1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Truyện ma của gà: Gỡ bỏ lời nguyền của xác ướp Tutankhamen (tr.4)

Chủ đề trong '1981 - Hội Gà Sài Gòn' bởi belysymbol, 15/06/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. belysymbol_0209

    belysymbol_0209 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/11/2002
    Bài viết:
    529
    Đã được thích:
    0
    Truyện ma tiếp ....
    MA KHÔNG ÐẦU ( phần 1 )
    Tôi dụi mắt ngắm kỹ một lần chót nữa. Quả nhiên, cũng như cảnh tượng vừa hiện ra lúc tôi mới đến, tất cả sự vật chung quanh mình tôi cứ tựa hồ như chứa đầy một vẻ bí mật thiêng liêng rùng rợn, một vẻ bí mật mà hình như rõ rệt tôi đợc mục kích càng làm cho dữ dội nặng nề.
    Hiện trạng đương phô bày trên mái đồi kia, trớc mắt tôi không xa mấy, dưới ánh nắng vàng đỏ của buổi chiều tà, hiện trạng đó có quả thực là một hiện trạng hay không, hay chỉ là một hình ảnh mơ hồ mà đôi mắt quáng của tôi lầm tưởng là một bức tranh kỳ quặc tôi phân vân không biết tự đáp thế nào. Ngắm đi ngắm lại, rồi lại dụi mắt, dụi mắt xong lại nhìn, tôi hết sức nghiền ngẫm cho chắc chắn, cho kỳ mối ngờ vực của tôi thành hẳn ra ngờ vực, hoặc biến thành một tín ngưỡng sâu xa. Nhưng... có lẽ nó hóa ra tín ngưỡng mất.
    Vì, chỉ cách tôi bảy tám cột đèn, nghĩa là non hai trăm thước, giữa ban ngày, sự lạ lùng hiện ra cho tôi trông thấy vẫn không hề biến đi, mà cũng không thay đổi. Sự ấy thực là một kỳ quan độc nhất vô nhị, một sự tối vô lý mà mình phải tin là thật, nhưng cũng có khi ngờ là giả dối, mơ hồ. Cứ lấy con mắt hết sức chú ý nhìn, thì sự đó vẫn không trốn tránh tính tò mò hiếu sự của ta; song, hễ khi nào ta dùng đến một vật gì để đi gần lại trường hoạt động của nó, thì nó biến vụt ngay nh làn khói bị gió lùa. Hoặc ta tìm cách đi lại gần chân đồi, còn độ hai ba cột đèn sẽ tới nơi, trông lên không thấy gì nữa cả; hoặc ta đem lên mắt một cặp ống nhòm để phóng đại trưởng quan sát, phong cảnh càng to ra bao nhiêu thì hình như ta muốn thấy mờ đi bấy nhiêu, có khi hóa thành trong vắt như kính, nghĩa là không có hình sắc nữa.
    Bằng cứ chịu khó đứng xa mà ngắm nhìn thì dẫu ngắm chán mắt, sự kỳ quặc kia cũng vẫn hiện ra cho mình trông thấy, hiện ra một cách nửa rõ rệt, nửa mơ hồ lạ lùng khó tả quá! Nhưng không phải ngày nào, giờ nào, bất cứ lúc nào, ta cũng có hạnh phúc được nhìn nó. Nó chỉ thoát khỏi cõi âm trở về cõi dương một năm có vài kỳ, mỗi lần sự biến thiên của khí hậu gợi cho nó nỗi nhớ tiếc một thời oanh liệt thủa xưa.
    Sự biến thiên đó họa hoằn mới xảy ra; ấy là một điều tối không may cho những khách tò mò hiếu sự. Như tôi chả hạn. tôi đã phải dằn lòng gắng sức đợi đến ngót tháng trời mới đợc trông thấy hình bóng tôi muốn thấy; nào phải đâu là sự dễ dàng.
    Cảnh tượng dị kỳ tôi đã được mục kích, nó là hai con ma, hai cái oan hồn uất ức của hai kẻ chịu tử hình, lâu ngày không tiêu đi được tụ lại thành bóng, hấp thụ mãi khí thiêng liêng của trời đất, nên mỗi khi bị hoàn cảnh xúc động đến là hiện được lên ngay, hiện lên để diễn lại một tấn trò mà xưa kia, hai oan hồn đó thường diễn những giờ cao hứng.
    Phàm giả người ta, trong buổi sinh thời, có một thú gì mình yêu nhất, mê nhất, một thú gì làm then chốt cho tất cả bao nhiêu tính hình dục vọng của mình, một thú gì mình đã biết hưởng và đã đặt trên tất cả những khoái lạc của cuộc đời , thì nhiều lúc, sau khi đã lìa bỏ cõi tục rồi, vẫn còn nhớ tiếc đến thú ấy luôn luôn chỉ ngong ngóng chờ có dịp hưởng lại là chộp lấy ngay, không bỏ sót.
    Cũng bởi cớ đó nên một khi thi nhân đã chết, hồn thi nhân còn muốn ngâm thơ, một khi nhạc công đã chết, hồn nhạc công còn muốn gảy đàn. Câu thơ của Ðường Vương Bột văng vẳng trên dòng sông Lạc, liệu đàn cua Sư Quyên véo von trên mặt sông Bộc chẳng phải là những chứng cớ rõ ràng cho thuyết ấy hay sao?
    Mà nhất là khi kẻ bị thác lại là người mệnh bạc, vì nghiệp chướng mà chết oan, chết yểu, bất đắc kỳ tử hay bị nhục hình, thì một điểm linh hồn bay phiêu diêu trong gầm non nước không tài nào siêu linh tịnh độ được, cứ mập mò khi tan khi tụ, bơ vơ trôi dạt, không đâu là bến là bờ. Ðiểm linh hồn đó vẫn còn nhớ rõ rệt cuộc sinh hoạt mình vừa trải, vẫn còn đầy dục vọng và tình cảm, nhưng chỉ vì không có xác vật chất nên khó lòng diễn được dục vọng và tình cảm đó mà thôi. Nhiều linh hồn còn muốn sống thêm nữa trên cõi thế, bởi chưa dứt hẳn trần duyên, còn muốn vẫy vùng nữa, ganh đua nữa cùng người đời cùng tranh đấu cho tới cùng. Có linh hồn thì một khi thác đã tỉnh ngộ ra, bay lên một gầm thiêng liêng cao sạch để ngao du, tịnh dưỡng. Những linh hồn đó không mấy khi trở lại nữa, một đi, đi chẳng trở về. Còn như các linh hồn bi nghiệt duyên dục vọng buộc chặt với cuộc sinh hoạt của loài người. thì chúng thường thường bay vẩn vơ quanh quẩn bên mình ta, trông ta một cách ham muốn thèm thuồng, chỉ đợi có dịp tốt là trở về sống chung lại với ta, dẫu rằng trong một phút.
    Mỗi khi có đàn tràng cúng tế, là chúng lần mò cùng đến, để rồi chóp lộc cúng cơm, mỗi khi có kẻ ngồi đồng, hay có kẻ thần hồn bị suy nhược là chúng ám vào người để được cử động quay cuồng cho đắc ý. Lại những lúc có cuộc thi hội, thi hương, thì chúng tụ họp cả ở cửa trường, để đợi gọi đến thì ùa vào mà báo ân báo oán.
    Nói ra không hết được; ta chỉ biết bởi cớ có nhiều âm hồn còn muốn sống nữa, nên có khi xảy ra những chuyện kỳ dị mà, nếu mắt ta không đợc quan sát thì ta vội cho là hoang đường. Song le , nêu ta chịu khó bỏ hết cả các thành kiến, nếu ta chịu lưu tâm suy xét đôi chút đến nhẽ huyền vi của máy âm dương, ta sẽ nhận thấy rõ là không có sự gì hoang đường cả. Trên đời chỉ hoàn toàn có sự thực mà thôi, cái gì có thể xảy ra được đều là thực cả.
    Chỉ có một điều, là không phải ma nào, oan hồn nào cũng hiện lên được cả. Ma muốn hiện hình tất phi đủ tư cách, phải ở trong những trường hợp không bị ngăn trở mới biến hóa được. Tỷ như vàng muốn biến hóa ra nước tất phi nấu lên ngoài ngàn độ, sự biến từ thể nọ sang thể kia có phải bất cứ trường hợp nào cũng xảy ra đâu?
    Cho nên, ma có thể hiện hình được, trước hết cốt phi thiêng, mà muốn thiêng, thì theo như sự chúng ta cùng biết, phải có một vài điều kiện. Một là chết đúng giờ. Hai là chết trẻ, mà chết một cách thê tham dữ dội. Ba là chết oan. Bốn là được chôn ở chỗ đất có mạch. Năm là phải hấp thu được khí thiêng của trời đất.
    Phi mấy điều kiện ấy, thì chỉ là một mảnh hồn yếu ớt, phất phưởng, khi tán khi tụ, bay là là vô định trong gầm vô định mà thôi. Mà có được cả mấy điều kiện vừa kể, cũng phải tùy từng buổi, từng chỗ, từng thời, mới hiện lên được. Ngày xưa, lúc văn minh Âu Mỹ chưa tràn sang bên cõi Á Ðông, lúc máy móc chưa rầm rộ chạy dưới gầm trời Trung Hoa và Nam Việt, thì các chốn thị thành không đông đúc lắm, các đường sá không mở mang nhiều, những chốn hoang vu lạnh lẽo nhiều hơn những chốn phồn thịnh, mà sự tối tăm cũng lâu hơn sự sáng sủa vì đêm không có đèn điện rọi đường; bới thế nên trong một hoàn cảnh lặng lẽ đìu hiu khí âm tràn ngập cả non sông mà phủ trên cuộc sinh hoạt của loài ngời, khiến dương khí không có thể hưng thịnh lên được.
    Nhưng, sau một cuộc suy vong, khí dương lại dần dần hăng hái, nó từ cõi Âu Tây tràn sang Ðông Á, khiến cho các sự vật thay đổi cả. Máy móc ngày nào cũng rầm rộ, xe pháo ngày nào cũng xôn xao, đêm thì đèn sáng như ban ngày, ngày thì ầm ầm như chợ, lúc nào cũng có kèn có trống, có âm nhạc hùng hồn; mà người thì, bị hoàn cảnh run rủi, cũng ưa múa may quay cuồng hoạt động cạnh tranh, hơn là nhàn cư mà tĩnh dưỡng.
