1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Truyện ngắn hay của Thảo Hảo - Phan Thị Vàng Anh

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi nhl81, 01/02/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nhl81

    nhl81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2005
    Bài viết:
    445
    Đã được thích:
    0
    Hội chợ
    1. Mưa, cứ mưa mãi như thế này thì tưởng như bao nhiêu quần áo phơi không khô đều mốc hết. Từ sáng sớm, trời đã u u ám ám, và cả đoàn lô tô, xổ số lo lắng, ước lượng: "không khéo mưa tới đêm!" . Người ta ngủ vùi trong những gian hàng dựng tạm bằng ván, giữa những bảng số sặc sỡ, những thau mũ, mì ăn liền, bột ngọt làm phần thưởng. Tỉnh dậy, thấy trời lành lạnh, đường ruộng vắng tanh và không ai đoán được bây giờ đã là mấy giờ.
    Cứ vài tháng, lại có một đoàn về khu ngoại thành này một lần. Đóng đô trên một bãi đất trống ngày thường vẫn dùng để phơi bọc ny lông và thỉnh thoảng bọn con trai ra đá banh chiều, đoàn lô tô đến khi nắng đã ngập khoảng đất, sương trên cỏ đã khô, vài anh nhỏ thó, tóc dài chấm ót, mặc những cái áo in hình đen trắng rằn rợ, vạt bầu nhọn lê thê... thoăn thoắt dựng sạp, mắc điện đèn, thỉnh thoảng quay lại cười đáp lễ mấy đứa con gái mặc đồ bộ, ngoài phủ sơ mi dài tay, mặt lọt thỏm trong nón lá, đi cắt cỏ ngang, đùa ẽo uột: "Con số gì đây, số gì đây..."
    Trẻ con đã mắm môi trợn mắt thảy vòng hai đêm nay, lô tô cũng đã ra rả hát hai đêm nay. Bá đứng chân trên chân dưới một cái bục gỗ ở góc gian hàng, một tay cầm micro, tay kia đỡ dây điệu đàng như ca sĩ. Trẻ con, người lớn, kẻ đứng lô nhô dưới ruộng, trong quầng sáng đô hội của đèn nê-ông, kẻ ngồi chồm hổm trên bờ đất, tay cầm cục phấn con, chăm chú dò theo mẫu giấy kẻ ngang dọc toàn số. Mấy đứa con gái với những bộ đồ láng lẩy, tóc kẹp nhổng toàn nơ to, không mua vé cũng không thảy vòng, thả chuột, túm lại nhìn Bá, bình luận. Một đứa nén hết tình cảm để thốt ra một câu : "Thằng lô tô mới này đẹp hơn thằng trước, há!" ... một cách lạnh lùng, công minh, mấy đứa kia, mừng rỡ vì đã có kẻ mở đường hộ, khen Bá giống ca sĩ X., cách cầm micro cũng giống, chỉ tội hát không hay bằng!
    ... Đã hai đêm ra rả, bây giờ thì mưa. Trên bãi đất, không ai đem ny-lông ra phơi, tự nhiên cũng thấy buồn. Những chàng lô tô mặt thẫn thờ ngái ngủ, ngồi bó gối im lìm. Bá rủ : "Ăn bún bò, tụi bay!" và tất cả kéo nhau đi, dưới mưa nhỏ, ra cái quán khuất một bên vạt tre.
