1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Văn Thọ

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi tbm, 16/05/2003.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. tbm

    tbm Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2002
    Bài viết:
    1.226
    Đã được thích:
    0
    Truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Văn Thọ

    Giới thiệu nhà văn Nguyễn Văn Thọ

    Từ hơn 10 năm nay, khi cộng đồng Việt Nam - đa phần gồm những người rời Việt Nam sang làm việc, học tập và sinh sống trong hai thập niên 80 và 90 của thế kỷ trước - dần dần được hình thành và lớn mạnh tại các nước Ðông Âu (cũ và Ðức, thì cũng đã xuất hiện không ít cây bút chiếm một vị trí đáng trân trọng trong nền văn học hiện đại Việt Nam. như Lê Minh Hà, Thế Dũng (Ðức), Phạm Hải Anh (Hòa Lan)... - và lần này là Nguyễn Văn Thọ, một nhà văn có uy tín với bề dài sáng tác hơn hai thập niên nay.

    Nhà văn Nguyễn Văn Thọ sinh năm 1948 tại Thái Bình. Năm 1965 tham gia trực tiếp chiến đấu trên các chiến trường A, B, C. Năm 1976 giải ngũ, tốt nghiệp kỹ sư Kinh tế, công tác tại Bộ Nội thương. Năm 1988 đi hợp tác lao động tại Ðông Ðức.

    Hiện tại, Nguyễn Văn Thọ định cư ở Ðức và tham gia cùng nhiều tạp chí văn chương trong nước và hải ngoại. Anh cũng đã xuất bản một số tác phẩm như "Mảnh vỡ" (thơ, Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam, 1988), "Cửa sổ" (thơ, Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam, 1999), "Gió lạnh" (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam, 1999)... Ðặc biệt, Nguyễn Văn Thọ nằm trong số 4 tác giả được trao phần thưởng dành cho những truyện ngắn xuất sắc nhất trong hơn 100 truyện ngắn tham dự cuộc thi truyện ngắn hai năm 2001-2002 của tạp chí "Văn nghệ Quân đội", trong đợt sơ kết năm thứ nhất (dịp đó, nhà văn đã gửi các tác phẩm "Nhà ba hộ" và "Ngọn lửa")

    Sau đây,xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả một vài truyện ngắn mới của nhà văn Nguyễn Văn Thọ: "


    Anh lười lắm chẳng tìm bé yêu được
    Làm sung rơi rụng xuống mõm anh nào
  2. tbm

    tbm Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2002
    Bài viết:
    1.226
    Đã được thích:
    0
    Trong Bão Tuyết
    truyện ngắn của Nguyễn Văn Thọ
    Ghi chú :hiện tôi hơi bận nên chưa sửa lại được ,bạn nào đọc thấy có dấu ****** thì hiểu đó là "me. (của) mày " nhé .Cái bộ lọc tự động banana của TTVN nó không cho hiện ra từ "me. mày " dù ở đây ko phải là từ chửi tục
    Bây giờ là tháng 12. Sau Noel, tất cả, cả thời gian, dường như đóng đông lại bởi nhiều ngày lễ và nguyên nhân chính là thời tiết quá tồi tệ. Mặt sông, hồ đanh cứng một lớp băng trong suốt. Và gió xoáy thổi ào ào những hạt trắng rắn cứng như cát, suốt từ sáng qua đêm, ngày lại ngày. Mọi năm ấm hơn, thời điểm này hoa Forytchia(1) đã bắt đầu xé vỡ băng giá, xé toạc lớp vỏ khô rộp vì bỏng lạnh, khoe những mầm tơ để ít bữa rực hoa rộn ràng như nắng hạ.
    Trước đó ba tháng, tại vùng hắn ở có đứa bạn bị những người đồng hương đột vòm(2). Bọn chó hoang tha đi của gia chủ, bạn gái vợ chồng hắn 15 ngàn Euro tiền hàng.
    Hắn bình tĩnh dặn thằng con riêng của vợ: "Tao ở nhà thì không nói gì. Nhưng đi vắng bọn trộm có lọt vào, cứ cho nó lục. Đừng sợ, đừng chống cự. Chẳng thằng nào trên đời này đẩy cửa là bắn luôn, hay chém phăng đầu chủ nhà. Còn nếu nó đông mà tao ở nhà, con chỉ có trách nhiệm gọi điện cho cảnh sát. Còn lại là việc của tao". Đứa trẻ vừa mười tám tuổi, đứng trước hắn, bấy lắm! Nếu ai hơi tinh đời, nhận ngay ra nó như một chú dê tơ, vừa nhu nhú mầm sừng và đối diện là con sói già. Nó nhìn bố dượng nó không chớp và "dạ" nhẹ. Thực ra, thằng bé cũng từng nếm trải. Năm còn ở Hà Tây với ông cậu, cũng từng lang thang trốn nhà đi bụi mấy tháng. Còn khi bà ngoại và ông cậu tống nó ra khỏi nhà, chút xíu nữa nó đã trở thành bụi đời chuyên nghiệp trên sân ga Hàng Cỏ. Nhưng quả thực, nó chưa thấy ai như "lão già" này. Cái gì cũng không lọt khỏi mắt lão' dù một lời nói dối xâu vừa lỗ kim.
    Tuy nhiên, ở đời không thể chủ quan được! Đừng khi nào để mình rơi vào cảnh huống bị động! Hắn nghĩ vậy và tìm cách giấu tiền. Tổng số 25 ngàn Eu. Hắn đếm hai lần số tiền trước khi niêm phong chiếc phong bì chống ẩm, lại viết số tiền lên mặt phong bì, cẩn thận ghi ngày tháng. Hắn để tiền trên hốc nóc tủ ngoài hành lang, nơi có hộp công tắc(3) lõm vào. Hắn nghĩ, giấu chỗ này, tưởng sơ sài nhưng sẽ gây bất ngờ. Hắn chặn hai cuốn địa chỉ điện thoại nặng chịch lên cái gói tiền. Tại đó có cái hốc nhỏ, nếu ai kéo cuốn điện thoại, túi tiền sẽ rơi ngay xuống đó mà chạy xuống đằng sau chiếc tủ cao nặng đã bị phích bằng hai bộ ốc vào tường. Việc giấu tiền thực hiện sau ngày bạn hắn bị đột vòm: Ba tháng rồi!
    Hôm ấy là chúa nhật. Gió thổi khốc liệt hơn. Lạnh tới mức hắn và vợ nghỉ hai buổi chợ. Thời gian ngày nghỉ như dài ra, trôi chậm lại. Hai buổi chợ mất đứt hai trăm Eu là ít! Đúng vào tuần lương của Đức: Đúng ngày sát Noel! Vợ hắn cứ đi ra lại đi vào. Luôn chép miệng và ngó ra ngoài trời.
    - Năm nay việc buôn bán thực quá tồi tệ. Mình đã ăn lẹm vào vốn cái. Bù vào tiền ăn của nhà ta, chi nước thải, nước nóng trội ra, và điện, chi chữa xe, tiền bảo hiểm sức khoẻ, từ năm thêm thằng con em, bảo hiểm ép tăng nữa. Tất cả hơn tám ngàn.
    Hắn nói với vợ. "Vâng, em biết. Từ khi đổi tiền mới, cái gì chẳng tăng giá. Tốn kém!". Người vợ đang nhặt nhạnh mấy túi ni lon bao bì gấp xếp cẩn thận, để dùng cho việc lặt nhặt trong nhà, mà nhẽ ra phải chi mấy chục cent từng tháng.
    - Đồng US lại tụt rồi! - Hắn nhả khói thuốc lên trần nhà. Tách một cái, mẩu thuốc bay lên lọt đúng vào cái gạt tàn để cách hắn hai tầm với. Màn hình nhoang nhoáng chuyển từ tin tài chính sang tin Mỹ mang lính đi chuẩn bị choảng nhau. Khuôn mặt hắn bị ánh sáng hắt ra, nhợt nhạt, hơi lạnh. Cái đi văng cũ, da mềm màu huyết dụ, vừa là chỗ ngủ của hắn vừa là nơi tiếp khách, phát ra tiếng kêu ọt ẹt. - Ông xem thế nào. Kỳ phép này của ông, mang US về mà chi. Em tính, để Euro lại, sau này có giá đấy. - Tiếng người vợ nói vọng vào.
    - "Ừ, sẽ mang tiền US về. Cô ở lại khi tuyết, gió quá đừng tham mà ra chợ. Bây giờ hai đứa đã có tuổi. Có giàu thì giàu rồi. Ngộ nhỡ, cô ốm lăn ra thì chả bõ. Tôi thu xếp xong mọi việc ở Hà Nội sẽ sang ngay với ba mẹ con". Hắn nhẩn nha.
    Cái câu có giàu thì giàu rồi mỗi lần gã nói làm người đàn bà đau thót tim. Chị vẫn thế. Số tiền hơn bảy chục ngàn US gửi mẹ đẻ của chị ở Hà Tây đã tiêu tan trong một năm. Mẹ chị đã dùng tiền ấy đầu tư cô em bà ở Sài Gòn. Bà dì chị phá sản, tiền tan như khói. Chị đau xót cắn môi mỗi khi nghĩ lại. Không tin mẹ thì tin ai? Dầu khi ấy hắn đã can, chị biết gửi ai giữ tiền hơn mẹ chị. Hai đứa chưa lấy nhau, chia tiền sòng phẳng xong, phải gửi về nhà. Hắn nam giới chôn tiền ở đâu chả được. Chị nữ nhi, chắc nhất là gửi mẹ. Thôi thì cơ sự đã như vậy, chả nhẽ con lại cắn xé, ăn thịt mẹ trở lại. Chị chỉ trách mẹ một điều, vì tham lãi to mà tự động sử dụng số tiền ấy. Vỡ lở rồi cũng không dám nhận lỗi về mình, lại chửi chị, thành người mang tiếng. "Con cái gì, nó là hạng chỉ nghĩ tiền mà quên tình mẹ con!". Phải rồi, ở quê, ai cũng nghĩ chị giàu có, tiền như nước. Về phép, cả họ có quà. Có ai biết cái nỗi tha hương, mặt gục vào tuyết giá, nhịn ăn nhịn tiêu, nhịn cả tình cảm, sự ấy diễn ra lâu rồi. Khổ quá, chị biết mẹ tiêu dùng thế nào, vặn hỏi cho rõ từng khoản, lập tức đứa con chị bị đuổi khỏi nhà! "Chị nhiều tiền, nuôi lấy nó, kẻo mang tiếng tôi là ở nhà trông cậy vào tiền ở nước ngoài. Tôi là con ở nuôi anh em chị. Bây giờ lại là vú già nuôi con chị ư?". Trời ơi, người chứ có phải là cục đá mà gói mang con đi ngay được. Anh ấy nghe tin, khẩn cấp bay về, "Gia đình tôi sẽ nuôi nó!". Chị vẫn biết ơn chồng khi hắn đón thằng bé về nhà bố đẻ rồi lại tìm cách đưa được sang với chị. Đôi khi chị không hiểu được thời cuộc bây giờ. Người chồng cũ không nói làm gì. Gã coi chị là kẻ thù là nhẽ thường tình, có thể hiểu được. Còn mẹ chị? Chính là con người chị tin tưởng nhất ở cõi đời sau những tan nát của cá nhân chị. Cũng tưởng đi nước ngoài kiếm tiền thì an ủi cho cái thân phận mình. Thế mà chính cuộc đi kiếm tiền này, lại là cuộc ly loạn của bao nhiêu điều mà một người đàn bà như chị chẳng bao giờ mong muốn mang tiền ra đánh đổi!
    *
    Hắn chợt bật dậy. Thế là chỉ còn hơn tuần nữa hắn lại được trở về Hà Nội. Nghĩ mà khoái. Có lẽ phải tính toán lại số tiền mang về chi cho việc bốc xây mộ song thân...
    Hắn đi ra hành lang. Chợt nhìn lên nóc tủ nơi hắn giấu tiền. Cuốn sách hơi lòi ra ngoài. Hắn chột dạ. Nhảy phắt lên, luồn tay vào.
    Có đường lạnh chạy dọc sống lưng. Hắn giật tung hai cuốn sách nặng. Cái hốc trơ trọi. Một con nhện hoảng hốt chạy từ nóc trần sát đó và những sợi tơ mầu khói chăng ra cả tay hắn.
    - Mẹ nó cầm tiền ở đây à? - Hắn giật giọng hỏi. Người vợ từ bếp chạy ra:
    - Tiền nào? - Tiền tôi giấu đây này. Đâu? - Người vợ hoảng hốt mặt tái xám đứng như trời trồng giữa hành lang căn hộ.
    Gần hai chục phút sau, cái tủ bị tháo vít khênh ra: Nhìn rõ dăm con gián nhỏ xíu chạy hốt hoảng.
    *
    Cả nhà bị lật, rũ tung từng thước thảm. Những cuốn sách và toàn bộ giường tủ, quần áo. Những chậu cây, đáy ti vi và cả đằng sau những bức tranh.
    Đã bốn tháng nay hắn có ngó ngàng gì tới số tiền đâu. Công việc làm ăn quá hối thúc hàng ngày cũng chả để hắn và vợ thở nữa là ngó vào cái thứ coi là nguồn vốn dự trữ kia. Trời ơi, đây là toàn bộ số tiền sau hơn mười lăm năm còn lại từ bàn tay chai cứng như thép của hắn. Có thể đùa được đâu! Mười lăm năm xa quê, lang thang ba bốn nước, bao nhiêu chuyện xảy ra. Bao người thân yêu nhất mất đi mà hắn chẳng thể có mặt để dẫu là chỉ khóc. Gia đình cũ tan nát. Gặp người đàn bà cũng có sự đau đớn tương tự, gắn bó. Tưởng xây dựng được tổ ấm mới. Tiền đã mất hơn bẩy mươi ngàn rồi. Còn lại khoản cuối này, khoản từ ngày cha hắn mất, hắn tổng động viên tiền quay lại Đức.
    *
    Hắn đi đi lại lại không nói. Nhưng thực ra trong hắn biết bao câu hỏi. Ai? Ai đã lấy số tiền này.
    Hắn cố gắng bình tâm. Cách đây hơn hai tháng, lần ấy hai nhà Việt Nam nữa ở liền khu hắn sống, bị bọn trộm cùng một lúc chờ gia chủ ra khỏi nhà đã cậy cửa tự nhiên khuân đi tất cả cái gì có giá trị. Hắn có bàn với vợ di chuyển số tiền xuống hầm. Rồi sau đó vì công việc, hình như không làm việc ấy. Nói chính xác hơn là vợ chồng có bàn, rồi sự làm ăn túi bụi của vụ Noel làm cả hai không kịp tiến hành thay nơi cất tiền xuống hầm nhà. Hay là vợ hắn? Hắn hỏi lại vợ lần nữa. Người vợ yên lặng một lát, rồi ngửng lên nhìn vào đứa con gái đang đứng nép bên cánh cửa: "Không, em hoàn toàn không tự động làm việc ấy".
    Họ vẫn kiên nhẫn lục lại lần nữa khắp các phòng.
    Đứa con gái sáu tuổi đứng tựa vào cánh cửa, giờ bước tới ngã vào lòng mẹ. Nó không hiểu việc gì đã xảy ra. Nó thấy khuôn mặt rất Boese(4) của cha nó. Nó thấy bộ mặt sợ hãi tái nhoét của anh nó. Từng ấy với nó, một đứa bé sinh ra ở Đức, là cả một sự ghê gớm quá rồi. Nó khóc.
    Hắn lôi tuột đứa trẻ vào phòng ngủ của hai mẹ con, ấn xuống giường. Ngủ đi! Bố sẽ tìm thấy tiền, ông già Noel sẽ tới gửi nhiều quà Noel cho. Con bé sợ hãi nhìn cha nó. Ôm cổ cha nó mà hôn rối rít. Bình thường chả mấy khi nó làm vậy. Sự sợ hãi vốn là bản năng của con người ta? Cũng chẳng thể hiểu ai đã dạy loài người điều đó ngay từ khi chập chững vào đời, hay là cuộc sống luôn bất trắc đã ngấm từ máu cha mẹ vào tận nhau thai? "Con đừng sợ. Ngủ đi". Hắn hôn vào má con bé như cắn.
    Đêm, không ai chợp mắt tới sáng. Hắn đi đi lại lại, hết bật nhạc lại xem ti vi. Rồi yên lặng, rồi hét lên. Chỉ có câu hỏi duy nhất miết xoáy lên trần chạy vang cả ba phòng trong căn hộ: "Tiền! Tiền ấy ai lấy? Trộm? Đứa nào? Ai? Sao nhà không có vết cậy cửa? Sao chúng không khuân cái đầu DVD thu phát mode nhẹ tênh, có bán lại ở chợ Việt Nam cũng được cả ngàn? Ai?". Họ không tìm ra câu trả lời. Suốt ba tháng qua, không có khách ngủ lại. Vô lý, vô lý! Chỉ có tao và ****** biết. Mày có biết không? Nó ở đâu?
    Cứ như thế tới khi mặt trời soi rõ những con gió vẫn quất mạnh ném tuyết ngập tới nửa mét trên thị xã, trên cánh đồng.
    Bữa ăn nguội buổi sớm thực yên lặng. Nghe rõ tiếng bánh mỳ khi bẻ ra thả vào sữa. Tiếng nuốt sữa của đứa trẻ. Một lát, hắn nói chậm, nhưng gằn:
    - Một mất mười ngờ. Bây giờ chỉ có ba người. Không ai ngoài chúng ta. Tao? ****** hay mày? Chả nhẽ tao lại ăn cắp tiền của tao? ****** thì không rồi. ****** không thể phản bội lại tao. Điều ấy mày chắc hiểu.
    Hắn nuốt một ngụm Netcafe rồi nhìn vào mặt thằng bé.
    - Mày nghĩ kỹ đi. Tao không khẳng định mày lấy. Nhưng tao hỏi mày, mày có vô tình thấy nó mà giấu đi không? Mày biết tính tao đấy. Tao căm thù nhất trên đời tính ăn cắp. Nhặt được của cải, không phải của mình làm ra cũng là sự ăn cắp. Là phản bội, nhất là bây giờ mày biết số tiền ấy là của tao, của ******, của chính cả mày và em mày. Nhưng tao thề có tổ tiên tao, nếu mày thú nhận, tao sẽ tha thứ. Đừng nói dối và giấu tao điều gì. Đừng trách tao nghi mày. Nghĩ kỹ đi. Mày thiếu trung thực với tao, dẫu là khi mới bước chân sang đây tao đã nói cả trăm lần về điều ấy. Mày luôn trốn học đi chơi. Mày bỏ đi cả tuần kỳ tết năm trước sang nhà chú Tâm khi tao và ****** về Việt Nam. Vậy sao tao có thể tin mày? Mày hứa với tao học chăm chỉ. Tất cả chỉ là hứa suông. Mày thích chơi điện tử, vào nét hơn là rèn luyện để trở thành người đàn ông đủ tài mà chống chọi với cuộc sống!
    Người vợ ngồi né mặt, với nhìn sang đứa con gái nhỏ. Thằng bé thì cúi gầm mặt xuống. Tất cả những điều ấy không sai với nó:
    - Nhưng con không lấy và không biết số tiền ấy. Con thề!
    - Thề! Tao thề được như mày. Vậy ai đã lấy tiền? - Hắn chau mày. Giọng nhỏ, đanh sắc và cặp mắt sáng tóe lửa như mũi mác phóng vào mắt thằng nhỏ.
    - Con thực không biết! - Thằng bé lé mắt lên yếu ớt nhìn dượng nó. Nó
    hiểu, con người này đã đối xử với nó rất tốt. Tốt hơn cả cha nó. Nó từng nói với bà giáo Hega trong kỳ nghỉ đông vừa qua: "Dượng tôi rất được, ông ta biết tôi ốm. Biết tôi bất kỳ ở đâu khi cha đẻ tôi không bao giờ biết tôi đang ở đâu từng ngày. Chỉ tội dương tôi tính nóng hơn lửa. Ông ấy rất thương mẹ con tôi?". Nó lí nhí: "Quả thực con mải chơi. Con từng ăn cắp ở nhà. Nhưng từ ngày sang đây con không ăn cắp. Con biết bố rất ghét và con đã thề với bố về điều ấy rồi! Còn con có lỗi là còn hay nói dối. Con sợ bố mẹ mà nói dối chứ con không muốn nói dối!".
    - Mày sợ. Mày sợ nên để con chim mà mày luôn mồm kêu yêu nó, chết rét trong ***g, khi mày chạy đi chơi suốt cả tuần lúc tao và ****** vắng nhà. Mặc kệ băng giá hành hạ con vật. Vậy ai tin mày? Nếu mày là con đẻ tao, tao sẽ đập chết hiểu chưa.
    - Bố ơi! Con xin bố tha! - Đứa con gái cất tiếng, nó sắp khóc. Nó chạy từ lòng mẹ nó tới bên anh. Tự nhiên người đàn bà nước mắt chảy lã chã. Thằng bé cũng âm thầm khóc

