1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Truyện kể ở đại đội

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi bigapple_k33, 18/12/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. bigapple_k33

    bigapple_k33 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2004
    Bài viết:
    1.035
    Đã được thích:
    1
    Truyện kể ở đại đội

    Xin mạn phép các bác mở chủ đề này để các thành viên cung cấp các mẩu truyện kể về người lính, chiến tranh, hình tượng anh hùng, những kỷ niệm vui buồn của đời quân ngũ... nhằm giúp mọi người hiểu thêm về người lính trong chiến tranh và trong hoà bình.

    Rất mong các bác là cựu chiến binh, nhà văn, nhà báo nghiệp dư, và tất cả mọi người tham gia đóng góp. Đồng thời cũng rất mong các bác từng là cựu chiến binh VNCH hay những người đã từng trải qua cuộc đời binh nghiệp VNCH xưa tham gia. Mỗi câu truyện được kể ra sẽ giúp những con người của quá khư, của hiện tại xích lại gần nhau hơn, hiểu nhau hơn, hiểu về những gì đã qua và những gì mà xưa kia bản thân còn chưa lý giải được.

    Xin lưu ý các bác là chúng ta chỉ đề cập đến người lính và chiến tranh chứ không đề cập đến chính trị. Mong các bác nhiệt tình đóng góp.

  2. bigapple_k33

    bigapple_k33 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2004
    Bài viết:
    1.035
    Đã được thích:
    1
    Để khai trương chủ đề này xin copy and paste một câu truyên ngăn với tựa đề "Ký ức Trường Sơn" của nhà văn Vương Tâm đăng trên báo Nhân dân số ra ngày 29/8/2006
    KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
    Bố tôi nhắc đến chuyện lên Hà Nội không biết bao nhiêu lần. Lý do thì không thể gạt đi bởi lẽ theo ông, đây là sự đáp ơn trả nghĩa cho người đã cứu sống ông cách đây hơn ba chục năm ở mặt trận Trường Sơn.
    Quê tôi miền trung xa xôi là một trở ngại không nhỏ. Nhưng điều quan trọng là mãi tới hai mươi năm sau, ông mới dò tìm được địa chỉ của người nữ chiến sĩ đã hiến máu để ông thoát chết trong tình trạng nguy cấp nhất.
    Sau ngày giải phóng, ông được giải ngũ, trở về vùng biển và sinh ra tôi. Ông luôn luôn ru tôi bằng những vần thơ mà ông tự viết ra mỗi khi nhớ tới đồng đội. Ðặc biệt với cô gái Hà Nội xinh đẹp ngày nào đã đem lại cuộc sống lần thứ hai cho ông. Ngày một lớn lên, hai bím tóc của tôi được ông gìn giữ và tết thành đuôi sam, có kẹp một cái cặp ba lá và găm một bông hoa hồng bằng nhựa xinh đẹp. Tôi hỏi, thì ông nói:
    - Bố nhớ, cô gái Hà Nội ấy có đôi bím tóc dài và làn da trắng hồng, cô luôn cười như con và hát suốt ngày. Cô y tá ấy tên là Hoa.
    Rồi khi tôi đã mười lăm tuổi, ông càng ngày càng đăm chiêu. Có lẽ vì ông rất nhớ đến người nữ chiến sĩ ấy. Gặng hỏi mãi, mẹ tôi mới cho tôi hay rằng, đã mười năm nay bố con đã đi nhiều nơi để hỏi dò tin tức địa chỉ của cô Hoa mà không được. Ông buồn, vì lo rằng nếu sau này đến khi già và chết đi mà không gặp được người nữ y tá ấy thì khó mà nhắm mắt xuôi tay. Thế rồi thỉnh thoảng những ký ức của trận mạc ngày ấy cứ dội về trong ông. Có lần ông kể lại vanh vách mọi điều cho tôi nghe về cái ngày khốc liệt ấy. Trong cơn mê man bất tỉnh vì vết thương trúng động mạch chảy nhiều máu bên thái dương. Tưởng như đã chết, ấy thế rồi mọi việc đã được cứu vãn khi cô y tá Hoa, người Hà Nội, đã tình nguyện hiến máu của mình vì chỉ mình cô có nhóm máu hợp với bố tôi. Và thế rồi, khi hồi sức lại trong cơn nửa tỉnh, nửa mê, bố tôi kể lại rằng cô Hoa đẹp như nàng tiên trong rừng vậy. Những ngày sau đó, bố tôi được chuyển về hậu cứ để tập trung chữa trị vết thương. Và trong đầu óc ông chỉ còn ghi nhớ lại như in đôi bím tóc của người nữ chiến sĩ ấy. Ông cũng nghe các bác sĩ gọi cô ta bằng cái tên là Hoa và ông cứ ân hận mãi vì không được gặp lại nữ y tá ấy để có một lời cảm tạ. Ông nói lúc ấy vẫn còn yếu không cất nổi lời và chỉ nhìn người con gái ấy mà rơi hàng nước mắt để tỏ lòng biết ơn.
    Nghe ông kể đến cả chục lần câu chuyện xảy ra ngày ấy mà không lần nào tôi ghìm nổi xúc động mỗi khi thấy ông rơm rớm nước mắt. Nhiều lúc tôi cũng cứ nói, sau này lớn lên tôi sẽ tìm bằng được cô Hoa để cho ông gặp lại. Mẹ tôi cũng an ủi bố tôi và cũng mong cho cái ngày gặp mặt ấy chóng tới. Nhưng rồi mọi điều cứ bặt vô âm tín. Cũng có khi tôi nghĩ, thời gian sẽ trôi qua, chắc bố tôi cũng sẽ nguôi ngoai nỗi mong nhớ sâu nặng ấy. Nhiều lần, tôi và mẹ tôi bàn, đừng bao giờ nhắc đến những chuyện nào dính dáng tới chiến tranh để bố tôi khỏi phải động lòng. Nhưng không hiểu sao những câu thơ của bố tôi chẳng có thể xóa nhòa trong tâm trí tôi. Bởi lẽ từ bé tôi đã thuộc lòng những nỗi niềm trắc ẩn ấy. Nhất là những lúc vẩn vơ nghĩ ngợi bên bàn học, mỗi khi nghe tiếng thở dài của bố tôi, khi những câu thơ ấy lại hiện lên:
    Máu hồng cứu cuộc đời ta
    Biết bao năm tháng thật là ơn sâu.
    Nhất là có những câu ông tự oán mình:
    Trách sao mình lại phụ người
    Giọt đào ấm áp làm tôi đau lòng.
    Ấy thế rồi, có lần ông đi biệt luôn hàng tháng trời. Ông viết thư về kể rằng mình đã lần mò dần ra được địa chỉ của mấy người nữ chiến sĩ có cái tên Hoa ở Hà Nội. Sau đó lại nghe mọi người mách cái cô Hoa mà cho máu ông ngày ấy đã lấy chồng, cũng là bộ đội cùng đơn vị, ở tận Mai Châu, Hòa Bình cơ. Tưởng đến như thế, ông nản chí, mà sẽ không còn áy náy gì nữa. Nhưng quả là tôi đã nhầm, bố tôi vẫn tìm được những người đồng đội ở Hòa Bình để mong họ cho được tung tích người nữ y tá ngày xưa ấy. Cô gái tên là Hoa lấy chồng ở Mai Châu.
    Ngẫm vậy, tôi cho là họ khó có thể tìm được cô y tá cho bố tôi. Mẹ tôi dỗ ông cứ bình tĩnh chờ, ngay khi biết được địa chỉ của người nữ y tá ấy cả nhà sẽ cùng đi thăm. Tôi cũng nghĩ mẹ tôi an ủi thế chứ chả có hy vọng gì. Nhưng không ngờ, một ngày đẹp trời, sau một ngày, tôi vừa bước sang tuổi hai mươi, thì có người đưa thư đến. Tôi cứ ngỡ đó là món quà sinh nhật muộn của mình. Người đưa thư gọi to:
    - Ông Ðạt có thư nhé!
    Bố tôi từ dưới bếp chạy ra như một ngọn gió vậy. Quả là trời không phụ lòng người. Bố tôi bóc thư và đọc vanh vách cái địa chỉ bí ẩn mà bấy lâu nay ông mong chờ. Ông khóc tu tu lên như con trẻ vậy. Mẹ tôi vừa đi chợ về phải vỗ về nói lạc hướng đi:
    - Có cút rượu và bánh đa để ông ăn mừng đây!
    Ông ôm chầm lấy mẹ tôi mà năn nỉ:
    - Bà nhớ đấy nhá. Phải đưa tôi đến tận nơi để cảm tạ ơn trời bể của người ta. Bà đã hứa có nhớ không?
    Tôi nhìn hai người ôm nhau mà muốn chực òa lên khóc vì hai mái đầu bạc đầy gió biển ấy đã rung rinh qua bờ vai gầy guộc với nỗi xúc động khôn tả.
    Ngay lập tức tối ấy, tôi viết lá thư gửi theo địa chỉ cô Hoa mà đồng đội của bố tôi cung cấp cho. Nghe nói nhà cô Hoa không có điện thoại riêng nên khó mà liên lạc ngay được. Mẹ tôi hứa rằng nếu có thư hồi âm của cô Hoa thì sẽ hẹn ngày lên Mai Châu ngay để cho bố tôi đỡ sốt ruột. Tôi cũng mong vậy. Bởi lẽ với bố tôi việc đi thăm được cô Hoa là một việc làm có ý nghĩa lớn lao nhất trong đời. Và cái ngày hẹn lên đường ấy đã đến. Bố tôi như sống lại thời trai tráng vậy. Có lúc ông còn hát ầm lên những câu ca về Trường Sơn:
    Trường Sơn ơi, trên đường ta qua không một dấu chân người, có chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác, dừng ở lưng đèo mà nghe suối hát...
    Mẹ tôi chỉ cười rồi nói:
    - Rõ nỡm, gần sáu chục rồi cứ làm như mình còn trẻ lắm.
    Nói rồi bà hỏi:
    - Nào, mai ông định mặc bộ quần áo nào đây?
    Ngay lập tức chẳng cần suy nghĩ, bố tôi nói to:
    - Bộ quân phục mà tôi đã để dành bấy lâu nay đó...
    Thật ra, tôi cũng thấy hồi hộp như mẹ tôi. Cả hai cũng nóng lòng muốn biết thực hư về người đã hiến máu để cứu sống bố tôi như thế nào? Chuyến đi thật xa. Phải mất hai ngày từ Ðiện Bàn, Quảng Nam, chúng tôi mới lên tới Hòa Bình. Chuyển xe tới ba bến, tôi và mẹ mệt bã người, chỉ riêng bố tôi vẫn dẻo dai và cứ mong chóng tới nơi. Ông liên tục động viên rằng sắp tới nơi và bắt mẹ con tôi ăn uống mọi thứ cho khỏe người để còn đi tiếp. Trước mắt chúng tôi tấm biển chỉ dẫn xuống thung lũng Mai Châu đã xuất hiện. Bố tôi cứ tấm tắc khen rằng cô Hoa khéo chọn nơi xứ lạ, đẹp như tranh vẽ vậy. Ông nói nhiều đến nỗi mẹ tôi phải nhắc khéo ông rằng đừng hớn hở đến thế. Ông chợt ngượng nghịu rồi hỏi một câu bâng quơ làm mẹ tôi phì cười. Tôi cũng thấy vui.
    Vừa tới thị trấn huyện, bố tôi đã xăm xăm đi tới hỏi ngay một bà mế gặp đầu tiên. Mế già hơi nặng tai nhưng vẫn hiểu ra và hỏi lại:
    - Có phải con cái Hoa người Hà Nội lên không?
    - Ðúng ạ! Nhà cô ấy ở đâu hả mế?
    - Cứ đi đi, cái Hoa thì cả thị trấn này biết lố. Ðến cuối đường hỏi có người dắt tay đi đấy.
    Thế là hai mẹ con tôi phải cố rảo bước để bắt kịp bố tôi đang nhanh chân đi trước. Có mấy người đi theo chúng tôi. Một anh chàng trẻ tuổi dắt tay bố tôi thật đúng như lời mế già nói. Anh kể rằng mế Hoa đang dạy cho các lũ trẻ biết cách tự cai ma túy ở nhà và còn biết tự chữa bệnh cho mình bằng cái lá, cái rễ cây trên rừng. Bố tôi đột nhiên hỏi:
    - Sao lại gọi là mế Hoa. Cô y tá Hoa chứ?
    - Bây giờ không còn cô Hoa ngày xưa nữa mà chúng con gọi là mế Hoa rồi, vì mế đã trở thành người Thái rồi mà. Cả cái bản Lác này chỉ biết gọi mế Hoa thôi... Nào mời cả nhà ta vào đi.
    Bố tôi chẳng nói chẳng rằng chạy ngay vào trong lán. Ông không ghìm nổi xúc động hỏi ngay:
    - Mế Hoa đâu?
    Bỗng dưng bố tôi sững người nhìn một người phụ nữ luống tuổi mặc bộ quân phục đã bạc mầu. Tôi rụt rè bước theo ông mà ngắm người nữ chiến sĩ nhỏ bé đang run rẩy trước những gì bất ngờ xảy đến. Mái tóc bạc của bà đã rụng bớt đi. Vẫn khuôn mặt trái xoan gầy guộc ngày nào mà bố tôi tả lại trong trí nhớ. Nhưng giờ đây đôi mắt đã đục mờ theo thời gian. Bố tôi đột ngột đứng nghiêm, giơ tay chào:
    - Báo cáo đồng chí Hoa, tôi có mặt!
    Cô Hoa, người nữ y tá xinh đẹp như nàng tiên của bố tôi ngày nào, giờ đây thật sự mỏng mảnh. Bà run tay và nghẹn ngào hỏi:
    - Có phải đấy là đồng chí Ðạt ở Trường Sơn ngày ấy?
    Bố tôi chẳng còn giữ được bình tĩnh nữa chạy tới ôm ghì lấy bà rồi khóc nấc lên:
    - Ôi! Ân nhân của tôi. Người cải tử hoàn sinh cho tôi. Xin đội ơn người.
    Thế là hai người lính già cứ nhạt nhòa nước mắt. Họ không để ý rằng những học sinh đang ngồi dưới kia ngơ ngác và xúc động đến nhường nào. Tôi đứng lặng đi vì thấy mẹ tôi đang đứng sau cánh cửa lớp cũng tuôn trào nước mắt. Tôi bước tới cầm lấy tay người nữ chiến sĩ Trường Sơn năm xưa mà nghẹn từng lời:
    - Mế Hoa... Con là con gái của mế đây!
    Nói rồi tôi cũng bật khóc. Bởi lúc này tôi mới thấm thía rằng chính nhờ dòng máu của mế Hoa mà mình mới được sinh thành và lớn lên trong những ngày tháng đẹp đẽ này.
  3. bigapple_k33