    Quán ẩm ướt, nền đất đầy rau sống vương vãi, mấy con chó lông lem nhem, lom khom dưới gầm bàn nhặt thức ăn thừa. Một đứa con gái với một cái giẻ con vắt vẻo, đến lau bàn qua quít rồi hỏi : "Các anh dùng gì?" Đó là một đứa con gái ngăm đen, đeo đầy vàng: những trăng, sao, tim, hoa đeo đầy tai, đầy cổ. Nó cỡ mười sáu, chắc nịch và đầy vẻ trong sáng với má lúm đồng tiền một bên sâu thăm thẳm. Bá cười, đứa con gái cúi đầu, bóp cái giẻ, chờ đợi và cũng cười. Ngay lập tức, cả lũ đều hiểu ra và khi con bé đi khỏi, một đứa nói nhỏ với Bá : "Thằng này khốn nạn thật, đi đâu cũng vậy!", một đứa khác xúi: "Cua nó đi mày!" Bá cười, vẻ khiêm tốn thật lão luyện : "Thôi, việc đó để tụi mày, tao không có năng khiếu". Một người trong quầy gọi: "Thảo! Tính tiền bàn chú Tư" và con bé vừa cười mủm mỉm vừa đi nhanh về phía mấy ông lão đang xỉa răng đợi trả tiền, mấy anh lô tô nhìn theo, nói nhỏ : "Nó tên Thảo!"
    2. Thảo rủ Hằng : "Ra chợ mua sổ chép bài ca với tao không ?". Hai đứa chở nhau trên cái mi ni vàng, mỗi đứa một cái kẹp voan rủng rỉnh trên đầu. Ngang qua bãi lô tô, cả hai đều kín đáo liếc vào rồi vội vã quay đi sau khi đã bắt gặp cái nhìn của anh chàng Bá, ngồi trên thành rạp, cởi trần, trắng như một cục bột. Im lặng một lúc, rồi Hằng nói : "Mấy thằng lô tô đi nhiều mà trắng thấy ghê há!". Thảo cũng bảo : "ờ thấy ghê" rồi cả hai đều thầm nhận xét rằng, chẳng ghê chút nào cả, cái anh chàng đẹp trai ấy, so với bọn con trai quê đen nhẻm ở đây.
    Ở chợ, hai đứa vào hàng tạp hoá, xin coi mấy loại sổ tay, rồi cuối cùng, cả hai cùng reo lên hoan hỉ khi thấy lần đầu tiên ở cái chợ quê chuyên bán rau này xuất hiện một loại sổ tay kiểu cách, giấy ca rô trắng muốt, cứ vài trang lại in một cụm hoa cỏ, màu có lem luốc một tí nhưng thế là văn minh lắm rồi, văn minh không ngờ. Hằng hỏi : "Mày có cuốn bài ca rồi mà!" - "Tao chép lại cuốn khác!", rồi Thảo mua thêm một cái băng-đô to bản, tím lịm. Hằng mua một đôi bông tai mũ, hình trái tim, màu hồng, rồi lại chở nhau về, ngang qua bãi đất lại liếc vào, lần này thì không thấy Bá đâu, hai đứa con gái giả vô tư, rủ nhau : "Tối nay đi hội chợ chơi, mày!"
    3. Vài tháng một lần, hội chợ lô tô, xổ số lại tạo cơ hội cho người ta mơ màng một chút ở cái xó xỉnh quê mùa này. Những ngày ấy, trẻ con, thanh niên ăn cơm chiều qua quít, rồi trẻ con thì ăn mặc sao cho thoải mái nhất, người lớn ăn mặc sao cho cầu kỳ nhất, vội vã hay lững thững, đổ về bãi đất trống. Micro liếng thoắng, đèn sáng trưng, người ta chơi thì ít, xem thì nhiều; người ta tìm kiếm nhau, nói những câu bóng bẩy và e thẹn. Trẻ con bỏ ra một đống tiền lẻ để thu về một gói mì tôm, vài cục xà bông không thơm, không hôi, sung sướng chạy ve vẩy khắp nơi.
    ... Thảo hỏi : " Anh từ đâu về đây?", Bá nói tên một vùng đất xa lạ, rồi khoe: " Anh đi đây đi đó nhiều lắm!", xong cúi mặt, đúc kết bằng một vẻ nghiêm túc: "Nghề này mà!".