    Anh lười lắm chẳng tìm bé yêu được
    Làm sung rơi rụng xuống mõm anh nào

    Được tbm sửa chữa / chuyển vào 23:49 ngày 16/05/2003
  3. tbm

    tbm Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2002
    Bài viết:
    1.226
    Đã được thích:
    0
    Yên lặng.
    Hắn dịu giọng:
    - Mày nghĩ kỹ đi. Ai cho mày ngày hôm nay? Tao đã quỳ xuống van nài bố tao, chị tao nuôi mày khi mày đói gầy trên sân ga. Tao lại chạy ngang chạy dọc đưa mày sang đây cho mày hết cái cảnh có mẹ mà như không. Tao cũng từng như van mày, hết ngọt tới sẵng rằng là đàn ông thì phải kiêu ngạo mà tự tay mình làm ra tiền. Mày nghĩ lại đi con. Tao với mày chả ruột thịt gì. Sao tao lại cắn răng nhớ thương con tao ở quê hương để chăm cái đứa chẳng máu mủ như mày? Mày thấy nó rơi ra mà nhặt được thì đưa cho ******. Tao thề, hai thằng đàn ông, thề có hương hồn cha mẹ tao, rằng tao sẽ không trừng phạt...
    Hắn nghẹn lại vì xúc cảm thực sự. Không khóc, nhưng giữa ngực hắn có một dòng chì chảy nóng rẫy bò ngoằn ngoèo trong từng đường gân mạch máu. Hắn cố giữ mặt lạnh:
    - Thôi tao nói vậy là đủ. Cho mày suy nghĩ từ giờ tới tối - Hắn cười gằn. - Tao sẽ lại làm lại từ đầu. Tuy là mày biết đấy, cơ hội kiếm tiền chẳng bao giờ như ngày hôm qua. Tao già rồi. Nhưng tao sẽ không sợ. Tao yêu thương tất cả, nhưng tao căm thù sự phản bội và không sợ bất cứ khó khăn nào, nhất là nó tới từ kẻ thù của tao ở đời. Tao chống cự đến cùng! - Mắt hắn đột nhiên tóe sáng.
    *
    Bóng tối bắt đầu trùm lên thị xã. Ngoài kia, tuyết vẫn trùng trùng rơi.
    Con bé bám tay vào thành cửa sổ. Nó nhìn sang dãy nhà bên kia đường. Tại đó có mấy người đi lại thấp thoáng trong gió. Ở nhà nó đang xảy ra điều gì? Bằng giờ này mà vẫn chưa thấy ông Noel tới. Chắc năm nay ông ấy giận gia đình nó mà không tới. Muốn ông Noel tới, phải học giỏi và không được cáu kỉnh. Bố nó nói vậy. Nó thì học tốt rồi, vậy thì chỉ tại bố mẹ nó đang cáu kỉnh mà ông Noel không tới thôi. Nó hỏi: Tại sao bây giờ ông Noel chưa tới, papa? Mẹ nó nhìn đứa con cố nói nốt một câu với chồng: "Em nhục lắm rồi. Em van anh đừng tống nó về Việt Nam. Cho nó tới Muenchen đi vặt lông gà vậy. Nó về nhà chắc nghiện như thằng anh nó. Thế thì em tự vẫn!".
    Hắn ôm con gái vào lòng, vuốt tóc đứa con gái. Mọi năm giờ này hắn đã đóng bộ ông già tuyết từ hầm đi lên giả giọng ồm ồm, xì xồ tiếng Đức, phát quà cho con hắn. Bây giờ thì bụng dạ nào mà làm việc ấy. Hắn nói dối: "Con à, năm nay bão, xe hươu của ông ấy hỏng bánh rồi, ông ấy cũng già hơn cả ông nội con, không tới được đâu!". "Thực không papa? Ai nói cho papa biết xe ông ấy bị hỏng?". Hắn ôm đứa nhỏ vào lòng: "Bố gọi điện hỏi rồi mà. Ông Noel tốt lắm. Bây giờ ngủ đi".
    Tuyết vẫn ù ù đập vào cửa cho tới sáng. Phòng thằng lớn vẫn lom dom cái đèn học. Ánh sáng chiếu qua khe cửa hở một vệt như mũi lao đâm sang nơi hắn ngồi hút thuốc suốt đêm. Hắn ôm mặt muốn khóc mà chẳng thể.
    Hắn nhớ lại cả cuộc đời hắn. Những ngày trôi dạt bên Nga. Cái phòng nhỏ khói a-xít lơ lửng, dày đặc quyện che kín cả trần nhà. Cuộc di dời đầy mạo hiểm qua nhiều biên giới. Hắn chưa khi nào thua ai cả. Vậy mà tại đây hắn mất mát bao nhiêu mà cuối cùng lại bị phản bội. Trời ơi. Giá mà hắn biết rõ ai lấy số tiền này. Sự nghi ngờ bao giờ chả là nghi ngờ! Hắn không phải là loài người làm điều không có bằng cớ. Cuộc sống cũng bao lần oan uổng ở quân ngũ, ở cơ quan, ở đời, nên hắn thận trọng. Hắn đau đớn chừng nào bởi như vậy không chỉ là mất tiền! Hắn nhớ tới ngày xin gia đình hắn đón thằng nhỏ về nhà, cha hắn là con người của ngày xưa thủng thẳng: "Dây bầu đeo lấy quả bầu. Thế gia tộc hai đằng của nó đâu?". Hắn quỳ xuống, đây là con của người đã chia sẻ bấy nay với con ở bên đó. Con không thể bỏ rơi bè bạn khi hoạn nạn. Con sẽ lấy cô ấy làm vợ. Nó là người. Cha hãy vì con mà thương nó. Thế mà bây giờ thằng ấy dám phản bội lại hắn. Hắn giận dữ miết tay xuống cạnh bàn. Ngón tay cái hắn ứa máu. Hắn chả thấy đau. Thản nhiên liếm.
    Hắn đau khổ tới cùng cực.
    Thực ra, con người như hắn thật đáng thương. Khuôn mặt hắn có vết sẹo dài trên trán. Đấy là vết thương của chiến tranh, ngày hắn đánh vào giải phóng thị xã Tuy Hòa. Còn cái vết sẹo to như con giun ngoằn ngoèo chạy từ bả vai tới xuống tận cổ tay trái là nhát dao kỷ niệm của đám thợ hoàn kim tại Nga, vừa là ân nhân vừa tí nữa là kẻ thù của hắn. Ân nhân vì khi nước Nga sụp đổ, hắn mất hết cả tiền sau chuyến đi tận Cáp Ca đổ bột nghệ bị đám cướp lạ dí súng vào đầu mà lột sạch. Đang lang thang ngoài ga, đói tưởng chết thì gặp họ lôi về nhà cho ăn, cho mặc và cho cả chân giúp việc tách vàng trong cái phòng ngột ngạt. Tí nữa là kẻ thù vì bữa tiệc cuối năm, say, cả lũ say mèm vì hơn mười chai vốt ca. Thỏi vàng vừa cô lại trong túi quần hậu của tay nhóm trưởng không cánh mà bay sau giấc ngủ trên thảm, giữa đám vỏ chai và thức ăn bừa bãi. Thế mà chúng kéo hắn, cái thằng vô gia cư bị nghi ngờ nhất vừa mới quen chưa đầy ba tuần lên, với sợi dây dù trói ngược cánh tay, treo lơ lửng trong phòng bếp. Hắn có chôm đâu mà khai? Con dao bếp Nga sắc đã lướt nhẹ từ vai tới cổ tay để máu rỏ lõng võng như cắt tiết gà xuống nền bếp. Người ta lại lập tức hạ hắn xuống cấp cứu và theo luật giang hồ hắn được tặng lại nhát dao ấy cho kẻ cứa hắn, khi thằng mất vàng tìm thấy thỏi vàng nửa ký rớt ra sau bồn cầu toa lét hồi đêm trong trạng thái say xỉn. Có thể sự oan uổng ấy, làm hắn thận trọng hơn với thằng bé trong vụ này. Thận trọng thôi, chứ khả năng nó chôm là nhiều. Bởi hai trường hợp khác nhau. Hắn hư đốn giang hồ nhưng không có tiền sử trộm vặt. Hắn giang hồ cũng vì biết bao điều của cuộc đời mà thực ra hắn sẽ giữ được bộ mặt không tới nỗi nào khi được sống trong ăn học tử tế và đừng đói nghèo. Hắn bất giác sờ tay lên đôi má sọp lại. Giá đầy đặn hơn. Giá xóa đi nét phong trần, con mắt sáng và cái mũi thẳng, đôi môi trái tim hồng lại, phải là một khuôn mặt đẹp của đàn ông!
    Tiếng đồng hồ vẫn tích tắc từng giây đủ cho cả ba con người trong ba phòng nghe rõ. Chỉ có đứa con gái nhỏ là ngủ. Nó mê gì? Môi son hé cười và đôi tay hồng nắm lấy búp bê cô Công Chúa Tuyết.
    *
    Tôi đồng ý. Ngay sau tết Tây thằng con bà sẽ đi xuống phía Tây chỗ bọn thằng Tuấn Tanh nhổ lông gà. Để cho thằng Tuấn Tanh trị nó, cho nó biết thế nào là lễ độ. Mười tám rồi. Ở Đức này, mười tám là phải tự lập. Các bà mẹ như cô không học ra điều gì về đại bàng sao? Đại bàng mẹ lấy cánh đủn con xuống vách đá, khi con chim nhỏ vừa đủ lông. Con chim non chấp chới, sợ hãi đập cánh và nó nhao vào luồng khí bay lên! Muốn con bà thành đại bàng hay mãi mãi như con gà nhép nép vào cánh mẹ? Vả lại khi hai thằng đàn ông phản bội nhau, không tin nhau, thì sống cạnh nhau tất có ngày có hậu hoạ. Tôi không sợ nó, nhưng tôi sợ chính tôi! Còn ở lại với tôi. Không thể được! Tôi cũng nhắc lại với bà là nếu tôi phát hiện chính xác, nó đã lấy tiền của tôi, thì bà liệu tìm nó. Tôi sẽ biết, trước và sau sẽ biết. Số tiền ấy không thể là cái kim mà giấu được. Nó phải tiêu. Phải mua xe mới chẳng hạn...!
    Hắn và vợ bỗng đồng loạt thở. Tiếng thở hắt ra, nhưng ở hai người đều có ý nghĩa khác nhau tới đối nghịch.
    Bên ngoài có tiếng chuông.
    Thằng bé ra mở cửa. Đó là bạn gái vợ chồng hắn. Một người đàn bà tứ tuần, quắt queo như trái quéo héo.
    - Em nghe tin hai bác có việc không may! Có mỗi mình em ngủ lại đêm ấy. Anh chị ơi, em cũng bị đập hộp, mất tiền sao mà nỡ lòng nào nhặt được tiền của hai bác!
    Chưa đặt đít đã đặt mồm - Hắn nghĩ - Ai bảo cô nhặt tiền?
    Người đàn bà sà tới bên thằng nhỏ: "Cô mong cháu lên làm, mà nhà có việc không đi làm sao không báo cô? Cô không gọi điện cho mẹ cháu thì sao cô tìm ngay người khác thế chân cháu. Khổ quá anh ạ. Quán ế ẩm cả năm, bây giờ tụi nó mới đi mua sắm. Thôi, cháu còn nghỉ đông có hai tuần. Việc xảy ra đã rồi. Để cháu lên làm tiếp với em xem sự thể ra sao. Ấy, hay năm nay chị cũng sao Thái Bạch chiếu như em nhỉ?
    Người đàn bà kéo đứa con trai và vợ hắn vào phòng nhỏ. Từ đó vọng ra tiếng rì rầm. Hắn yên lặng hút thuốc tại phòng khách và nửa tiếng sau, lòng hắn đau thắt, rối bời khi nghe tiếng thét của thằng con vợ trong phòng:
    Con sẽ tự tử, con sẽ chết để chứng minh cho cô và dượng là con không biết gì!
    Dẫu sao, hắn vẫn là tên giang hồ có gốc gác của một gia đình tử tế. Hắn nhảy bổ như cắt, bay vào phòng thằng nhỏ. Hắn nhìn rõ, thằng bé nước mắt lưng vực. Người đàn bà đang ôm lấy đứa trẻ và vợ hắn lại ôm lấy vai người đàn bà.
    Hắn quay ra ngoài. Ôm lấy đầu gục xuống mặt đệm sa-lông. Lấy cái gối úp lấy mặt.
    Nửa tiếng sau. Hắn ra chốt cửa, sau khi người đàn bà và thằng bé lí nhí chào hắn. Từ hành lang vọng lên liếng bàn bạc rì rào.
    Hắn hình dung ra chiếc xe của họ bò loằng ngoằng trượt trên con đường còn nhầy nhụa giá băng. Trời lại sắp tối rồi và tuyết vẫn không ngừng rơi.
    *
    Mười một giờ đêm. Chỉ còn tiếng nữa là sang ngày Noel.
    Con bé đã ngủ. Người vợ hắn giấu mặt xuống gối, nhưng thực ra không ngủ. Thế là đã ba đêm hắn không ngủ. Hắn rất mệt. Hắn tới bên bàn thờ thắp một nén hương cho cha mẹ hắn và bật nhạc. Tiếng nhạc giao hưởng làm thần kinh hắn dịu lại. Hắn uống một cốc vita tổng hợp và dựa lưng vào đi-văng