    Cuộc sống ồn ào đã đánh tan âm khí, ma thiêng phi bạt đi xa. Những linh hồn, dù mạnh mẽ đến đâu, cũng khó lòng hiện lên được vì khí dương mạnh quá. Có lẽ các ma thiêng đều chạy cả về những chốn đồng rừng xa vắng, ở lẩn lút trên đồi, trên ải, không còn hy vọng gì phảng phất ở những đô thành.
    Chả bù với thời thái bình êm ái thủa xưa: đâu đâu âm khí cũng đều vượng cả, muốn rong chơi chỗ nào cũng được, không bị một mãnh lực gì ngăn cản, đánh tan đi. Thủa đó, người âm phủ với người dương gian nào có xa nhau mấy: ông Bồ đã vì sự người với ma hay chung chạ mà viết nên pho truyện Liêu Trai. Ðến thời này, Liêu Trai đã hóa ra một cuốn truyện hoang đường vô lý! Cho hay ma cũng có thời!
    Tôi có lẽ còn được nhiều hạnh phúc hơn Bồ tiên sinh là tôi đã được thấy ma hiện hình giữa ban ngày, trong thời đại bây giờ, lại ở một nơi không cách xa đô thành phồn nhiệt mấy. Ðó thực là một sự lạ; và, cũng vì sự lạ đó, tôi mới chép nên câu chuyện này, khiến các bạn cùng được như tôi, thưởng thức một chuyện thần linh, gọi là những lúc thanh nhàn, quên được cuộc vật lộn quay cuồng mà ngày ngày ta phải dấn thân vào để kiếm cách mưu y mưu thực.
    Thì đây, câu chuyện thần linh.
    Hôm đó, cách đây chừng khoảng hai năm, tôi về vùng Nam Ðịnh xuống ga Gôi, vào thăm một ngời bạn cũ. Lâu ngày mới gặp được nhau, bạn tôi mừng lắm, vội vàng sai vợ con đi giết gà mổ vịt, lại cho người vợ ra chợ đón mua những món quà ngon. tôi được thấy bạn cũng mừng, hai anh em ngồi uống trà đàm đạo mãi cho tói chiều, không biết mệt.
    Lúc ấy, vào khoảng bốn giờ. Trời tháng qui hạ, nồng nực lắm, tuy sắp sang thu mà cũng vẫn còn oi. Tôi đến lúc một giờ chiều, ngồi hàn huyên với bạn đã ba giờ có lẻ. Lúc tôi đến, trời nắng chang chang như lửa đốt, nhưng khi vào nhà bạn được hơn một tiếng đồng hồ thì trời bỗng đâu sa sầm mặt lại; mây đen bốn bề rầm rộ kéo đến, rồi sấm chớp nối tiếp nhau xé toạc quãng không gian bằng những tiếng nổ ầm ầm và những luồng quang tuyến sáng xanh chói lọi. Sau cuộc thị uy thị hùng ấy, mưa ở lưng chừng tới xuống trần ai như thác chảy, nhưng chỉ trong quãng nửa giờ lại tạnh ráo ngay. Mây đen, tụ lại ít lâu, cũng theo chiều gió tan đi hết cả. Trời lúc nãy bi vẩn ám , bây giờ quang đãng như không; vài tiếng sấm cuối mùa thỉnh thoảng nổi dậy, nhưng chậm rãi uể oi, không có vẻ hùng tráng như khi mưa chưa rỏ giọt.
    Mặt trời , khỏi bị che kín sau bức màn mây tối, lai vui vẻ tia ra những luồng ánh sánh đỏ rực và gay gắt; hình như sau mỗi trận mưa rào, thì ánh nắng càng nồng càng đượm; để cỏ cây mau chóng được khô ráo nhẹ nhàng. Mưa xuống nắng lên là một sự rất thường trong thời tiết. nhưng sự đó không xảy ra trong các mùa êm dịu như xuân thu, và trong vụ mấy tháng mùa đông rét mướt. Nó chỉ thường xảy ra giữa mùa hạ, là một mùa hay có giông tố thất thường.
    Mỗi một lần mưa xuống nắng lên, thì khí đất lại ngùn ngụt bốc cao khỏi đầu ngọn cỏ, hơi thở của Tạo vật lại nặng nề bực bội, mà khí hậu thì lại hóa ra độc địa vô cùng.
    Những buổi trái trời trái đất ấy, ngoài sự làm cho khí hậu hóa nên ám chướng, có lẽ còn có một mãnh lực gì u ẩn, huyền bí, xúc động cả các âm hồn. Người ta phòng nghiệm ra rằng, sau một cơn bão, khí trời ở chỗ thôn quê có mùi khen khét, khiến nhiều kẻ tưởng lầm là sét đốt cháy một vùng nào. Sự thật chỉ là, dưới sức mạnh âm ỉ của các luồng điện nhấp nhoáng trong không gian, dưỡng khí tụ đặc lại mà gây nên mùi khét. Sự tụ đặc ấy vô hình, ta chỉ nhận thấy như hưởng của nó mà thôi ; nếu không có nhà bác học thí nghiệm xét ra, có lẽ ta cũng cho là hoang đường.
    Hoang đường là tất cả mọi sự mà loài người chưa tìm ra cội rễ căn nguyên vậy.
    Sự tôi sắp nói ra đây, vì chưa dò xét được nguyên cớ, nên cũng phải tạm liệt vào loại hoang đường. Ấy là sự thay đổi trong cõi huyền bí do sức của luồng điện trong không khí tạo nên. Âm hồn làm bằng chất gì, ta không được rõ; ta chỉ biết nó vô hình ảnh, nó nhẹ nhàng phảng phất, đằm như hơi sương, thoảng như làn gió, nó tan đi hay tụ lại theo những luật riêng óc mình không xét đoán được Nó cũng ví như những khói, những luồng điện trong vũ trụ vậy
    Những nhà phù thủy cao tay, những kẻ thôi miên thiện nghệ phần nhiều đều luyện được một thứ mãnh lực tiềm tàng có thể sai khiến âm hồn tan tụ, tỷ nhà nhà kỹ sư biết cách phát điện đi hay gom điện lại. Nếu ta cho âm khí là một thứ điện, thì ta sẽ nhận rằng mỗi khi mưa dầm gió bấc, mỗi khi trời đất nặng nề, mỗi khi có mưa xuống nắng lên, thứ điện đó thường hay tụ lại thành khối. Nó tựa như chịu ảnh hưởng mật thiết của các luồng điện trong không khí, mỗi khi có sấm sét thì bị rung chuyển, xúc động; rồi, khi sấm sét đã nguôi nó cũng đông lại, cũng đặc lại như dưỡng khí, để hiện ra thành bóng.
    yêu nhau chưa hẳn ở bên nhau đã hạnh phúc , mình có thể hy sinh vì hạnh phúc của người mình yêu
  2. Soledad

    Soledad Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/05/2001
    Bài viết:
    1.751
    Đã được thích:
    0
    Có nằm trong máy thôi, cái link xóa mất rồi
    ...hãy để mùa hạ yên nghỉ.
  3. belysymbol_0209

    belysymbol_0209 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/11/2002
    Bài viết:
    529
    Đã được thích:
    0
    MA KHÔNG ÐẦU( phần 2)
    Vì tình cờ run rủi, tôi đã được mục kích sự âm hồn hiển hiện, sau một trận mưa sau một ngày gay gắt nắng. Hôm đó, ngồi đàm luận cùng bạn, tôi đương vui vẻ, kể lể mọi nỗi hàn huyên tâm sự, thì bỗng thấy bạn tôi như chợt nghĩ đến sự gì, vùng đứng dậy, vừa kéo tay tôi, vừa nói:
    -Bác hây theo tôi, sẽ cho bác xem một sự lạ lắm!
    Tôi ngạc nhiên, hỏi bạn:
    Trời đang mưa xuống nắng lên thế này, khí đất bốc lên ngùn ngụt như kia, bác muốn chúng ta đi đâu?
    - Bác cứ theo tôi, rồi tự khắc rõ! Bác sẽ không phải hối hận xông pha mưa nắng đâu. Mau lên, kẻo bỏ mất dịp này thì uổng quá!
    Nói đoạn, bạn kéo tay tôi rõ mạnh. tôi không cưỡng cũng không dùng dằng, vội đứng dậy cùng đì. Hai chúng tôi ra khỏi nhà, lần theo bờ ruộng đi một quãng khá xa, gần tới một cái đồi. Ðến một nơi cổ am, có bóng cây cao rườm rà phủ kín một vùng đất rộng, bạn tôi ra hiệu bảo tôi ngừng bước. Tôi theo đúng lời bạn, đứng tựa lưng vào gốc cây, nhưng chưa hiểu bạn tôi định tâm cho xem một cảnh vật thế nào.
    Anh ta đứng trước mặt tôi độ vài bước, ngoảnh đầu nhìn bốn phía, rồi ngước mắt trông ra phía chân đồi như tìm kiếm sự gì. Một chốc, hình như anh ta đã thấy sự muốn cho tôi được mục kích, anh lùi lại, bá vai tôi, một tay trỏ ra phía sườn đồi xanh biếc:
    - Này, anh cứ thẳng tầm mắt trông theo ngón tay tôi chỉ, có phải ở ven đồi , chỗ có nương khoai mà ta nhìn xa chỉ thấy màu đất vàng đỏ hiện rõ giữa một màu xanh thẫm, chính chỗ ấy, có hai người đang diễu võ dương oai, vật nhau chán thì cùng múa một bài quyền...