    bigapple_k33 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2004
    Bài viết:
    1.035
    Đã được thích:
    1
    Tiếp theo là một truyện ngắn của nhà văn Bảo Ninh - Hà Nội Lúc Không Giờ - đăng trên tạp chí Văn Nghệ số 17 ngày 25/4/1998. Đây là một câu truyện nói về một lớp người của quá khứ với những hồi ức khó quên về cái đêm trước của chiến tranh và những gì sau đó.... Câu truyện như một bài ca về những con người đã sinh ra, lớn lên, hồn nhiên bước vào cuộc chiến và đã ra đi mãi mãi. Những hồi ức như những cung trầm của bài ca, chìm lắng vào lòng người đọc...
    HÀ NỘI LÚC KHÔNG GIỜ
    Năm rồi trong cơ quan nhiều người xây nhà riêng và đều dốc lực hoàn thành để kịp nhập trạch trước Tết Nguyên đán. Chuyển vào nhà mới tầng cao phòng rộng lại có tường bao cách biệt với đời y như thể chuyển sang một thời đại khác. Thế nhưng, như tôi, tuổi đã chừng này còn thời nào nữa ngoài thời đã qua.
    Mà run rủi làm sao nhà mới lại về cùng phố với ngôi nhà thơ ấu. Xưa nhà số bốn, giờ trăm lẻ hai, hai đầu phố. Tết đầu tiên nhà mới thời tiết lại cũng hệt tiết trời cái Tết cuối cùng ngôi nhà xưa. Cũng là một tháng chạp chỉ hăm chín ngày, và cũng gần suốt cả tháng nắng nôi tựa như mùa hạ, đào Nhật Tân nở tung hết cả, rồi cũng gió bấc lùa về đến trước ngày cúng ông Táo. Trời rét đậm, một đợt giá rét dài đến thấu Rằm. Theo trí nhớ nhiều người thì hình như trong vài chục năm qua chẳng có một đầu xuân năm mới nào rét ngang Giáp Thìn Tết ấy, cho tới Mậu Dần này. Có lẽ vì xích gần quá khứ nên nhà thì mới mà người như cũ hẳn. Mất ngủ, uống nhiều. Giờ giấc rời rạc. Tâm trí thường lảng đi những đâu đâu. Ban ngày đã ít có mặt ở nhà, canh khuya còn đẩy cửa ra phố.
    Phố dài, nhiều cây, nhưng ngày trước từ cuối phố vẫn có thể nghe thấy tiếng leng keng và thấy được thoáng bóng tầu điện chạy ngang qua ngã tư đầu phố. Bây giờ, đứng trên tum nhà ba tầng mà chịu không thể nhìn với qua được tường nhà bên cạnh. Ngày trước, đoạn cuối phố này chẳng nhà cửa gì, đất rộng phó mặc cho cỏ dại và ma trơi. Nay đất chẳng còn, chỉ những nhà lầu là nhà lầu, bề bề bê-tông, tôn, thép, nhôm, kính. Cũng là tất nhiên thôi, đã ba mươi tư năm rồi còn gì, ngày ấy với bây giờ. Mà nói gì tới chừng bấy thời gian. Mới đây, để dựng một phim nhiều tập về Hà Nội buổi đầu Ðổi Mới, nhà đạo diễn, một nghệ sĩ ưu tú, đã phải kéo bầu đoàn sang thị xã Bắc Ninh mượn cảnh, nhưng mà rồi Hà Nội trong phim tuy đã được hóa trang khéo vẫn chẳng na ná nổi Hà Nội, dù là Hà Nội của những năm chỉ vừa mới đó. Huống hồ Hà Nội Tết Giáp Thìn. Cái mùa xuân năm nao xa lắc xa lơ thời trước chiến tranh ấy đã ra ngoài mọi trí nhớ, và không một giấc chiêm bao nào còn có thể với tay về.
    Nhưng mà dù vậy, Hà Nội mùa xuân đó vẫn đâu đây trong trời đất và vẫn thường nhập hồn về với mùa xuân của thành phố hôm nay vào đúng những nửa đêm, lúc không ngờ. Người bộ hành đang dạo bước dọc canh khuya, lẳng lặng rẽ khỏi đời thực, âm thầm đi lẫn vào sự vật của những ngày xưa kia. Chỉ là từ bên này đường sang bên kia đường thôi mà đã đi lùi về tận những năm nảo năm nào.
    Năm ấy, bao nhiêu sương giá và rét mướt mùa đông như thu cả vào hạ tuần tháng chạp ta. Năm cùng tháng tận trời rét căm căm. ở các phố xa trung tâm mới chừng sau tám giờ tối đã chẳng còn mấy ai ra khỏi nhà. Dưới ánh đèn đường chỉ những gió lùa và lá rụng. Loáng thoáng những chiếc xe đạp ruổi thật mau. Lác đác những người đi bộ đang rảo bước. Xe điện các chuyến khuya hầu như chạy suông, toa trên toa dưới hành khách chẳng tày một nhúm.
    Nhưng giữa lạnh lẽo của đêm đông vắng lặng đã lặng nghe xôn xao mùa xuân đang về trong thành phố. Cành đào trên tay một người qua đường. Chậu quất chở sau một chiếc xe đạp. Lộc nõn nhú trên tán bàng trụi lá. ở ngoài đêm, phố xá thưa thớt bóng người mà bên trong những ngôi nhà dọc phố suốt đêm rậm rịch tiếng chân bước, tiếng người nói, trên gác dưới tầng gia đình nào cũng đang rộn rịp bếp núc và chộn rộn kê dọn lại phòng, soạn sửa câu đối, lọ hoa, chăm chút bàn thờ. Tháng chạp thiếu đi một ngày, Tết đến kíp hơn, rộn ràng, và cập rập. Mới khuya ngày 28 thôi mà đêm mai đã giao thừa rồi.
    Họa sĩ Năm Tín, người Cà Mau, từ cuộc họp đồng hương ở câu lạc bộ Thống Nhất đáp chuyến xe điện cuối cùng trở về nhà. Ông xuống ở ngã tư đầu phố. Ðèn đường vẫn những ngọn vàng ung và mờ lụi như mọi đêm, nhưng đêm nay nhà nhà không ngủ, ánh sáng các ô cửa sổ soi rộng xuống vỉa hè và chiếu tỏa ra lòng đường. Tại chỗ máy nước công cộng trước cổng nhà số ba vẫn còn một nhóm các bà các cô tất bật vo gạo, rửa lá. Vòi nước xối xả, xô chậu xủng xoảng.
    ở vỉa hè bên kia, giữa khoảng sân đất rộng trước mặt tiền hai tầng nhà số bốn, nồi bánh chưng, nguyên cả một cái thùng phuy, đang sôi sình sịch, ngun ngút bốc hơi trên bếp lửa chụm bằng những cây củi to gộc. Lửa không cao ngọn nhưng than trong bếp đỏ rừng rực, trải một vòng sáng rộng dập dờn mầu hồng thẫm lên mặt sân. Hơi nóng và khói khiến lũ trẻ thức canh nồi bánh phải dịch manh chiếu ra bên rìa quầng sáng, chụm đầu lại đánh tú lơ khơ. Chỉ vài đứa vẫn ngồi cạnh bếp lửa. Chúng vẽ thành những bóng đen chập chờn trên tường nhà. Một cây củi được đun sâu vào thêm, lửa trong bếp phừng phừng bốc cao, gương mặt của những mái đầu tóc xoăn và tóc húi cua được ánh lửa soi rạng lên.
    Ngà ngà hơi men, tay xách một cái cặp da căng phồng, ông Năm chuệnh choạng sang đường, bước vào sân nhà số bốn. Nhác thấy bóng ông, hai chú cẩu đang nằm gác mõm lên đùi một gã trai lực lưỡng ngồi khoanh chân canh bếp lửa, bật chồm dậy sủa vang.
    - Câm miệng, Giôn! Ken! - Gã trai quát - Không nhận ra chú Năm à!
    - Bữa nay hai ngày tổng cẩu nhà mầy sao mà hiếu chiến quá vậy tụi bây?
    Họa sĩ ngồi xuống bên gã trai và đưa hai bàn tay gầy guộc lạnh cóng hơ sát vào bếp lửa.
    Tiếng bọn trẻ con lanh lảnh nhao nhao lên chào chú Năm. Chúng bỏ bộ bài đấy, xúm cả lại ngồi túm bên ông. Mở chiếc cặp da, ông Năm lấy ra trước tiên một chai Lúa Mới.
    - Thứ dữ nầy của qua. - Ông nói. - Còn tụi bây...
    Ông đưa ra một phong pháo mậu dịch giấy gói mầu hồng vẽ hình cô tiên cưỡi mây, rồi một bọc to đùng giấy trang kim có hình ông già Nô-en đội mũ chóp đỏ.
    - Năm nay Tết cần kiệm, hội đồng hương xứ Mũi quê qua chẳng được bộn quà như mấy năm, - Ông Năm nói, như phân trần với lũ trẻ. - Nhưng mà có thứ nầy quý lắm đó nghe. Kẹo Liên Xô, ngon nhứt đó, sắp nhỏ.
    - Chú chiều chúng nó quá đi mất, chú Năm ơi! - Gã trai kêu lên. - Năm nào cũng vậy. Rồi chú lấy gì ăn Tết cơ chứ? - Và gã đập đùi quát - Này, bọn chúng mày không có được thế đâu nhá!
    - Thôi mầy, Trung! - Ông Năm vỗ vai gã. - Bữa nay sao cả mầy cũng hiếu chiến quá vậy. Coi kia, kịch chiến với võ sĩ nào mà mặt mày bầm dập vậy con?
    - Với Pét "xồm" chú ạ! - Một thằng nhóc mách.
    - Tại vì chị Giang đấy! - Một đứa khác.
    - Im đi, thằng lỏi! - Gã trai nạt, mắt trợn lên. Nhưng chỉ trợn được con mắt trái. Mắt phải của gã tím quầng sưng húp. Gò má sây sát. Môi vều lên.
    - Vậy chớ nhỏ Giang đâu? - Ông Năm hỏi, đưa mắt nhìn quanh.
    - Hình như đang ngồi khóc trên kia hay sao ấy chú ạ! - Một lỏi con tóc húi cua nói to, trỏ lên ban công tầng hai.
    - Sao vậy?
    Chị ấy dỗi anh Trung!
    - Thiệt tình! Thằng Bình, mầy lên biểu chị mầy xuống qua biểu. Vui năm mới mà mất đoàn kết vậy, coi sao đặng, mấy đứa.
    Mặc dù bản tính hơi gàn gàn, đời sống độc thân bê trễ, lại cực độ âm thầm, chỉ có thể nói năng khi đã ngà ngà, và nhà thì ở mãi chung cư gần cuối phố, tít trên tầng thượng, song họa sĩ Năm Tín lại như là bạn vong niên của sắp nhỏ ngôi nhà số bốn nơi đầu phố này. Mấy năm trước, một sớm tinh mơ mùa đông sương mù rất lạnh, bọn trẻ nhà này vấp phải ông Năm, người nồng mùi rượu, nằm lịm cóng từ bao giờ trước sân. Chúng hè nhau khiêng ông vào nhà, đổ nước gừng cho ông, đánh gió, xoa dầu, ủ ấm cho ông. Khi xe cấp cứu tới thì ông đã hồi. Từ bấy thành chỗ thân tình, bọn trẻ thường kéo nhau tới thăm họa sĩ. Chúng giúp ông nhiều việc, gánh nước từ máy công cộng lên tầng cho ông, dọn dẹp căn phòng cực kỳ luộm thuộm của ông và mua hộ ông các thứ tiêu chuẩn tem phiếu. Họa sĩ cũng hết sức cưng chiều lũ nhóc, bầy trẻ thơ của cái phố nghèo mà mười năm qua, kể từ sau ngày tập kết, đối với ông đã ngày một thêm nặng tình. Ông để chúng tha hồ lục tranh của ông, những bức bột mầu, những bức thuốc nước và những ký họa. Rất kiệm lời, hầu như chẳng bao giờ kể chuyện quê nhà, nhưng lần lượt qua từng bức họa, ông cho bọn trẻ Hà Nội thấy được phong cảnh của cõi xa vời vợi đợi ông miền đất Mũi, thấy được chân dung những bà má, những chị phụ nữ và trẻ em của Nam Bộ kháng chiến, và thấy được gương mặt các chiến sĩ cùng trung đội với ông hồi Chín Năm ở tiểu đoàn Ba Lẻ Bảy.
    Và Tết năm nào cũng như thế này, giữa canh khuya, sau cuộc họp đồng hương cuối năm, ông Nam không về nhà mà rẽ vào chỗ đám trẻ nhà số bốn đang quây quần canh nồi bánh chưng. Ông chia quà cho lũ nhỏ và nếu không quá say thì ông sẽ thức cùng với những đứa lớn tới tận khi đã có thể vớt bánh ra khỏi nồi.
    Năm nào, năm hộ nhà số bốn cũng cùng nhau lo liệu cái Tết. Nếp chung tốt lành này có từ thời còn mồ ma ông Tá tài xế. Ðông con, kinh tế chật vật nhất nhà số bốn vậy mà hàng năm chính ông Tá là người đã giúp cho cả ngôi nhà này ăn Tết tươm nhất phố. Là tài xế của đoàn vận tải Bộ Lâm nghiệp, chuyên trị chạy tuyến Tây Bắc, ông Tá quanh năm vắng nhà, nhưng cứ đến giáp Tết dân phố lại thấy chiếc mô-nô-tô-va của ông, bê bết bùn đất đường trường rù rù lăn bánh vào sân trước nhà số bốn, inh ỏi bấm còi. Bọn nhóc trong nhà đang mỏi mắt trông chờ hoan hỉ ùa ra, náo nức dỡ củi, dỡ ***g gà, dỡ những bao tải chất nặng hàng tươi, hàng khô từ thùng xe xuống. Chẳng phải vất vả lo toan gì mấy mà vợ con ông và các hộ láng giềng cũng có đủ mọi thứ cho ba ngày Tết. Nhiều năm như vậy cho đến mùa lũ năm 61, xe ông Tá gặp nạn trên đèo Pha Ðin.
    Tết năm ấy,cả nhà số bốn góp sức đỡ đần vợ con ông Tá và cũng là hợp lại đỡ cho nhau. Từ đó thành nếp, Tết nhất lo chung năm gia đình. Ba gia đình dưới nhà, hai gia đình trên gác, hoàn cảnh nhà nào cũng gieo neo. Như vợ con ông Tá, hay gia đình bà Thái ở phòng mặt tiền tầng một, trước cũng khá, sau vì ông Thái trở chứng, ruồng rẫy vợ con, đang đêm vơ sạch món tiền hai vợ chồng đã nhiều năm dành dụm, theo chân một chị hàng xén lặn tút vào tận trong Vinh, nên cảnh nhà sa sút hẳn. Anh con trai đầu đang học trung cấp hàng hải mà phải bỏ. Còn ông Cư, cũng phòng ở tầng một, vốn chân thủ quỹ, sở điện, lương tùng tiệm đủ nuôi vợ con thế mà tẩm ngẩm tầm ngầm phạm tội thụt két, liền mấy niên rồi đón xuân trong tù. Còn như hai chị em Giang và Bình sống với ông nội ở căn phòng bên trên nhà bà Thái thì lại phải nông nỗi mồ côi bố mẹ từ nhỏ, buồn vui mỗi ngày chứ chẳng riêng ngày Tết tùy thuộc tình trạng sức khỏe của ông cụ, tuổi đã thất thập, già cả đau yếu. Ngay như gia đình giáo sư Xứng mà Tết nhất cũng lấn bấn. Ông lương cao, tiêu chuẩn chuyên viên, gia đình ít người mà được phân hai phòng rộng thênh trên tầng hai, mức sống trội hơn các gia đình khác, nhưng bà tạng người yếu lại bận con mọn. Thằng con đầu của ông bà đã học lớp bảy mà đứa kế sau vẫn đang ẵm ngửa, chị người làm thì cứ còn cách Tết cả tháng là đã khăn gói về quê.
    Người lớn không cáng được nên đám trẻ phải gánh. Có điều là phần đông đám trẻ trong nhà là bọn con giai, lại hầu hết đang nhãi ranh, từ lau nhau đến choai choai mười ba mười bốn, thực sự bậc anh, bậc chị chỉ có chị Giang trên gác và anh Trung, con trai bà Thái, dưới nhà. Tết nhất của năm gia đình cậy cả vào hai người, mà dĩ nhiên là chủ yếu trông ở Giang. Từ cuối tháng Mười Một âm lịch Giang đã phải bắt tay vào công cuộc mua sắm đầy gian nan. Chỉ thỉnh thoảng mới có được vài đứa tuổi đã nhỡ nhỡ sau giờ tan trường chịu khó phụ giúp thêm. Giang đang xoay xở khắp các chợ gần chợ xa, chầu chực xếp hàng từ tinh mơ đến tối mịt ở suốt lượt các quầy hợp tác, quầy mậu dịch. Nhưng dù cố hết sức thì cũng phải tuần giáp Tết mới mua đủ các tiêu chuẩn đồ khô như gạo nếp, gạo dự, bột mì, đậu xanh, măng, miến, bóng, chè, thuốc, mứt kẹo cả năm gia đình, rồi sau đó dồn toàn lực bình sinh mà xếp hàng nước mắm, xếp hàng giò chả và nhất là hàng thịt, hàng lá dong để chuẩn bị cho cái phần tối quan trọng của Tết là nồi bánh chưng. Chiều ngày 27 phải chạy xong mọi thứ. Lại là Giang quán xuyến việc ngâm nếp, đãi đậu, rửa lá, ướp thịt. Ðến chiều 28, bởi trong nhà chẳng bà nào biết gói mà làm cũng được nên vẫn một tay Giang lo đủ ba chục cặp bánh. Trung thì phụ trách củi lửa. Mượn cái thùng phuy đựng mùn cưa của nha bà Cư để làm nồi. Còn củi, Trung ra tận bãi gỗ Phà Ðen, chọn mua những súc lớn gần nguyên cây, rồi dùng xe ba gác đẩy về. Một đống củi tướng, một mình Trung huỳnh huỵch bổ suốt buổi chiều.
    Mọi việc diễn ra ngoài sân. Bên này sân, trời lạnh thế mà Trung trùng trục cởi trần, mồ hôi nhễ nhại vung chiếc rìu tổ bố chỉ một nhát bổ làm đôi những súc củi to như cột nhà. Bên kia sân, chỗ gần vòi nước chung của cả nhà số bốn. Giang kê một cái chõng tre, trên giải ni lông, cặm cụi ngồi gói bánh. Bọn nhãi trong nhà xăng xái tranh nhau những việc mà anh Trung, chị Giang sai. Vừa làm vừa sung sướng nô nghịch. Với chúng thì sang hẳn năm mới, ba ngày Tết được ăn ngon, được vui chơi, được diện áo đẹp chẳng thể vui bằng khi còn đang náo nức đợi chờ Tết đến, nhất là niềm vui buổi chiều nay. Lũ trẻ vây quanh chiếc chõng xem chị Giang gói bánh. Chồng bánh chưng cao dần. Lá bánh xanh mướt, lại bánh trắng ngà. Giang xắn tay áo leo lên quá khuỷu, cánh tay, bàn tay trắng muốt lấm tấm hạt nếp và vụn đậu xanh. Giang gói không mau nhưng tuyệt khéo. Bánh như được gói bằng khuôn gỗ, song đẹp hơn nhiều, và không lỏng cũng không quá chặt. Lũ trẻ háo hức đến từng chiếc, từng chiếc đã gói xong. Khi nào gói đủ ba chục cặp bánh to, chị Giang sẽ vun số gạo nếp, đậu và thịt mỡ còn lại gói cho mỗi nhóc một chiếc bánh chưng nhỏ thật xinh mà chị gọi là "trái đất bé con".
    (Còn Tiếp)
  4. bigapple_k33