    Anh lười lắm chẳng tìm bé yêu được
    Làm sung rơi rụng xuống mõm anh nào

  4. tbm

    tbm Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2002
    Bài viết:
    1.226
    Đã được thích:
    0
    Bóng người mở cửa rón rén vào hành lang. Bóng đen tới cửa nhìn hắn. Hắn nín thở vẫn giả vờ ngủ. Bóng đen tới bên chỗ hắn giấu tiền và trèo lên bậc gờ tủ. Hắn bật ra nhanh như tia chớp giật tóc và tung đầu gối lên. Hắn giáng tay chém như máy vào gáy đối thủ tới khi chỉ còn là cái xác mềm nhũn. Hắn cười. Rút con dao bấm ấn nút và cứa mạnh đứt rời bàn tay như vết đạn cắt mà hắn nhìn thấy ở đâu. Sợi gân giật làm hắn tối mắt. Cái mặt bị lật ngửa và hắn nhận ra khuôn mặt quen thuộc của đứa con dượng. Hắn thét lên, không thể như vậy!
    Tiếng thét làm người vợ choàng tỉnh. Chị chạy ra, chồng chị vẫn đang vật vã trên đi-văng và nói gì ú ớ. - Anh! Tỉnh dậy, tỉnh dậy! - hắn choàng tỉnh. Ngơ ngác ngồi dậy. Mồ hôi rỏ đầm đìa trên khuôn mặt phong trần của hắn.
    Đèn bật sáng trưng. Mười hai giờ kém bốn phút. Bây giờ là sắp sang ngày 25 tháng cuối cùng của năm. Hắn để vợ quay lại với con. Ra vốc nước lạnh vỗ vào mặt. Tự nhiên sau giấc ngủ, hắn thấy nhẹ lòng, dẫu buồn tê tái. Hắn tới bên con trong phòng ngủ. Tự nhiên hắn nhìn vào cái tủ đựng đồ chơi của con. Những ngăn kéo xếp nhiều đôi tất xình xinh và những con giống xinh xinh. Như có một ma lực xui khiến, hắn mở ngăn kéo sát đất, mò tay vào cái hộc bé dưới thanh gỗ vừa rộng đúng bàn tay dài sáu chục phân.
    Bàn tay hắn đụng vào hai tập giấy. Cái sức nóng ở tiền hay cảm giác của máu sói làm hắn giật thột.
    Đây rồi!
    Hắn giật ra, ánh điện chiếu sáng hai gói tiền. Mà tại sao hai gói tiền? Cái gói của hắn, dày hơn, bên trong. Giấy còn nguyên niêm phong và dòng chữ hắn ghi. Cái gói mỏng hơn, bên ngoài. Tung ra một sấp tiền Mỹ và Euro. Không hiểu sao hắn bình tĩnh đến thế. Hắn quay người lại giơ hai tập tiền lên: "Ai giấu tiền vào đây? Lại cả tập tiền này nữa?".
    Người vợ lật sấp người lại, nhao lên:
    - Trời ơi! Tiền à? Thấy rồi à? Trời ơi, con ơi. - Chị líu cả lưỡi.
    Hắn lạnh lùng:
    - Hãy giải thích ngay lập tức vì sao bà phản tôi. Tiền này ở đâu ra? - Hắn quăng tập tiền mỏng một cách khinh bỉ xuống đất! Người vợ òa khóc. Chị quỳ xuống thảm.
    *
    Hãy cho em nói. Anh hãy giết em đi, nhưng cho em nói lời cuối! Đây là tiền em bớt của hai chúng ta giấu riêng. Nó là hai ngàn bảy trăm US và hai trăm rưỡi Euro. Hôm qua, chính hôm qua em sợ quá giấu vào đó. Vâng, mỗi ngày em lấy ra năm ba chục và cất riêng. Còn em không biết tại sao số tiền kia ở đấy. Anh và em cũng có lần bảo giấu nó vào đấy nhưng có ai làm đâu nhỉ? - Chị suy nghĩ một lát rồi trở nên bình tĩnh. - Sau đó anh bảo mang xuống hầm! Hãy giết em đi. Chỉ từng kia tiền ăn bớt, em đủ tội chết vì phản bội anh. Vâng, em đã phản bội. Từ ba năm nay, anh luôn cáu mỗi khi em gửi tiền về cho con trai em. Vâng nó nghiện, nó láo với anh, nó khốn nạn, nhưng nó là con em. - Tự nhiên giọng người vợ rất chậm và rành rọt. Chậm cùng với những giọt nước mắt chậm đổ xuống mặt thảm. - Em hy vọng nó sẽ hết nghiện. Anh đã thù nó tới xương tủy khi nó chửi anh. Anh đã nuôi thằng em nó và dạy nên người. Nhưng chắc anh sẽ chẳng bao giờ cho nó một đồng sau này, nếu nó có vợ và con.
    Anh là đàn ông, anh tỉnh táo hơn và chỉ ra biết bao điều em lầm lỡ, nhưng anh ơi, anh không biết trái tim của em đau đớn cực khổ ra sao, khi nghĩ dù thoáng tới hòn máu của em, dẫu nó là hòn máu khốn nạn. Vì thế em quyết định chuẩn bị riêng cho nó... Hãy giết em đi. Em ích kỷ phản bội anh, con gái và... Nhưng bốn năm nay không làm ra tiền, em sợ, sợ tới ngày nào đó chúng ta sẽ không còn một đồng dự trữ. Chúng ta còn có xã hội ở đây. Không sợ rét và đói. Thằng bé em nó sẽ lớn lên đi làm và không lo gì. Còn thằng kia. Giọt máu của em?
    Người đàn bà bò lết tới chân hắn. Nước mắt ngập đầy hốc mắt của đôi mắt mà bao lần hắn đã thương xót hôn vào... Ngay khi đó con bé gái thức giấc. Nó bật ngay ra lao vào mẹ nó và ôm ghì lấy cổ mẹ. Mẹ, mama, mami! Nó rối rít gọi.
    Hắn đứng như trời trồng.
    Khi ấy, từ đâu như có trăm ngàn mũi mác cắm sâu và ngoáy mãi, tàn nhẫn vào con tim hắn. Khuôn mặt câm lạnh. Nhưng thái dương hắn, sợi máu rần rật vì biết bao điều, chớp mắt phanh phui, đan nhau: chà đạp, hành hạ, cởi phá những điều trong u tối, với cả sự hoan lạc tới điểm cuối cùng của kẻ biết được bí mật của sự thật.
    Không hiểu sao, dẫu là còn mong manh tơ vò điều chưa tỏ, hắn chợt nhớ tới khuôn mặt đẫm máu của thằng con vợ trong mơ. Hắn ngắt lời vợ:
    - Thôi câm đi! Gọi ngay điện cho con. Nó là người đầu tiên phải biết rằng chúng ta đã tìm thấy tiền. Điều ấy quan trọng nhất. Còn tôi và bà sắp chết cả rồi. Hiểu chưa? Đồ ... hắn nghẹt lại.
    Nói rồi hắn quay phắt ra phòng khách. Ngồi xuống ghế. Lần đầu tiên sau hơn 15 năm lưu lạc; hắn khóc. Lòng hắn có một điều mênh mang rất buồn mà hắn, và chỉ hắn biết lý do của nó.
    Người vợ chạy từ phòng sang. Đứa con gái lon ton sau mẹ.
    - Gọi eng gọi eng về! Nó nói tiếng Việt thực ngọng nghịu dễ thương.
    - Con nó về từ hơn một tiếng rồi! Cửa hàng đã đóng cửa.
    Hắn nhíu lông mày. Đầu hắn vọt ra câu hỏi: Hơn một tiếng sao chưa về tới nhà?
    Hay là? Hay là không có bus? Hay là nó còn đang lê trong đường tuyết đường rừng từ bến bus về nhà?
    Hắn vơ vội áo lông dày, vọt xuống cầu thang, không nói với vợ nửa lời. Hắn chạy ra ô-tô. Nổ máy. Trời lạnh, tiếng kin kít của máy đề, mãi mới nổ được càng làm cho hắn sốt ruột. Đừng, đừng, mọi sự đừng xấu nhé! Hắn nhấn ga cho chiếc xe chồm lao hệt như viên đạn bay xé gió, tuyết về con đường rừng vắng tanh. Hắn bật đèn pha cháy rực cả con đường trắng xóa.
    Tới mười phút sau, không chính xác, chiếc xe quay một vòng bên bìa rừng cạnh một bóng nhỏ ngồi im như tạc bằng đá trên một thân cây gỗ nằm ngã xuống bìa rừng từ đầu cơn bão tuyết vụ đông khi ấy. Hắn hối hả mở cửa xe, hối hả lao như con sói vào đứa con non của sói. Hắn nhìn thấy khuôn mặt thằng bé. Đôi mắt vẫn nhắm. Trên vai áo khoác dạ, những bông tuyết trắng muốt, tinh khiết, sáng rực dưới ánh đèn pha ô-tô. Hắn ôm choàng lấy đứa con. Thọc tay vào ngực đứa trẻ xoa lấy xoa để...
    Nửa giờ sau. Hắn và người vợ ngồi bên đứa trẻ được xoa tuyết toàn thân, rồi ủ chăn ấm đã tỉnh dậy. Ngơ ngác nhìn.
    Hắn cười. Nụ cười sau bốn ngày chết nay lại hồi sinh. Nụ cười làm khuôn mặt hắn đẹp lạ lùng. Cái đẹp của người đàn ông giang hồ từng trải và đau khổ khi được cười hạnh phúc.
    - Con ơi thấy tiền rồi!
    Thằng bé nhỏm dậy. Nó ngơ ngác và, chợt hiểu. Ba con người, đúng hơn là bốn con người ôm chầm lấy nhau và họ đều im lặng để nước mắt người này quyện với nước mắt người kia.
    Những ngày sau đó, không ai lục vấn số tiền lớn kia, hắn hay vợ hắn hay con hắn, đã cất. Làm sao mà nhớ ra trong mấy ngày tuyết gió có bao nhiêu trận tuyết? Vả lại mọi điều quan trọng nhất đã sáng tỏ. Đấy là hắn nghĩ vậy.
    Cũng thực kỳ lạ, cái lão trời già lắm chuyện. Gió như thế, bão như thế mà thoắt một cái, băng lại tan và mặt đất hiện ra. Mặt đất đen tuyền nhưng không lạnh.
    Ven đường, nơi cạnh chỗ thằng bé ngồi hơn một giờ trong đêm, có bụi hoa Forytchia, cành chua chúa vươn mãi. Mới ấm một tẹo thôi mà đã chi chít mầm vàng chói. Màu non ấy, ai nhìn kỹ đều cho là nắng sớm đọng vào đó báo hiệu xuân sẽ về...
    24-12-2002, Nước Đức
    Nguyễn Văn Thọ
    -------------
    (1) Forytchia - Một loại cây hoa, mọc báo xuân ở Châu Âu. Hoa như bông mai nhưng chín, dầy đặc nở trên cành không lá, rực vàng, rất ấn tượng.
    (2) Đột vòm - tiếng lóng chỉ hành vi đột nhập vào nhà lấy cắp trộm. Vòm: nhà. Nơi ăn nghỉ của đạo tặc cũng được gọi là Vòm.
    (3) Hộp đường dẫn nước, điện, ga, thường chạy suốt từ hầm lên mọi tầng nhà.
    (4) Boese - Giận dữ, căng thẳng. Còn có nghĩa là ma quỷ