    Sổ bài hát, Bá đã chép cho Thảo hai bài, chữ ngả như gió thổi và thích viết hoa là viết, Hằng đã xem và suy diễn: " Người vậy là lãng mạn lắm!". Thảo nói lại điều này với Bá, rồi nhìn dò xét, Bá ra vẻ đăm chiêu, xa xôi rồi buồn bã nói: " Ngày xưa thì có thật, nhưng bây giờ hết rồi!", xong nói sang chuyện khác. Thảo thấy, thật khác hẳn với bọn con trái ở đây, ông ổng và thô lậu, anh chàng Bá này kín đáo và kỳ bí, anh viết thư lại hay nữa. Những cái thư ngọt ngào, đọc xong chỉ thấy ngọt ngào, cũng chẳng rõ có yêu hay không, tuy vậy vẫn ngọt ngào.
    Còn Bá, Bá thấy Thảo cũng dễ thương, dễ thương và dễ tính như rất nhiều cô gái anh gặp, ở những vùng khác nhau, những cô gái dễ tin và hay ngộ nhận, Bá chỉ cần tung ra một nắm câu ỡm ờ là tình yêu đã có thể nảy mầm nhanh như cỏ.
    Đường tre vắng vẻ và hoa dại không hương sắc lấp ló thật tội nghiệp. Bá nói : "Tụi mình quen nhau mấy ngày rồi ha?"- "Sáu ngày, từ bữa em ra hội chợ, anh đưa em gói kẹo pháo đó, thứ ba, phải không ?". Bá"ờ", cúi đầu, tay nắm cổ xe mi ni của Thảo: "Mai anh đi!" và anh ta hẹn Tết sẽ về lại đây. Tết sẽ có thêm vài trò mới, rồi em sẽ thấy, anh nói, rồi đưa Thảo một cái thư gấp cầu kỳ, bảo về nhà hẵng xem, rồi anh nói, vẫn buồn buồn, nói nhiều lắm, nhưng không dặn Thảo phải đợi gì cả, không dặn nhưng Thảo thấy mình không đợi không được. Thảo nói : "Tết về, chắc anh không nhớ ra em?". Bá cười: "Sao quên được!". Trời sụp tối nhanh chóng và cây cỏ bắt đầu toả hương ngai ngái hoang dã của mình, và Bá thấy, cái khung cảnh này đã gặp ở đâu rồi thì phải, ở đâu thì quên mất rồi!
    4. Đoàn lô tô chưa thấy quay trở lại, cũng không thấy thư từ của ai nhắn nhủ gửi về. Bãi đất trống đã bắt đầu có người tới đo và cắt bán, những gưong mặt xa lạ từ đâu đổ về, họ xây nhà nhanh như đổ bánh, những căn nhà tô đá rửa giống nhau, chen chúc cạnh nhau.
    Trong xóm, nhà nào cũng có xe cub, mấy thằng con trai đã có thể tự tin mặc quần ông già, rồ máy giữa trưa, đi ra đầu hẻm cũng bằng xe, đến ăn tô bún cũng đi xe... Những vườn rau nhỏ bán đã gần hết, cái hốc hẻo lánh này dần dà cũng đông vui. Bãi đất trống-khu đất hội chợ- cũng dần dần thu hẹp lại. Một sáng, đứng tựa cửa quán, Thảo nghĩ, giá bây giờ Bá quay trở lại, cái đoàn lô tô của anh chắc sẽ lúng túng, rồi đi. Mà đi đâu? ở đâu cũng thế cả thôi, ở đâu cũng hết chỗ rồi, tội nghiệp! Và Thảo mở những cái thư cũ ra xem, vẫn thấy ngọt ngào, vẫn thấy vui, chỉ không thấy rằng, hoá ra, mình đang hồn nhiên thực hiện cái thiên chức của phụ nữ là : Chờ đợi.
    12.92 Phan Thị Vàng Anh
  2. nhl81

    nhl81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2005
    Bài viết:
    445
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn A nhé. Tặng hoa nè
  3. Petitmoineau

    Petitmoineau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/08/2006
    Bài viết:
    98
    Đã được thích:
    0
    Cảm ơn Ande nữa nhé. Nhà văn Vn đương đại yeu thich nhất của mình đấy nhưng những cái mới đọc gần đây nhất vẫn chỉ giới hạn ở "Nhân trường hợp chị thỏ bông" và vài truyện ngắn rải rác trên các báo.