    bigapple_k33 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2004
    Bài viết:
    1.035
    Đã được thích:
    1
    HÀ NỘI LÚC KHÔNG GIỜ (Tiếp theo)
    Sập chiều, công việc đang thật là nhộn nhịp, suôn sẻ, và đã sắp hoàn tất, anh Trung đã chẻ gần hết đống củi, chị Giang đang thắt lại chiếc "trái đất bé con" cuối cùng, thì anh Vinh, ở bên nhà số bảy, ngang nhiên bước vào sân, dõng dạc một lời chào. Anh Vinh mang một biệt danh rất dài là "Péc-sô-rin - người anh hùng thời đại", gọi tắt là Pét, hay Pét "xồm", bởi đang trẻ măng thế mà đã rì rịt râu quai nón còn hai bắp tay thì lông lá như tây.
    Cả sân chỉ mình Giang tươi tỉnh ngước lên, vui vẻ chào lại Pét. Trung lầm lỳ làm thinh, nghiến răng quai rìu, vụn gỗ văng như mảnh đạn. Bọn nhãi, coi nét mặt ông anh cũng nhất loạt một vẻ sẵn sàng gây hấn. Chúng trừng trợn nhìn Pét. Từ trên thềm, Giôn và Ken, lao phốc xuống, và mặc cho Giang la mắng, chúng cất tiếng sủa dữ tợn, hung hăng xồ tới đón ông khách đã dám táo gan vào đây trêu ngươi. Nhưng chỉ một cái giậm chân, Pét đã khiến hai con chó cúp đuôi chạy dạt. Lũ trẻ cũng né ra. Pét khoan thai đi tới bên Giang. Anh diện một áo da Tiệp, da thật hẳn hoi, quần nhung kẻ, giầy mõm ngoé, tóc hớt đẹp, chải rất mượt. Pét đẹp giai nhất phố. Vai rộng, đô con lại cao người, một dáng vóc rất chuẩn, lại mũi thanh, miệng rộng, lại râu quai nón. Mặc dù song thân vốn là chủ một tiệm kim hoàn, và của ngầm chắc hẳn còn vô khối, nhưng Pét chẳng cậy của. Hiện anh đang học việc ở rạp xiếc của ông Tạ Duy Hiển.
    - Giang khéo tay thế, gói đẹp quá! Thế này thì cả đến Galilê cũng phải tin là đất vuông trời tròn! - Nhấc một cặp bánh lên, anh ngắm nghía, tấm tắc. - Bên nhà anh dùng khuôn, cứ như thỏi gang. Tết sau giá mà đã được Giang sang gói cho nhỉ?
    Tính tình cởi mở, nói năng dễ mến, Pét được cả phố ưa, trừ bọn trai nhà này. Tuy nhiên anh vào thăm Giang chiều nay hoàn toàn không phải cố tình gây một sự đường đột để khiêu khích trêu ngươi Trung mà thực tình là anh được phép. Ai cũng biết mới đây bố mẹ Pét đã sang nói chuyện với ông nội của Giang. Chưa phải một sự ướm hỏi mà chỉ để bước đầu có sự qua lại giữa hai bên gia đình nhằm cho phép hai trẻ được tìm hiểu nhau. ý ông cụ thế nào không rõ, nhưng Giang thì chắc chắn là phải đầy thiện cảm với Pét. Hoàn cảnh ba ông cháu Giang khó khăn thế mà gia đình Pét khá giả thế. Bản thân Pét lại là một chàng trai hạng ưu như thế, tốt tính đẹp mã như thế.
    Pét đã thảo kỹ một chương trình vui xuân cùng Giang. Nhiều mục rất tuyệt. Bắt đầu ngay từ tối 28. Ðoàn ca múa Tân Cương công diễn buổi đầu. Không bán vé, chỉ giấy mời, nhưng Pét vẫn xoay được. Anh rút từ ngực áo ra hai tờ bìa gấp khổ to, in mầu rất đẹp đưa cho Giang.
    - Lô hạng nhất đấy! - Anh nói - Ðúng mười chín giờ mở màn. Em làm thoáng lên cho xong để còn thì giờ mà chuẩn bị. Cũng cần phục sức một chút em ạ. Nhà hát Tây mà. Sáu giờ mười anh sang đón.
    Vẫn cây rìu trên tay, mặt quàu quạu, Trung lừ lừ bước tới, không thèm nhìn Pét, lớn giọng nạt Giang:
    - Hát tây hát tàu cái gì! Có nhúm gạo đùm mãi không xong, bao giờ mới được bánh vào nồi?
    - Thì xong cả rồi, chẵn sáu chục chiếc rồi đây, - Giang nói. - Chỉ cần xếp vào nồi nữa thôi. Với lại lo gì, cũng còn sớm mà, Trung.
    - Hừ, sớm! Việc còn bề bề ra, đấu hót mãi thì tới khuya! Hay là cứ tán láo tới sáng mai đi!
    - Có làm lụng thì phải có nghỉ ngơi chứ, tết nhất cơ mà, - Pét nói xen vào. - Gì mà ra oai ghê thế?
    Chẳng nói chẳng rằng, Trung chém mạnh, lưỡi rìu cắm phập xuống sát sạt mũi giầy Pét. Hết hồn, anh này nhảy giật lùi lại, suýt ngã ngửa. Giang tái mặt, ngồi sững. Cả sân lặng ngắt như tờ.
    - Mày xéo ngay, thằng con nhà tư sản béo bụng, - Trung nói, - Còn quẩn chân người ta làm việc, tao cho mày nằm viện ăn Tết!
    Tức giận, giọng run lên, nhưng Pét vẫn rán sức giữ phẩm giá; - Cậu vô lý quá. Ai làm gì cậu... Tự dưng cà khịa chửi càn!
    - Này thì cà khịa! - Trung gầm lên và đấm liền.
    Cú đấm thình lình nhưng Pét né mặt tránh kịp. Anh dịch chân sang một bên và giáng trả một cú nhẹ vào ngực đối thủ, đồng thời cảnh cáo:
    - Khôn hồn thôi đi! Mày biết tao mà, Trung!
    Pét chơi nhiều môn thể thao. Ham nhất là quyền Anh. Ngày nào cũng luyện. Anh bật cười khi Trung một lần nữa quại bừa một cú đấm điển hình cho lối đánh của bọn cậy khỏe mà kém khôn. Tuy vậy anh cũng thấy cần phải tung ra liên tiếp hai đòn thật là chuyên nghiệp, một giữa mặt, một móc hàm, quật Trung xuống sân. Bọn trẻ nhà số bốn, và cả gần chục đứa nhà bên số lẻ vừa tràn sang làm ủng hộ viên cho Pét, đứng khép thành một vòng tròn vây quanh bãi đấu, nhưng đều im thin thít và bất động không dám mùa vào hỗn chiến. Ðây là cuộc tay bo của bậc đàn anh. Người lớn trong nhà và những người qua đường không hề hay biết là đang có ẩu đả trên sân.
    Mình mẩy trần trụi, lấm lem, mồ hôi ròng ròng, mặt lõa máu, Trung loạng choạng đứng dậy. Quân tử, Pét không xấn vào đấm ngay, nhưng mà cũng đã hăng máu lên, anh kéo phẹc-mơ-tuya, cởi áo da ra, và một cách đàng hoàng thong thả xắn tay áo sơ mi. Chính cái động tác đẹp mắt này đã khiến cho người chỉ quen giao phong theo luật lệ bị kẻ đã từng trải đập lộn trên hè phố nện cho nhừ tử. Dốc toàn lực bình sinh, như một đầu máy xe lửa, nghiến răng, Trung lao xộc tới, húc cái sọ dừa rắn câng vào bụng "Người anh hùng thời đại". Pét ngã ngửa người lên cái chõng tre. Chân chõng gãy rụp, chồng bánh chưng lật nhào. Trung nhảy bổ đến, chặn đầu gối lên ngực Pét, và mắm môi mắm lợi đấm tới tấp xuống mặt anh này. Cuộc quyết đấu từ khởi đầu đến kết cục có lẽ chưa đầy một hiệp ba phút. Trong suốt những giây đồng hồ đổ máu mồm máu mũi ấy, cả hai đối thủ lẫn đám khán giả bâu kín võ đài không hề ai kêu lên một tiếng.
    Vin cánh tay một thằng bé, Giang run rẩy đứng dậy. Mặt nhợt nhạt, thất thần, môi lảy bẩy, cô van vỉ, những lời không thể nào ai nghe thấy. Vẫn chỉ nghe uỳnh uỵch hự hự. Trận ẩu đả đã quá độ vũ phu, trở thành trò man dại. "Thôi đi mà, trời ơi, thôi đi!", dồn hết sức, Giang la lên và vùng khỏi tay bọn trẻ, cô lăn vào giữa cuộc đấu, và túm tóc Trung kéo giật, buộc Trung phải nhả Pét ra.
    Thở hồng hộc, Trung đứng vụt lên, mặt mày máu mê, một mắt đã sưng, một mắt ngầu đỏ trợn trừng, hai nắm đấm vẫn siết lại, răng nhe ra như chực đớp Giang một cái.
    - Ðồ ác ôn! - Nghẹn ngào, Giang thốt kêu lên, tiếng kêu thảm thương và tức cười - Ðồ Mỹ Diệm!
    - Diệm ngoẻo rồi còn gì! - Một thằng ranh nào đó buột miệng.
    Bật òa lên khóc, Giang quay mình chạy lao vào trong nhà.
    Mọi sự như thế là tung hê. Ngày vui tưởng đã tan tành. Bọn trẻ nhớn nhác, không biết phải làm sao bây giờ. Ðứa nào đứa nấy mặt mày tiu nghỉu, buồn xo. Có đứa mếu máo. Nhưng cuối cùng thì anh Trung của chúng cũng không vì giận chị Giang mà bỏ rơi chúng. Rồi bánh cũng được xếp vào phuy, nước đổ đầy, lửa được nhóm lên, củi cháy đượm. Ngọn lửa reo vui, hơi lửa lan tỏa. Dọc phố gió bấc lùa hun hút mà trong sân ấm ran, và đã nghe đậm dần lên mùi thơm của lá và gạo nếp. Bọn trẻ trải chiếu ra sân đánh bài và nói phét. Dễ chịu, êm đềm, ấm cúng, như mọi năm. Nhưng khác là không có chị Giang. Chị Giang không xuống vui cùng. Không có chị thì không có táo, thứ quả chị ưa nhất khiến bọn chúng cũng ưa nhất, không có ngô nướng, và không có giọng kể chuyện du dương, không tiếng cười trong trẻo của chị. Không có chị, anh Trung mất hết tính hồ hởi thường ngày. Nặng chình chịch cái mặt bị ăn đấm sưng vù, anh ngồi thì lỳ một cục. Anh chỉ hé răng nói đôi lời với anh công an tuần đêm tạt qua hút điếu thuốc lào và với chị công nhân quét rác ghé vào sưởi ấm chốc lát. Không được anh chung vui, niềm vui của lũ trẻ nguôi dần. Mọi năm cả lũ trẻ thức chơi đến tận sáng, nhưng đêm ấy, khi họa sĩ Năm Tín rẽ vào thì bọn lau nhau đã đi ngủ hết, chỉ những đứa lớn còn ngồi canh bếp lửa với Trung.
    Thằng Bình, em Giang, theo lệnh chú Năm chạy lên gác gọi chị, nhưng vì đã nhất quyết từ mặt Trung nên Giang nhất định không chịu xuống. Cô sai thằng Bình bưng bộ ly cùng đĩa mực nướng xuống để chú Năm uống rượu. Cô còn bắt nó quay lên lần nữa để mang chăn bông, kèm theo một rổ táo ta với chục bắp ngô xuống cho "bầy lũ anh em nhà chúng mày".
    Bọn nhãi xuýt xoa vui sướng chào đón quà của chị. Chúng lập tức chiến đấu với rổ táo và lập tức bắt tay vào nướng ngô. Trung lầm lầm gạt phắt mấy quả táo, gạt phắt cả bắp ngô nóng hổi, thơm lừng bọn nhãi vừa nướng xong.
    Ông Năm rót rượu ra hai ly.
    - Một ly với qua, Trung! - Ông nói. - Chiến sĩ rồi, uống được.
    Trung lắc đầu. Ông Năm thở dài, tợp nhanh, cạn ly.
    - Nam nhi như cọp, vấp cái quên liền. Không để bụng giận lẫy. Mấy lại sắp xa nhà rồi, mau mà làm lành với nó đi.
    Ông làm nhanh ly thứ hai, rồi lại rót tiếp. Uống suông, không nhắm, ông đưa đĩa khô mực cho bọn trẻ...
    (Còn Tiếp)
  5. bigapple_k33