    Anh lười lắm chẳng tìm bé yêu được
    Làm sung rơi rụng xuống mõm anh nào

  5. tbm

    tbm Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2002
    Bài viết:
    1.226
    Đã được thích:
    0
    Vàng Xưa
    (Để nhớ LA )
    Con tầu lừng lững như viên đạn khổng lồ, dài, rời ga Hàng Cỏ, đưa chúng tôi lên đường. Đầu máy Diesel nặng nhọc, phì phò rồi bỗng gấp gáp hú còi, giật mạnh, khẩn cấp xuyên thẳng vào màn đêm.
    Cuộc gặp đầu tiên bàn về chuyến đi này cách đây có hai tháng mà mọi công việc chuẩn bị nhân sự, tiền, mua sắm thức ăn, trang bị nhanh đến không ngờ.
    Hơn bẩy chục kg vàng! Hơn nửa triệu US! Trời ơi, nếu tìm được nó? Mà nhất định tìm được! Ta sẽ đổi đời! Trong đêm trước, tôi nói như mơ mấy lần với vợ câu ấy. Không biết bọn kia có ngủ không? Đêm nay, tôi lại sẽ trằn trọc. Tôi không ngủ như ngày nào.
    Tiếng bánh sắt nghiến vào đường ray chao chác hối hả. Qua những ô cửa tươi sơn, kính trong vắt chưa sập, ánh sáng như lưỡi kiếm vàng lạnh liên tục chém loang loáng. Con tầu mỗi khi gặp chuyến ngược tuyến, cứ tưởng như đứng lại hay thời gian trôi ngược.
    Tại sao tôi không nghĩ về viễn cảnh của ngày mai? Người đời, khi sắp đưa chân vào một hoàn cnh mới, rực rỡ hn, liệu có chợt nhớ ngày bĩ cực như tôi không?
    Giải phóng Sài Gòn một cách bất ngờ. Trở về nhà bất ngờ. Tất cả làm lại từ con số không. Một năm lần mò khắp nơi kiếm việc làm. Ăn bám anh chị. Công việc nào dành cho một kẻ văn hóa hết phổ thông? Chuyên môn không! Có chân bảo vệ bãi cát xây dựng. Phúc chán! Lấy vợ. Sinh con.. Nhìn cát mênh mông, trắng phớ bay mù mịt sau những chuyến xe mà nhớ!
    Những bữa cơm hai vợ chồng chỉ có hai bìa đậu phụ. Miếng ăn đùn đi đẩy lại thành miếng ăn thừa. Đĩa rau muống chấm nước mắm khăm khẳm. Gia tài chỏn vỏn cái giường gỗ phân phối theo giấy đăng kí, mọt nghiến suốt đêm. Tủ lạnh chị gái tôi thương em mà cho, có trăm nốt rỉ đen, thủng lỗ chỗ như bị đạn bắn. Nó là nhà máy sản xuất đá để bán cho hàng nước chè bên kia hè đường, luôn rỗng mùi thịt cá. Tôi nghĩ tới những mẩu thuốc lén nhặt trên mặt đất. Tôi gặm ăn cả kỉ vật. Con dao găm Mỹ, chiếc Ponso rằn ri. áo choàng mưa sĩ quan hậu cần phát trước lúc ra quân. Cả cái bật Zippo nhặt lên ướt máu của người lính ở Qung Trị, Mậu Thân 68. Vỏ khắc: ?oPlease! Don´t tell about Vietnam because I have been there(1)? và bên kia, đứa con gái trần như nhộng dạng háng cười nhoe nhoét.
    Tôi trằn trọc. Tầu qua một cung đường đang sửa, chưa ổn định, lắc đi lắc lại. Tôi nhìn bóng đầu ai trên trần toa, nghĩ tới cái cho đãi vàng cũng lắc đi lắc lại như thế.
    Ngã ba suối cạn. Hai seo cát như đôi vú mẩy cứng thanh xuân, giữa lòng ngã ba suối lấp lánh. Mùa khô trong khu rừng ấy, ba thằng đi kiếm cá đụng phi. Bắt đầu, thằng Phưng phát hiện, cái quần đùi rách tướp tua của tôi, trên những sợi bông dính nhiều bụi tấm, vàng lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời. Vốc cát, reo lên! Vàng! Dân gốc Hàng Bạc. Nhà tao bốn đời làm vàng, đánh bạc, tao không lầm! Phương hét lên.
    Chúng tôi đắp đìa, đãi vàng, lắc, nhặt, thổi, dầm chân trong con suối suốt cả tuần. Dòng suối từ đâu đổ về, đâm thẳng vào vách núi rồi cuộn vòng sang trái. Nước xoáy mãi vào đá, tạo thành những cái hốc nhẵn tròn. Bao nhiêu năm? Nước chy, quẩn, dồn tích mãi, sàng lọc tự nhiên vàng đọng xuống từng hốc chạt dầy tới nửa gang tay. Vàng mỏng tang như vẩy nhót. Thổi khô, bay phát sáng trong nắng. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy vàng. Phương bảo, đây là vàng bẩy, gọi là vàng cám, vàng sa khoáng. Tôi nhìn, bụi vàng như vảy nhót. Hơn bẩy chục cân chứ chả ít. Đóng vào sáu cái túi cát Mỹ. Hì hụi như thế rồi vàng chẳng để làm gì, giết thời giờ vô vị, sáu thằng trông cái kho sắp sập. Thằng Hội dân Đông Anh, làng đúc đồng truyền thống, lấy đất nặn nồi. Đắp lò hun than. Quạt quạt thổi thổi. Vàng cũng chy ra. Phương khoe, có a xít, vài hóa chất nữa, tao sẽ lấy ra vàng mười tuổi. Đúc thành mấy thoi bằng ngón tay rồi lại bỏ đấy. ?oGiá như chúng mình đào được một nồi thịt kho hay một bao gạo trắng nhỉ?? Tôi nghĩ, khi một đêm đi gùi đạn về đói thót ruột. Đã hai năm, sắn trừ bữa nên hay mơ gạo, thịt. Hay nói món nọ món kia. Muốn chất đạm thì săn thú, bắt cá. Tiêu chuẩn bồi dưỡng sĩ quan, người ốm, thương binh là đạn. Mười viên đạn một quý! Mùa khô thú biến mất tăm. Đói quá hóa điêu. Hội bảo, bây giờ có, tao ăn hết bốn kí thịt luộc! Để qua ngày, cái bụng bớt bồn chồn, lấy cả cọng khoai ngứa dại nấu nhừ với nhúm bột cá. Rau tàu bay, độn vào bột sắn gi bánh khúc! Hôi mùi dầu! Lùng bắt tiệt c chuột dưới gầm kho. Chuột béo nhẫy. Sao chúng sung suớng thế, no nê, phởn phơ, chí choé đú đởn suốt đêm? Giá mình là chuột? Mỡ từ những lũ chuột thui vàng ươm cháy xèo xèo trên dàn lửa. Răng nhe trắng ởn. Nước dãi nuốt ừng ực. Còn cái giống khoai dại dai như đỉa. Ninh mấy lửa, tưởng nhừ tướp mà xơ đầy, khi nuốt lắng nhắng vướng trong họng, phát nôn. Thế mà lại vớ được vàng!
    Thằng Hội treo cả sáu túi vàng lên cái cần cối giã sắn. Nhờ sức nặng của vàng, sắn thành bột làm bánh nhanh hẳn lên! Rồi cũng chẳng đứa nào tha thiết với vàng nữa. Thằng Bo dọa: ?oĐời lính, đi trận, vớ vàng xui lắm. Tụi mình, thế nào cũng có thằng chết!? Nó đi trước tôi có vài tháng nhưng hay ra giọng cựu binh ở Tây Nguyên. Nói tới chết thì ai chẳng sợ. Có kiêng có lành. Tự nhiên, những túi vàng ám ảnh cả bọn về những cái xui xẻo ngoài trận mạc vốn thường nhật như cm bữa.
    Nửa năm sau, bất ngờ có lệnh rời khu kho vũ khí đã rỗng. Mặt trận chuyển hướng. Lại xuyên rừng. Cái đời lính căng hải(2) suốt năm, suốt tháng. Vứt mẹ nó đi! Báo lên trên cũng ch ai để ý tin chuyện có thực. Thêm rách việc! Năm trước, bộ tư lệnh bị vố lừa vụ ?ongười rừng? nên các bố cảnh giác. Thôi, cho vào hang đánh dấu. Biết đâu nay mai có đứa sống mà tìm. Ra trận súng đạn là chính. Đi trận ăn sướng hơn trông kho. Thay vì cái thứ vàng vô tích sự, chỉ mang cái xui tới, là tám bơ gạo, cá sấy và thịt nai khô. Lưng khô BA hai phong. Mì chính nửa lạng. Sướng thế, bỗng chốc dồi dào thế. Chỉ tội, gạo mới lĩnh mà lúc nhúc bọ đen tanh tách nhẩy.
    Bảo về đơn vị cối. Còn lại về bộ binh.
    Chúng tôi đi cùng đất tới Sài Gòn. Hội sau mất tích. Nó mất tích kì lạ. Kì lạ như bí mật của câu chuyện nó thổ lộ.
    Trước trận cuối cùng, nằm ở Mũi Lớn, nó hỏi tôi, hòa bình rồi về đâu? Về Hà Nội chứ về đâu! Nó nhăn đôi lông mày rậm đen nhánh, thốt lên: ?oÔng còn có nơi về. Đây chẳng biết về đâu?? Tôi gạn mãi, nó dặn đi dặn lại không được kể lại chuyện nó. Bắt mang danh dự thằng lính ra thề.
    Gia đình nó có hai anh em. Thằng anh vừa cưới vợ một tháng, xung phong đi bộ đội. Khi bom Mỹ bắt đầu đánh xuống miền Bắc, thanh niên tòng ngũ như trẩy hội. Đa số chúng tôi đi bộ đội diện ấy. Hội khi 17 tuổi cũng đi nhưng không như thế. Nhà có người đi rồi, chú nó chủ tịch xã. Ai bắt nó đi! Xung phong cũng khó. Anh nó đi một năm, hai năm, ba năm biệt tin. Nó ở chung với chị dâu và bố. Một bữa, đi cầy về trời mưa tầm tã. Bố đi họp dưới huyện. Chị gọi em vào xê thóc tránh dột. Chái nhà hẹp. Đụng chạm. Quần áo ướt bết da thịt, c thể phô phang trần trụi, khêu gợi. Hơi thở, hơi nóng từ hai con người hừng hực bốc ra. Chị dâu, con gái thi thới, vừa biết mùi trần tục mà chồng đã vắng xa biền biệt. Thế là xảy ra chuyện động trời. Nó nghẹn ngào nhớ từng chi tiết. Em cũng chả biết sao lại thế. Em mới mười sáu tuổi... Chị em kéo tay em ấn xuống, nắm cái ấy. Chị đè nghiến em dưới nền đất. Lăn lộn. Hổn hển. Hai con chó liếm láp, cắn nhau vội vã. Ăn vụng. Làm liều. Miền trung du, tổng động viên, nam giới như mì chính cánh. Chị dâu tho mãn, búi lại tóc, ưu tư nói: ?oChú giống anh như đúc. Đi, đứng, cười, mùi nách...? Mấy tháng sau nó luôn tránh cái nhìn của chị. Dứt khoát không nhìn chị. Có thế thôi mà chị nó chửa. Cắn lưỡi không khai ai làm. Vợ bộ đội đi Nam chiến đấu cho làng nước mà chửa!? Lỗi ấy tày trời. Ông bố Hội gọi bố đẻ chị dâu sang. Hai người già uống rượu. Trói con họ vào gốc cau. Cạo trọc đầu. Nửa đêm Hội đứt ngủ. Tiếng la. Chửi, thề độc, kể lể của hai người già đều góa vợ. Tiếng khóc của chị. Gần sáng, nó lẻn ra, liều cắt trói. Cứ cầm tay nhau mà chạy. Lang thang lên tận Điện Biên. Rồi mẹ tròn con vuông. Nhưng lưng tâm day dứt. Suy đi nghĩ lại, Hội quyết chí đi tìm anh thú tội. Chỉ có gặp anh thú tội rồi chết. Đơn gin hong lên nghĩ vậy. Đi bộ đội. Mà chỉ xin đi B3. Vào tới B3 biết anh nó hy sinh ở Kontum. Thế là nó âm thầm nuốt nghẹn câu chuyện riêng, lì lì sống dở, chết dở. Hoà bình tới đít chợt nhớ ra ngày trở về. Về đâu? Mặt mũi nào về làng? Người ta đã nguyền rủa bố nó cho đến phi hộc máu chết. Nhà vô phúc! Tuyệt tự, chết đường chết chợ! Về với chị nó ư? Giá như anh nó còn mà tha tội. Hội đã muốn chết trăm lần mà chưa chết được. Bom đạn tránh nó, sự sống hành hạ từng đêm không tha. Buổi ấy tôi chẳng biết khuyên nó thế nào. Tôi nắm bàn tay nó trong đêm tối. Nghe nó khóc. Rồi, đêm sau tiến vào Sài Gòn như cơn bão. Trận ấy mấy lần Hội toàn nhận những nhiệm vụ nguy hiểm nhất. Chẳng chết được. Sống nhăn răng. Xong, trung đoàn lấy hai ba tổ quay lại mấy vùng đóng quân cũ đi thu gom liệt sĩ. Chẳng ai muốn làm việc gợi đau ấy! Nó xung phong đi. Nghe tin công việc kết thúc là nó mất tiêu trong rừng. Người ta tìm thấy võng, ba lô của nó treo gần con suối. Hổ, thú dữ, bom mìn, sốt rét... Ai biết điều gì đã xy ra với Hội? Nó đi đúng gần cái vùng vàng xưa. Thôi, nó đi là phải. Sống mà thế thì chết là về, yên, được tha thứ.
    Thằng Phưng thì tiêu trong lần đánh đèo Tuy Hoà. Lúc quàn nó, thấy hai thỏi vàng trong túi cóc. Anh em cho cả vào ni lon gói chôn. Tôi cắn cỏ lạy nó phù hộ và hứa không lộ chuyện vì sao có hai thỏi vàng. Có thể nó là thằng xuống âm phủ xông xênh!
    Bao nhiêu năm trôi qua, thiên hạ nói đến tiền, vàng làm tôi chảy nước dãi. Thì mình cũng từng có từng ấy vàng. Ba bốn năm tôi đi tìm thằng Bo giữ cái bản đồ. Sau hoà bình, đứa chết đứa sống. Ch ai biết cái đống vàng ấy. Mỗi lúc bí tiền, con ốm vợ đau. Lại thấy lúc người ta xe ngựa, võng rạp, trong khi, quay đi quay lại, nơi tôi làm việc toàn cát. Cát day dứt tôi. Lại nhớ vàng xưa. Nhớ thời bom đạn, đồng đội sống chết bên nhau, chiến thắng, thất bại, no, đói sẻ chia. Mấy lần có ý tìm Bảo. Nó mất tiêu như thú mùa khô, rừng khộp..
    Đã chán tìm thì gặp nó ở chân cầu Long Biên. Mồ hôi nhễ nhại, cha con đủn xe thồ hai cái sọt ăm ắp xu hào, cà chua leo dốc. Nắng hanh chiếu chếch. Lệch lạng hai bóng in trên trời xanh, hằn rõ bóng thằng cụt đẩy xe làm tôi chạnh lòng, vịn tay đẩy giúp. Không ngờ lại là thằng mình tìm suốt mấy năm.
    Bỏ gánh xu hào cho thằng con đem bán. Hai đứa vào uống rượu, lòng lợn gầm cầu. Xơi hết c hai sọt bự rau chợ tết. Sọ nó có miếng nhựa phập phồng theo nhịp thở, mềm mềm thay cho miếng xưng bị đạn chọc vỡ. Nó chẳng nhớ gì cả. Nhưng tôi nhớ. Sự mơ giầu làm tôi nhớ. Trí nhớ của tôi giúp nó trở về với dĩ vãng. Thôi bỏ mẹ! Chúng mình giầu to rồi. Nó hét lên khi tôi nhắc chuyện cũ. Thiên hạ đánh mắt nhìn, tưởng hai thằng điên mới trúng mánh. May quá, nó vẫn giữ tấm bản đồ quân sự ghi dấu chốn ấy làm kỷ niệm. Vâng, chúng tôi là lũ mạt hạng, đói đường của thành phố này. Thế nhưng lũ chúng tôi sắp giầu to!
    Để rủ rê, thuyết phục cái thằng dở khùng ấy cũng chẳng dễ. Chủ nhật tìm tới nhà, nó lại hỏi: ?oBản đồ nào nhỉ?? Đến tên tôi nó còn nhầm lẫn lung tung. Lúc thì bảo Sinh, lúc thì ?oMinh i.? Lại, mày có gặp thằng Tam không? Tôi quát: ?oTao là Sinh. Mày nhầm thằng Minh nào? Tam nó chết ở bãi Cam rồi mà!? ừ, ừ. Bảo gãi cái đầu đám lởm chởm tóc, đám mông mốc trơ da như trảng rừng bị B52. Cái lứa chúng tôi ra đi suốt hơn mười năm thủa ấy, bây giờ còn mấy ai? Lo sống chưa xong thì lo nhớ làm gì nhiều?
    ?oBố cháu dở hơi ấy mà. Chú chấp làm gì!? Thằng con gã, cao tới mét bẩy. Chân tay xung xẩu, cơ bắp.
    Vợ Bảo đi ra, đi vào hóng chuyện. Thoắt một cái mâm thịt gà bưng lên giữa chiếu rách tri giữa nền đất. Gà ở đâu ra? Gà nhà mình chứ gà nhà ai! Người đàn bà, vai so dúm dó, một bên đít to như ***g bàn, bên kia hóp teo, trơ cả xưng chậu, lăng xăng ấn vào tay chồng chai rượu cười xoe xoét. Bác si với nhà em bữa cm rau! Vợ tớ đấy! Nó cũng ở Trường Sn, lính VT471. Gặp nhau ở trại an dưỡng, nó rủ tớ về đây. Người đàn bà lườm chồng một cái. Trông ch tới nỗi nào! Người ta, khi có động thái sinh động hẳn lên. Con gái mà đứng yên giống như mancanh. Thời xưa mày ấy, mắt này hẳn đỏm gái. Dân sốt rét nhiều, tóc rụng, tiêm Quynin lắm, mông làm mủ, teo hết cả.
    Tôi cười: ?oCm rau?? ?oấy cái giống đàn bà nó thế đấy! Ch dấu. Dịch toi hết rồi, chắc nó lại mượn gà của mẹ nó. Năm ngoái giỗ bố, bo nó làm con gà cúng, nó dãy như đỉa phi vôi. Kêu, ông có thích ăn thịt gà đâu! Ông thích ăn bánh đúc! Gà béo mướt lông, chùn đít, *** thịt! Dành cuối năm bán mua trăm ngói chống dột thì cứ nói mẹ nó ra cho nhanh, lại bảo ông không thích thịt, chỉ thích bánh đúc! Chống dột phi chống từ cái bụng trước. Bụng không dột mới lo chống nhà dột. Đằng này bụng ông dột, bố dột, con dột. Giờ thấy hơi vàng bầy biện nhanh thế. Hì hì. Mọi bữa nó cấm cả rượu nữa. Không cay cay thì gặp nhau cũng nhạt thếch!? Tôi dàn hòa, ai chả tham chả ham. Có điều chúng mình là loại hết cửa, chẳng có chỗ để tham mà ham... .
    *
    * *