  4. nhl81

    nhl81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2005
    Bài viết:
    445
    Đã được thích:
    0
    Kịch câm
    **********​
    1.
    Ừ đây - nó nghĩ - mọi thứ tự, luật lệ đã thay đổi!
    Với mẩu giấy này, nó trở nên một người có vai vế trong nhà, nó sẽ được tự do, tự do tiếp bạn bè vào chiều tối, thoải mái mà đi chơi và nhất là, nó đã có cái cớ để mà đổ tội cho những sai lầm nếu có, sau nàỵ
    Tờ giấy thông hành ấy nhỏ bằng hai bao diêm, một cạnh xé lam nham, vội vã, một lời hẹn yêu đương của một người già quên tuổi tác và nghĩa vụ - bố nó với một người nó không hề có một tí khái niệm nào về tuổi, đẹp, xấu, nghề nghiệp... hoàn toàn lù mù, chỉ hiểu bố nó tha thiết viết: "Em!"...
    2.
    Như một con rắn, nó trườn đến một hàng photocopy thật xa, ở đấy chắc không ai biết, nó là ai; hai tờ, một tờ đút túi, một tờ nó lẳng lặng đưa cho ông bố đang ngồi đọc báo, và cười, một cái cười ngang hàng, không phải của con giành cho bố. Một trật tự mới ngay lập tức được thiết lập, bố nó cầu khẩn và căm thù nhìn nó, cái đứa lầm lì nhất trong bốn đứa đây, cái đứa ít nhìn vào mắt ông nhất trong nhà, hầu như hai bố con không trao đổi gì ngoài những câu chào, tiếng mời cơm, đứng trước nó, ông thật sự thấy mình là chủ gia đình, một gia đình của trăm năm xa xưa mà trong thâm tâm ông đàn ông nào cũng ao ước... Bây giờ, nó đứng trước ông, điệu bộ rất lễ phép, cũng lẳng lặng không một lờị.. chỉ có cái cười nhẹ nhàng và đôi mắt... Ông bố hiểu ra, nó thỏa mãn biết bao nhiêu, nó đã căm hờn ông biết bao lâụ..
    3.
    Bà mẹ không biết gì, chỉ thấy các con mình ít bị la mắng hơn, những bữa cơm dọn trễ một chút cũng không sao, đứa nào chậm chân ngồi vào trễ một chút cũng không sao, ông chồng đăm chiêu, thờ ơ và dễ tính... lẫn lộn.
    Và nó, nó không sử dụng luôn cái quyền của "giấy thông hành" ấy, vẫn chưa thằng bạn trai nào được tiếp vào chiều tối, vẫn chưa một buổi đi chơi nào quá lâụ.. không phải vì nó còn sợ, chỉ đơn giản là nó chưa quen được tự do, chỉ thế thôi, chẳng có tí ti đạo đức nào trong việc chậm trễ này cả. Rồi nằm dài một trưa, nó nghĩ: "Hay thật, mình bây giờ lại còn đạo đức hơn bố mình! Bây giờ, bây giờ mà đi chơi nhiều, đàn đúm nhiều thì lại hư bằng nhaụ Mình càng nghiêm trang, õng cụ càng hãi, như vậy đã hơn".
    4.