    bigapple_k33 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2004
    Bài viết:
    1.035
    Đã được thích:
    1
    HÀ NỘI LÚC KHÔNG GIỜ (Tiếp theo)
    Ðã ăn hết táo, hết ngô, đã xơi hết đĩa mực, bọn trẻ buồn ngủ. Chú Năm chẳng nói gì, chỉ uống. Một mình chú mà đã gần cạn chai Lúa Mới. Anh Trung thì một mực lặng thinh. Rầu rĩ, bọn trẻ díp mắt lại, lần lượt, đứa này tiếp đứa khác kềnh ra chiếu. Hai con chó chen vào nằm với chúng.
    Nước trong phuy sôi đều đều. Tiếng củi nổ lách tách. Từ trong sáng khó mà nhìn thấy gì trong bóng tối bao quanh, vì vậy đường phố, nhà cửa như bọc trong tấm màn đen. Tuy nhiên, có thể thấy bầu trời đã chuyển mầu xám nhợt, đã sáng hơn và càng lạnh hơn. Gió bấc đã ngừng thổi từ lâu, không khí mau chóng thấm đẫm sương giá. Sắp rạng mai đến nơi rồi.
    - Thôi. Qua về! - Ông Năm chợt lên tiếng sau suốt mấy canh giờ lặng ngắt, một mình rót, một mình uống.
    Cầm lấy chiếc cặp đã xẹp lép, ông loạng quạng đứng dậy. Trung nhổm lên, muốn đỡ ông.
    - Khỏi! - Ông gạt đi - Qua đâu có say. Say sao nổi, con ơi!
    Nồng nặc mùi rượu, ông ôm lấy Trung:
    - Mồng năm con lên đường hả? Lên đường mạnh giỏi nghe con... Chú Năm về nghe con... Chú Năm về. Chú Năm về lập bàn thờ cho ba má chú Năm, cho vợ chú Năm và sắp nhỏ, Trung à...
    Bất đồ, ông bật khóc, nấc nên, ằng ặc, nghẹt thở, toàn thân run bần bật.
    - Tụi nó tàn sát hết cả gia đình chú rồi Trung à. Giết hết... giết hết cả, không trừ ai. Con gái út chú. Thằng Ba. Thằng Hai. Ba đứa con chú bị giết một khi. Rồi tụi nó sát tới bà già chú, ông già chú, Trung à. Rồi vợ chú, má sắp nhỏ, bị bầy thú dã man tụi nó sát hại sau rốt... Mà đã hai năm rồi. Tối nay họp đồng hương, có đồng chí ở trỏng ra, chú mới hay, Trung à.
    Ông khàn khàn kể, ông khóc rưng rức. Và gạt Trung ra, ông loạng choạng bước đi men theo bờ tường, đi về cuối phố. Vừa đi vừa khóc.
    Tảng sáng, Giang xuống, mang thêm chăn đắp cho bọn trẻ. Cô bảo Trung về phòng mà ngủ để bếp lửa đó cô trông. Trung ngồi im, không buồn trả lời. Giang bực mình dợm ngay vào nhà, nhưng rồi nghĩ ngợi sao đó cô lại ngồi xuống bên bếp, tuy nhiên ngồi né xa, thật xa Trung...
    Một thằng bé bị lũ bạn kéo tuột mất chăn, loàng quàng mở mắt ra. Nó nghe tiếng anh Trung rì rầm kể gì đó về chú Năm. Nó nghe tiếng chị Giang khóc thút thít. Rồi lại trở lại yên lặng. Yên lặng rất lâu, rồi se sẽ những tiếng động là lạ. Thằng bé rướn cổ lên nhìn. Cảnh vật còn tối lắm. Trong ánh lửa, nó thấy anh Trung chị Giang ngồi sát vào nhau, và hơn thế nữa, còn ôm chặt nhau. Tóc chị xõa tung, cả hàng cúc áo len của chị bật ra. Nó nhìn thấy cùng một lúc cả cần cổ trắng ngần của chị cả đôi môi anh Trung, bàn tay anh Trung. Nó cảm thấy cùng lúc cả hơi lửa nóng hừng hực, cả hơi thở của ban mai lạnh lẽo.
    Vậy mà, thật là không thể làm sao hiểu nổi, ngày hôm sau, đêm giao thừa và suốt mấy ngày Tết, nó thấy chị Giang vẫn lại chỉ chơi với Pét xồm. Mặt mày thâm tím, Pét vẫn cứ đẹp trai, và rất diện, anh ngây ngất mê mẩn, sung sướng cưỡi chiếc xe đạp Pơgiô mầu mận chín chở chị Giang bay đến tất tật những tụ điểm có ca nhạc và vui chơi trong thành phố ngày xuân.
    Lễ tiễn tân binh được tổ chức vào sau buổi trưa ngày Mồng Năm Tết, dưới chân gò Ðống Ða. Người ta bảo rằng trong suốt mười năm, từ ngày hòa bình lập lại đến giờ, ở Hà Nội chưa từng có một đợt nghĩa vụ quân sự nào quy mô lớn như đợt này. Hàng trăm người lên đường, hàng nghìn người theo tiễn. Và khi biển người đứng nghiêm hát Tiến Quân Ca thì trước cửa đền Trung Liệt, cờ đào Tây Sơn được chầm chậm kéo lên sóng đôi cùng cờ đỏ sao vàng. Bầu không khí tưng bừng náo nức của lễ hội tòng quân hòa vào hùng khí thiêng liêng ngày Giỗ Trận nâng bổng tâm trạng từng người, giúp gạt đi chút ít những niềm bịn rịn. Ông thượng úy khu đội trưởng dõng dạc điểm danh tân binh. Ðọc đến tên ai thì người ấy Có lên một tiếng thật to. Mỗi người hình như chưa bao giờ đạt được một giọng nói trội như vậy. Anh chàng được gọi tên sau Trung lại dài giọng. "Dạ, có tôi đây!", khiến mọi người cười rộ. Thượng úy đọc đã khản tiếng mà bản danh sách còn rất dài. Càng đông càng vui. Nghe đọc đến tên ai quen, Trung lại nhón chân lên, rướn cổ tìm kiếm. Mọi người ầm ĩ gọi nhau, hồ hởi vỗ vai nhau "A! Mày đấy à, cũng đợt này à, hay quá! Mày này, tao này, thằng Yên, thằng Tú này...". Rồi, thằng Tiến, thằng Cung, thằng Bình "mắt lươn", thằng Mão "nhọ nồi", thằng Toàn "min tu", thằng Bào, thằng Vũ... thằng con đầu nhà bà giáo Son, thằng con thứ nhà ông Tâm y tá, thằng cháu đích tôn nhà cụ Doãn vẽ truyền thần, nhà Phúc béo gia công mỳ sợi, nhà Vạn toét chữa xe đạp, nhà Minh điếc bán nước sôi... Ðông đảo người đi thế này làm sao mà biết hết nhau được. Không khéo sau đợt nghĩa vụ này, phố tụi mình chỉ còn lại bọn lỏn con và bọn con gái.
    (Còn tiếp)
  6. bigapple_k33