    Trong lúc bạn nói, tôi chăm chú thu hết nhỡn lực cố phóng luồng nhỡn tuyến ra mé đồi để ghi lấy cảnh vật mà anh đương tả một cách hùng dũng. Nhưng khốn nạn cho tôi? Hai mắt đã hết sức nhận xét cho rõ rệt, mà vẫn chưa thấy tí gi! Ngàn trùng mây lam lợt lợt, ruộng lúa xanh rờn, đồi cây thẫm biếc; chả có một dấu hiệu gì tỏ cho tôi là có người đương nhảy múa cả. Bạn tôi thì cứ níu chặt lấy vai tôi, bắt đầu tôi phải gần sát đầu anh, hình như muốn truyền sang cho tôi nhỡn lực của anh vậy.
    - Chết nỗi? Anh chưa thấy gì ư? Kia kìa, anh cứ chú ý nhìn vào nương khoai đo đỏ kia, chúng nó đương vờn nhau hay lắm. Anh đã thấy chưa?
    Bấy giờ hình như mắt tôi mới đỡ quáng đỡ mờ, tôi thình lình thấy một vệt trắng xám, hung hung ở sườn đồi, mé dới nghiêng về bên tả. Liền lúc ấy, tôi cũng hình như trông thấy hai cái bóng sẫm, tựa hồ hình dáng người nhưng rất lạ. Buột mồm, tôi kêu lên rông:
    -Quái! Làm sao nó không đầu!
    Tôi vừa dứt tiếng, một đống cát bụi, ở đâu cạnh chỗ chúng tôi đứng, bỗng vụt bốc lên. Tôi nhắm mắt lại. Bụi cát và lá khô phả vào mặt tôi rõ mạnh, tôi cảm thấy một luồng gió dữ dội đương quấn lấy thân tôi, hút tôi, làm cho tôi nghẹn ngào khó thở. Mũ tôi tự nhiên bi cuốn lôi lên. tôi níu chặt lấy bạn.
    Một khắc như thế, không thấy bụi phả vào mặt nữa, tôi mở mắt ra, thì bị một cảnh tượng làm cho giật mình kinh sợ. Một luồng gió lốc, nhanh như chớp, cuốn chiếc mũ trắng của tôi lôi đi rõ xa, ở lưng chừng trời. Cơn gió lốc ấy như tiến lại mé chân đồi vùn vụt Khi đến chỗ nương khoai, chiếc mũ tôi - lúc đó trông chỉ là một điểm trắng cỏn con, bỗng rơi xuống đất tỏ rằng cơn gió đã tan rồi.
    Cố nhìn, thì chẳng thấy bóng dáng của hai anh chàng múa võ nữa. tôi lấy làm lạ, chưa kịp hỏi bạn, anh đã cười bảo tôi:
    -Thực là anh làm uổng mất một tấn tuồng đặc biệt! Vì anh mà cuộc phô diễn này bị bỏ dở; nếu không ta đã được một phen khoái trá vô cùng!
    - Cớ sao anh lại bảo vì tôi...
    - Anh mới đến nên không biết. Sự mà tôi muốn anh được mục kích là một sự lạ lắm: ma diễn võ giữa ban ngày. Ở chân đồi kia, có hai oan hồn của hai nhà thiện xạ, vì phạm phép nước nên bị chém đầu. Hễ cứ có mưa xuống nắng lên, thì hai oan hồn đó lại hiện về, cùng nhau thí võ. Muốn xem họ nhảy múa, phải đứng rõ xa mới thấy, lại gần quan sát thì biến mất. Mà lại phải kiêng, không nên nói đến sự mất đầu. Nếu lở mồm, ắt xảy ra cái cảnh tượng như hai anh em mình vừa thấy đó. Thôi, bây giờ ta hãy đi lại nương khoai nhặt lấy mũ về, rồi đợi đến dịp khác sẽ thưởng ngoạn cuộc múa võ kia, tưởng không lấy gì làm muộn...
    Bạn tôi dìu tôi cùng đi lại mé chân đồi. Nhưng can đảm của tôi ít ỏi quá, tôi đành mất mũ, không dám đi xa nữa chỉ cầu xin bạn dẫn về nhà mà thôi. Bạn cười tôi là hèn nhát, song cũng chiều lòng; anh đem tôi về nhà và sai một tên gia đinh ra chân đồi lượm mũ về cho tôi.
    Tôi ở nhà bạn non bể, ba tuần nóng ruột muốn thỏa chí tò mò hiếu sự của mình ngay, nhưng ngặt nỗi không gặp ngày nào có mưa xuống nắng lên cả. Tôi đã xếp sẵn những khí cụ để sự quan sát được dễ dàng; lại luôn luôn mình tự dặn mình đừng bao giờ nói đến hai tiếng "không đầu" khiến cho hỏng việc một lần nữa.
    Thấm thoát vài hôm sau, tính đốt tay thì ra tôi quấy quả bạn tôi đã trọn hai mươi hai ngày. Hôm đó, may quá, vào khoảng chín mười giờ sáng trời đương nắng chang chang bỗng có cơn mưa. Tôi mừng quá. Mưa vừa ngớt hột, tôi thủ ngay cái máy ảnh và ống dòm, rủ bạn đi lại chỗ có cái miễu thần và cây cổ thụ mà chúng tôi đã đến một lần hôm trước.
    Tới nơi không cần bạn phải chỉ bảo, tôi tự đứng lên mé trên nhìn phương hướng, rồi quay trông đầu về vệt hung đỏ ở sườn đồi. Quả nhiên bạn tôi nói có ngoa đâu, Tôi nhận thấy hai cái bóng đương vờn nhau nhảy nhót.
    Mới đầu tiên, trông không được rõ lắm; nhưng dần dần mắt tôi trông càng quen càng sáng suốt ra. Cảnh vật tôi được mục kích thật là kỳ dị , từ bé đến giờ tôi mới thấy một sự thú vị như thế này.
    Ðó chỉ là hai cái bóng, nhưng quái dị làm sao! Hai cái bóng giống hệt như hai người, có tay chân, biết cử động, song chỉ không có đầu! Hai cái bóng ma cụt trốc! Ðứng mé xa trông lại, tuy hình ảnh mình được thấy không lấy gì làm đích xác nhưng cũng rõ rệt vô cùng. Mới trông thì chỉ thấy lờ mờ hai vệt xám, hiện rõ trên màu hung đỏ của nương khoai; để ý nhìn lâu tý nữa, thì rỏ ràng là hai thân thể đàn ông, đương đấm đá nhau hùng dũng lắm.
    Hai cái bóng ấy màu xám thẫm, xanh biếc, như màu khói đặc tụ lại. Không thấy rõ quần áo mặc ra làm sao, chỉ hình như cùng mặc áo chẽn mà quần thì xắn đến tận đùi. Ðó là một thứ y phục tôi tưởng tượng ra, vì tôi trông na ná như thế: sự thực thì chỉ có hai cái bóng chập chờn như hai hình ảnh nhấp nháy trên màn chớp bóng. Ngắm kỹ quái trạng hiện ra đó, ta có thể vừa trông vừa đoán, nhận ra rằng hai bóng ma kia là hai thân thể vạm vỡ cường tráng mà cũng lanh lẹn phi thường. Chúng nó tuy không đầu, song đánh nhau chả kém gì người có mắt, lại có phần giỏi giang, sắc sảo hơn những người có mắt nhiều.
    Chúng diễn những đường võ cực kỳ bí hiểm, trông ngoạn mục và lý thú vô cùng. Cũng đấm, cũng đá, cũng né, cũng xông, cũng quay đi lộn lại, cũng cúi xuống ngửng lên, thực chẳng khác gì hai võ sĩ còn sống cùng nhau thi quyền trong một kỳ đả lôi đài hay cử võ vậy. Võ vẽ đôi ba miếng côn quyền học lỏm, tôi nhận rằng bản lĩnh của hai oan hồn kia siêu quần, xuất chúng, ít người thời này sánh kíp. Có lẽ hai con ma đó thuộc về thế hệ trước, một thế hệ còn trong những môn đao kiếm, một thế hệ chỉ suy tài nghệ trong các đường quyền hiểm hóc, chớ không ỷ vào súng đạn để thủ thân. Thế hệ ấy ngày nay đã mất, đã biến trong cuộc di vãng xa lắc xa lơ; vết tích của nó, có chăng còn là hai bóng ma này, lạc loài vào một thời đại mới, mà vẫn còn mê muội trong cái chí hướng ngang tàng của thủa bình sinh?
    Hai bóng ma kia cứ rạp rờn quay lợn mãi. Chúng nó xử nhau những miếng võ tuyệt kỹ th các miếng Song long quá hải, Mãnh hổ tầm sào, Thái Sơn áp đính, Hạng Võ phi truy v.v... nhưng tựa hồ chúng không có ý làm hại nhau, chỉ thi nhau trổ hết tài nghệ cho thỏa thích, cho bõ nhớ nhung cái thời oanh liệt chúng đã từng sống, mà không được sống tới cùng.
    Ðứng ngắm nhìn sự phô diễn tự nhiên kia, cũng thực là một khoái lạc ý vi. Trong buổi văn minh ngày nay, dễ đâu đã có dịp xem hai người sử võ?
    Giả dĩ có xem xiếc hay xem tuồng Tàu, thì chi toàn một màu là múa may cho qua loa câu chuyện, mấy khi đã gặp hai tay thiện nghệ hết sức trổ tài quyền cước cho mà coi? Bời thế khi gặp trường hợp mà tình cờ tôi được trải qua, tôi ngắm nhìn mãi không hề mỏi mắt.
    Ngắm chán. tôi lại giơ ống dòm lên quan sát cho rõ rệt: nhưng, thực là kỳ quặc mỗi khi tôi để mắt vào ống nhòm, thì chỉ còn được thấy nương khoai hiện ra, tuyệt nhiên không nhận được bóng dáng của hai nhà vo sĩ "cụt đầu" nữa! tôi thí nghiệm đến mười mấy lượt; lượt nào cũng vậy; cứ bỏ ống kính ra thì tha hồ mà trông mà ngắm, hể đem ống kính lên mắt, hình ảnh kia lại biến lúc nào rồi...
    Kế ấy không xong tôi dùng kế khác. Tôi trao ống nhòm cho bạn, chỉ đeo có một chiếc máy ảnh, một mình đi sát lại chân đồi. Cách xa độ bốn cột đèn tôi còn trông rõ bóng hai con ma đương đấm đá. Ði thêm lên độ chục bước nữa hai bóng ma ấy cứ mờ dần đi rồi, sau cùng, khi tôi chỉ còn cách đồi độ chừng mươi bước, trông lên chỉ thấy không khí một màu trong vắt, ruộng khoai một màu vàng đỏ, hình như không hề xảy ra sự gì cả.