    Và như thế, hàng ngày, nó quan sát lại mọi việc trong nhà. Nó nhìn bố nó, ông hiệu phó của một trường cấp III. Lầm lũi với cái cặp đen, gầy gò, mực thước trong bộ quần áo phẳng phiu đến lớp, nó cười thầm: "Đi giảng đạo đức đây!". Nó quan sát mẹ nó say sưa trong cái trò rửa thịt, nhặt rau, nhìn bà mẹ hồn nhiên giữa mấy đứa con lít nhít, đứa nào cũng giống mẹ, mắt lồị Nhìn mấy mẹ con quấn lấy nhau trong góc bếp, nó nghĩ: "Chẳng cần có bố cũng sống được!". Nhưng khi ngồi vào bàn ăn, nhìn thấy mẹ mình yêu thương và sợ sệt gắp thức ăn cho chồng, nó tủi thân một cách trẻ con: "À cái đám mắt lồi chúng mình đây được yêu thương chẳng qua vì chúng mình là sản phẩm của ông bố nàỵ Mẹ yêu bố gấp đôi tụi mình. Nếu bây giờ có một đám cháy, cho mẹ cứu một người duy nhất, hẳn là mẹ sẽ cứu bố ". Rồi như thật, nó kín đáo liếc các em nó, liếc những đứa bé sẽ bị bỏ rơi trong đám cháy thử thách mà nó đã tưởng tượng rạ.. Rồi bình tâm trở lại, nó nhìn bà mẹ rất đơn giản ấy mà thương hại: "Thôi giấu đi là vừa, mẹ hiền quá chắc cũng chẳng làm gì được, và ngây ngô quá, chưa chắc đã khổ, chuyện lớn thành trò đùa, bố sẽ quen đi và sẽ không ai sợ ai trong cái nhà này cả ". Vậy là nó tiếp tục ăn, mẹ tiếp tục gắp, bố tiếp tục lặng lẽ, các em nhai nuốt hồn nhiên, ngày này qua ngày khác, không ai biết có hai người khổ sở trong nhà.
    5.
    Nó khổ sở trong nhà, cũng chẳng nghĩ đến việc thù tiếp bạn bè hay chơi bời khuya khoắt nữạ Cảm thấy mình giống một tên "thừa nưóc đục thả câu", nó cụt hứng. Ngồi lặng lẽ bên một đám bạn ồn ào, nó nhìn hàng dầu gió bên đường thả quả như những cái trực thăng tí hon và nghĩ: "Khốn nạn thật, nếu không có chuyện bẩn thỉu kia thì bây giờ phải đạp bán sống bán chết về nhà rồi!". Và một tối, một thằng bé chưa biết luật lệ của cái gia đình nghiêm khắc này, cao hứng ở lại đến 9 giờ, cười cười nói nói, tay chân múa may không biết sợ. Ông bố, theo thói quen cùng một chút tự ái thua cuộc đi ra rồi bất lực đi vàọ Tự nhiên, nó thấy cái miệng thằng bé sao mà rộng, tay chân sao mà như hề, và nó cáu lên một cách vô lối, nghĩ rằng từ đây mọi trò vui của mình có được chẳng qua cũng nhờ một trò đáng khóc.
    Rồi nó tiếc, phải như không nhìn thấy tờ giấy quỷ quái ấỵ Nhặt được, tưởng rằng từ đấy sẽ có gan nhìn thẳng vào mắt bố nó khi cần thiết, hóa ra càng ngày càng ít dám nhìn, nhìn nhau, mắt hai bố con dại đi, và nó ngượng.
    Cay đắng, nó nghĩ đến cuộc sống gia đình đen tối mà nó sẽ phải có. Nó sẽ không được hồn nhiên trời phú như mẹ nó. Chồng nó, dễ gì có được cái địa vị mực thước như bố nó, có nghĩa là cái gia đình tương lai ấy càng dễ tan nát gấp trăm lần cái tổ ấm bây giờ. Nghi ngờ, nó gác lại những kế hoạch yêu đương; sợ hãi và giễu cợt, nó nhìn những thằng bạn đi bên cạnh như nhìn những tên lừa đảo còn ẩn mình trong lá ủ!