    bigapple_k33 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2004
    Bài viết:
    1.035
    Đã được thích:
    1
    HÀ NỘI LÚC KHÔNG GIỜ (Tiếp theo)
    Trung nhìn quanh. Hình như hôm nay tất cả các cô nàng trong khu phố đều hội lại ở đây, và tất thảy bọn họ nom đều xinh tươi hơn bao giờ hết. Nào Liên, nào Yến, nào Oanh, nào Phượng... các cô khoác tay nhau túm tụm thành từng nhóm, líu ríu vui vẻ xúm quanh các chàng.
    Người đi tiễn Trung cũng rất đông, mẹ và ba đứa em, cùng tất cả bọn nhóc nhà số bốn. Về chiều, càng lúc càng lạnh mà lễ tiễn có vẻ còn kéo dài, Trung bảo các em đưa mẹ về, nhà bà Thái nhất định không chịu. Yếu lả, nhợt nhạt, run rẩy, bà bám chặt lấy tay Trung đứng sát vào anh, nghẹn ngào, gượng cầm nước mắt để dặn đi dặn lại mãi những điều không đâu vào đâu. Trung ngượng:
    - Mẹ kìa, mẹ! Ðừng thế, mẹ! Người ta trông vào đấy, mẹ...
    Anh bảo lũ đàn em trong nhà:
    - Chúng mày động viên mẹ tao, đừng để mẹ tao khóc ở đây đấy nhá. Cả về nhà nữa. Chúng mày giúp mẹ tao các việc nhá. Tao đi ba năm rồi về. Mà cũng có nghỉ phép nữa... Chúng mày thay tao lo mọi thứ cho nhà số bốn mình nhá. Nhớ chăm cây táo tao trồng. Ba năm nữa tao về, ngọn phải chấm ban công tầng hai đấy...
    Trung nói, cười, nhưng vẫn buồn ra mặt, vẫn nhìn quanh nhìn quất. Bọn trẻ hiểu lòng anh, thương anh lắm, nhưng chẳng biết làm sao. Ông nội chị Giang vừa vào viện đêm qua, chị phải túc trực chăm nom. Vả lại lúc nào bên chị cũng có Pét xồm kè kè hộ tống.
    Tiết trời xuân lạnh lẽo, nhưng sắc trời xuân trong xanh. Sau phần diễn văn của các quan khách, của lãnh đạo các ban ngành, đoàn thể thành phố và khu phố, tới mục đại diện tân binh đọc quyết tâm thư, rồi đến mục làm giao ước thi đua giữa thanh niên đi nghĩa vụ quân sự với thanh niên ở nhà sản xuất, rồi nữa là vui văn nghệ, ca hát và ngâm thơ. Có cả một ông nhà thơ nghe nói là từ tận trên Hội Văn nghệ đích thân đưa thơ mình xuống biểu diễn úy lạo bộ đội. Ðầu đội mũ sắt, cổ quấn khăn rằn kiểu du kích Nam Bộ, mình vận bành tô Liên Xô có viền lông, ông sừng sững trên diễn đàn, ngâm vào loa những vần thơ như sấm. Ngay khi trường ca hùng tráng còn một đoạn dài nữa mới hết, vì quá xúc cảm, gần hai chục thiếu nữ có nhiệm vụ tặng hoa bộ đội khi nào bế mạc buổi lễ, đã vội ào cả lên diễn đàn dâng vào lòng tay thi nhân những bó lay ơn tươi thắm khiến ông này phải rất vất vả gỡ mình ra khỏi hoa để ngâm nốt phần còn lại. Sau trường ca này, mặc dù còn lâu trời mới tối và mặc dù còn nhiều nhà thơ nữa muốn lên trình bày sáng tác của họ, song các sĩ quan tuyển quân đã vội ngăn họ lại để cho buổi lễ được kết thúc.
    Tân binh được lên xe. Gần hai chục chiếc xe buýt được trưng dụng để chở quân, đậu ở góc sân, đồng loạt nổ máy và nhấn còi. Tiếng còi ô tô được sự ồn ào lên đến tột độ.
    Trung ôm lấy mẹ, ôm lấy ba đứa em, và lần lượt ôm lấy từng thằng nhãi em út của anh trong nhà số bốn, siết tất cả vào vòng tay mình lần cuối.
    - Thôi nín đi, đừng khóc! - Ðừng có khóc, để cho anh đi! Chúng mày đưa mẹ về đi. Mẹ ơi, mẹ về, con đi!
    Anh liệng ba lô lên trước, rồi trèo vào ô tô qua lối cửa sổ. Quanh xe người ken dày vậy mà bà Thái vẫn len vào được, với với tay lên cửa sổ.
    - Mẹ! Trung luýnh quýnh nắm vội lấy tay mẹ, rồi phải buông ngay vì bị kéo lùi vào trong nhường cho người khác chen ra choán lấy khoang cửa.
    - Toàn đấy hả cháu. Toàn ơi! - Trung nghe tiếng mẹ nức nở kêu lên với Toàn "min tu", thằng bạn nhà số băm sáu cùng phố, đang đứng lấp trước mắt anh - Cháu trông nom nó cho bác với Toàn nhé, Toàn ơi!
    Xe chuyển bánh, chầm chậm bò, chật vật xuyên qua những tiếng gào gọi, tiếng kêu, tiếng cười và cả những tiếng khóc. Ðúng giây lát đó, qua vai Toàn, Trung nhìn thấy Giang giữa đám đông. Bằng một phép mầu nào đó, chỉ một cú huých tay, anh đã vọt được ra khỏi xe.
    - Giang! - Trung gào rống lên. Anh ở đây, anh ở đây!
    - Anh ở đâu? - Cô gái lách qua đám đông, vừa len lách vừa kêu lên thất thanh. - Anh ở đâu, anh ơi?
    Chen bừa đi, vấp dúi dụi, không thấy ai cả, không thấy gì hết, mắt dại đi, tóc xõa tung, thở hổn hển, cô nhào tới chỗ Trung. Anh chàng chen bật mấy người đang đứng chắn mất lối, rồi gần như hùng hổ, lao xộc tới chộp lấy Giang, ôm choàng lấy, ghì chặt.
    Khác với các đợt trước, đợt lính nghĩa vụ này phần đa đều như Trung, tuổi còn rất trẻ, vì vậy ít thấy cảnh vợ tiễn chồng, thế nhưng bù lại người ta thấy xuất đầu lộ diện khá nhiều cặp chàng nàng như Trung và Giang. Và có lẽ cũng như Giang và Trung, tất cả những vụ yêu đương đó đều là những mối tình non dại, đầy rụt rè và sợ sệt, bấy lâu chẳng dám lộ mình mãi đến giây lát phải chia lìa mới không còn đừng nổi.
    Ngay trước mắt bao người mà Giang liều lĩnh xoắn mình vào Trung. Xoay lưng lại với thiên hạ, tóc đổ xõa xuống vai. Giang đứng úp người vào Trung, hai cánh tay vòng lên ôm lấy cổ người yêu. Còn Trung, hai bàn tay to tướng táo tợn lùa sâu vào trong áo len của Giang, ghì riết lấy Giang từ bên trong. Bao nhiêu người thở dài, ngậm ngùi, nhìn tránh đi.
    Ðoàn xe nâng dần tốc độ. Trên chiếc xe chạy đầu, tiếng hát cất lên, lan dọc đoàn xe, truyền dọc phố. "Ai đã từng đi qua sông Cửu Long Giang, Cửu Long Giang sóng trào nước xoáy. Ai đã từng nghe tiếng tiểu đoàn, tiếng tiểu đoàn Ba trăm lẻ bảy. Buổi xuất quân tiểu đoàn năm ấy, cả tiểu đoàn thề dưới Sao vàng...".
    Dưới đường, Trung đang cố sức chạy rượt theo chiếc xe chót và cuối cùng đã đuổi kịp. Từ cửa hậu chiếc xe, những bàn tay chìa xuống kéo anh lên. Phía sau, Giang chạy với theo, toàn thân ngả về phía trước như cố cưỡng luồng gió mạnh, và rồi lảo đảo cô ngã xoài xuống nền đất ướt át.
    "Người con gái Hà Nội, những nàng tiên nghèo đẹp nhất trần gian, da trắng, môi hồng, mắt huyền, mi rợp", trên đời này từng có một bài ca với lời ca như vậy, tôi đã từng được nghe ở đâu đó, vào một lúc nào đó không nhớ nữa. Tôi là một thằng nhãi nhà số bốn đã theo tiễn anh Trung ở chân gò Ðống Ða, buổi chiều ngày Giỗ Trận. Và tôi là đứa đầu tiên chạy lao đến đỡ chị Giang dậy. Chị khóc nức nở, toàn thân run lật bật trong tay tôi. Dọc đường về tôi vẫn phải nhẹ nhàng thận trọng ôm giữ lấy chị. Chị cứ vừa đi vừa ôm mặt khóc mãi, mặc cho xung quanh người ta kinh ngạc nhìn ngó. Vào những năm ấy, chẳng ai lại yếu đuối và bi thương một cách lạ lùng như thế.
    Những tháng sau đấy, những năm sau đấy tôi còn dự nhiều lễ giao quân khác nữa. Và rồi bản thân tôi năm năm sau cũng đến lượt lên đường chiến đấu. Vậy mà tôi không bao giờ có thể quên lần cùng bạn bè nhà số bốn tiễn biệt anh Trung. Ðây là cuộc đưa rước thanh niên đi làm nghĩa vụ quân sự trong thời bình, và vào những ngày đầu năm 1964 ấy, thì trong tầng lớp bình dân ngay những người đứng tuổi và trải đời cũng khó mà biết chắc sẽ là như thế nào những năm tháng đang đón rình phía trước, nói gì một thằng bé mới mười ba tuổi đầu như tôi, vậy mà... Không, không phải do ngày nay nghĩ lại mà mường tượng ra như thế. Mà thực sự là như vậy, vào buổi chiều hôm ấy, một chiều mùa xuân cực độ thanh bình, dưới chân gò Ðống Ða, tôi đã cảm thấy trời long đất lở trong lòng mình. Mà thật ra, nào phải là tôi, thật ra là nhân dân, nhân dân muôn thuở dịu hiền, muôn thuở cầu ước sống bình yên, đã âm thầm cảm thấu con sóng lừng thời đại mới đang ập thẳng tới bến bờ Tổ quốc tôi. Một thời đại lớn lao và nghiệt ngã chưa từng có. Thời của chiến tranh và của cách mạng lay trời, thời của những đau thương vô hạn, những mất mát vô bờ, thời của chủ nghĩa anh hùng tuyệt đỉnh, của sức chịu đựng vô cùng, thời của tình yêu và của lòng quả cảm. Và từ họa sĩ Năm Tín, từ anh Trung, nhất là từ bà mẹ anh, từ chị Giang, những người đàn bà mềm yếu và nhân từ, thân thương hiền dịu của ngôi nhà số bốn, linh cảm về số phận sắp tới của dân tộc đã truyền vào trái tim tôi, làm xoay chuyển cuộc đời tôi ngay từ khi tôi chưa kịp bước hẳn vào đời. Ðối với tôi, thời thơ ấu êm ả và tươi đẹp thế là đã vĩnh viễn và dữ dội ra đi vào chính cái buổi chiều mùa xuân êm ả và tươi đẹp đầu năm Giáp Thìn ấy.
    (Còn tiếp)
  7. bigapple_k33