    Cho rằng mắt tôi bị các âm hồn làm cho mờ quáng đi, tôi đem máy ảnh ra cứ chụp lấy năm sáu bức, mong rằng may ra con mắt kính sẽ hơn tôi, ghi được cảnh thần bí mà mắt người không ghi nổi. Về nhà, rửa ảnh, tôi vẫn bị thất vọng như thường; trên kính không có dấu vết gì của hai người võ sĩ cả!
    Sự bí mật thực là hoàn toàn bí mật. Tôi vừa ngạc nhiên kinh dị, vừa tức tối khó chịu. Khó chịu cũng đành vậy, chớ biết làm thế nào! Mình còn ở cõi dương gian, lại muốn vén tấm màn huyền vi của Tạo hóa để nhìn rõ sang cõi âm, thì làm sao cho được. Hai oan hồn kia chỉ có thể hiện lên cho loài người thấy chúng một cách lờ mờ mà thôi; muốn thấy rõ nữa, thì ít ra cũng phải là con ma phù thủy đặc biệt thế nào mới được chứ!
    Tôi có hỏi bạn về sự tích hai nhà võ sĩ bạc mệnh chịu bất đắc kỳ tử; bạn tôi chỉ biết lờ mờ rằng hai người đó đã chết năm chục năm nay, lúc anh chưa đẻ, mà, theo như lời các cụ già kể lại, là hai tên cướp bị sa vào lưới pháp luật và bị hành hình ngay ở chỗ chân đồi. Bạn tôi biết có thế thôi, câu chuyện của anh càng làm tăng tính tò mò hiếu sự của tôi, càng gợi lòng tôi muốn đi sâu vào bí mật của Thời Gian để giải cho ra vấn đề tôi suy nghĩ. Tôi muốn biết thủa bình sinh, hai vong hồn kia làm gì, mà tại sao cùng chịu chết thảm thương uất ức. Uất ức, bởi lẽ họ hiện lên múa võ như thế; chớ nếu họ làm nên tội rồi bị giết, thì còn oan khổ nỗi gì mà đến nỗi, ngoài năm mươi năm, khối hận vẫn chưa tiêu? Thực là một sự lạ.
    Tôi nhất định phải dò xét sự lạ ấy cho tới gốc ngọn, dù phi tốn công khó nhọc cũng cam lòng! Trong lúc hăng hái, tôi tự nhận lấy một nhiệm vụ bí hiểm như thế; nhưng rồi dần dần, tôi phải tin rằng tôi, một kẻ cuồng ngông, chỉ nói khoác hão huyền và ước muốn những điều vô lý. Làm gì có đủ vật liệu mà đi ngược Thời Gian để đem ra ánh sáng một câu chuyện trong hàng nghìn chuyện có lẽ còn ly kỳ hơn, đã xảy ra hồi nước Ðại Pháp vừa dựng cờ bảo hộ trên đất Việt Nam này?
    Tuy nghĩ thế thì nghĩ, nhưng lòng tôi cũng muốn biết vì sao lại có hai oan hồn cụt đầu, cứ mưa xuống nắng lên, là hiện lên diễn võ. Trước còn là một ý muốn, rồi sau dần thành một dục vọng, sau nữa thành hẳn một định ý cứ bám chặt lấy hồn tôi. Tôi như kẻ đứng trong cảnh ngộ một nhà toán học chưa tìm ra kết quả một bài tính khó nhưng thú vị. Cả ngày, cả đêm, tôi chỉ mải mê về chuyện ma không đầu của tôi; rồi tôi lục các sách trong nhà Bác Cổ để họa may có tìm đợc một vết tích gì về hai nhà võ sĩ bạc mệnh kia không. Trong sách tôi thấy nói rất nhiều chuyện về hồi ấu trĩ của cuộc bảo hộ, xong chả có pho nào đả động đến hai nhà thiện xạ chịu tử hình ở mạn núi Gôi...
    Sau khi tôi ở nhà bạn ra về, cách đến hai năm, tôi vẫn còn nhớ cảnh vật tôi trông thấy tựa như nó mới vừa xảy ra ngày hôm qua vậy. Tôi rất bực mình vì đã cố tận tâm gắng sức, mà không tài nào biết thêm tí gì về quái trạng ấy cả. Những chuyện mà các người ở quanh vùng Gôi kể cho tôi nghe đều là những vật liệu lờ mờ, không chuyện nào giống chuyện nào, vì mỗi người lại thêm bớt mỗi vẻ theo ý riêng mình.
    Sau cùng, biết rằng tôi vô lực, tôi đành gắng quên dục vọng của tôi đi. Quên! Quên làm sao được? Càng ở những chỗ phồn hoa đô thị, lòng tôi lại càng như quằn quại khó chịu; tôi càng tự trách mình sao không cố gắng thêm chút nữa, dò xét thêm chút nữa; biết đâu trong một pho sách ở viện bảo tàng, hoặc trong ký ức của một ông già đã sống thời loạn lạc, lại không có một vết tích, một dấu hiệu, chỉ cho tôi biết đường lần mò để đi sâu vào câu chuyện huyền bí của hai nhà võ sĩ không đầu, hiện lên mỗi lần mưa tạnh nắng lên?
    Ấy, cũng bởi tin rằng có người biết được sự tôi cần biết, nên tôi bỏ hẳn nhà một dạo, đi ngao du khắp đây đó, mong rằng sự tình cờ sẽ cho tôi được thỏa lòng. Không ngờ khi đến Ðồng Giao, tôi đã không biết được tí gì về câu chuyện của tôi, lại nghe thêm được một câu chuyện ly kỳ hơn, khiến cho tính tò mò của tôi càng sôi nổi thêm lên nữa.
    yêu nhau chưa hẳn ở bên nhau đã hạnh phúc , mình có thể hy sinh vì hạnh phúc của người mình yêu
  4. belysymbol_0209

    belysymbol_0209 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/11/2002
    Bài viết:
    529
    Đã được thích:
    0
    ÁC BÁO GHÊ HỒN I (sưu tầm của tg: Bồ Tùng Linh )
    Dương-Vạn-Thạch, nhà nho ở quận Ðại Danh
    Dương-Vạn-Thạch, nhà nho ở quận Ðại Danh, thuở nay có tánh sợ vợ lạ lùng.
    Vợ, họ Doãn, độc dữ khác thường, chồng hơi làm điều chi trái ý, là vác gậy đập liền. Ông cụ thân sinh Dương, ngoài 60 tuổi và góa vợ đã lâu, họ Doãn coi cha chồng như tôi tớ . Dương cùng em là Vạn-Chung thường lén đem cơm bánh cho ông cụ ăn mà không dám cho vợ hay . Tội nghiệp ông cụ lọm khọm rách rưới quá, anh em không cho khách khứa thấy mặt, sợ bị chê cười
    Vạn-Thạch 40 tuổi chưa có con trai, cưới vợ bé là Vương thị, mà tối ngày không dám nói năng với nhau nửa lời
    Hai anh em lên quận đợi thi hạch, thấy một thiếu niên ăn mặc nhã nhặn, bắt chuyện để làm vừa lòng, hỏi thăm tánh danh, thiếu niên tự giới thiệu là Giới-Phủ họ Mã . Từ đó kết giao càng ngày càng thân mật, thăm hương thề quyết làm anh em, rồi từ biệt.
    Chừng nửa năm sau, Mã bổng dắt đồng bộc đến nhà Dương, vừa gặp lúc Dương lão ngồi ngoài cổng phơi nắng bắt rận; Mã tưởng đứa ở liền nói tên họ, nhờ vô thưa với chủ nhân.
    Có người bảo cho Mã biết đó là cụ thân sinh ra hai anh em Dương, khiến Mã kinh ngạc. Anh em để đầu trần ra đón. Mã vô nhà khách, Mã xin ra mắt cụ ông, Vạn-Thạch nói trớ là cụ se mình, rồi nắm tay mời ngồi hết chuyện nọ qua chuyện kia, chẳng dè gần tối . Vạn-Thạch thường nói để dọn cơm ra ăn, nhưng lâu lắm, vẫn chưa thấy cơm bưng rạ Anh em thay phiên nhau chạy ra chạy vô, mấy lần, mới có thằng ở gầy nhom xách hồ rượu ra, uống giây lát đã hết nhẵn.
    Ngồi đợi giây lâu, Vạn-Thạch chay đi thúc hối kêu gọi, đổ cả mồ hôi trán, lại thấy thằng gầy còm bưng cơm ra, cơm gạo lức và đồ ăn rất xoàng, chả có món gì ngon lành.
    Ăn xong, Vạn-Thạch vội vã đi, Vạn-Chung thì ôm chăn gối ra nằm ngủ với khách. Mã ngỏ lời phiền trách:
    - Hôm trước tôi nghĩ anh em nhà ông cao nghĩa nên cùng đính ước anh em. Nay được trông thấy cụ già nhà ta thật tình chẳng được phụng dưỡng no ấm, khiến người đi đường thấy thế cũng xấu hổ giùm.
    Vạn-Chung nhỏ lệ và nói:
    - Tình riêng chất chứa trong tâm, thật khó nói ra lời . Nhà tôi không may, gặp người chị dâu ác độc mà anh tôi thì hèn nhát yếu đuối, bị vợ dày vò hết sức. Tôi với anh, nếu không phải có cái tình ăn thề kết nghĩa với nhau, thì sự xấu trong gia đình tôi như thế quyết nhiên không thể nói thiệt.
