông Zêki. Sau khi đổi tiền, mấy ông bạn lại hoàn toàn bế tắc.
    Đến chiều ngài Liutfi tuyên bố:
    -Thôi, mỗi anh lại cầm hết tiền của mình về đi !
    Hai người ai nấy lại lấy tiền của mình. Sau đó ngài Liutfi quay sang bảo nhà tài chính kiệt xuất của Thổ Nhĩ Kì:
    -Anh Zêki, anh phải nhớ anh còn nợ anh Taliat ba trăm bảy mươi nhăm curusơ. Khi nào có tiền lẻ, anh phải trả anh ấy. Rõ chưa ?
    -Rõ !
    -Lạy thánh Ala ! Thế là cuối cùng đã giải quyết xong !
    Và sự việc đến đấy là chấm dứt.

Chia sẻ trang này