    Anh lười lắm chẳng tìm bé yêu được
    Làm sung rơi rụng xuống mõm anh nào

  6. tbm

    tbm Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2002
    Bài viết:
    1.226
    Đã được thích:
    0
    Đoàn đi tìm vàng của chúng tôi gồm bốn đứa. Tôi được suy tôn làm đoàn trưởng.
    Thành viên thứ hai của đoàn là Trọng, con trai Bo. Nó gối đầu lên cái ba lô đầy ắp thức ăn và ngáy vô tư như thổi bễ.
    ?oCho nó đi cho biết thế nào là Trường Sơn!? Bảo hua cái chân cụt: ?oNhất nhất theo chú ấy!? Tôi hỏi Trọng: ?oTìm được vàng cháu làm gì?? Mua một cái chân gỗ cho ông già! Suy tính một tị nó tiếp: ?oMua cái xe bò và làm cái lò gạch? Thế thôi! Đơn giản thế ư? Nó im lặng.
    Ước mơ của thằng nông dân như những giọt nước. Thằng em tôi ở quê lên Hà Nội, ra phố ngó đăm đăm mấy cái lốp xe. Nó chỉ ước mua được cái xe kéo bánh ô tô. Cái máy xát chạy dầu. Thấy nó phong phanh, tặng cái áo bông cũ. Cười xỉ x: ?oVề chữa lại cho bu cháu!? Người thân, ăn no, mặc ấm và làm ăn!
    Thằng Bảo cụt không đi được, nó muốn lắm, đưa con ra bến tầu. Ngày xưa bố nó đưa nó đi. Bây giờ Bo đưa con đi. Bảo hôm nào khác gì Trọng bây giờ. Trẻ. Khuôn mặt đầy. Tóc dầy xanh. Má lơ thơ tơ măng. Bàn tay chai vì đào hào và bắn súng. Thế mà sốt trận, đói ăn... rồi thời gian và cái chân cụt, cái đầu vá nhựa. Nó sắp xuống lỗ rồi.
    Có người kiểm soát vé tới. Thằng Viên làu nhàu nhổm dậy trên võng dù Mỹ. Đây là người thứ ba trong đoàn. Viên kín đáo. Dáng nho nhã, nhẹ nhàng. Mắt sắc, tai dầy, ép nhẹm vào sát sọ. Sách tướng viết, dấu tai là cách của kẻ làm được chính trị. Thế mà gã lại là dân làm ăn? Nghe nói, gã từng tốt nghiệp tổng hợp văn. Đi dạy học, sau bỏ nghề, chạy chợ. Bôn ba lắm. Bảo khoe: ?oThằng này cái gì cũng tường. Nó tới đây mua đất trong làng. Thưng mình lắm. Có lần thiếu tiền, nó rút ngay hai trăm ngàn biếu nhưng mình đếch nhận?. Viên chưa vợ, ghét đàn bà nhưng lại biết kĩ càng về gái điếm. Đấy là Bo nghe hi nồi chõ kể lại. Đêm, Viên trầm ngâm uống rượu. Ngày thì không. Khói thuốc xanh bay thơm phưng phức, hắn hay hỏi mọi người. Lo cho từng miếng cơm ngụm nước.
    ?oMạo hiểm phiêu lưu lắm! Nếu không tìm thấy nơi ấy là cậu mất toi năm chỉ đấy? Tôi bảo gã. Gã cười, chém tay vào không khí: ?oMột sấp, một ngửa. Tiếng reo này là ù! Trên đời, nhất liều, nhị liều. Được, thua, giặc hay vua như nhau cả!?
    Tầu vào tới Thanh Hóa rồi. Quân thợ nh đang ngủ bỗng bật dậy.
    - Em vừa m anh ạ! Hắn dụi mắt. Quân là người thứ tư.
    Quân không ở đn vị tôi, nhưng rất thân tôi từ hồi gii phóng thành phố Sài Gòn. Nó trẻ hn tụi lính cũ c chục tuổi. Khi tôi về nhà, nó còn sang Campot, sau lên biên giới phía Bắc chong nhau nữa. Quân tháo vát. Nhà nó ở Khương Hạ. Làng ấy quanh năm muối cà bát. Nó về nhà thì cha mẹ chết sạch. ?oNăm anh chị em dành nhau mảnh vườn bằng cái mnh chó ỉa làm em chán ngán chạy ra vừa học nghề nh vừa làm thuê cho ông cậu họ ở Bát Đàn?. Tôi tưởng Quân cũng khá. Ai dè nó nhăn như bị: ?oChẳng bõ bèn gì đâu ông i! Chụp một cuốn, có thêm tí tiền đấy song cô dâu chú rể nó sai như sai chó. Thôi, trắng mặt ăn tiền, nghệ thuật nghệ thẽo gì! Em chưa có một ngày nghỉ?. Khi ấy, Viên chua: ?oNghệ thuật nhất là nghệ thuật làm vua. Bắt c thiên hạ theo, tất đầy nghệ thuật. Nghệ thuật các anh là đẹp. Thiên hạ thấy đẹp, lạ thì xem, ngó một tí, mấy ai theo?.
    Đúng. Thợ đám cưới mong chủ nhật, thứ bẩy như mong giỗ.
    Quân hơn ba chục tuổi. Da dẻ hồng hào. Là lính trận mà nó chưa dính sốt rét. Nó là lính đồng bằng. Quân chưa vợ. Nó bo, lấy vợ mà không có tiền ư? Vợ nó khinh, con cái khổ lây. ?oThứ rách như tổ đỉa, có vợ đẹp con ngoan nhan nhn ra đấy!? Tôi cãi. Vâng, nhưng có thằng nào tổ đỉa mà vợ con mát mặt không! Người ta quen sống vì cái tiếng, cái vỏ, cái nhìn thấy, sờ thấy. Nó nghiêm túc nói. Nó đúng! Tự nhiên tôi nhớ khuôn mặt luôn khó đăm đăm, buồn rười rượi của vợ tôi.
    Thế là, chỉ có tôi có gánh nặng ở Hà Nội khi đi. Vợ, con gái còn dại. Tôi ôm con vào lòng, trước khi ra ga vào miền trung. Từ Qung Bình sẽ thuê xe ô tô vào Chooc. Viên bo, năm 87 nó đánh hàng dép lê Lào, đã ở vùng ấy. Thung thổ ở bàn tay! Nó chỉ vào bàn tay mềm, mát như mỡ đông, dầy dặn, cười. Tại đó, chúng ta sẽ nhờ cánh buôn lậu dắt qua biên giới và vào đường Trường Sn. Từ đó, có Quân sẽ tiện lắm, nó là bạn lính cũ, tin được, lại thạo bản đồ, xác định hướng nhanh. Lính thiện chiến trinh sát sư 320 cũ ngửi gió, tùy mùa, nhắm mắt cũng biết hướng nào!.
    Kế hoạch đi được vạch ra chi tiết. Thằng Bo cụt phi ở nhà nhưng bầy binh bố trận không trật một khấc. Đúng là một cán bộ tham mưu cỡ trung đoàn. Cũng lạ! Một thằng khùng thế, mà khi vạch đường đi nước bước trở nên tỉnh táo lạ thường. ?oHừ, mày là tổ trưởng nhé!?. ?oRắn phải có đầu!?. Viên đế theo!
    Chúng tôi lục trang bị cũ ra dùng cho đỡ tốn tiền. Chỉ có Viên là phải mua sắm. Nó khoác nguyên bộ quần áo Mỹ. áo Nato, quần túi đắp, ghệt Camel, dao găm Phần Lan bén cạo được cả ria cứng. Tăng võng toàn loại nilon nhẹ bấc của Nam Triều Tiên. Ba lô của nhà giầu ra trận bao giờ ch khác. Mùi hồ thm, khác hẳn cái thứ nùng nục mốc, mùi cá khô của tôi và con Bo, của Quân.
    Vợ Bo làm cm tiễn c bọn. Trong khi rượu ngà ngà tôi hỏi Quân, mày có vàng rồi, làm gì? Quân muốn một cái Studio với biển hiệu nh Viện Nguyễn Quân thật lớn màu da cam. Em sẽ thuê người. Sẽ cho bọn ?othầu giầu? làng ảnh biết lễ độ. Mình không có tiền, mãi mãi làm thuê. Nhục lắm. Thằng Viên tủm tỉm: ?oThế là biết! Đã nhục, cố mà thành chủ. Bé cũng là chủ, lớn cũng là chủ. Chủ lớn mới tránh được đời o ép. Muốn làm gì cũng có tự do. Muốn tự do phải có nhiều, thực nhiều tiền!?
    Được. Một trăm cây vàng lo được chứ gì? Tôi bảo. Quân cười: ?oNhiều quá!? Cậu sẽ có 100 cây vàng! Hai đứa cười hoang hoác, tưởng rung cả trời.
    Quay sang Viên, tôi hỏi, còn cậu? Tôi ấy à! Chi. Chi cho hết kiểu chi. Hắn cười hào sng. Tôi không tin lời Viên khi ấy. Nó có phải thiếu tiền như cánh tôi đâu! Bỏ ra một cây cho chuyến đi, dễ như trở bàn tay. Thế là còn tham vọng giầu nữa. Dường như biết tôi nghĩ gì, hắn nói: ?oÔng anh tưởng chi cũng dễ h. Ngõ ngách lắm. Mỗi thời một kiểu. Chi tiền là khó nhất. Siêu nhất!?
    Tôi thì rõ rồi. Tôi sẽ thoát khỏi cái nghèo đay nghiến. Sửa nhà, nuôi con ăn học tới ni tới chốn, chứ không học vớ học vẩn, dang dở đời tôi. Tôi sẽ mua xe máy tàng tàng, khỏi phi hàng ngày sang tận bãi bên Gia Lâm, lọc cọc đạp cái xe khung Sài Gòn mang từ hồi gii phóng, lắp phụ tùng nội, nặng như cùm.
    Tầu tới ga xép nữa rồi lại vùn vụt chạy. Tiếng rao đêm b v của đám trẻ ở lại sân ga. Tôi hỏi Quân: ?oM gì?? Quân xúc miệng òng ọc, rồi nhổ phóng ra ngoài cửa sổ. Bụi nước li ti bay ngược lại. ?oEm m thấy chúng nó bắn vào toa tầu.?
    Những đụn khói hình nấm tung lên sau tiếng nổ trầm. Mnh bom xoe xoé réo. Bọn F4, F105, F8h thay nhau bay chéo cắt xuống đoàn tầu nhiều đợt bom giây.
    - Em chạy ngược. Anh chạy xuôi.
    Chùm lửa sáng trắng khạc ra từ họng súng sáu nòng bên hai cánh bay bắn dọc con tầu. Đạn trên dưới bắn nhau rát tai. Mấy trăm người dân, lính chạy tóe ra hai bên đường như đám ong bị chọc tổ. Người ngã xuống mặt đất như đốn chuối.
    - Em bo, về thôi. Vàng đâu mà tìm. Lại thấy những bụi cây lúp xúp bên Campot.
    Mỗi bụi có một họng súng bắn lén. Mìn ba râu, lá lúa, mìn nhẩy rình rập từng bước đi trên đường mòn, trên mặt đất, dưới gốc cây thốt nốt đang ứ đường mật từng thớ gỗ, mạch cây.
    Quân kể tiếp : ?~?~Sợ quá chồm dậy. Đã tới Thanh Hóa rồi à? Nhanh thế? Ngày xưa vào tới Vinh, phi hết năm ngày đêm!?
    Tôi đứng ở cửa sổ. Ngoài đồng kia, trong đêm tối, hình như có bọn trẻ đã nghịch lửa, tro bụi giờ sót lại leo leo cháy trong đêm. Mấy đám đỏ lốm đốm, thỉnh thong gió thốc lên, bùng lửa từ tro tàn!
    Toa đen bịt kín, đám lính trẻ nằm như xếp cá. Ho khục khặc. Tiếng đánh diêm hút thuốc lào xoèn xoẹt. Trong đêm, lính thức và yên lặng. Chỉ có tiếng sắt thép đều đều, chan chát va đập như tiếng đóng đinh dồn dập vào quan tài trong hẻm núi. Và, những khung cửa cứ vùn vụt trôi mãi về phía Nam. Hình ảnh trong cửa sổ trôi ngược về phía Bắc. Bầu trời lỗ chỗ qua mấy chục lỗ thủng trên nóc toa bị đạn xuyên qua từ ngày nào. Thi thong lại có tia chớp từ xa lắm, nhằng nhằng và lát sau dội về tiếng ì ì ầm ầm làm rung nhẹ miếng kính vỡ - Mơ hồ, xa xăm. Ven cái ga sắp vào Vinh, lố nhố bóng người dọn dẹp. Mùi cỏ, nhựa cháy, khăm khẳm mảnh thịt sót... Tiếng gọi. Những cáng thưng hối h nối theo nhau dằng dập, thình thịch. Đất dội tiếng chân người.
    Tầu hỏa hôm nay ban ngày kễu kện chạy. Ban đêm thung dung đèn sáng, hỉ h kéo còi. Mùi nước hoa của đôi trai gái vừa đi qua bay dọc toa. Tiếng khúc khích. Tiếng nựng trẻ êm êm. Mùi cà phê thm ngào ngạt từ toa nằm bọc da mới bay lại. Những bao hàng đủ mầu trong các toa tầu. Chúng tôi lẫn vào đám buôn chuyến. Chả ai thèm hỏi một lời