    Và ông bố, mỗi sáng lầm lũi trên đường đến trường, ông nghĩ ra mọi cách để giải thích tại sao lâu nay mình ít nói trước học trò, ông sợ rằng một ngày nào đó, rủi như chuyện này vỡ lở, những cái áo dài nết na kia, những bộ đồng phục ngoan ngoãn kia sẽ làm thịt ông như trả thù một nhà đạo đức giả hiệu bao lâu nay vẫn áp bức chúng nó. Rồi lo sợ, ông miên man nghĩ đến bà vợ và những đứa bé ở nhà như một án treo lơ lửng trên đầu, và co dúm người lại, ông vô tình tập trước cái tư thế sẽ thay cho tác phong uy quyền xưa naỵ
    Nước mắt người và xe nhoè nhoẹt, ông nghĩ đến đứa con gái lớn: "Mình mất nó thật rồi! Nó có rơi xuống bùn mình cũng không đủ tư cách mà kéo nó lên; thò tay xuống kéo, biết đâu nó sẽ trừng mắt rồi tự nguyện lăn luôn xuống đáy!". Rồi tủi thân của một người già, ông loạng choạng đạp xe giữa cây cỏ hai bên đường: "Mình chết đi nó có khóc không?". Lẩn thẩn, như mơ, ông tưởng tượng ra một đám tang, một bà vợ, mấy đứa bé mịt mù khóc cùng nhang khóị Chỉ một đứa, nó lặng lẽ đứng bên quan tài, một đứa con gái lầm lũi và cương quyết, như đang canh gác một phạm nhân.
    3 - 1993 P.T.V.A
  5. Petitmoineau

    Petitmoineau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/08/2006
    Bài viết:
    98
    Đã được thích:
    0
    Bộ phim được nhắc tới đây là "Trong phường Thành công có làng Thành công"., hiện có tại Thư viện Đa phương tiện của L''Espace, 24 Tràng tiền, không biết có bác nào acces được không..... Xem thú vị không kém gì đọc sách của V.A.
  6. Petitmoineau

    Petitmoineau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/08/2006
    Bài viết:
    98
    Đã được thích:
    0
    Bộ phim được nhắc tới đây là "Trong phường Thành công có làng Thành công"., hiện có tại Thư viện Đa phương tiện của L''Espace, 24 Tràng tiền, không biết có bác nào acces được không..... Xem thú vị không kém gì đọc sách của V.A.
  7. nhl81

    nhl81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2005
    Bài viết:
    445
    Đã được thích:
    0
    Lũ vịt trời
    PTVA
    ************​
    Chuyện đã hơn chục năm nay, nhưng lão Khổ còn đau mãi tới giờ. Vụ lúa chiêm năm ấy càng về cuối càng thuận. Ðúng vào kỳ lúa đỏ đuôi, vòm trời thật nở nang. Nắng đến sướng. Nhờ ông trời cứ kéo cái nắng cho qua kỳ thu hoạch. Chỉ cần lôi được hạt lúa về nhà, còn sau đó chuyện phơi phóng là chuyện vặt. Từ đồng trên xuống đồng dưới lúa tràn cả lên bờ. Mỗi lần vác cuốc làm phép đi thăm đồng, lão Khổ lại khấp khởi mừng. Thật là trời giúp lão. Ðúng vào năm lão nhiều công nhất thì được mùa.
    Mà để có cái ngày sướng con mắt chẳng riêng gì lão, có gần ngàn dân làng Cổ đã từng héo gan, héo ruột. Những ngày ấy ruột lão tím bầm. Không biết còn mất mùa đến bao giờ. Nhổ lên cắm xuống có đến vài lượt mà vẫn chỉ thấy đất nổi váng. Mặt ruộng tím tái, se sắt như mặt người chết cóng. Nhiều người khôn ngoan khuyên lão sắm sọt chạy chợ. Lão lý lại :
    - Hạt thóc chỉ có từ đất. Ai cũng chạy chợ cả thì rồi có lúc đeo vàng mà chết đói! Lão uý lạo vợ con, không có được chân trong, chân ngoài. Cả đời ông đời cha cho đến nửa phần đời lão chỉ thèm có đất. Vậy mà lúc có đất ở trong tay, lý gì lại không đào xới để thành giầu.