    Mã nghe chuyện sửng sốt than thở giây lâu rồi nói:
    - Ban đầu ta định sáng sớm mai thì đi, nhưng nay nghe được chuyện lạ này, chả lẽ không mục kích một lần xem sao . Vậy có gian nhà nào bỏ không, xin cho tôi ở tạm, mặc kệ tôi tự nấu ăn lấy
    Vạn-Chung làm y theo lời, dọn riêng một căn nhà cho thầy trò Mã ở . Ðêm khuya lấy trộm lúa gạo rau cỏ, đem tới tiếp tế cho Mã, hồi hộp chỉ lo chị dâu hay được thì khốn. Mã hiểu ý, hết sức chối từ, lại mời Dương lão đến ăn ngủ với mình, rồi tự ra ngoài chợ mua các thứ vải lụa về may quần áo cho cụ mặc, vứt hết đồ cũ rách rưới . Cha con anh em thấy Mã xử tử tế quá, đều cảm động tới khóc.
    Vạn-Chung có thằng con trai tên là Hỷ-nhi, mới bảy tuổi, đêm nào cũng quấn quýt nằm ngủ với ông nội . Mã vuốt ve nó và nói:
    - Thằng bé này phước thọ hơn cha nó nhiều, duy có lúc trẻ phải vất vả thôi
    Doãn thị thấy ông cụ được no ấm thì nổi giận, kiếm chuyện mắng chưởi, bảo Mã khi không can dự vào việc nhà người ta . Ban đầu, những lời chì tiếng bấc còn ở trong chốn buồng riêng, dần dà bay tới gần chỗ Mã ở; anh em họ Dương hỗ thẹn toát mồ hôi, nhưng không sao bịt được miệng mụ đừng nói . Mã làm lơ, như tuồng chẳng hay biết chuyện chi
    Người vợ bé Vương thị có mang được năm tháng, mụ mới hay lột áo nàng ra đánh đập thảm hại xong rồi gọi Vạn-Thạch đến, bắt quỳ xuống mặc quần áo đàn bà, lại vác gậy rượt đánh chồng chạy ra tới ngoài đường cái
    Giữa lúc ấy Mã ở ngoài đường, cho nên Vạn-Thạch xấu hổ không dám thò mặt ra, nhưng bị mụi đuổi tới sau lưng, đành phải chạy tuốt ra ngoài mà trốn. Mụ theo ra, khoanh tay dậm cẳng, chửi rủa vang trời, hai bên xóm giềng đổ ra xem đầy đường chật ngõ . Mã trỏ vào mặt mụ và thét:
    - Bước đi ! Bước đi !
    Mụ lập tức day mình trở vô, dường như bị ma quỷ rượt đuổi, đến nỗi tuột cả giày vớ, vải quấn cẳng rơi ra lòng thòng trên lộ, chạy cẳng trơn mà về, sắc mặt xám ngắt như gà mới cắt tiết, một lúc lâu mới hoàn hồn.
    Con hầu đem giày vớ khác cho mụ mang xong, đấm ngực khóc rống, gia nhân đều sợ, chả ai dám hỏi han an ủi gì cả
    Trong khi đó, Mã lôi Vạn-Thạch về căn nhà mình ở riêng, cởi y phục đàn bà ra cho, thế mà Vạn-Thạch cự nự không chịu, chỉ sợ khăn yếm tuột ra; Mã phải lấy sức mạnh mới cởi ra được. Chàng đứng ngồi run rẩy không yên, vì sợ mụ bắt lỗi sao chưa được cho phép, đã vội cởi ra . Mãi sau dò biết vợ đã nín khóc rồi, bấy giờ mới dám mò về, len lén đi tới trước mặt, mụ không nói một tiếng gì, vội vã đứng dậy, đi vô buồng nằm ngủ
    Bấy giờ chàng mới định thần yên tâm, nói riêng với em, cho Mã là người lạ . Nội nhà cũng lấy thế làm kỳ, tụ họp xầm xì với nhau, hơi lọt đến tai mụ, làm mụ càng thêm tức giận, đánh đập nô tì khắp lượt. Lại kêu đến người vợ bé, nhưng nàng bị đánh đêm hôm trước còn đau nặng quá, chổi dậy không đặng. Mụ cho là giả đò, đến tận giường nằm mà đánh nàng tới băng huyết trụy thai mới thôi !
    Ðứng trước những việc tàn nhẫn như thế, Vạn-Thạch vừa thừa lúc vắng người, than khóc với Mã
    Mã kiếm lời an ủi, rồi gọi tiểu đồng dọn cơm tử tế cho chàng ăn, mãi đến canh hai còn cầm giữ không cho chàng về
    Mụ ở buồng riêng, giận chồng không về, đã toan di kêu rao, mắng chửi cả chồng lẫn Mã cho đã nư giận, bỗng nghe có tiếng gõ cửa, liền bảo con thị nữ chạy ra mở, không dè cửa mở toanh, một người khổng lồ dữ dội bước vào, bóng che khắp nhà, mặt mày như quỷ . Kế mấy người nữa theo chân vô, tay đều cầm dao búa ghê sợ . Mụ hoảng hồn mất vía, toan la lên, người khổng lồ đâm dao ngay cổ họng và nói :
    - Hễ la thì giết chết lập tức.
    Mụ năn nỉ đem vàng lụa ra chuộc mạng, nhưng người khổng lồ gạt đi:
    - Tao là sứ giả âm ty, không thèm tiền bạc của mày, chỉ cốt lấy trái tim của con đàn bà ác độc mà thôi
    Nghe nói, mụ càng sợ hãi, lạy lục giập trán dưới đất. Người khổng lồ rút dao găm, vạch trước ngực mụ và kể ra từng tội lỗi:
    - Như tội này có đáng giết không ?
    Nói ra như mỗi tội vạch một khía . Phàm những việc làm độc ác của mụ thuở nay đều vạch gần hết, vết dao khía vào da thịt, có tới mấy chục. Sau cùng lại hạch tội nửa
    - Người vợ bé của chồng sinh ra thằng con trai, cũng là nòi giống nhà mi, sao mi nỡ đánh tới trụy thai, việc này không thể tha thứ được.
    Nói đoạn, sai mấy người tùy tùng nắm chặt lấy tay mụ, để mổ bụng con đàn bà ác độc xem ruột gan ra sao . Mụ cúi đầu van lạy, thề xin ăn năn chừa lỗi . Chợt nghe cửa giữa mở đóng, và có tiếng nói thinh không:
    - Dương Vạn Thạch đã tới kia . Con ác phụ đã nói chừa lỗi, vậy hãy để cái mạng nó đó
    Mấy người liền bỏ đi tản lạc.
    Giây phút chàng vô, thấy vợ cởi trần bị trói, trước ngực có vết dao ngang dọc, không thể đếm hết. Chàng cởi trói và hỏi nguyên do, lấy làm kinh hãi, nhưng trong bụng hơi nghi là do Mã làm ra . Hôm sau thuật chuyện cho Mã nghe, Mã cũng tỏ vẻ sợ hãi
    Từ đó mụ bớt làm sai, luôn mấy tháng không dám thốt ra nửa lời hung dữ . Mã nghe rất mừng bảo Vạn-Thạch:
    - Giờ tôi nói thiệt với anh, phải kín miệng nhé! Hôm nọ tôi thi thố cái thuật cỏn con để làm cho chị biết sợ mà sửa lại tánh nết. Nay anh chị được hoà thuận rồi, tôi tạm xin từ giã
    Mã nói xong, thầy trò ra đi
    Ðêm nào như đêm nấy, mụ cố giữ Vạn-Thạch ngủ chung, hết sức vui vẻ chiều chuộng. Thuở giờ chàng chưa từng được biết thú vị ấy, nay mới được hưởng, đến nỗi đứng ngồi đều thấy bồn chồn. Một đêm, mụ chợt nhớ lại người khổng lồ mà còn run sợ; chàng muốn nịnh vợ hơi ló mòi giả mạo cho vợ yên tâm. Bất đồ mụ bắt được thóp ấy, liền vùng chổi dậy, o bế gạn hỏi, chàng tự biết đã nói lỡ lời, không giấu được nửa, bèn nói thật đầu đuôi . Mụ nổi giận lôi đình, mắng chửi rầm rĩ . Bây giờ tới phiên chàng sợ hãi run người tái mặt, quỳ xuống bên giường mà chịu trận
    Mụ không thèm ngó tới . Chàng van lơn tha thiết mãi đến canh ba, mụ mới thèm nói:
    - Giờ muốn được tao xá tội cho, thì phải lấy dao vạch ngực mày y như con số tao đã phải chịu, có vậy cái hận này mới tiêu được chớ.
    Tức thời mụ đứng phắt lên, chạy vô bếp lấy con dao phay ra . Chàng sợ quá chạy trốn, mụ rượt theo, làm vang động cả nhà, đến nổi chó sủa gà kêu, gia nhơn cùng thức dậy một lượt.
    Vạn-Chung thấy thế, động lòng thương anh, bất giác nổi đóa, lượm cục đá ném vào chị dâu, trúng giữa đầu mụ ngã xuống chết tốt. Vạn-chung nói:
    - Ta chết cha anh được sống là ta hả lòng.
    Nói rồi nhảy tuốt xuống giếng, người ta vớt lên thì đã ngụp nước tắt thở rồi
    Giây lát mụ hồi tĩnh, nghe tin Vạn-chung đã chết, cơn giận cũng nguôi
    Sau khi chôn cất xong, vợ góa của Vạn-chung thương xót đứa con, thề ở vậy thờ chồng., nhứt định không cải giá . Mụ thấy em dâu như thế, chẳng an ủi khuyến khích thì chớ, lại còn mắng nhiếc hàng ngày không cho ăn cơm, bắt ép nàng đi lấy chồng cho khuất mắt.