    bigapple_k33 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2004
    Bài viết:
    1.035
    Đã được thích:
    1
    HÀ NỘI LÚC KHÔNG GIỜ (TIếp theo)
    Một tuần sau Tết, do cha tôi được lên lương, tiêu chuẩn nhà cao cấp hơn nên gia đình tôi chuyển vào ở trong trung tâm thành phố. Tháng tám, bọn Mỹ ném bom miền bắc, tôi theo trường sơ tán về miền quê rất xa. Năm thì mười họa mới được một dịp về loáng qua Hà Nội. Rồi nhập ngũ. Ði Bê dài. Cứ xa mãi, xa mãi như thế khỏi điểm ban đầu, nhưng đường đời của ai mà không như vậy?
    Trở về sau chiến tranh, nhìn lại sau lưng chỉ thấy sừng sững trường thành của ký ức chiến trường. Những năm xa vời trước thời lửa đạn đã tan bay theo gió thời gian. Thảng hoặc mới có việc dọc qua phố cũ, ngang qua nhà xưa, thế mà cũng thường là cứ dửng dưng ngang qua vậy thôi, chẳng mấy khi để mắt ngó vào. Ngôi nhà nhiều chục năm rồi vẫn thế, tất nhiên là cũ kỹ hơn, mặt tiền cau có, nứt nẻ, tường vôi tróc lở. Mỗi khi ghé vào thăm chỉ cảm thấy chán ngắt. Nhem nhuốc, ồn ào, chật chội và quá nhiều người lạ mặt. Niềm vui duy nhất là thấy được còn đó cây táo anh Trung trồng trước ngày nhập ngũ. Ngọn cao quá ban công tầng hai, cây sai quả, trùm bóng mát lên sân. Song le cái giống táo ta ấy là thứ cây ăn quả dường như đã lỗi thời, và bản thân nó, cây táo của anh Trung, cũng đã già rồi.
    Tết này, khi từ nhà mới cuối phố đi bộ lên đầu phố vào thăm nhà cũ số bốn, tôi không còn thấy cây táo già đó nữa. Tấn, cậu em út của anh Trung, một thương binh trong chiến tranh biên giới, được phường ưu tiên cho phép cơi nới diện tích ở ra khoảng sân trước mặt nhà. Mặc dù chẳng muốn nhưng đành phải chặt cây táo ấy đi mới xây ra được.
    - Hồi chiến tranh phá hoại, sân phải đào tung lên xây hầm công cộng mà bọn em vẫn giữ được nó. Thế mà giờ chặt nó đi, khổ tâm lắm anh ạ. Nhưng biết làm thế nào được, hả anh. - Tấn buồn rầu bảo thế.
    Tôi hỏi thăm chị Giang, cậu ta cho biết vợ chồng chị vào ăn Tết trong Sài Gòn. Và có lẽ rồi đây chị sẽ chuyển hẳn vào sống trong đó.
    Ra Giêng, tôi tới thăm chị. May mắn sao. Chị có nhà.
    Bởi tất cả những lần trước đây đến chơi nhà số bốn, tôi đều gặp phải khi chị đi công tác, thành ra như vậy là chẵn ba mươi tư năm trời xa biệt, cho tới hôm nay. Vẫn căn phòng xưa, ban công trông ra phố. Tường vôi ve. Cửa sổ buông rèm xanh. Bàn thờ luôn luôn ba cây hương thầm lặng cháy. Khi chị mở cửa ra tôi bước vào, trong phòng chưa bật đèn. Trong ánh hoàng hôn hồng rực tràn ngập căn phòng, tôi thấy chị vẫn hoàn toàn là chị Giang ngày xưa của tôi. Và có lẽ bởi ánh nhá nhem chiều tà mà chị cũng thấy tôi như vậy chăng. Chị nhận ra tôi ngay, thảng thốt chị gọi tên tôi, kèm cả biệt hiệu. Lòng tôi đau nhói.
    Rất lâu, chị ngồi bên tôi, lặng khóc. Tôi cũng vậy nước mắt nóng rực như kim châm trong tròng mắt. Bên ngoài, thành phố đã lên đèn, tôi và chị tay trong tay, thu mình trong bóng tối, cố hết sức để tĩnh tâm, để hồi lại.
    Giọng run run, chị khe khẽ bắt đầu trò chuyện. Tôi cũng vậy, bắt đầu nói, bắt đầu kể. Cuộc đời tôi. Cuộc đời chị. Thì cũng như cuộc đời của bao người thôi trên đất nước này những chục năm qua, mà sao nhắc lại trái tim cứ đau thắt lại thế này. Nhưng rồi cả hai chúng tôi đều đã vượt được lên khỏi nỗi lòng mình để mà dần dần điềm tĩnh lại.
    - Cậu còn nhớ chú Năm họa sĩ không?
    - Có chứ chị. Nhưng tôi chẳng hề được gặp lại trong suốt chừng bấy năm. Giờ chú ấy ra sao?
    - Chú mất rồi. Mất năm Chín mươi. Tại quê nhà Năm Căn. Chú ấy đi Bê năm Bảy Mốt. Chị cũng không được thấy lại chú ấy từ năm đó. Trước khi mất không lâu, chú có ra thăm Hà Nội và có lại đây tìm chị, mà không gặp. Chỉ gặp anh Vinh, chồng chị. Chú Năm có gửi lại chị món quà...
    Vinh? Tôi rùng mình. Thế nào mà chồng của chị cũng tên là Vinh cơ chứ, trời ơi! Anh Vinh ngày xưa, anh Pét xồm đẹp trai, từng mê mẩn chị, đã hy sinh trong mùa khô khốc liệt năm Bảy Hai. Hy sinh ngay trước mắt tôi. Chính tiểu đội tôi bám chiếc xe T54 của anh xung phong vào căn cứ Plây Cần. Ðã đột phá được qua cửa mở, chúng tôi vừa bật lê ào xuống khỏi xe từ hầm ngầm, liền hai trái M72 bắn chéo cánh sẻ phụt tới. Toàn tổ lái cùng với chiếc xe bùng cháy...
    - Chị hỏi thăm nhiều họa sĩ mà chẳng ai nhớ đến chú ấy. Tên tuổi chú ấy không được như họ. Nhưng mà cậu xem này.
    Chị Giang với tay bật đèn. Chỉ một ngọn thôi, ánh sáng dịu như là ánh nến. "Lại đây!", chị nói khẽ và nhẹ nhàng rời ghế, dịu dàng chị nắm tay tôi, đưa tôi lại gần khuông cửa sổ buông rèm. Trên tường, kề cửa sổ, treo một bức sơn dầu, viền trong khung gỗ mầu nâu.
    Ðang bước tới gần, tôi như bị vấp một cái. Vấp phải một cảm giác. Một cảm giác dội ra từ bức tranh. Tôi nhìn, chết lặng trong người. Họa sĩ vẽ chúng tôi. Bảy người. Và đúng là cái đêm xưa, 28 Tết năm Thìn ấy. Cảnh tượng thật là huyện diệu: xung quanh đống lửa, một vầng hồng lung linh, dập dờn và dường như đang muốn vùng quẫy với vòng vây của đêm tối để tỏa rộng ra mãi. Bầu trời trước đêm trừ tịch không tăm tối đen đặc mà quang đãng, tối thẫm trải rộng trên đầu chúng tôi với tất cả vẻ hùng tráng và trang nghiêm, bầu trời đêm trước của một thời đại phi thường, một bầu trời đêm không bao giờ con người thời nay còn được thấy. Và tôi cũng nhận thấy trong đêm tối của bức tranh những khối hình và đường nét thân thuộc thuở xưa mà ngày nay đã mai một rồi của dãy phố này.
    Nhưng cái chính làm nên bức tranh là chúng tôi, những gương mặt được ánh lửa soi hồng, được tả thực một cách chân xác và đầy biểu cảm. Tuy nhiên, tất cả cái đẹp, cái chân thực và thần thái mê hồn của bức tranh lại tạo cảm giác đau buốt. Xuyên ngọt qua thời gian và cả qua da thịt. Bức tranh cho tôi thấy một điều hiển nhiên mà bấy lâu nay với cái ý thức đã ngày một trở nên phẳng lỳ, tôi đã không thể có khả năng một lúc nào đó tự nhân ra, trong số chúng tôi, sáu thằng con trai còn trẻ con và non dại đến thế đang ngồi kia quanh nồi bánh chưng trong bức tranh này, đến ngày hôm nay chỉ còn sống có một, chỉ độc nhất một mình tôi. Một mình tôi mà thôi!
    Tiết thanh minh năm ngoái, ngang qua Gio Linh, vào viếng Nghĩa trang bộ đội Trường Sơn, tôi đọc thấy tên tuổi Bình trên một trong hàng ngàn mộ chí của khu các liệt sĩ quê Hà Nội. Chị Giang bảo là vợ chồng chị đã tính đưa Bình ra ngoài này, nhưng một đêm nọ Bình báo mộng, cho biết là muốn mãi mãi nằm bên đồng đội, mãi mãi với rừng le đồi lau đất đỏ chiến trường xưa, thành thử... Trong tranh, Bình là một thằng bé mới mười tuổi, gương mặt phảng phất nét chị Giang, mịn màng và thanh tú. Nó ngồi bó gối, vóc mảnh khảnh, tóc xoăn, cái miệng phụng phịu.
    Ngồi cạnh nhóc Bình là thằng Phái, năm ấy mười hai tuổi. Tóc húi cua lộ rõ cái đầu méo và đầy sẹo, gò má nhọn, mồm rộng trành bành, mặt nhợt nhạt, rỗ tổ ong, đôi lông mày chau chau, cau có. Nó là thằng con đầu của ông Tá tài xế. Xấu xí, thô kệch, ăn bận tồi tàn, lôi thôi lếch thếch nhất hội song là một đứa con trai tốt bụng và chân thành biết bao. Phái đi bộ đội cùng năm Sáu Chín với tôi, nhưng không sung vào bộ binh như tôi mà được điều sang cao xạ. Ðóng chốt ở Hà Nội và hy sinh ở Hà Nội, trong chiến dịch Mười hai ngày đêm đánh B52.
    Thằng Sơn, con trai ông Cư sở điện, tuy rằng bố bị tù, song là đứa duy nhất trong nhà học lên đến đại học. Nhưng trong tranh nó vẫn còn là một thằng nhãi chỉ hơn tôi có một tuổi, đầu tóc bù xù, thân hình gày gò và trông rõ là lùn tịt mặc dù nó đang ngồi xếp bằng. Gương mặt thô nhưng bởi đôi mắt thật là to và sáng mà nom thông minh cực kỳ. Nó ngồi cạnh nồi bánh chưng mà vẻ mặt như thể đang ngẫm nghĩ kế sách giải những bài đại số đang tích ở trong đầu. Sơn thi đỗ vào Tổng hợp Toán, học đến năm thứ hai thì nhập ngũ. Trinh sát pháo binh. Hy sinh ở Cánh Ðồng Chum.
    Bị khuất mất một phần vào vùng tối của bức tranh là gương mặt Ðính, em trai anh Trung, Ðính quấn chăn chiên, nằm cách hơi xa đống lửa, hai tay chống cằm. Khuôn mặt nó chẳng giống anh Trung chút nào. Má bầu, tai to, nhưng cằm nhọn hoắt và cái cổ thì gầy ngẩng. Tính nết Ðính cũng khác hẳn anh, nó rất lành và quá sức là rụt rè. Mười một năm sau, Ðính là một trong những người lính của đại đội đặc công đã tập kích vào sân bay Hòa Bình ngoại vi Buôn Ma Thuột, nổ súng mở màn cho chiến dịch vĩ đại mùa khô Bảy Lăm. Anh cùng hầu hết đồng đội đã hy sinh trước khi bộ binh và xe tăng ta kịp đánh tràn vào ứng cứu.
    (Còn tiếp)
  8. bigapple_k33