    Bây giờ thì mọi vận hạn đã qua. Lão Khổ đứng giữa đồng lúa hít căng ***g ngực hương thơm ngầy ngậy ngòn ngọt, tâm hồn sảng khoái cực độ. Lão vốn không tin vào trời. Chẳng qua còng lưng ra mà đánh vật với dất, đào xới miếng ăn từ đất chứ cứ ngồi đấy chờ đến số, có mà giã họng !
    Là một "lão nông tri điền", lão Khổ nhìn ngay ra công việc trước mắt. Lão tong tả vác cuốc về nhà, rửa ráy tươm tất rồi đi về phía nhà Bí thư Ðảng uỷ. Từ ngày Toản trúng bí thư, lão đâm ra ngại. Ðành rằng chính lão dựng cơ nghiệp, lo vợ, con cho Toản. Nhớ lại cái đận dắt Toản đi hỏi vợ mà cực. Ðến chỗ nào người ta cũng chê Toản xấu tướng. Cuối cùng lên búi, lên khóm do tài của ông mối. Rồi sòn sòn vợ Toản lòi ra một lũ con. Khi chưa trúng chân cán bộ nhất xã, đôi lúc Toản cũng ục vợ như thường. Cái thân loắt choắt ấy mỗi lần nhảy lên đấm vợ, lại ngã, thật đến tức cười. Vài lần vợ Toản mặt sưng húp dắt con đến bắt đền lão Khổ. Thỉnh thoảng đi đồng về lão lại tạt vào cho thằng cu nhớn củ khoai, bắp ngô, hay chỉ con muỗm lão vồ được.
    Khi Toản lên làm bí thư, lão Khổ cũng cắt luôn cái sự đi lại. Chẳng phải lão sợ miệng thế gian dè bỉu "Thấy người sang bắt quàng làm họ", mà từ lâu trong tâm sự của lão, lão giận Toản. Giận vì anh ta tham danh hám vị. Lão thừa biết rằng cái xã này vào tay Toản sẽ nát như tương. Lão thừa biết rằng ông chủ tịch Ðặng mới là tay đáng mặt gian hùng ! Ông ta đạo diưn cán bộ huyện dựng Toản lên để làm lá chắn cho ông ta. Sau lưng Toản, ông Ðặng khoắng tay vào bị, vơ vô tội vạ. Vụ mất chục triệu đồng xây nhà máy đường biến mất, đã tưởng ông Chủ tịch đi tù. Rồi ông ta chẳng làm sao, lại nuốt nốt cả tám máy bông sen. Dân tình phản đối thì ông chủ tịch tặc lưỡi : đây là chủ trương của cấp uỷ. Mình tôi quyết định thế nào được.
    Ngay như cái làng Cổ này, thật truyền đời bát cơm đầy có ngọn. Thế rồi núp dưới bóng Toản, một lũ ma cô, cường hào ngóc dậy, vừa phá vừa vơ vét. Ðã thế không ai được nói lên sự thật. Một đội thanh niên do ban chỉ huy đội lập ra, chủ yếu dùng vào việc trả thù người đám đấu tranh. Nhẹ thì có "Cây con" gì họ triệt bằng hết. Nặng hơn hoặc "tái phạm" có thể đang tự dưng như nhà động mồ động mả. Bếp, chồng lợn... cứ cháy đùng đùng mà chủ nhân đành chết cay chết đắng vì biết trước không thể tìm ra thủ phạm. Có lúc chính lão Khổ phải uất ức kêu lên : Dân đen còn khổ đến bao giờ ?
    Ðang bước hăng hái lão Khổ đâm ra lưỡng lự khi sắp rẽ vào ngả nhà Toản. Vừa hay lúc lão đang loanh quanh thì Toản gọi to :
    - Bác Khổ ! Mời bác vào nhà. Gớm, bác khinh con cháu quá đấy.