    Nàng đi rồi, để lại đứa con mồ côi, sớm tối bị bác gái đánh đập khổ sở . Mỗi bửa gia nhơn ăn no nê rồi, mụ mới thí cho nó cơm dư canh cặn. Trải nửa năm thằng bé gầy nhom chỉ còn da bọc lấy xương, thở chẳng ra hơi
    yêu nhau chưa hẳn ở bên nhau đã hạnh phúc , mình có thể hy sinh vì hạnh phúc của người mình yêu
  5. belysymbol_0209

    belysymbol_0209 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/11/2002
    Bài viết:
    529
    Đã được thích:
    0
    ÁC BÁO GHÊ HỒN ( phần cuối)
    Một hôm thình lình Mã đến. Vạn-thạch căn dặn người nhà chớ nói cho mụ hay
    Mã trông thấy ông cụ lại rách rưới lam lũ như hồi nào, trong lòng sửng sốt tức tối, lại nghe chuyện Vạn-chung chết oan mà thương, đấm chân đấm ngực gào thét rất bi thảm
    Thằng bé thấy Mã đến, chạy lại quấn quýt vồn vã, kệu gọi Mã thúc luôn miệng. Thoạt tiên Mã không biết là thằng bé nào, chừng nhìn kỹ mới nhận ra, kinh ngạc và nói:
    - Trời đất ơi! tại sao cháu tiều tụy đến nỗi này
    Ông cụ tỉ tê, thuật rõ sự tình. Mã phát phẫn, bảo Vạn-thạch:
    - Lúc trước tôi vẫn nghĩ anh chẳng phải loài người, nay quả đúng như thế . Anh em hai người chỉ có một đứa bé này nối dõi tông đường, thế mà đành tâm giết nó chết đi lần hồi như vầy đây, là nghĩa thế nào ?
    Vạn-thạch chẳng nói được câu gì, chỉ ngồi cúi đầu cụp tai mà khóc rấm rức
    Chàng ngồi tiếp Mã một lát, thì mụ đã hay tin có Mã đến rồi . Tuy mụ chẳng dám thò mặt ra đuổi khách, nhưng gọi réo chồng phải vô, bạt tai chàng tối tăm mặt mày, bắt phải tuyệt Mã đi . Chàng nuốt lệ trở ra, những dấu vết tát tai còn in đỏ trên mặt. Mã giận quá nói:
    - Anh không làm oai với chị được, nhưng lại chẳng tống cổ đi được ư ? Mụ đánh cha giết em như thế mà anh còn nhịn. Ðâu phải là giống người nữa chớ ?
    Chàng nghe, thở dài, có vẻ động lòng. Mã lại khích thêm:
    - Nếu tống cổ mụ không chịu đi, thì anh phải lấy sức mạnh đuổi đi cho bằng được. Dù phải giết phức cũng đừng thèm sợ. Tôi có đôi ba bạn thiết đều giữ chức lớn ở kinh đô, tất họ sẽ hợp lực cứu anh, nhất định vô sự
    Chàng gật đầu, hung hăn chạy vào trong nhà vừa đụng đầu mụ, mụ thét hỏi định làm gì mà sắc mặt hầm hừ thế . Chàng luống cuống và thất sắc chống tay xuống đất nói:
    - Chú Mã xúi tôi đuổi mình đi
    Mụ nổi đóa, ngảnh lại tìm dao hay gậy để đánh chồng. Vạn-thạch sợ, vội vàng chạy ra với Mã . Mã phỉ nhổ nói:
    - Anh thật là người hư hỏng, không dạy bảo được nữa rồi
    Nói đoạn, mở tráp lấy ra gói thuốc bột đem hòa với nước, trao cho Vạn-thạch uống
    - Thuốc này là thuốc trượng phu tái tạo đây . Trước kia sở dĩ tôi chưa muốn dùng, vì cớ nó có thể hại người . Nay cực chẳng đã, phải cho anh dùng thử xem sao
    Chàng uống thuốc ấy vô giây lát, nghe phẫn khí nổi lên phừng phừng, như có lửa bốc cháy trong ruột gan, mà không sao nhịn được nữa . Tức tốc chạy vào buồng vợ, gầm hét như sấm. Mụ chưa kịp hỏi gì, chàng đã co giò đá phốc một cái, mụ ngã bắn xa mấy thước. Rồi hai tay hai cục đá làm như quả đấm, cứ thụi mãi vào mụ huỳnh huỵch, không biết là bao nhiêu mà đếm. Mụ bị đấm đá sây sát cả thân thể, nhưng miệng còn mắng chửi lia lịa . Chàng liền rút dao mang bên cạnh sườn ra, mụ vừa chửi vừa nói:
    - Bộ mày rút dao ra, dám giết tao chết đấy chăng ?
    Vạn-thạch chẳng nói chẳng rằng, hươi con dao chém vào bắp đùi mụ, đứt phăng một miếng thịt lớn bằng bàn tay rơi xuống mặt đất
    Chàng toan chém nửa, mụ khóc xin tha tội . Nhưng chàng không nghe, lại chém một dao . Người nhà thấy chàng nổi cơn hung dữ thái quá, vội vàng xúm lại, cố sức lôi ra bên ngoài . Mã chạy tới đón rước, cầm tay an ủi chàng còn cơn giận chưa hết, chỉ lâm le chạy vô tìm vợ để chém nủa, Mã cố ngăn lại mới thôi
    Một chốc, hơi thuốc tan dần, chàng ngẩn cả người, như giấc chiêm bao mới tỉnh. Mã căn dặn ân cần:
    - Anh chớ có ngã lòng yếu vía đấy nhé ! Cái đạo làm chồng được phấn chấn lên, quan hệ ở chuyến này đó . Tẩu tẩu khiến anh sợ hãi quá lố như thế, chẳng phải là chuyện đầu hôm sớm mai gì, sự thật do mỗi ngày một tí, dần dà mà có đã lâu lắm rồi . Chẳng khác chi hôm qua anh chết mà ngày nay sống lại, vậy từ đây nên ráng tẩy cũ thay mới, nếu lại chịu lùi bước phen nữa thì hỏng to
    Rồi tức thời bảo Van-thạch vô trong nhà dò xem. Mụ thấy chàng trở vô, chân tay run rẩy, tim nhảy thùm thụp, kêu gọi thị nữ đỡ mình, toan quỳ xuống lạy lục. Chàng ngăn lại mới thôi . Trở ra thuật chuyện cho Mã hay . Hai cha con thấy gia đình thay đổi như vậy, đều lấy làm vui mừng. Mã muốn đi, cha con cùng năn nỉ lưu lại, nhưng Mã cố từ:
    - Vừa rồi tôi có việc phải đi Ðông hải, cho nên tiện đường ghé thăm. Giờ tôi phải đi, để bận trở về lại cùng hội hợp
    Liền hôm đó Mã lên đường. Hơn một tháng, mụ mới bình phục, thờ phượng ông chồng hết sức tử tế, hẳn hoi . Nhưng dần dà thấy chồng chẳng có tài nghệ gì đáng sợ, thế rồi lần hồi đâm ra dễ ngươi, lờn mặt, kế đến chế diễu, rồi tới mắng chửi . Không bao lâu, thói cũ lại hiện xuất nguyên hình. Ông cụ không chịu thấu, đang đêm bỏ nhà trốn đi Hà nam, nhập tịch đạo sĩ . Vạn-thạch biết vậy, nhưng chẳng dám đi tìm cha về
    Cách trên một năm, Mã đến, trông thấy tình cảnh mà chán, trách móc Vạn-thạch tận từ, rồi gọi Hỷ nhi ra, ẵm ngồi trên mình lừa, gia roi đi thẳng.
    Từ đó, người làng đều khinh Vạn-thạch, chẳng ai thèm chơi với . Chàng lên tỉnh thi khảo khóa, văn bài dở quá nên bị đánh rớt và bôi tên trong sổ sĩ tử tỉnh nhà
    Bốn năm năm sau, nhà chàng phát cháy, tất cả của cải nhà cửa đều hóa ra tro bụi, lại cháy lan cả hàng xóm. Người làng chung đơn lên quận thưa kiện, chàng bị xử phạt tiền rất nặng. Gia sản còn sót lại chút nào, dần dà tiêu sạch, tới nước không có túp lều mà ở . Mấy làng quanh miền bảo nhau không cho Vạn-thạch ở đậu, không cho thuê nhà . Anh em Doãn thị (bên vợ cũng giận những việc thất đức mụ làm bấy lâu, cho nên cự tuyệt không chứa cũng không giúp đỡ gì hết.
    Vạn-thạch bí lối cùng đường đem bán nàng hầu cho một nhà giàu sang, rồi dắt vợ xuống ghe đi Hà nam. Ðến lúc tiền ăn đường sạch trơn, mụ không chịu theo nữa, một hai kiếm chuyện để tự do đi lấy chồng khác.
    Vừa gặp dịp một người làm nghề mổ heo mới góa vợ, bỏ ra ba trăm quan tiền mua mụ đem đi . Chàng bơ vơ một thân, ăn xin khắp xóm này làng kia lần mò đến xin trước cửa một nhà quan, bị tên gác cửa thét mắng đuổi đi, không cho vô trong. Giây lát một vị quan trẻ từ trong đi ra, chàng phục dưới đất mà khóc. Quan nhìn đi nhìn lại, hỏi qua tên họ, rồi sững sốt nói:
    - Cơ khổ ! Bác tôi đây mà ! Sao bác nghèo nàn đến thế
    Vạn-thạch nhìn kỹ, biết là Hỷ nhi, bất giác khóc rống, theo cháu vô trong nhà, thấy nguy nga bóng lộn. Giây lát, ông cụ vịn vai một tiểu đồng tử trong bước ra, cha con đối nhau bi thương tấm tức. Chàng kể rõ tình cảnh điêu đứng cho thân phụ nghe
    Nguyên khi Mã ẵm Hỷ nhi ra đi, đưa thẳng tới đâỵ Mấy hôm sau lại đi tìm ông cụ đến, cho hai ông cháu ở chung với nhau, rồi rước thầy về dạy Hỷ nhi học. Thằng nhỏ thông minh, mười lăm tuổi đậu hạch, năm sau thi Hương đậu cử nhơn. Mã cưới vợ cho xong xuôi, muốn từ giã đi; ông cháu cùng khóc lóc cầm giữ ở lại . Mã nói:
    - Tôi không phải người ta đâu . Thật là chồn tiên, các bạn đồng đạo chờ tôi đã lâu, phải để tôi đi mới đặng.