    Anh lười lắm chẳng tìm bé yêu được
    Làm sung rơi rụng xuống mõm anh nào

  7. tbm

    tbm Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2002
    Bài viết:
    1.226
    Đã được thích:
    0
    Trọng cứ đặt lưng là ngủ. Mới đi bộ hai ngày mà nó đã nhức vai đau chân. Tôi luôn đi cuối cùng. Mùa khô. Chẳng phi hành quân dưới mưa. V lại cuộc sống lầm than bấy nay làm tôi, tuổi chẳng còn trẻ, vẫn quen đi bộ. Cái kinh nghiệm đắc dụng nhất, có lý nhất cho thằng lính trở về là thuật đi bộ! Vừa đi vừa nghỉ ngi bàn chân, thư dãn trong giầy. Giữ hi, khí lực khi vượt dốc. Đái vào chân, ngâm chân nước muối mỗi tối... Tôi trở về với mùi rừng. Mùi suối. Mùi ngái ngái của cỏ tranh khô nỏ... Tự nhiên, trăm thứ dội về, thi thới quên cả khó nhọc.
    Tôi đưa ra bản đồ. Khi nào bắt tới gần Mường Phìn là rẽ ngược chếch đông nam tám độ - Quân xác định. Từ đấy phải hn một tuần sẽ tới thung lũng giấu vàng. Viên suốt mấy ngày không nói gì. Nó đi lầm lũi, lầm lũi ăn, lầm lũi hút và uống thứ rượu màu ngà thom lạ đựng trong bình tông Mỹ. Nhưng qu thực tôi không chê ở Viên điểm gì trong mấy ngày hành trình. Nó chẳng một ngày ở lính, thế mà nó chịu nắng, chịu rét, chịu đi không than một câu. Có thể cuộc sống nó giang hồ, rèn nên bản lĩnh như người lính chăng? Thậm chí thằng Quân còn lười, Viên không vậy. Nó dậy trước mọi người, hỏi tôi tỉ mỉ, cách cắm cây làm kiềng sao cho vững vàng, không cháy đổ nửa chừng. Cây nào tưi, tước ngay có thể nấu dưới mưa. Nó tự tay pha chế, nấu nướng làm ai cũng ăn ngon miệng. Khen, nó cười, hay ăn thì lăn vào bếp thôi! Sao dân chơi, dân làm ăn mà chịu khó thế? Biết nhiều, ch bù cho tụi tôi hồi nào bằng tuổi nó. Sự để mắt tới nó của tôi chuyển hướng sang Quân vì vừa về nhà chưa hết mùi lính mà nó đã cứ lánh việc cho người khác. Bực nhất là đi được hai ngày tôi phát hiện ra thằng Quân không phi Quân thời ở với tôi giải phóng Sài Gòn. Nó luôn lấm la lấm lét khi dù chỉ một bụi cây bên đường có con thỏ chạy qua, con chim cút vừa thấy động vụt bay lên. Tôi bo, mày thế nào vậy? Quân mặt dại như đi táo, cười chóm chém chữa ngượng, dạo này em bị thiếu máu, nên hay giật mình. Thiếu máu cái mẹ gì! Ngày tôi với nó vào Đồng Dù, ở bên cạnh nhau, hồng cầu của tôi có hai triệu. Còn nó bây giờ hồng hào như lửa thế kia. Biết thế! Tôi chợt nghĩ. Nghĩ mà ngượng thay cho nó với thằng Viên. Thế mà Viên ch coi thường Quân tí nào. Hôm leo dốc đỉnh 364, khi biếu không chúng tôi kẹo sâm Nam Hàn để ngậm, Viên cười tươi nói: ?oQuân ốm nhất đoàn nhưng tinh tai, tinh mắt, tao cho hai viên.? Ngượng quá. Thế mà từng lính chiến!
    Lúc trước ở biên giới, Viên đi một lát mang về người dẫn đường. Một thanh niên gầy, khô đen như cục than cháy, hai hốc mắt thâm sâu như vừa từ dưới mộ chui lên. Họ lạnh lùng trao đổi ngắn gọn. Tr tiền ngay sau buổi vượt qua biên giới. Tôi nhận ra đường ra trận ngày nào.
    Ngầm chữ A. Con suối cạn. Hang đá chôn mấy cô gái Qung Bình. Tiếng khóc râm rứt không nguôi mãi ba bốn ngày mới đứt. Mặt đất đầy mnh bom, mnh rocket trộn lẫn trong bụi. Con đường tuyến sinh tử bụi mát lạnh ngập tới bắp chân. Cái xe Jin 130 chềnh ềnh giữa ngầm trọng điểm. Mở cửa, đổ nghiêng ra người chiến sĩ lái. áo giáp nhôm máu đen. Mắt trừng trừng. Bàn tay trái giữ chặt vô lăng. Phi bẻ gãy ngón cái mới lôi được xác anh ra...
    Núi đá vùng này xưa lắm vượn đen! Bây giờ đâu hết? Cỏ, lau, sậy, rừng non vưn xanh lại ngút ngàn, che lấp đường ô tô cũ, cố vưn lên khỏi những thân cây cháy, cành không lá, đen đúa chĩa lên trời, thi thong sót lại. Nhiều khi vạch lối, phát đường mà đi. Có tiếng ô tô xa lắm, ì ầm bên trái.
    Tôi nghe như ong ong tiếng máy bay Ov10 lượn suốt đêm ngày trên đầu. Đêm, máy bay C130 ì ì nặng tiếng săm soi.
    Tôi chỉ núi, chỉ đồi, chỉ rừng kể cho con của Bo. Thằng bé ngây mắt nhìn. Bố cháu ngày xưa như thế ư? Nó hỏi. Tôi bâng khuâng: ?oBố cháu nhanh như cắt. Tinh như cú?.
    Khungsedon, đi gùi gạo. Sẩm tối lọt vào ổ phục kích. Sưng từ thung lũng trào ra dầy đặc bưng mắt. Thằng địch bất ngờ nhao ra chỉa súng vào ngực. Bo né người nháy cò ba viên, tiêu diệt ngay hai tên bên trái. Tôi thoắt lật, báng khẩu cối cá nhân đánh bay lên trúng hàm của thằng lính chĩa súng. Cú đánh quá gần. Máu phọt đầy mắt, miệng, nóng, mằn mặn. Bảo hô: chạy! Hai đứa dong hai con lợn. Bỏ! Lợn cũng chạy mất tiêu. Ba lô gạo nếp nưng vừa mua của dân dính đạn chảy hết không còn một hạt... .Đi toi hai ngàn năm trăm Kíp(3)! Năm ấy cả đại đội mất tết chửi hoắng mấy thằng đi lấy thực phẩm!
    Viên bên tôi cười. Dường như nó biết tôi nghĩ gì. Nó xoa bàn tay mềm vào lưng tôi, nhồn nhột, như ý bo: ?oÔng bạn già rồi mà nhớ dai!?
    Quân bắt đầu có vẻ sốt ruột. Nó hay hỏi, sắp tới chưa? Mới đi có năm ngày, sắp tới rồi. Nhìn bn đồ mày biết cả còn gì. Tôi sẵng!
    Việc này, thú thực tôi đã bàn kỹ với Bảo cụt khi ở nhà. Chỉ cho tất c biết hướng đi thôi. Còn vị trí chính xác ni dấu vàng chỉ có người chỉ huy nắm. ấy là ngày xưa ở mặt trận vẫn như vậy.
    Đêm rừng. Khí núi túa ra rất lạnh. Buổi tối, phải đốt lửa sưởi. Mùi săng lẻ bắt lửa, mùi thảm lá rừng, hoa cỏ nỏ, tiếng tanh tách cháy nổ bắn ra. Quân mang theo ít rượu nếp. Chúng tôi lùa được con khỉ già, lông nham nhở, cụt một chân khi nó dạn người nhón nhén ra nhặt cm vãi. Trọng nhìn thấy. La lên. Bốn người đuổi nó mãi, dồn vào góc suối cạn. Tôi vồ trượt. Viên chém một nhát, nó gi tay đỡ. Ngọn dao bén đứt lìa bàn tay, theo đà băm giữa mặt. Con khỉ già gục xuống ngáp ngáp.
    Thui, bóp mắm tôm nướng. Trọng bưng mặt.
    Thịt dai ngoách như chão. Có lẽ nó là thương binh từ hồi bom đạn? ?oTrường Sn ch tới nỗi nào/ đã chi khỉ lại lạc vào giữa mâm?. Viên ứng khẩu một câu lục bát. Nhân bữa ấy. Tôi kể chuyện săn thú của Bo cho Trọng. Chuyện đánh nhau. Trọng luôn hỏi, thật thế h chú? Tôi chân thật, đấy là một thời, muôn người như một. Viên cười, chả như một đâu. Tôi bảo, không như một sao thằng Mỹ bỏ chạy. Đâm đầu vào bụi! Viên cười. Tôi không muốn căng thẳng, im lặng. Bây giờ cuộc sống làm cho khó hiểu những điều đã từng có thực xảy ra trong chiến tranh. Viên không muốn tin hay chẳng hiểu mà tin? Mà sao con người nó nhiều mặt thế? Tốt thì như một vị thánh mà ngang thì đúng là cua. Trọng vẫn ham nghe, lại hỏi, đi mãi như thế, lâu như thế mà chú và bố cháu chịu được? Chịu được! ?oKhông chỉ là chú và bố cháu, sau chúng tôi khi ấy là c dân tộc.? Tôi nghĩ như vậy nhưng im lặng.
    Suốt tám ngày đi không có gì xy ra. Thi thong gặp vết chân voi. Bãi phân voi to bè còn nghi ngút khói, chua hăng. Mùi cây bị voi chà ngái hắc. Tôi dặn Trọng: thấy voi chớ chạy. Nó khôn lắm, biết ai hiền, ai ác, ai định hại nó, ai không. Cứ thủng thẳng mà đi!
    Mùa mưa 72 đói rã họng. Lệnh tiểu đoàn cho bắn một con voi. Thằng Sáu thiện xạ, người Nùng Cao Bằng nhằm bắn con lớn nhất. Con voi bị đạn gầm lên. Sáu chạy. Voi chạy nhanh hn người. Sáu tụt xuống cái hố củ mài mưa rừng đã xói rộng, lọt thủm hết người. Voi thò vòi vào. Sáu bắn. Thò voi ra. Bắn! Mười ba phát c thẩy. Không thò vòi nữa. Nó đi vòng quanh Sáu. Dậm! Nghe tiếng súng, người ở nhà đinh ninh có cái khênh, tìm tới. Con voi một ngà đã đổ ềnh, giấu mặt vào bụi lồ ô rậm rạp. Tìm mãi không thấy Sáu. Thấy khoảng đất rừng voi chà nát. Đất lèn đầy vết chân voi. Con chó đại đội cứ cắn nhặng trên mnh đất ấy. Đào lên, thấy Sáu chết ngồi. Mắt trợn ngược, nước dãi, sắn, rau rừng từ dạ dày ọc ngược ra lẫn máu ướt
    chua áo Tô Châu. Tay ôm súng. Mắt không nhắm, ngược lên không thấy lòng đen. Còn hai viên đạn. Một lên nòng, một trong ổ. Nó bị lèn sống về với ông bà.
    Sắp tới vị trí cần tìm, tới ngày thứ chín thì có chuyện. Thằng Quân đi ngoài, hong hốt la có người rình nó, ôm quần chạy, thụt chân xuống hố mối. Có quái gì đâu, nó đi trúng dưới cây, chỗ con cầy hôi ăn gắm vừa nhao qua. Tôi nhìn thấy rõ ở cái gốc cây trong bụi rậm những hạt gắm lẫn phân cầy hôi còn bốc khói. Mãi sau này tôi tự hiểu, thời nó ở Căm Pot thoát chết bốn năm lần bị phục kích, bắn trộm nên hư như vậy.
    Một cành cây chọc qua lớp vi, đâm xiên vào đùi Quân. Máu tươi chy đỏ xuống gót chân. Băng bó xong, tôi hỏi có đi được không. Quân gật đầu. Tôi biết, nó phi cố. Nó chống cái gậy le, khập khiễng đi theo đoàn. Tốc độ chậm hẳn lại. Nhưng khi ấy sự chịu đựng phi thường của nó cho kịp đoàn tôi lại thấy thằng Quân của ngày ở Đồng Dù.
    Buổi tối, tôi ngồi bên đống lửa xem lại bản đồ, kiểm tra những điểm cao, chỉ cho Quân và Viên. Nếu bình thường là ba ngày nữa tới ni. Chúng ta cố gắng năm ngày! Quân gật đầu. Nó nghiến răng theo cho kịp đoàn. Viên nheo mắt nhìn Quân. Thực phẩm đủ cho hn mười ngày nữa. Tôi rất nghiêm khắc chia ra từng bữa như hồi ở lính. Nhưng nếu cứ đi chậm thế này, phi gim khẩu phần ăn là cái chắc. Còn lượt về nữa.
    Ngày hôm sau chân Quân sưng tướng lên. Sáng dậy, nó cà nhắc ra khỏi võng. Nhìn vết sưng của nó, tôi thưng quá. Biết làm sao bây giờ. Tôi bo, hay là để bọn anh võng. Quân nói, không ! Mặt nó đanh lại.
    Lại đi. Nhưng thực ra là thằng Quân lê. Bắt qua ngọn núi nửa mưa, nửa nắng. Được hai tiếng, mù sưng bắt đầu thoang thoáng bay lởn vởn rồi lên càng cao càng đặc dần. Nước đọng thành từng hạt nước lớn từ lá rừng trút xuống lộp bộp. Con đường lởm chởm tai mèo ẩm ướt, rồi bắt đầu trơn nhầy rêu. Quân thực sự không thể bước được. Tôi mang ba lô cho nó. Cố lên mày! Ba tiếng nữa qua đỉnh. Bên kia là nắng. Gần thung lũng ấy rồi! Tôi phải đủn đít nó mỗi khi bước qua một tng đá.
    Ba tiếng hành quân kéo ra chín tiếng. Trời tối sẫm mới lên tới đỉnh. Quân ngã vật ra xuống bên triền cỏ bên này núi.
    Thằng con Bo tới bên tôi, hay là để cháu cõng chú ấy? Không được. Nếu mai cứ thế này sẽ làm võng khiêng Quân. Khiêng thế nào? Viên hỏi. Tôi chặt sẵn cái đòn, buộc võng vào, nói cho Viên việc võng thưng, bệnh binh của chúng tôi ngày xưa. Viên bĩu môi: ?oCó cái bản nào gần đây không?? Không - Tôi chỉ bn đồ - phi một ngày đường.
    Ngày nào bị thưng ở trận Boloven. Bốn đứa ốm võng tôi dưới trời mưa lụt sụt. Tôi luôn mê sng. Tỉnh, nhìn lên chỉ thấy cái lưng đẫm mồ hôi và tiếng thở như chó chạy của thằng Long Hàng Chai. Nó chết hồi đánh trận cuối cùng ở Đồng Dù, cửa ngõ Sài Gòn. Một đại đội rằn ri địch bọc hậu của Lý Tòng Bá đã xi tái hai nhăm chiến sĩ, trong đó có Long. Nhẽ ra Long không chết, nhưng nó nhẩy khỏi chiến hào, bắn vào toán địch định khử tôi. Đạn ch kiêng người bạn x thân vì đồng đội. Nó dính trọn c qu cối cá nhân bắn thẳng. Đầu bay mất tiêu. Vết cắt gọn như chặt củ chuối. Bọt máu phun ra sủi phì phì, đùn thành bọng máu đỏ tưi từ cái cổ họng đã mất thủ cấp.
    Thằng cáng đi sau là thằng Chiến Dùng. Gọi tên huý là Chiến Dùng vì với nó, bất kì cái gì cũng đút vào miệng được. Tất cả ?odùng được!? Đấy là châm ngôn cửa miệng của nó. Một thằng cao gần mét bẩy. Hồi an dưỡng nặng bẩy chục cân. Khi ấy, còn độc bộ xưng lênh khênh thì chóng đói hn thằng bốn chục cân. Thế là nó phi nhét tất c cái gì có thể nhét vào bụng. Khốn nạn! Nó vớ phi mỗi cái nấm sót mà tái tím, co giật. Cậy miệng, nhét cái ống nứa, đổ òng ọc c nửa lạng đường hòa nước đậu vào họng. Lại móc họng, lấy lông công ngoáy cũng không cứu được. Hôm chôn, mùa mưa lấy đâu ra ô tô chở quan. Lồ ô ghép làm quan. Ni lon tri làm chiếu, ba lô làm gối, võng làm chăn. Tôi đút vào túi quần cho nó nửa thanh lưng khô BA- 70, quỳ th một nhúm đất khấn thầm. ?oMày sống khôn chết thiêng, cứu anh mấy lần, phù hộ nốt cho anh sống cho tới ngày mai?.
    Làm thằng lính biết điều chỉ cần biết ngày mai. Ngày mai tức không phải ngày hôm nay. Ngày mai thì bao giờ chả có. Tôi chỉ dám xin khiêm tốn thế cho nên trời muốn tôi sống suốt cả hơn mười năm bom đạn?
    Mặt trời sớm ra trên đỉnh núi no tròn bằng cái cho vô tuyến lớn, đỏ sậm. Chim hót vang lừng. Gió ***g lộng thổi những đám mây tơ bay ngang. Thằng Quân kéo tôi ra chỗ quang, chỉ về bên trái. Giữa màu xanh ngút ngàn có làn khói mỏng bốc lên. Một mái nhà trắng bạc hắt nắng. Bản! Bản mới! Quân thận trọng đo la bàn. Khong ba ngàn mét! Chệch hướng mình đi. Từ đây tới đó phải một giờ. Anh ạ, đưa thằng Quân gửi lại đó. Viên giọng nhẹ như gió. Tôi ngần ngừ. Viên kéo cái chân Quân lên. Bắp chuối đỏ tím. Khéo hoại thư! Tôi lo lắng. Đêm qua, tôi đã chọc cho nó một phát kháng sinh liều cao. Viên lấy ra viên thuốc màu hồng, đưa miệng, bẻ răng đánh cắc. Đưa cho Quân một góc và bo: ?~?~Nuốt!? Quân nuốt. Một lát, khuôn mặt Quân bớt tái. Viên lại lục mấy cái vòng bạc từ túi cóc ra. Từng này đủ nuôi ba thằng Quân c năm. ?oĐể nó vận động, nguy hiểm?. Viên nói đúng. Tôi hiểu. ?oC tụi quay xuống đó vậy!? ?oKhông! Mình tôi đưa Quân là đủ. Anh chuẩn bị cm nước. Tôi về ngay. Xuống dốc mà?. ?oThế nào Quân?? Tôi do dự. Quân nhăn mặt. Sự đau đớn thể xác buộc người ta chọn thái độ. Bây giờ vàng có ý nghĩa gì? Nó gật đầu. Nó nhìn tôi: ?oEm khỏi là theo dấu đuổi theo ngay?. Tôi chân thành, không sợ à? Nó cười, lại không sợ rồi! Tôi nắm tay Quân.
    Tôi và Trọng nổi lửa. Hn một tiếng sau Viên quay lại. Nó hổn hển kể: ?oDân bn rất tốt. Họ bo tôi, để nó đấy c mùa trăng không sợ. Cái cán bộ đi tìm người thân cũng như chúng tao thôi?. Thế yên tâm rồi. Sẽ quay lại đón Quân sau! Viên xoa tay, tu một ngụm rượu. Cậu nói với họ ra sao? Tôi hỏi Viên. ?oBọn tôi đi tìm hài cốt liệt sĩ?. ?oBn có mấy nhà?? ?oNăm nhà. Từ đường Chín mới lên đốt rẫy mới?. ?oSao không mua lấy con gà hở chú?? Viên mắng Trọng: ?oGà qué gì nữa! Mày khi nào cũng nghĩ tới gà!?
    Từ đây tới đích cũng chẳng xa lắm. Thế mà hay. Khi quay về sẽ vào đó mua thêm gạo và thịt. Tôi thầm tính