    bigapple_k33 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2004
    Bài viết:
    1.035
    Đã được thích:
    1
    HÀ NỘI LÚC KHÔNG GIỜ (Tiếp theo)
    Anh Trung, người anh cả của Ðính và của cả lũ chúng tôi, là nhân vật có vóc dáng và dung mạo được ánh lửa trong bức tranh đặc tả nhiều nhất. Anh ngồi xếp bằng, hai chân khoanh lại, lưng thẳng, ngực ưỡn ra, hai con chó vàng nằm hai bên, gác đầu lên đùi anh. Xưa nay tôi hiếm thấy ai cường tráng như Trung. Anh không cao, thậm chí hơi lùn, nhưng vai rộng lạ lùng, ngực nở căng, bụng thon chắc. Những bắp thịt cuồn cuộn nổi hằn lên dưới chiếc cáo dệt kim sọc xanh của học sinh trường hàng hải. Cái cổ anh ngắn và to bạnh đỡ lấy cái đầu to quá cỡ, xưa vẫn bị chị Giang trêu là như cái thùng nấu phở, trán dô, mũi tày và tẹt, gò má rộng, cằm vuông chằn chặn, tóc rễ tre, húi rất ngắn. Trên khuôn mặt mầu đồng hun lấp loáng ánh lửa hồng này, họa sĩ đã lược hết mọi dấu tích trận ẩu đả, nên không những không hề thoáng nét hung tợn mà cũng không cả vẻ ngang tàng ngỗ ngược. Ðấy là dung mạo của một chàng trai đầy sức mạnh và lòng can đảm, tuy nhiên đang trầm tư và đang rất buồn, cặp mắt to, mơ mộng, long lanh như nước và vô cùng buồn bã của anh như đang muốn thốt lên một điều gì đó mà tiếng nói thông thường không đủ sức diễn đạt... Anh là liệt sĩ Kháng chiến chống Mỹ đầu tiên của cả ngôi nhà số bốn, và có lẽ của cả phố, không chừng cả thành phố. Gia nhập hải quân, anh hy sinh ngay trong năm Sáu Tư, ngoài khơi Hòn Mê, một ngày biến động, đầu Tháng Tám. Tin anh tử trận đồn về rất sớm song không hiểu sao báo tử chính thức lại rất muộn. Năm bảy mươi, khi anh Vinh "Pét" nhập ngũ, chị Giang vẫn còn đang một lòng đăm đắm chờ đợi ngày anh Trung của chị trở về. Anh Vinh kể với tôi thế trong cái đêm đơn vị tôi và đơn vị anh cùng ém trong cánh rừng già ven đường 18 đợi lệnh hiệp đồng tấn công Plây Cần. Vinh nói, nửa đùa nửa thật, rất gở: "Tao biết chắc Giang yêu một cách lưỡng lự, yêu cả tao cả Trung nhưng vì Trung đi lính trước nên Giang tưởng là chỉ yêu có mỗi Trung thôi. Bây giờ, nếu giấy báo tử của tao về trước giấy của Trung thì Giang sẽ nhận được ra là tình yêu của cô ấy thật sự dành cho ai".
    Trên bức tranh, chị Giang hiện ra trong khoảng dập dờn nhất của quầng sáng, nên hình ảnh chị vừa sinh động vừa hư ảo, mà có lẽ đấy là dụng ý của họa sĩ, bởi vì thực ra đêm ấy chị đâu ngồi đó bên bếp lửa với đám trẻ nhà số bốn. Họa sĩ không vẽ chị ngồi kề bên anh Trung. Chỉ có một thằng bé đang nép sát vào chị, và cả hai chị em đều ngồi hơi tách khỏi những nhân vật khác của bức tranh.
    Chị Giang trong tranh mới mười bảy tuổi. Dưới ánh phản chiếu lung linh của ngọn đèn, gương mặt trái xoan trẻ măng, trắng hồng của chị mới xinh làm sao. Cặp môi mòng mọng hơi bậm lại, cái cổ cao trắng ngần. Chị ngồi, cúi đầu, hai tay khoanh trên đầu gối. Không nhìn thấy mắt, chị không ngước mắt lên, nhưng có thể thấy rõ đôi lông mày thanh tú, hai hàng mi rợp và như hơi ươn ướt. Vẻ mặt đượm buồn. Thằng bé ngồi bên chị, vóc người cao, chân dài diện giày da, bận áo ấm kiểu ngoại có viền lông, nom rõ là con nhà khá giả hơn hẳn những đứa khác trong tranh, nhưng tôi không thấy được khuôn mặt nó. Thằng bé ngồi nép sát vào chị, vòng tay ôm lấy eo lưng chị và đầu thì ngả hẳn lên bờ vai. Vì thế khuôn mặt nó chìm vào trong mái tóc dài buông xõa trên vai chị. Tôi chăm chú nhìn, và bất chợt giật mình. Người gai lên. Phải chăng thằng bé ấy là tôi? Thận trọng, cố không để bị cảm giác đó chi phối, tôi lại thật sát bức tranh, nhưng khi nhìn quá gần thì các chi tiết trên tranh lập tức rời ra thành những vệt riêng biệt, chỉ còn là những mảng màu nổi gờ lên cùng những vệt bút vẽ.
    Tôi lùi lại, và khi đấy, từ một khoảng cách vừa phải, trước mắt tôi những mảng sơn dầu lại hợp vào thành đêm hôm ấy, thành những người anh em đã khuất của tôi, thành chị Giang và tôi. Ðúng là tôi, cái thằng bé đang vùi mặt vào tóc chị. Tôi chưa từng ngồi như vậy bao giờ, chưa từng có cử chỉ ấy, nhưng mà tôi đã từng nhiều lần mơ thấy như thế. Làm sao, sức mạnh huyền bí và linh diệu nào đã khiến những giấc mơ cực độ thầm kín năm xưa hiện về lung linh trên mặt vải?
    Gần trọn quãng đời trai trẻ của tôi không hề được hưởng tình yêu. Qua hết những năm vị thành niên cho đến ngày nhập ngũ, trải sáu năm chiến trường chẳng từng được thật sự gần gụi một người con gái nào. Hết chiến dịch này tiếp chiến dịch khác, mùa khô qua mùa mưa tới, sức lực, sinh khí đổ dốc xuống dọc những chặng đường hành quân và xuống những chiến hào, tình cảm dành trọn cho đồng đội. Nhưng thảng hoặc, vào buổi sớm mai nào đó, đất trời tự dưng ắng tiếng bom, thức dậy giữa rừng sâu không tiếng súng, nằm đung đưa trên võng, tôi thường thẫn thờ nhập thân vào một kỷ niệm chẳng phải của mình. Tôi trông thấy chính tôi, chứ không phải Trung, đang ghì xiết lấy chị Giang, khi thì giữa đông nghịt biển người dưới chân gò Ðống Ða, khi thì trong ánh sáng lúc canh khuya của lửa bếp trước sân nhà. Sững sờ, tôi cảm được cặp vú của chị áp lún vào ***g ngực tôi và căng trĩu trong lòng bàn tay tôi. Một mình tôi góc rừng hoang mà tôi chạm được vào đôi môi của chị, hít thở được hương thơm của làn da và mái tóc chị. Lúc bấy giờ, tôi biết những cơn mê lú như vậy là tội lỗi và sẽ chỉ gây nên cho tôi những thương tổn tinh thần trầm trọng. Không muốn phải chịu đựng những đau đớn vô ích, do đó tôi đã cố cưỡng, song con người ta ai mà có thể đưa tay ra cản lại mộng mị?
    Nhưng sau chiến tranh, khi mà cái sức tưởng tượng tội lỗi ấy không còn trong tôi nữa thì tôi lại hiểu rằng ra những tội lỗi trong mơ ngày đó chính là hình bóng của mối tình đầu không có thật của tôi. Và mặc dù rằng dù sao đi nữa thì cũng vẫn là tội lỗi, và mặc dù khốn khổ, mặc dù nực cười và mặc dù mong manh lúc mờ lúc tỏ nhưng mối tình đầu phải tuyệt đối vùi sâu chôn kỹ ấy cũng đã góp phần ánh sáng soi rọi tâm hồn tôi, giúp tôi vững tinh thần, và có lẽ một phần nhờ thế mà rốt cuộc tôi đã sống sót trở về. Và thậm chí mối tình đầu không hề có thật ấy vẫn còn tiếp tục là một trong những nguồn sáng giúp tôi từ sau ngày trở về biết yên lòng vui sống, biết vững tâm mà mạnh dạn vượt qua được những năm dài gian lao thời hậu chiến... - Tuần sau chị sẽ vào lại Sài Gòn. - Giang nói, thở dài. - Và chắc phải ở hẳn lại. Anh Vinh thì đã vào từ mấy năm rồi. Anh ấy thích Sài Gòn. Chị thì cứ dùng dằng. Lần này, anh ấy ra tối hậu thư, hoặc vào với chồng con, hoặc...
    Chúng tôi đứng ngoài ban công. Buổi tối mùa xuân lạnh lẽo, lất phất mưa phùn. Ban công khá rộng, song chỉ để vài chậu cây.
    - Bữa nào cậu qua mang cái gốc táo này sang bên nhà, - Giang chỉ một chậu cây to khuất trong góc tối. - Trước khi chặt cây táo dưới sân, Tấn nó cũng có lòng chiết cho chị một cành. Chẳng hy vọng gì, thế mà rồi sống nổi đấy. Ðã đâm rễ đâm chồi ra được thế này. Cậu mang về, chăm nom một thời gian nữa trong chậu rồi thì trồng hẳn vào đất cho thành cây to như xưa. Với chị, táo ta vẫn là nhất. Một thời chuộng táo tây, nhưng Tết này, thiên hạ cũng quay về cả với táo ta rồi đấy...
    Giang nói miên man. Giọng nhỏ nhẹ, buồn rầu. Ngoài ban công rất lạnh, nhưng chúng tôi không trở vào phòng. Càng về khuya càng lạnh, song tôi không nhận thấy thế. Lòng tôi ấm áp. Tôi đang ở bên Giang. Tôi có thể đứng mãi, đứng mãi thế này.
    - Chị sẽ để lại căn phòng này cho Tấn, - Giang nói. - Nhà được ba anh em, cả ba anh em đều ra trận. Mà được mỗi cậu ấy trở về. Bức tranh chị cũng để lại. Gia đình chẳng giữ được bức ảnh nào của anh Trung. Hình anh ấy chỉ còn lưu lại duy nhất trong bức tranh thôi.
    Thấy tôi châm thuốc, Giang hỏi:
    - Cậu hút thuốc lá rồi đấy à?
    Tôi bật cười. Cách đây ba lăm năm Giang cũng đã nhẹ nhàng trách cứ như thế khi phát hiện tôi núp dưới gậm cầu thang hút trộm thuốc của bố.
    Trong bóng tối, gương mặt Giang lại trẻ như hồi nào... Và tôi cũng thế. Bởi vì thời gian càng nhích sâu vào trời khuya để đến với ngày mai thì chúng tôi càng về gần hơn với Hà Nội những đêm xưa, với Hà Nội trong vắt lúc không giờ. Về gần hơn với bạn bè một lứa bên trời, về gần hơn với tình yêu ban đầu, về gần hơn với tuổi thơ non dại. Sinh ra, lớn lên, rồi làm lụng, rồi chiến đấu và hy sinh cho thành phố này, thế hệ chúng tôi được hưởng phép mầu của nó, trở thành một thế hệ mãi mãi tuổi thanh xuân của một thành phố trẻ trung vĩnh hằng.
    HẾT
  9. tamlytrilieu

    tamlytrilieu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/08/2004
    Bài viết:
    356
    Đã được thích:
    0
    Cái mục này hay quá. Tôi xin đóng góp một truyện vừa đọc được, xin post lên đây chia sẻ với mọi người.
    Bạn chiến đấu

    Tác giả: Doãn Dũng
    Nguồn: VNQĐ 12/2006.