    Bấy giờ cậu cử Hỷ nhi kể chuyện ấy cho bác nghe, lòng còn cảm động chan chứa . Nhơn dịp nghĩ lại hồi xưa Vương thị (vợ bé của bác Vạn-thạch), cùng chịu đối đãi bạo ngược như mình, động lòng thương hại, bèn cho xe ngựa và người đem tiền bạc theo để chuộc Vương thị về
    Vương thị về hơn một năm, sinh đứa con trai, nhân đó nhắc nàng lên ngôi vợ cả
    Còn Doãn thị đi theo người chồng mổ heo được chừng nửa năm, lại giở thói ngang tàng như xưạ Thằng chồng nổi giận, sẵn dao mổ heo, xẻo phăng của mụ một miếng thịt đùi, lại lấy dây trói mụ lại, treo rút lên xà nhà, xong rồi gánh thịt heo ra đi
    Mu đau quá kêu la rầm rĩ, lối xóm mới haỵ Người ta đến cởi trói và cắt dây, mụ la đang vang dậy làng xóm. Từ đó, hễ thấy mặt anh chàng mổ heo đến thì sợ hãi đến sởn tóc gáy và lạnh buốt xương sống. Chỗ đùi tuy lành, nhưng mà què một cẳng, phải đi khập khễnh, nhưng vẫn sớm hôm phục dịch vất vả, chớ hề dám than van, trễ nãi . Mỗi khi chàng mổ heo say sưa về nhà, là mỗi lần đánh chưởi mụ thậm tệ. Tới đây mụ mới hiểu ra thuở trước mình ác độc với thiên hạ ra sao, giờ mình phải chịu cũng thế
    Một hôm Dương phu nhân (vợ Hỷ nhi) cùng bác gái Vương thị đi lễ chùa, các cô các bà nông dân ở quanh đó xúm lại chào mừng. Doãn thị cũng ở trong đám đó, nhưng thập thò không bước tới gần. Vương thị hỏi mụ ấy là ai ? Gia nhơn thưa là vợ người bán thịt heo, họ Trương; đồng thời thét bảo mụ phải đến gần cúi đầu làm lễ . Vương thị cười và nói:
    - Con mẹ này đi theo thằng mổ heo, chắc không thiếu thịt ăn, sao mà ốm gầy đến thế ?
    Doãn tức và thẹn, về nhà muốn thắt cổ chết phức. Nhưng giây yếu quá không chết. Anh chàng ghét thêm. Hơn năm sau chàng mổ heo qua đời, mụ đi đường gặp Vạn-thạch, đứng nhìn xa xa, nước mắt tuôn như mưa . Vạn-thạch ngại mặt tôi tớ đi bên cạnh, không hỏi gì đến mụ, về nhà bàn với cháu, tính cho mụ trở lại . Cháu nhất định không nghe
    Mụ bị người làng xóm khinh bỉ quá, hết chỗ nương tựa, theo lũ ăn mày kiếm ăn. Thỉnh thoảng, Vạn-thạch còn hẹn hò gặp mụ trong một ngôi chùa, Hỷ nhi cho thế là nhục, ngầm sai bọn ăn mày bêu xấu, bấy giờ chàng mới chịu tuyệt.
    Chuyện này về sau ra sao, ta không nghe nói.
    (Hết)
    yêu nhau chưa hẳn ở bên nhau đã hạnh phúc , mình có thể hy sinh vì hạnh phúc của người mình yêu
  6. belysymbol

    belysymbol Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2002
    Bài viết:
    3.140
    Đã được thích:
    0
    Con Tàu Bí Mật (phần 1)
    Từ lúc mặt trời lấp ló sau rặng dừa phía cuối vườn, Việt vẫn ngồi tựa mình bên gốc ổi, yên lặng nhìn những cụm mây trắng lờ lững trôi trên nền trời.
    Sau 1 năm chăm chỉ học, Việt tạm biệt Sài Gòn về quê nghỉ hè. Không khí ở đây trong lành thoáng mát, nhưng cảnh vật buồn tẻ không hợp mấy với cái tuổi hoạt động, sôi nổi của Việt. Gió thoảng nơi đồng quê làm Việt thấy chóng đói, ăn khoẻ gấp đôi khi còn ở Sài Gòn. Nhưng ăn rồi sinh lực dồn cả ra chân tay, muốn chạy nhảy hò hét vui đùa mà không có bạn. Việt đành ngồi buồn mở sách ra đọc. Đọc mãi cũng chán, nhất là trong ngày nghỉ hè. Chán, Việt ngồi nhìn mây bay, nhìn hàng dừa soi bóng nước. Nhưng Việt không có tâm hồn thi sĩ mấy, nên chỉ mơ mộng một lát đã thấy chân tay ngứa ngáy bực bội. Việt đâm ra nhớ Sài Gòn, nhớ Khôi. Việt nghĩ: giá lúc này có Khôi ở bên cạnh thì vui biết mấy.
    Khôi và Việt là đôi bạn thân cùng học một trường, cùng ở một khu phố. Mỗi lần đi học đôi bạn thường rủ nhau cùng đi, hoặc ngồi chung trên chiếc xe gắn máy của Việt, hoặc kéo nhau đi bộ nhởn nhơ trên vỉa hè thành phố. Bây giờ nghỉ hè đôi bạn tạm chia tay, Việt được ba má gởi về đổi gió tại nhà dì Hạnh, em của má Việt, có vườn cây ở miền quê.
    Mấy ngày đầu, Việt còn thấy vui. Dì Hạnh không có con nên thấy cháu về chơi lấy làm mừng rỡ. Tuy được dì chiều chuộng và được tự do leo trèo, chạy nhảy khắp một khu vườn đầy trái, Việt vẫn thấy buồn.
    Nhưng sáng nay, sau khi được dì cho ăn một đĩa xôi gà, no đến cứng bụng, Việt ra ngồi bên gốc cây, và thấy cả chân tay như thừa thải nặng nề không biết dùng để làm gì. Việt đứng lên, uể oải bước ra cổng, ước mong có 1 người bạn để cùng chơi, thì chợt gặp 1 con chó.
    Con chó không lớn lắm, nhỏ thó, hơi bẩn nhưng có vẻ nhanh nhẹn dễ thương. Nó đứng nghiêng đầu nhìn Việt, lưỡi thè dài, như có ý bảo:"Anh làm gì đấy, có đi chơi không!"
    Việt đang muốn chạy nhảy một lát, thấy con chó hay hay liền mỉm cười, ngoắt ngón tay ra hiệu rồi cắm cổ chạy. Con chó ve vẩy đuôi tỏ ý mừng rỡ, rồi đuổi theo, bám sát chân Việt. Ra quãng đồng trống, Việt nhặt hòn đất ném cho nó bắt. Nó đón bắt rất tài, chỉ vài bước nhảy vọt nó đã đem trả hòn đất cho Việt. Trò chơi ấy làm Việt khoái vô cùng. Từ hôm về nghỉ ở nhà dì, chưa bao giờ Việt được vui như vậy. Mới đầu Việt còn ném gần, thấy con chó bắt dễ dàng Việt quẳng hòn đất thật xa.
    Chẳng may hòn đất rơi trúng vào 1 khu trồng rau. Con chó phóng mình theo, rồi sục sạo vào giữa những luống rau cải, sà lách, làm dập nát hư hại khá nhiều. Nhận thấy thế, Việt hoảng hốt đuổi theo, và tuy không biết tên nó là gì, cậu cũng theo màu lông của nó mà cuống quýt gọi:
    - Ê, Vện! Vện lại đây mau!
    Nhưng cũng giữa lúc ấy, giữa lúc Việt đang luống cuống trong các luống rau thì chợt thấy 1 người đàn bà, hai tay xách hai bình tưới ở dưới lạch đi lên. Đó là thím Hai Hòa, người hàng xóm cạnh nhà dì Việt. Thím Hai đặt bình tưới xuống đất, giơ hai tay lên trời kêu:
    - Trời đất quỷ thần ơi! Ai cho tụi bây vô đây phá hoại vậy nè!
    Nghe tiếng la hoảng của thím Hai, con Vện cúp đuôi lủi mất. Việt cũng muốn bỏ chạy vì thấy thím Hai giận dữ tiến đến, nhưng lại sợ giẫm hư các luống rau nên đành đứng lại phân trần:
    - Cháu có làm hại gì đâu, thím Hai!
    Lời biện bạch của Việt càng làm thím Hai phật ý. Thím nắn chặt hai tay Việt mà lắc.
    - Mày đem con chó tới phá phách vườn rau của tao còn bảo không làm hại gì sao, thằng khốn kiếp này!
    Tự nhiên Việt nổi xung. Thím Hai đã nặng lời với Việt, đã phá mất giây phút vui đùa của Việt, làm con chó chạy biệt dạng lại còn nắm Việt mà lắc mạnh nữa.
    Không nghĩ ngợi, Việt gỡ khỏi tay thím Hai, húc đầu vào bụng thím, bồi thêm 1 cú đá vào bắp chân rồi bỏ chạy.
    ***
    Về nhà, Việt nơm nớp chờ đợi sự quở trách của dì Hạnh. Việt ân hận đã xua con Vện vào vườn rau của thím Hai, và điều đáng trách hơn nữa là Việt đã đá vào chân thím.
    Nhưng trái với điều Việt e ngại, dì Hạnh không giận dữ quở trách Việt. Dì chỉ tỏ vẻ buồn rầu và sau bữa cơm chiều, dì nhẹ nhàng bảo:
    - Việt, cháu hư quá! Dì không ngờ 1 học sinh như cháu mà lại có hành động hỗn láo với thím Hai như thế.
    Việt bối rối đáp:
    - Tại con chó chứ không phải tại cháu!
    Dì Hạnh ngắt lời:
    - Dì không nói đến con chó làm hư hại luống rau của thím Hai. Dì chỉ trách cháu sao dám húc đầu vào người thím và đá vào chân thím như 1 tên côn đồ vậy!
    Việt không dám cãi lời dì song Việt cũng nghĩ rằng: Việt cần phải chống trả khi bị người ta uy hiếp. Tuy nhiên nhớ lại hành động thiếu suy xét của mình, Việt cũng thấy xấu hổ. Việt định bụng sẽ xin lỗi thím Hai khi nào có dịp.
    Nhưng cũng từ đó, Việt ít khi ra ngoài, chí loanh quanh trong khu vườn của dì Hạnh, hết đọc sách lại ngồi mơ mộng.