    Anh lười lắm chẳng tìm bé yêu được
    Làm sung rơi rụng xuống mõm anh nào

  8. tbm

    tbm Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2002
    Bài viết:
    1.226
    Đã được thích:
    0
    Chúng tôi lại đi. Xuống dốc, cả bọn gần như chạy. Tôi phi nói hai đứa từ từ. Máu dộng nhiều xuống bắp là đêm đau đấy! Thoắt, mọi khung cnh xưa cũ hiện dần ra. Cũng phi ba ngày sau mới tìm thấy ngã ba suối. Nhiều dấu vết bị thời gian xóa nhòa. Viên bám sát tôi. Khi quẩn quanh tìm vật chuẩn, Viên sáng dạ, trách nhiệm. Rồi cũng tìm thấy ngọn núi thấp và con suối.
    Viên nhao xuống ngã ba suối đầu tiên. Nó lặng lẽ sục tay vào từng hốc đá. Bụi vàng còn sót lại, bám lấm tấm mấy đầu ngón của hắn. Viên nheo mắt, ngắm. Nó liếm bụi vàng. Nó xoa vào mặt.
    Trọng hét lên nhẩy múa như trẻ nhỏ. Tiếng lanh lnh âm vang c núi. Lại nhặt được cái mũ sắt đã mục quai rỉ hoét. Tôi bảo, của ****** ngày xưa đãi vàng. Trọng chụp cái mũ lên đầu có vẻ khoái trá. Con suối êm đềm chy. Rừng cây và ngọn núi cũ vẫn thế. Trầm tư, bình yên. Tôi đứng lặng.
    Tôi mang mấy thẻ hưng ra thắp vái tứ phưng trên bờ cỏ. Tôi gọi. Chúng mày ơi. Tôi khấn hồn bọn bạn cũ. Khấn thằng Vượng, Chiến Dùng, Long Hàng Chai và Hội. Những kẻ một thời trẻ trai chưa hưởng xái gì. Những kẻ trót dang dở mùi đời, đầy đau khổ mà dám quên đi để chia sẻ ni mặt trận...
    Từ đó tới hang giấu vàng nào có xa. Tối rồi. Tôi dẫn c bọn vào kho súng đạn cũ. Còn dăm cái thùng đạn vẫn yên trong kho. Mầu xanh quân dụng bền, vẫn tưi, mặc thời gian. Dăm gói bộc phá. Kíp nổ, dây cháy chậm. Cái hốc chúng tôi nấu ăn tro than nguội lạnh. Đây là chỗ tôi ngủ. Đây là chỗ thằng Long, thằng Bo, thằng Hội... Tôi sờ soạng. Tôi cảm giác như tìm lại được điều gì rất khó dùng ngôn từ nói được. Tôi nhặt được cuốn Văn Nghệ Quân Đội trên hộc đá. Đứa nào quên nhỉ? Tấm nh bìa, cô gái áo nâu, ngực căng đẹp tươi choàng súng trường! Hồi ấy chúng tôi đều như thế. Cô gái này bây giờ chắc đã lên bà. Gáy cuốn sách lâu năm khô hồ. Tấm ảnh la đà chao xuống nền hang. Một tờ giấy viết rơi theo. Giấy ố vàng, lờ mờ dòng chữ ghi bài hát: ?oĐánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào?.
    Trọng tìm thấy hai khẩu súng trường Hung bắn tỉa đầy mỡ trong cùng hang. Mấy khẩu súng ấy Long khuân về từ kho nát bên kia núi. Cái kho thời chiến tranh mới nhen nhóm. Thời bọn tôi, ai còn bắn tỉa? Tiểu liên AK 47 liên thanh thay súng phát một. Thùng đạn K44 vỏ thiếc vẩy cá trắng. Đạn vẫn ưm. Tôi lau mỡ đã ô xi hóa đen két trên khẩu súng, chỉ cho Trọng từ khóa nòng tới kính ngắm quang học đã mờ mốc. Phát đạn bắn thử ròn tan bay phá vỡ một chỏm đá. Chúng ta sẽ lấy hai khẩu này cho chuyến về để săn thú. Viên cầm ngay một khẩu, nạp đạn choanh choách. Nó học bắn ở đâu mà bắn xuya ra trò.
    Đêm ngủ lại hang súng. Lạnh buốt. Phải đốt bộc phá mồi cho gộc củi cháy mới ngủ được. Mùi thuốc. Khét. Thối. Hăng. Gần sáng tôi choàng tỉnh. Hình như có tiếng tru của chó. Tiếng tru miết lên thảm rừng, xa xôi vọng lên. Hay là mê ngủ? Hay là hương hồn đồng đội cũ gọi về? Ngày xưa bọn tôi hay gọi nhau trong rừng bằng tiếng tru chó sói. Tôi lay Trọng, mày có nghe thấy gì không? Trọng ngơ ngác. Viên bật dậy. Lắng tai. Không! Lại yên tĩnh.
    Qua vạt rừng cháy xưa là tới hang giấu vàng. Hai tiếng đồng hồ. Tôi đi đầu. Có tiếng chó sói tru thật. Rất gần. Quen lắm. Viên giật mình, bắn một phát về hướng động. Đạn đi cao. Tiếng rít căng.
    Yên lặng.
    Chỉ còn tiếng thông reo. Tiếng liếu tiếu rộ lên. Có người? Hay thú? Hay chó sói? Thây kệ. Nhanh! Tôi giục. Cái cửa hang rộng thế mà bây giờ bị cỏ lác, cây che gần kín. Rất lạ, vệt đường mòn trên con dốc, màn màn cỏ t, ngược lên vẫn rõ. Ai đã vào đây? Vàng còn hay mất? Tôi nhặt một que thuốc đạn pháo(4) dưới đất, đốt, dò dẫm đi vào.
    Cái hang này nông. Không sâu như hang súng. Cao hn. Đây rồi!
    Năm túi đựng vàng bằng bao cát Mỹ dựng nguyên ở góc cũ. Còn một túi nữa đâu? Hay mình lú lẫn mất rồi. Những viên đá xếp quanh đã bị dỡ ra từ khi nào? Ai dựng ở đây nhiều thuốc nổ Tonit thế này? Lại dây cháy chậm từng cuộn và hn chục hộp kíp. Ai? Hay lâu ngày lú lấp!
    Trọng nhao tới. Hai chú cháu run lên khi thọc tay vào đám vàng lấp loáng trong ánh sáng trắng, khói đặc của que thuốc đạn xèo xèo cháy. Tôi quay lại: ?oViên ơi. Đây!?
    Tôi giật thột.
    Không thể tin ở mắt mình. Họng súng của Viên chĩa thẳng vào tôi. Mặt lạnh. Mắt lạnh. Rõ ràng hắn không đùa.
    - Không được động đậy!
    Khẩu súng của tôi để cách hn mét. Tại sao ngu tới vậy! Ngày xưa vũ khí bất ly thân.
    - Chú Viên ơi. Chú đừng đùa! Súng có đạn.
    - Đùa h. Tao bắn nát sọ mày bây giờ. Đá khẩu súng ra bên trái!
    Thằng bé xạm mặt. Nó từ từ giơ tay quá đầu. Men men vỉa đá lấy chân hất khẩu súng ra xa tôi hn. ?oCháu xin chú?.
    - Xin cái nõ c..! Mày ấn túi vàng vào các ba lô! Viên sấn tới thằng nhỏ đập cái báng súng vào lưng nó. Cú đánh dường như để rung dọa tôi. Trọng sấp mặt xuống nền đá lạnh. Máu ứa đầm đìa mũi, mồm.
    Tôi yên lặng. Mũi súng vẫn lăm lăm chĩa vào tôi. Tôi hiểu, cò súng bắn tỉa Hung rất nhạy: ?oAnh Viên, hãy cẩn thận?. ?oTất nhiên là tao rất cẩn thận?. Viên cười. Tiếng cười trong hang âm âm như tiếng ma. Tôi điên lắm nhưng vẫn dịu giọng: ?oAnh Viên. Tôi hiểu. Nhưng chúng ta chỉ có bốn người. Số vàng chia ra đủ cho anh, cho tôi, cho tất cả giầu có?.
    Viên có lần nói với tôi nó phải là ông chủ lớn. Tôi không hiểu gì về chủ lớn. Viên bảo làm chủ phải biết điều khiển tiền mẹ đẻ tiền con, tiêu chuẩn đầu tiên là phải có cái đầu lạnh. Phi biết tiền không có họ hàng, anh em, bè bạn. Nhưng cùng phải biết làm như thương người ta, mến người ta, để người ta tận tụy với mình. Gặp vận phải nhập cuộc ngay - Viên than thở- Gặp vận tôi sẽ nhất định giầu. Không ngu ngơ như bọn cò con, hi tí thì run sợ.
    - Giầu có - Viên cười rất nhạt - Biết bao nhiêu là giầu? Chúng mày chỉ cần một phân là đủ, là sướng run lên rồi. Tao thì một cân chưa là gì. Thiên hạ có c tỉ đô. Tao cần cả tạ, hai tạ.
    - Rồi anh sẽ từ từ mà làm ông chủ mà! Tôi cắt giọng Viên, thuyết phục.
    - Im đi. Ông biết gì. Các người đa cảm, thực thà, c tin lắm và lúc nào cũng từ từ. Đấy chỉ là tư cách, là xưa lắm rồi. Bây giờ cần tốc lực ông anh ạ. Làm tốc lực, kiếm tốc lực và chi tốc lực. Ông anh không nhìn thấy, mấy thằng hôm qua còn kiết lõ ra đấy, sớm hôm sau đã tễu tện ô tô bóng nhẫy phóng êm ru à?
    - Mày nỡ chiếm tất cả công sức của bao người chăng? Tôi sẵng giọng.
    - Không nhiều lời. Nói chuyện với anh chán bỏ mẹ. Làm giầu thì thằng nào chả dính máu. Không dính máu thì phi tưới mồ hôi của người khác lên tiền! Dỡ nhà người ta làm chuồng xí nhà mình. Hiểu chưa? Nào, thằng kia nhanh tay lên!
    - Viên. Hãy nghe tôi. Hãy để đức cho con cái. Chúng ta có bốn người. Quân sẽ biết tất c nếu bọn tôi không trở về. Anh làm sao có thể một mình vượt qua hn bốn trăm cây với số vàng này?
    - Đức độ! Ông anh hay nghĩ tới tâm hồn, đạo đức. Đạo đức để mình chết mục xưng là đạo đức ma. Đạo đức để cha mình ốm không thuốc là đạo đức quỷ. Không có tiền thì lấy gì để thương ai? Thằng Quân nên xuống âm phủ mà tìm.
    Thế là rõ cả rồi. Tho nào nó đưa Quân đi nhanh quá. Tôi không ngờ tới cơ sự này. Họng súng vẫn xoay hướng về tôi.
    Viên hạ lệnh cho Trọng lấy cái dây dù của nó vất ra định trói hai tay tôi. Tôi bo không cần, khoác nặng thế này tôi làm sao đánh lại anh. Nó cười, thế thì biết điều. Viên ngồi xuống bên tảng đá. Chỗ Bo vẫn ngồi chi cờ năm nào. Nó lấy bình tông tu một ngụm rượu. ?oChú Viên ơi. Chú cần gì lắm vàng thế?? Trọng vừa ấn vàng vào ba lô vừa van vỉ.
    - Mày thì còn ngọng lắm con ạ. Mày sống đủ như tao sẽ biết tiền để làm gì.
    Quay lại tôi, Viên gằn giọng:
    - Anh nên biết điều. Tôi sẽ suy nghĩ nên để anh sống hay chết. Nhưng nhớ rằng tôi bắn cũng xuya.
    Tôi tính. Thế là còn c hội sống. Tôi dẫm nhẹ vào chân thằng Trọng. Nó chắc hiểu tôi. Và, chú cháu sẻ vàng thành các túi nhỏ cho vào ba lô