    Mùa hè nước Nga tắt nắng rất muộn. Bảy giờ tối mặt trời vẫn vàng rực chưa chịu giấu mình sau rặng bạch dương xa xa phía tây làng Orekhovo. Những người đàn ông trong làng thường tụ tập vào lúc này, sau một ngày đồng áng vất vả. Họ uống bia, chơi đô mi nô và nói dăm ba câu chuyện tầm phào đợi cơm tối.
    Bên cạnh những người đàn ông Nga to khoẻ, ở trần, da rám nắng đỏ au, đang cười nói vung tay đập côm cốp những quân đô mi nô lên mặt bàn gỗ sồi là một người đàn ông châu Á. Trông anh nhỏ bé, khuôn mặt gầy, tóc tai bờm xờm rất khó đoán tuổi. Anh mặc một cái áo sơ mi cũ, cúc cài cúc buông, xộc xệch nhầu nhĩ. Chiếc quần khaki màu xám, bạc phếch, xắn đến tận đầu gối. Tư thế ngồi của anh cũng khác những người đàn ông quanh đó. Một chân có giày buông dưới đất, một chân co lên ghế thì không giày, cằm tì lên cái đầu gối củ lạc, mắt chăm chú theo dõi những quân đô mi nô trên bàn. Chốc chốc lại thấy anh đổi chân cho đỡ mỏi, chân kia dò dò dưới gầm bàn tìm chiếc giầy há mõm, quăn queo, mốc thếch.
    _Này ông, đồng hương của ông đến đấy - Vợ anh, một người phụ nữ Nga, bất chợt xuất hiện, thò đầu qua lớp hàng rào gỗ gọi vọng vào.
    _Bảo họ đợi một chút, tôi chơi nốt ván đã.
    _Họ lại đến mua lợn à? ?" Ai đó trong hội hỏi.
    _Chắc vậy - anh lơ đãng trả lời và đặt quân đô mi nô cuối cùng lên bàn ?" Tôi thắng rồi nhé - anh thông báo rồi đứng dậy, chân lại rờ rẫm tìm chiếc giày lúc nãy hẩy khỏi chân.
    Người đàn ông châu Á đó tên là Tuấn. Gần hai chục năm trước, anh được chuyển tiếp sang Nga học năm thứ 5 về ngôn ngữ. Trên một chuyến tàu, anh quen người thôn nữ Nga, không xinh nhưng chất phác và đôn hậu. Họ yêu nhau, lấy nhau rồi về quê vợ làm lụng sinh sống, tại cái làng nhỏ bé này.
    * * *
    Rất mất công Việt mới tìm ra Tuấn nhân thể một chuyến công tác sang Nga. Mọi mối quan hệ được anh đào xới để tìm ra manh mối Tuấn ?ođiên?, cái tên mà ngày xưa mọi người vẫn gọi Tuấn. Ở Matxcova có người bảo hình như Tuấn ở dưới vùng Novoxibir. Việt mua vé, bay mất 5 tiếng xuống đây. Lùng sục trong cộng đồng người Việt, những câu hỏi, những lời miêu tả mơ hồ, những cái lắc đầu trễ nải của người được hỏi không làm Việt nản nòng. Rốt cuộc cũng có người nhíu mày bảo: ?oCó lẽ đó là ông Tuấn ?olợn?, chuyên cung cấp lợn thịt, thực phẩm tươi sống cho ?oốp? này. Đúng là ông ấy lấy vợ Tây, nhưng ở cái làng cách thành phố này hàng trăm km, khó tìm lắm đấy?.
    Giờ thì Việt khẳng định người đàn ông đang đi trên con đường làng là Tuấn ?ođiên?. Cái dáng người nhỏ bé, lưng còng còng, khi đi hai tay đút túi quần, đầu chúi ra đằng trước như chực ngã chẳng lẫn vào đâu được. Trông anh vẫn thế, ngoại trừ cái lưng có vẻ còng hơn dưới gánh nặng tuổi tác.
    _Mua gì thế ông? Lợn hay gà? - Tuấn vừa bước vào vừa hỏi. Dường như theo một phản xạ có điều kiện, những người Việt nam đến đây chỉ để mua thực phẩm tươi sống đem về thành phố chế biến bán kiếm lời, cho nên Tuấn vào đề ngay.
    _Tôi chẳng mua gì cả, đến thăm anh thôi - Việt vừa nói, vừa cười, nheo mắt ngắm Tuấn từ đầu đến chân - Lôi thôi quá! vẫn chẳng khác gì một anh nông dân vừa cầy xong thửa ruộng - Việt bảo.
    _Thì?tôi vẫn là nông dân đấy thôi - Tuấn cười chống chế, đưa tay gãi đầu, nhìn Việt khó hiểu, không rõ con người đứng trước mặt mình là ai, đến đây làm gì?
    _Vẫn chưa nhận ra ai à? - Việt mở túi xách, móc ra một vật khum khum được gò bằng tôn hoa. Năm tháng đã làm nước mạ bay mất, chỉ còn lại một mầu tôn xám xỉn - Nhận ra ai chưa?
    _Chú Việt - Tuấn thốt lên - Chú khác quá, chú vẫn giữ cái này à? ?" Bà béo ơi, đây là bạn chiến đấu của tôi - Tuấn bỗng hoạt bát hẳn lên, í ới giục vợ làm cơm. Lăng xăng đi bắt gà đãi khách. Miệng không ngớt lẩm bẩm: ?oLà chú Việt! Quí hoá quá! Quí hoá quá?.
    * * *
    Tuấn sinh ra và lớn lên ở một vùng quê Bắc bộ. Khi Tuấn bắt đầu cắp sách đến trường, cũng là lúc chiến tranh leo thang ra miền Bắc. Bom Mỹ vãi như trấu trên những cánh đồng quê Tuấn. Tuấn đi học phải đội mũ rơm. Cha Tuấn làm cho hai cái mũ rơm. Một cái rộng vành đội đầu như mũ của các bạn khác. Cái nữa nhỏ hơn, không vành, khum khum như cái mo cau. Cha Tuấn dặn: ?oĐi học nhớ che dái?. Tuấn lờ mờ hiểu rằng cái mũ đó quan trọng cho cuộc đời mình. Trẻ con mải chơi hay quên, nhiều hôm Tuấn đi học chỉ mang cái mũ rộng vành. Tuấn đành lấy cái mũ đó che phần bụng dưới mặc cho đầu trần. Lũ bạn thấy thế trêu chọc bảo Tuấn ?ođiên?. Lúc đầu Tuấn còn cáu, chửi lại. Càng chửi chúng nó càng trêu tợn, sau Tuấn thây kệ.
    Khi Tuấn bắt đầu phổng phao thì thống nhất đất nước. Bố Tuấn ăn mừng chiến thắng bằng một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Ông sợ Tuấn sẽ phải nhập ngũ khi vẫn còn chiến tranh. Ông bảo Tuấn: ?oMay cho mày?.
    Năm 1978, Tuấn đã 18 tuổi. Tuấn có giấy gọi nhập ngũ. Cha Tuấn thở dài, hoá ra chiến tranh vẫn chưa kết thúc hẳn, sự chết chóc vẫn còn lẩn quất đâu đây. Biên giới Tây Nam lại căng thẳng. Mẹ Tuấn khóc. Đàn bà không làm được gì hơn ngoài khóc. Cha mẹ Tuấn chạy đôn chạy đáo làng trên xóm dưới hỏi vợ cho Tuấn trước ngày nhập ngũ. Chẳng nhà nào đồng ý cho con gái về làm dâu nhà Tuấn. Cũng chẳng hiểu tại sao!
    Sau thời kỳ huấn luyện thì đơn vị di chuyển vào Nam. Cuối năm đó đơn vị vượt sông Mê Kông trong bão lửa của dàn DKZ bên kia, đánh thọc sâu vào vùng đất bên ấy.
    Gần 5 năm tham gia các trận đánh lớn nhỏ, Tuấn bị thương cũng vô số mảnh nhưng không vào chỗ hiểm. Tuấn được đi học trường Ngoại ngữ quân đội. Loắng ngoắng thế nào lại được chuyển sang trường Sư phạm ngoại ngữ Cầu giấy. Thế là thành chuyển nghành sang dân sự. Tương lai sẽ trở thành ông giáo.
    Môi trường sinh viên rất khác với môi trường quân ngũ. Đối với họ, chiến tranh đã đi qua rất lâu, nó không còn hiện hữu trong tâm trí họ, không còn được nhắc đến trong bản tin thời chiến như hồi chống Mỹ. Tuấn cũng nhận thấy rất khó nói chuyện với họ. Những câu chuyện về vùng quê nơi Tuấn sinh ra, hay những trận đánh máu lửa của đồng đội trên những cánh đồng, cánh rừng đất bạn không hấp dẫn họ. Họ thích nói về những ước mơ, mà trong ước mơ đó họ là con người của chủ nghĩa thực dụng.
    Tuấn phát hiện ra trong khối còn hai người đàn ông nữa, họ lên giảng đường vẫn mặc bộ quân phục xanh rì kiểu cũ trước năm 82, chân đi dép lốp, đôi mắt nghiêm nghị ít cười. Nhưng chính họ lại chưa một ngày quân ngũ chứ đừng nói đến chuyện nghe tiếng súng nổ hay xung phong dưới mưa bom bão đạn. Sự phát hiện ấy làm cho Tuấn thêm buồn. Anh cảm thấy mình lẻ loi đơn độc, một mình một chiến hào, không có đồng đội bên cạnh. Cảm giác đó làm cho Tuấn sợ.
    Nói thế cũng không phải lắm. Bởi học đến năm thứ 2 thì Tuấn có một người bạn. Đó là một cậu bé 15 tuổi mới nhập trường và ở nội trú như Tuấn. Trường Sư phạm có một trường phổ thông nhỏ bên trong, gọi là nuôi gà nòi. Cậu bé mới lên cấp 3 và học ở trường đó. Tuấn tình cờ ngồi gần cậu bé ấy ở thư viện. Cậu ta chăm chú đọc một cuốn sách, lúc nghỉ giải lao, anh ngó qua. Đó là một cuốn truyện viết về hai cô bé bị bắt vào trại tập trung của bọn Polpot. Hai cô bé đã mưu trí trốn khỏi bàn tay độc ác của lũ diệt chủng, nhằm hướng đông cắt rừng lội suối sang được đến miền đất tươi sáng là Việt nam. Tuấn bảo: ?oAnh chiến đấu ở đấy gần 5 năm?. Thế là họ thành bạn của nhau. Chỉ có cậu ấy mới nghe được những câu chuyện của Tuấn, mới hiểu được những giấc mơ ám ảnh, chia sẻ với anh ký ức trận mạc. Có một người bạn vong niên như thế là Tuấn vui lắm rồi.
    Tuấn bắt đầu mắc chứng mất ngủ. Lúc đầu mới chỉ là khó ngủ. Cứ chợp mắt là thấy sáng loà của quầng lửa B40, tiếng xé gió rách tai của đạn pháo vượt qua đầu, tiếng cắc đùng của cối cá nhân, tiếng rên la của đồng đội. Thường thì Tuấn bừng tỉnh ngay trước khi mơ mình bị bắn chết. Mồ hôi đầm đìa ướt áo, tim đập thình thịch hốt hoảng như ngày đầu ra trận. Những cậu sinh viên cùng phòng tỏ vẻ khó chịu ra mặt với những cơn mơ của Tuấn. Họ bảo: ?oĐã nóng, đã đói cố mà ngủ cho quên, anh lại cứ la hét ầm ầm thế bố ai mà ngủ được?. Tuấn cảm thấy mình có lỗi vì làm phiền những người xung quanh. Anh đi ra ngoài cho họ ngủ.
    Tuấn lang thang trong khuôn viên của trường đến gần sáng, khi khí trời đã bớt hầm hập thì anh chợp mắt được một lát dưới mái hiên ngôi nhà nào đó. Tuấn thiếp đi trong sự mệt mỏi và không còn sức để mơ về những trận đánh nữa. Có hôm còn mơ thấy giấc mơ đẹp, được ******** với bọn con gái. Những đêm như thế, Tuấn hay bị dậy muộn vì cứ nấn ná nhấm nháp sự sung sướng trời chỉ ban cho trong giấc ngủ. Cho đến lúc sáng rõ, có tiếng người lao xao đi học và cú đá vào mông của mấy cậu sinh viên: ?oTuấn điên, dậy đi? thì anh mới lồm cồm bò dậy về phòng đánh răng rửa mặt, chuẩn bị sách bút lên giảng đường.
    Bọn sinh viên trong trường cả gái lẫn trai, năm trên khoá dưới đều biết đến Tuấn. Chúng nó gọi Tuấn là Tuấn điên. Anh cũng mặc kệ, từ bé anh nghe tên mình như thế thành quen tai.
    Người quản lý ký túc xá cũng từng là một người lính thời chống Mỹ. Ít nhiều ông cũng hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh của Tuấn. Ông ta thu xếp cho anh một căn phòng khoảng 6 mét vuông ở tầng áp chót. Thực ra nó là một cái nhà tắm công cộng được bố trí ở chiếu nghỉ tầng 4 rưỡi của một ngôi nhà 4 tầng xây từ những năm 50. Nước nôi khan hiếm đã biến cái nhà tắm ấy hoang phế nhiều năm nay. Tuấn dọn dẹp sạch sẽ và kê vào một chiếc giường sắt.
    Cớ ngỡ là không còn làm phiền đến ai thì Tuấn có thể yên tâm la hét rồi vùi mình trong giấc ngủ. Hoá ra không phải vậy! Những giấc mơ vẫn hiện về, không còn chói loà ầm ĩ như trước, nhưng ám ảnh nặng nề hơn trước rất nhiều. Giấc mơ về những trái mìn cóc và những đôi chân không lành lặn của đồng đội. Có lần Tuấn mơ thấy trái mìn nhảy lên ngang hông. Nó không nổ ngay như mọi khi. Nó biết nói tiếng người và hỏi anh: ?oTao đang ngủ sao mày dẵm vào tao hả thằng kia?. Tuấn trả lời: ?oMày mầu *** ngựa lẫn với cỏ đất tao đâu nhìn thấy?. Nó lại bảo: ?oBất luận thế nào mày cứ dẫm lên tao, làm đau tao thì tao phải nổ?. Và nó cười ngạo nghễ trước khi phát nổ. Tiếng nổ không to, sát thương không rộng nhưng tàn độc. Người dính mìn cóc không chết nhưng mất vĩnh viễn đôi chân, tệ hơn là mất cả đôi ngọc hoàn, cướp đi quyền năng tạo hoá ban cho đàn ông để có thể làm khổ được đàn bà. Một người đàn ông nếu có cụt cả 2 chân đến bẹn, nhưng quyền năng tạo hoá vẫn còn, thì họ vẫn còn cơ hội để làm khổ một ai đó. Còn chút ít niềm hi vọng để sống, để tồn tại hay ít nhất cũng còn có thể tự mình làm khổ mình như anh trong những giấc mơ hoan lạc.
    Cũng có thể do ý thức được cái mũ không vành cha làm cho thời thơ ấu, nên Tuấn rất chú trọng giữ gìn bảo vệ phần dưới rốn. Lần đâu tiên Tuấn biết thế nào là mìn cóc khi bám theo xe tăng đánh cứ điểm. Xe tăng tấn công đi trước mở đường, bộ binh nép theo sau tác chiến cùng. Người bên cạnh Tuấn dính mìn cóc, anh nhìn rõ khoảnh khắc trái mìn nhảy lên rồi nổ tung. Người ấy đổ ập xuống sau tiếng nổ, đau đớn tột cùng với cái quần rách nát lùng bùng xương vỡ lẫn thịt vụn. Sự việc còn kinh hoàng gấp bội khi Tuấn phát hiện ra cặp ngọc hoàn của ngưới lính đó văng lên nóc xe tăng. Tuấn nhìn nó rất rõ, thậm chí còn thấy mấy sợi lông bay phất bơ đính trên một mẩu da bìu vương vãi. Tuấn buồn nôn và ngồi thụp xuống. Chẳng ai quan tâm, lính mới nhìn thấy máu me phát nôn là chuyện thường.
  10. tamlytrilieu

    tamlytrilieu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/08/2004
    Bài viết:
    356
    Đã được thích:
    0
    Tuấn cắt vỏ đạn lựu pháo 105 rồi gò thành một cái mũ không vành hình tam giác, khum khum che kín chỗ cần che. Đục lỗ ba đầu luồn dây dù treo lên người. Lúc đầu bọn trong đơn vị cười sằng sặc không chấp thằng Tuấn ?ođiên? này. Thời gian sau, đơn vị càng vào sâu, càng trúng nhiều mìn càng mất nhiều ngọc hoàn. Những người lính trẻ tuổi bắt đầu lo sợ, họ cũng làm như Tuấn. Ít ra là cả tiểu đội Tuấn đều có rọ mõm như cách gọi tếu táo của lính. Đúng là Tuấn chẳng biết gọi nó là gì, áo giáp cũng không phải, quần giáp thì nghe không lọt tai, cuối cùng ai đó gọi là rọ mõm thấy hay hay rồi quen tai. Rọ mõm được cất trong ba lô, lúc nào lâm trận thì dùng. Sau chợt hiểu mìn không đợi vào trận đánh mới nổ, mìn có ở khắp mọi nơi nên Tuấn chỉ tháo rọ mõm khi đi ngủ.
    Trong cái chuồng cu 6 mét vuông này, trái mìn biết nhảy biết nói hiện diện khắp nơi. Hồi đầu nó chỉ xuất hiện trong giấc ngủ. Bây giờ cả trong lúc thức, lúc Tuấn đang ngồi học bài cũng nghe văng vẳng bên tai: ?oThằng kia, tao nổ này?. Tuấn bị nó hành hạ không ngủ được khiến cơ thể suy nhược. Tuấn sợ nó đến mức đi đường thấy vật gì mầu nâu nâu xanh xanh là tránh thật xa, kể cả nó chỉ là hòn đá hay mảnh sành mảnh chĩnh.
    Sự sợ hãi đã lớn đến độ, Tuấn không dám bước chân xuống cái giường sắt thì cậu bé, bạn vong niên của anh tìm ra cách chế ngự nó. Cuộc sống có nhiều thứ ngược đời, cứ tưởng là đơn giản hoá ra phức tạp, có cái phức tạp lại giải quyết vô cùng đơn giản. Cậu ra chợ đặt ông thợ gò hàn làm một cái rọ mõm bằng tôn như trong câu chuyện cậu được nghe Tuấn kể. Cậu ta đưa cho Tuấn bảo: ?oDùng thử xem?. Rõ ràng là sau đó anh tự tin hơn, anh đã có thể khủng khỉnh trả lời ngược lại với quả mìn rằng: ?oMày cứ nổ đi, ****** mất hai chân là đinh nhé, đố mày lấy được cái chân thứ ba của bố đấy?.
    Có một sự lạ là khi Tuấn đeo rọ mõm thì quả mìn ấy như có mật thám báo trước, nó trốn biệt. Chỉ khi Tuấn tháo ra thì nó mới xuất hiện. Đã thế Tuấn đeo luôn trong người, kể cả lúc đi học. Có điều, lúc nào cũng thấy hai tay Tuấn đút túi quần, để vừa đi vừa giữ rọ mõm cho chắc chắn. Cái quần lính khá rộng che bớt cũng không đến nỗi nào, chẳng phải ai cũng nhìn thấy sự khác lạ nơi anh.
    Những giấc mơ chết chóc và quả mìn biết nhẩy không còn hiện diện trong cuộc sống của Tuấn thì anh bắt đầu thấy thích ngắm lũ con gái. Nhất là lúc chúng cúi xuống múc nước ở cái bể nước công cộng. Mắt Tuấn như bị dính vào những đường gân hằn lên sau lớp vải lụa đen.
    Tuấn chú ý đến một người con gái cùng lớp. Chị ta gầy, đen đúa và xấu gái. Tuấn rủ chị ta đi chơi đến lần thứ ba thì chị ta nhận lời. Cũng chẳng phải là đâu xa, đi loanh quanh trong trường vào buổi tối thôi. Dạo trước khó ngủ Tuấn hay lang thang đêm, anh biết rất nhiều ngóc ngách buổi tối trai gái hay chui vào tâm sự. Tuấn rủ chị ta vào, một thoáng lưỡng lự rồi cũng đồng ý. Bình thường Tuấn đã không biết phải nói chuyện gì với bạn nữ. Trong hoàn cảnh này, Tuấn càng không biết nói gì, mọi suy nghĩ biến đâu mất, đầu óc rỗng tuếch. Tuấn bèn cầm tay cô ấy và định làm cái việc như những thằng đàn ông khác ngồi gần đấy đang làm. Anh muốn biến những cảm giác sung sướng chỉ xuất hiện trong giấc mơ thành hiện thực. Cô gái đẩy Tuấn ra, chống cự quyết liệt. Chị ta hét lên: ?oAnh điên à??. Những người xung quanh giật mình dừng hết công việc của mình và ngó sang. Tuấn phẩy tay cho qua. Đúng là đồ đàn bà!

Chia sẻ trang này