    Thấy cháu có vẻ buồn, một hôm dì Hạnh bảo Việt:
    - Về đây nghỉ hè với dì, chắc cháu buồn lắm nhỉ!
    Việt chưa biết trả lời thế nào, thì dì Hạnh đã tiếp:
    - Buồn là phải vì ở đây cháu không có bạn. cho nên dì tính nấu 1 nồi chè, làm ít bánh ngọt rồi kêu mấy đứa quanh đây tới chơi với cháu cho vui, cháu bằng lòng không?
    Việt cảm động nhìn dì nói:
    - Cháu không buồn lắm đâu dì à. Dì đừng bày vẽ chi cho mệt.
    - Ờ, mà sao cháu không rủ người bạn nào về đây nghỉ hè với cháu cho vui?
    - Dạ cháu có 1 người bạn thân mà tại nóng về đây với dì, nên khi đi cháu quên mất. Giá có hắn ở đây thì cháu vui lắm.
    Việt lại nghĩ đến Khôi. Nếu có nó ở bên cạnh, hai anh em chắc sẽ tìm ra nhiều trò chơi thú vị, và những ngày nghỉ hè cũng đỡ tẻ nhạt.
    Một buổi, Việt đang ngồi buồn nhìn mây bay trong vườn, chợt nghe tiếng chân ngoài hàng rào dâm bụt, nhịp với tiếng gậy chống trên mặt đường mỗi lúc mỗi gần. Một chiếc đầu vượt qua hàng rào, rồi bỗng có giọng nói quen thuộc gọi vào:
    - Ê, Việt!
    rồi từ đây! bên em nhé anh của em, em xin hứa chỉ yêu mình anh, bao nhiêu dấu yêu gửi hết cho anh.......

  7. belysymbol_0209

    belysymbol_0209 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/11/2002
    Bài viết:
    529
    Đã được thích:
    0
  8. belysymbol

    belysymbol Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2002
    Bài viết:
    3.140
    Đã được thích:
    0
    Con Tàu Bí Mật (phần cuối)
    Ngay chiều hôm đó Khôi và Việt được dì Hạnh cho đi cắm trại. Đôi bạn thu xếp ít vật dụng cần thiết cho vào ba lô của Khôi rồi lên đường.
    Dì Hạnh hẳn không ngờ đôi bạn đang dấn mình vào một cuộc mạo hiểm. Khi cho phép Khôi Việt đi cắm trại, dì tưởng hai người sẽ đến họp đoàn vui chơi với các trại sinh khác. Nếu biết hai người đến cắm trại ở chỗ lò gạch đổ, chắc không khi nào dì cho phép.
    Đôi bạn cũng biết như vậy, nên khi ra khỏi nhà cả hai làm bộ vui vẻ lên đường. Thật ra, đi bên cạnh Khôi, Việt hết sức vui mừng. Nét mặt Việt rạng rỡ, nói cười luôn miệng. Vừa mới khuất sau hàng dừa, Khôi đã kéo tay bạn đứng lại:
    - Chúng mình chưa nên đến thẳng chỗ lò gạch, vì hãy còn sớm, Việt có biết chỗ nào kín đáo không?
    - Để làm gì?
    - Để ngồi chờ cho trời chạng vạng tối hãy đi. Như vậy không ai thấy chúng mình vào trong lò.
    Việt chỉ lùm cây gần khu vườn rau của thím Hai Hòa.
    - Chúng mình tới chỗ có lùm cây kia!
    Trời lúc ấy đã xế chiều. Ánh nắng tàn úa nhuộm vàng trên các ngọn cây. Những người làm ruộng đã lục tục gọi nhau trở về. Đôi bạn tiến thẳng lại chỗ lùm cây ngồi đợi. Khôi duỗi thẳng hai chân lên cỏ, móc túi lấy gói kẹo cao su.
    Hai anh em vừa chia nhau thanh kẹo, chợt có tiếng sột soạt ở sau lưng. Giật mình quay lại, Việt bỗng kêu:
    - Ồ, con Vện.
    Con Vện nhảy đến bên cạnh Việt ve vẩy đuôi.
    Khôi cau mày hỏi:
    - Con chó nào thế Việt?
    - Việt không biết!
    - Thế tại sao cậu lại biết tên nó, và hình như nó cũng có vẻ quen cậu?
    - Tớ đặt tên cho nó đấy chứ. Có lẽ nó là một con chó hoang, vì Việt thấy nó đi lang thang mọi chỗ.
    - Nếu vậy, phải đuổi nó đi, không có lát nữa, nó đdi theo bọn mình thì hỏng cả việc!
    Việt nhặt hòn đất ném con chó, bảo:
    - Thôi, đi chỗ khác đi mày!
    Nhưng Vện tránh khỏi, nhặt hòn đất, hí hửng đem lại cho Việt. Khôi buột miệng khen:
    - Ồ, con chó khôn nhỉ!
    Việt bàn:
    - Hay chúng mình cứ cho nó theo. Biết đâu, nó không giúp mình được việc?
    - Tùy Việt, nhưng cậu phải canh chừng nó đấy nhé!
    Việt gật đầu:
    - Được rồi. Nhưng liệu đã đi được chưa?
    Khôi nhìn ra cánh đồng thấy vắng hết bóng người, ra dấu bảo Việt sửa soạn:
    - Đi thôi Việt! Mặt trời đã lặn rồi.
    Cả bọn --- Nghĩa là Khôi, Việt thêm con chó đến chỗ lò gạch đổ thì trời sập tối. Nhìn trước sau, cả ba chui vào trong, tìm một chỗ thật kín ngồi đợi. Con Vện hình như đoán biết sắp được dự vào một việc gì quan trọng sẽ xảy ra nên nó ngồi yên lặng giữa hai người. Bóng tối dâng lên mỗi lúc một dày đặc. Đôi bạn không nhìn thấy mặt nhau. Gió đêm nổi lên, lùa vào trong lò nghe vi vu ghê rợn, hòa lẫn với tiếng côn trùng rỉ rả.
    Việt thấy giây phút chờ đợi dài vô tả và bóng tối giữa nơi đồng không quạnh quẽ thật đáng sợ. Tự nhiên, người Việt sởn gai ốc, tim đập mạnh và hơi thở dồn dập.
    Khôi thò tay sang nắm lấy tay bạn thì thào:
    - Cậu có sợ không?
    Việt thì thào đáp lại:
    - Không! Nhưng Việt thấy hồi hộp lạ. Liệu "hắn" đã sắp đến chưa?
    Khôi nắm chặt thêm tay bạn:
    - Cứ bình tĩnh Việt ạ. Khôi đoán nếu hắn có đến, cũng phải quá nửa đêm.
    - Ngộ nhỡ hôm nay hắn không đến?
    - Thì đến đêm mai hắn cũng phải đến. Việt quên là mảnh giấy mà hai người lạ mặt gài lại đây cho hắn, hẹn đến ngày 27 tháng 7 đấy thôi. Hắn không thể đến sau ngày ấy được.
    Khôi đưa thêm cho Việt một thanh kẹo:
    - Này, nhai đi cho đỡ sốt ruột. Nếu có mỏi quá tựa lưng vào vách mà nghĩ. Đừng có ngủ đấy nhé.
    - Cứ yên chí!
    Đêm mỗi lúc một khuya. Con Vện ghếch mõm lên đùi Việt nằm không cựa quậy. Có lẽ nó đã ngủ, Việt đặt một tay lên đầu nó vuốt nhè nhẹ rồi Việt cũng thiếp đi lúc nào không hay.
    Bỗng con Vện nhỏm người lên, gừ gừ nghe ngóng. Cử động của nó làm Việt bừng tỉnh. Cậu vội ấn nó vào lòng giữ nó nằm im, rồi quờ tay sang lay bạn. Khôi như cũng vừa mới thiếp đi, giật mình nói qua hơi thở:
    - Có tớ đây!
    - Cậu có nghe thấy gì không?
    - Có, hình như hắn đang đến.
    Có tiếng động ở bên ngoài. Một đám gạch vụn bị dẫm lên nghe lạo xạo. Việt thấy toàn thân tê cứng, cổ họng như nghẹt lại, tim đập mạnh tưởng muốn vỡ ***g ngực. Tuy nhiên Việt cũng còn tỉnh táo nhận định rõ bước chân đi. Hắn đã bước vào trong lò. Hắn thở hổn hển như vừa chạy một quãng đường dài. Hắn bật lên một que diêm. Ánh lửa đầu ngọn diêm lóe sáng trong khoảng tối âm u. Bóng hắn hiện ra, cao lớn, chập chờn trên vách. Con Vện run rẩy chỉ muốn nhảy chồm ra, nhưng Việt cố gắng ôm chặt lấy nó. Sát cạnh Việt, lom khom sau đống gạch vụn, Khôi đang chăm chú theo dõi từng cử chỉ của người lạ.
    Khoảng khắc kéo dài chỉ vừa bằng một que diêm đốt cháy. Ánh diêm vừa tắt, thì bóng đen cũng đã tìm được mảnh giấy, và bước trở ra ngoài.
    Việt bàng hoàng như vừa qua một giấc mơ. Tai Việt chợt nghe có tiếng Khôi dặn khẽ:
    - Chờ một lát nữa rồi cậu bò ra ngó chừng xem hắn đi về ngả nào. Tớ khoác ba lô xong sẽ đi ngay.
    Việt chờ vài phút, ôm con Vện bò ra. Tới cửa lò, Việt vội thụt trở lại. Bóng người đàn ông chỉ cách Việt có một quãng ngắn.
    Dưới vòm trời le lói ánh sao, Việt nom rõ bóng hắn đứng sừng sững giữa cánh đồng như đang tìm phương hướng để đi.
    rồi từ đây! bên em nhé anh của em, em xin hứa chỉ yêu mình anh, bao nhiêu dấu yêu gửi hết cho anh.......

  9. christy166

    christy166 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/12/2002
    Bài viết:
    1.297
    Đã được thích:
    0
    Đem hôm thế này ngồi đọc sợ phát khiếp đi được.....
    Bỏ lại sau lưng nước mắt nhạt nhòa....
  10. conhuighe

    conhuighe Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    0
    Câu ác !Khiếp.

Chia sẻ trang này