    Anh lười lắm chẳng tìm bé yêu được
    Làm sung rơi rụng xuống mõm anh nào

  9. tbm

    tbm Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2002
    Bài viết:
    1.226
    Đã được thích:
    0
    Nhiều người thường tin vào số phận, không đặt cược tất cả vào ngày mai, bởi cuộc đời của họ có quá nhiều bất ngờ mà chưa khi nào có sự bảo ** chắc chắn cho họ hôm sau cuộc sống thế nào. Có lẽ tôi nằm trong số người ấy. May và rủi. Đen và trắng. Sự đối nghịch luôn đan trộn, xen kẽ.
    Tôi cứ đinh ninh, rằng có hai phương án sẽ xảy ra. Viên sẽ buộc hai đứa chúng tôi mang số vàng tới một ni gần đường bọn buôn thuốc phiện lậu qua biên giới, rồi sau đó bắn chúng tôi, một mình làm chủ số vàng ấy. Hai là nó sẽ thí cho mỗi đứa ít vàng và lặn tiêu. Nhưng khả năng thứ hai rất ít bởi nó đã đang tâm giết chết Quân để nhẹ gánh thì ch tử tế tới vậy.
    Nhưng có lẽ số phận chưa muốn tôi bi đát như thế.
    Hang núi bỗng yên tĩnh tới mức tôi nghe thấy tiếng tim thằng Trọng đập thình thịch. Chính khi ấy vang lên tiếng hô sắc nhọn như mũi lao bật khỏi dàn bắn nai của đồng bào dân tộc:
    - Bỏ súng xuống!
    Viên quay người lại. Trước cửa hang, sau mô đá có nòng súng động đậy hướng về Viên. Lấp ló áo mầu sặc sỡ. Tình huống quá đỗi bất ngờ cho tất cả. Lại một bóng phụ nữ hiện ra bên trái hang. Cánh nỏ đã giưng sẵn.
    Tiếng tru chó sói thảng thốt rúc lên rất dài từ sau tng đá, nơi có mũi súng thấp thoáng.
    Tôi bừng tỉnh.
    - Không nhận ra à? Đồng đội đây! Giọng ai đó sao mà quen thế, vang lên.
    Viên hoảng hốt vứt cây súng trong tay.
    Ngược sáng. Chỉ thấy một bóng người hiện ra lừng lững, râu tóc tung bay trong gió sớm hẳn trên mầu xanh của trời. Khẩu súng bắn tỉa chĩa thẳng vào Viên. Người Rừng tiến lên gần. Tôi nhặt vội khẩu súng của Viên. Tôi nhao ra. Chính khi lộn xộn ấy, rất nhanh Viên nhào vào. Đẩy sấp thằng Trọng. Một phát đạn dường chỉ bắn cảnh cáo. Tiếng đạn cao. Trần hang bay lả tả bụi. Tôi nhìn Người Rừng. Trọng khi đó cũng đã vọt đứng dậy chạy về phía chúng tôi. Chỉ còn Viên trong bóng tối. Nghe tiếng lạch cạch của nòng súng rê trên đá.
    Khi bên cạnh cứu tinh của chúng tôi, tôi chợt giật mình.
    Hội! Đúng mày là Hội! Phải không? Tôi thét lên.
    Này nhé! Nụ cười ấy, khuôn mặt ấy, già nhiều rồi nhưng đôi mắt và đôi lông mày rậm ấy. Làm sao quên được!
    Người Rừng cười. Cười rung bộ tóc muối tiêu ngang vai, bộ râu cước ngang ngực, tiếng cười vang trong hẻm núi và trên triền rừng âm âm nổi lên, ran ran lan nhanh như có nguời cùng phụ họa. Ông ta ấn nhẹ vai tôi và cả hai nằm xuống.
    Không nên bao giờ tìm cách lý giải cặn kẽ những sự trớ trêu, kì cục của tạo hóa. Về sau tôi luôn nghĩ như vậy- kể cả khi ngẫm về cái điều nhầm lẫn một cách hết sức như mơ sảng ấy của tôi.
    - Không! Tôi là Nhơn. Cẩn thận. Khuôn mặt ông trở nên rất nghiêm túc: ?oNó nhìn thấy chúng ta rất rõ đấy?. Tôi xoay súng áp má mà vẫn liếc mắt quan sát kĩ cứu tinh. Đúng hơn là ngắm ông, một lần nữa thật kỹ. Hội, cậu lại đùa mình. Thế mà nghe tin cậu mất tích! Tôi nói trong xúc động.
    Chúng tôi tìm thấy bạn anh trôi trên suối. Đêm qua cứ tru mãi để anh biết sự nguy hiểm. Thấy các ông vào hang có vũ khí, tôi không dám lộ diện vì chưa biết ai đã định giết Quân bạn anh.- Người Rừng gii thích vắn tắt- Lại hỏi, anh là Sinh?
    - Vâng tôi là Sinh.
    Khi ấy tôi rất mừng, hiểu ngay Quân chưa chết. Sau này tôi mới rõ, rằng trời chưa muốn để Quân chết. Nó bị Viên dọng cho một đòn vào đầu và hất xác xuống thác. Quân trôi vào đúng bến nước của gia đình Người Rừng và họ đã tới đúng lúc.
    Người phụ nữ thiểu số từ đầu im như thóc, khi này thi thong nhìn tôi và Trọng. Khuôn mặt bà dịu dàng, thản nhiên nhưng tay luôn lăm lăm chĩa nỏ vào hướng hang.
    Tôi nắm chắc súng lăn sang trái: ?oCẩn thận nhé! Nó rất nguy hiểm và liều lĩnh?. Người xưng tên là Nhơn gật đầu.
    Trong hang bắn một phát. ổ đạn có năm viên. Một trên nòng là sáu. Tối tính, hắn còn 5 viên. Viên đã vớ được khẩu súng của tôi khi nãy. Viên nhìn chúng tôi chắc rõ hơn chúng tôi tìm hắn. Hắn trong bóng tối. Lại bắn. Hai phát, tôi đếm. Tôi không bắn. Trong hang tối quá. Tôi nói to: ?oAnh chỉ có bốn viên nữa. Chúng tôi có bốn người. Đạn nhiều. Đầu hàng đi.? Trọng bò lại bên tôi. Mặt nó còn đầy máu. Nó vẫn chưa hết bàng hoàng. ?oChú ơi, bắn chết hắn đi!? Giọng Trọng căm hờn. Tôi ấn đầuTrọng xuống. Yên lặng tới ba bốn phút. Tôi bắn ước chừng về phía Viên núp. Một phát, hai phát, ba phát rồi phát thứ tư. Có tiếng kêu thất thanh. ?oối! Xin các bác đừng bắn. Em xin hàng.?
    Bóng Viên hiện rõ dần. Tay phi ôm vai. Tay trái hắn gi cao ngang đầu. Hắn đã buông súng. Chúng tôi cnh giác đứng dậy. Tôi chuyển súng cầm sang tay trái, tiến lên, định tạt cho Viên một cái bạt tai cho bõ ức.
    Sự việc thực bất ngờ. Trọng, thằng bé liều lĩnh giật lấy súng từ tay tôi: ?oĐể cháu!? Nó bắn rất nhanh phát đạn cuối cùng trong ổ đạn. Đấy là phát đạn của định mệnh.
    Viên đạn bay vót sạt tai Viên. Đạn bay sâu vào cuối hang và cắm ngập vào ổ kíp mìn - ấy là về sau chúng tôi phán đoán như vậy- Một tiếng nổ tức thì, rất mạnh đã thành một áp lực khủng khiếp quét ngã tất cả mọi cái gì cản đường nó. Toàn bộ hn ba chục cân Tonit âm thầm bao nhiêu năm, giờ đây được kích thích phát nổ. Tôi bị lật người ra sau, đầu đập xuống đất thấy mình bay trong một lỗ hổng đen ngòm xoáy mãi, xoáy mãi.
    *
    * *
    Cũng như khi tỉnh dậy, là lúc tôi thấy Nhơn tóc tai bê bết bụi khói bò lên từ con dốc. Người phụ nữ dân tộc mặt mũi nhom nhem cũng liêu xiêu đi tới. Cây cối bên cửa hang xơ xác. Khói bụi tan ra. Tôi đau xót nhận ra cửa hang trống hoác. ánh sáng chan chứa chiếu trên nền hang trơ trụi. Khói từ các kẽ đá vẫn lơ thơ bốc lên. Không một dấu vết cũ. Vàng xưa?
    Chúng tôi tìm thấy Trọng bị ngất, văng ra cách đấy hn năm mét. Không thấy xác thằng Viên, dẫu rằng Trọng căm thù tới xương tủy, nó muốn ?obăm xác Viên thành trăm mnh!?
    Hn bẩy chục cân vàng xưa biến mất. Trở thành cát bụi bay về rừng. Có lẽ với thời gian, nó sẽ theo mưa, theo suối, theo sông về tụ hội ở một nơi nào đó, dẫu là lâu lắm.
    Chúng tôi xuống núi trở về nơi Quân đang chờ đợi.
    Tôi ôm chầm lấy Quân. Bên cạnh nó một cô gái rất trẻ, đẹp như đóa hoa mai đầu xuân rực rỡ. ?oĐây là con gái mình. Cháu vừa mười tám tuổi.? Nhơn giới thiệu.
    Câu chuyện của Người Rừng phải viết riêng một cuốn tiểu thuyết. Dẫu cho là ông ta chính là Hội, hay không phải thế cũng là điều không quan trọng khi ấy. Điều quan trọng là chúng tôi, tất cả sống sót. Quân đã đỡ, dù chưa đi lại được. Vết thương trên đầu được cô gái tưi trẻ hàng ngày đắp lá rừng, úp thêm một cái mũ mây, đan rất khéo màu ngà sáng.
    Đã lâu lắm tôi lại ngồi nhậu trên nhà sàn khá chắc chắn và bếp lửa, rượu đế và thịt rừng nướng. Chúng tôi kể cho gia đình Nhơn nghe chuyện phiêu lưu. Người Rừng cũng bằng tuổi Hội. Ông nói rành rọt chậm rãi, tôi là Phan Thành Nhơn, lính cũ sư đoàn 320 B. Tôi à lên, bởi chúng tôi thuộc 320A.
    Câu chuyện của ông như một trong trăm ngàn huyền thoại nhiều vẻ của đời sống lính tráng chúng tôi sau chiến tranh đã được các nhà văn miêu tả. Thôi không bàn chi tiết. Đại để, Nhơn tưng tự như hoàn cnh của anh Hội. Đi biền biệt không tin tức. Thông tin thế nào về quê, rằng Nhơn đã hy sinh. Vậy là người vợ yêu dấu bao nhiêu năm hy vọng kia đi lấy chồng. Lấy ngay em họ Nhơn. Thế là quay lại đn vị, Nhơn rất hận và buồn. Anh thường xuống thị xã gần ni đóng quân chơi bời nhậu trên nhà sàn khá chắc chắn và bếp lửa, rượu đế và thịt rừng nướng. Chúng tôi kể cho gia đình Nhơn nghe chuyện phiêu lưu. Người Rừng cũng bằng tuổi Hội. Ông nói rành rọt chậm rãi, tôi là Phan Thành Nhn, lính cũ sư đoàn 320 B. Tôi à lên, bởi chúng tôi thuộc 320A.
    Câu chuyện của ông như một trong trăm ngàn huyền thoại nhiều vẻ của đời sống lính tráng chúng tôi sau chiến tranh đã được các nhà văn miêu t. Thôi không bàn chi tiết. Đại để, Nhn tưng tự như hoàn cảnh của anh Hội. Đi biền biệt không tin tức. Thông tin thế nào về quê, rằng Nhơn đã hy sinh. Vậy là người vợ yêu dấu bao nhiêu năm hy vọng kia đi lấy chồng. Lấy ngay em họ Nhn. Thế là quay lại đơn vị, Nhn rất hận và buồn. Anh thường xuống thị xã gần ni đóng quân chi bời nhậu nhẹt. Một tối, Nhn uống rượu rất say đã không kiềm chế điên khùng dọa đốt doanh trại. Dọa hóa thật, đn vị ra tro và cháy lây hai chục nóc nhà của dân. Kỉ luật tr về địa phưng. Tỉnh ra, Nhn thấy cuộc sống thực vô vị, anh lang thang khắp các bản và khi suy kiệt, gần như mất trí, anh ngược rừng đi mãi. Tôi lạc hơn tuần trong rừng không biết lối ra, nằm ven suối đợi chết, anh nói. Một người đi rừng cứu sống anh. Đưa anh về ngôi nhà sàn ch v trên miền này. Bn cũ đã cháy hết trong cuộc chiến. Vợ người đàn ông cứu Nhn là một người đàn bà tật nguyền. Họ cùng đứa con gái nhỏ, chăm sóc anh hết lòng. ?oPhi tới hn ba tháng ốm kiệt quỵ vì bao nhiêu đau đớn và suy nghĩ!? Chính con người tật nguyền - bà, bị cụt c hai chân khi vấp phi mìn cài trong rừng- nhưng lại rất yêu cuộc sống, đã hồi sinh anh. Bà suốt ngày cháo thuốc và véo von hát những bài hát lạ. Rất lạ! Tới giờ Nhn vẫn không biết. Lời hát anh hoàn toàn không hiểu. Êm, tha thiết luôn luôn vang lên cả trong mơ như liều thuốc kì diệu nâng đỡ anh. Nó như tiếng mưa, tiếng gió, tiếng muông, tiếng thú và tiếng của muôn loài ở nơi xa xăm từ kiếp nào đã thấm. Đó là một điệu hát bây giờ thất truyền! Nhạc điệu ấy làm con người yên tĩnh, lắng gạn hết buồn đau. Anh khoẻ ra và quyết định trở lại quê hưng. Như số phận định sẵn, ngày anh định xuống núi, xy ra chuyện người đàn ông cứu anh bị cm nặng. Tuổi già ra đi bất ngờ. Thế là anh không thể nhẫn tâm để người đàn bà tật nguyền và cô gái trong khu rừng với sự đau đớn mới, chờ thời gian xoa dịu. Tiếp tục sống. Và, anh tìm thấy hoàn toàn bình tĩnh trong đời sống chính tại khu rừng này. Rồi người đàn bà kia g con gái cho anh, vì anh và con gái bà quấn quýt bên nhau đã lâu. Ông trời cho họ ngay một mụn gái. Để tới mười tám năm sau chính con họ, cô gái tìm thấy Quân bị Viên đập vào sọ ẩy xuống thác nước.
    ?oTôi đi khắp vùng này. Tìm ra kho súng và kho vàng của các anh. Tôi đã lấy đi một chút để xuống xuôi mua sắm?. Chuyện tập tàng như vậy.
    Trọng tin sái cổ. Tôi cũng tin nhưng vẫn ngờ ngợ. Nhn giống Hội. Hay phi chăng, Hội không muốn nhớ lại sự đau đớn của anh đã chôn cất. Anh muốn từ bỏ chúng toàn bộ, như cắt đứt nỗi sầu, mọi di chứng ở cõi sống cũ mà tìm một gưng mặt khác? Không thể hiểu được nhiều điều lắt léo của cuộc sống. Tôi nghĩ thế suốt vài đêm mỗi khi thấy động thái, cử chỉ của Nhn giống Hội quá? Trên đời có nhiều người giống nhau mà. Tôi tự bo. Hay là tôi nhầm. Lú lấp! Hay là tôi m ước bạn tôi, Hội, gặp được may mắn như Nhơn, để được sống th thới tới hôm nay mà t tưởng như vậy?
    Một tuần sau tôi và Trọng, con Bảo theo lối Nhơn đưa đường, tắt xuống đường Chín cũ, thuê ngựa về xuôi quay ra Hà Nội. Hai chú cháu mang nặng hai gùi quà của miền sơn cước như hai người bán thổ sản dân tộc. Nhn tỏ ra hợp Quân, giữ Quân ở lại ít bữa cho vết thưng trên đầu và chân lành hẳn. Vả lại Quân cũng dường như quý mến gia đình cứu sống mình. Nó nửa đùa nửa thật bo: ?oCần gì làm ông chủ hở anh? ở đây làm chủ c miền rừng đẹp đẽ bình yên này là sung sướng nhất cõi trần?. ?oĐất ở đây phì nhiêu lắm, mày định trồng cà bát muối hay càfê? Hay trồng cây Con rể đồng đội?? Tôi đùa. Nó ở lại cũng đúng, vì ở Hà Nội chẳng còn ai gắn bó, gần gũi hn máu thịt, sau bao li loạn của thời cuộc.
    Chút nữa thì quên nhắc chuyện quan trọng nhất của câu chuyện này. Chúng tôi có hai túi vàng nhỏ nặng tấm lòng đồng đội. Nhn nói khi người vợ của ông, chị H Len và cô H Lan dúi vào tận tay tôi, Trọng hai túi nhỏ rất nặng . ?oĐây là phần của các bạn. Chia đều. Nó nằm trong một phần sáu của số tôi đã lấy từ Vàng Xưa của các anh. Còn cái đống kia quên nhanh đi. Có nhiều thế chắc gì đã mang lại hạnh phúc??
    Ơ! Lại một phần sáu? Sao trùng hợp thế. Hay là... Tôi rưng rưng xiết tay tay người đồng độ

    Anh lười lắm chẳng tìm bé yêu được
    Làm sung rơi rụng xuống mõm anh nào

  10. tbm

    tbm Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2002
    Bài viết:
    1.226
    Đã được thích:
    0
    Thay cho đoạn kết:
    Người đàn ông kể câu chuyện trên đã gần sáu chục tuổi. Tóc bạc, phong trần, khắc khổ. Nhưng đôi mắt sáng chân thực và nhân ái. Gã nói, tin thì tin, không tin thì thôi(5)! Gã rời ghế đá quay ra dắt cái xe máy tàng tàng thong th nổ máy, biến ngay vào dòng người cuồn cuộn, trong lớp sưng mù vừa bay ra bồng bềnh trên đường phố, quanh hồ Gưm. Câu chuyện gã kể dài hai giờ đồng hồ. Trong tay tôi còn c địa chỉ của gia đình gã và gia đình người có tên là Bo. Cũng theo lời gã thì gã bằng lòng sống đạm bạc trong ngôi nhà một tầng ?okhông tới nỗi nào và đầy đủ dụng cụ sinh hoạt gii trí cho vợ con?. Nhưng một chi tiết tôi băn khoăn nhất là gã bo Viên còn sống.?Đã ba lần tôi nhìn thấy Viên sau khi trở về. Một lần trên dòng xe cuồn cuộn ở ngã tư Cầu Giấy. Cách đây hai năm, nhìn thoáng thấy Viên trên ti vi ở một chưng trình giới thiệu những người thành đạt tại thành phố X. Lần thứ ba, tôi nắm lấy vai Viên trước cửa một khách sạn lớn ngay tại Hà Nội. Chuyến ấy tí nữa lôi thôi. Viên làm ra vẻ ngạc nhiên, lịch sự gỡ tay tôi, không nói câu nào; còn bo vệ khách sạn tí nữa làm to chuyện, vì Ông Ta ấy là một thành viên đoàn doanh nghiệp Việt Kiều vừa về nước làm việc với thành phố trên kế hoạch đầu tư mới?
    Chuyện bịa! Thằng Viên còn sống? Mà biết đâu nó sống dai như thế và lẩn quất ở đâu đây?
    Tôi, người chép lại câu chuyện này như bị ma ám vì câu chuyện của gã. Khi ấy, chao chác nhìn quanh...
    Nước Đức, 18/12/2002

    Anh lười lắm chẳng tìm bé yêu được
    Làm sung rơi rụng xuống mõm anh nào

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này