    "Tao tha không nhổ vào mặt mày chứ khinh". Lão Khổ thấy nghẹn ở cổ nhưng cố cười :
    - Tại sợ ông bí thư mất việc. Các lão già chúng tôi thường hay lẩm cẩm.
    Lão đưa mắt canh chừng hai con chó đang đỏ mắt vì bị xích. Lão khép nép ngồi xuống chiếc ghế tựa Toản tự tay kéo ra. Vừa rót tuần trà đầu Toản vừa hỏi.
    - Bác xem lúa má năm nay thế nào ?
    Lão Khổ thừa biết Toản muốn kể công ! Chẳng qua anh ta chưa nói thẳng rằng : "Lão thấy chúng tôi cũng làm ăn được đấy chứ". Cứ nhìn mặt anh ta thì biết. Nó mở bung ra, mãn nguyện đến hợm hĩnh. Lão thì muốn hắt toẹt chén nước xuống nền nhà rồi đứng dậy. Nhưng nhớ đến mục địch của cuộc "viếng thăm" lão gượng cười, đáp :
    - Có vẻ được mùa đấy... nhưng - Lão cố ghìm tiếng thở dài.
    - Nhưng sao hả bác ? Toản vờ ngạc nhiên - chỉ cầu trời khô nỏ cho ba tuần nữa, mà lúa thì bác thấy đấy...
    Toản ra vẻ chăm chú chờ lão nói. Lão Khổ lại thừa biết rằng chẳng phải anh ta sẽ động não suy nghĩ trước ý kiến của lão. Anh ta chuẩn bị xổ ra hàng tràng tiếp theo những giảng giải về cơ giới vận đất, về nhân tình thế thái, như một thứ bệnh. Giọng lão Khổ nhỏ xuống.
    - Kể cả ba giờ vẫn cứ mất. Toản cười hết cỡ miệng.
    - Các cụ thật khéo cẩn thận. Thôi được, theo bác thì nên thế nào ?
    - Tôi đến chơi anh cũng chỉ vì phải nói với anh vài nhời. Các cụ đã dạy "xanh nhà hơn già đồng". Trời thì nay nắng mai mưa, chẳng biết thế nào. Tôi xem số chân ruộng sớm đã vàng cả rồi, các anh nên có kế hoạch cho bà con kéo trước về được ít nào chắc ít ấy. Vả lại để ba tuần nữa thì gặt không kịp rụng.
    Nét mặt Toản càng giãn ra như người nắm chắc bí quyết vấn đề. Với tay xé tờ lịch, Toản nói bằng giọng tự hào :
    - Huyện định tổ chức tham quan xã ta. Thành phần là tất cả các cán bộ chủ chốt của mấy chục xã trong địa bàn huyện. Rồi các cơ quan huyện... theo kế hoạch thì nửa tháng nữa họ đến - Toản nhìn lão Khổ tủm tỉm - Cháu muốn để các nơi họ thấy nguyên vẹn "kết quả làm ăn" của xã ta. Với lại chính anh Bùi cũng gợi ý như thế.
    "Kết quả" vì ông Bùi chịu trách nhiệm về xã này chứ gì ? Vì ông ta trót dựng lũ các anh lên, cứ lẹt bẹt mãi sợ lung lay đến ghế ông ta phải không ? Lão Khổ muốn quát một thôi cho hả khi Toản nhắc đến cái tên Bùi. Một ông quan huyện chính cống ! Chỉ lạ là mỗi bận kỷ luật ông ta lại tót lên cao hơn một bậc.
    Tự dưng lão Khổ thấy vô duyên. "Thây kệ chúng mày ! Ðến lúc dân người ta đào mả chúng mày lên, đừng có trách".
    Nhưng lão cấm chỉ vợ và con cái không được tham gia đón rước gì ráo ! Có cái thói đâu chưa làm đã lo không thổi được nhau lên, ở đâu cũng "tốt đẹp" mà dân cứ đói nhăn ra thì không thấy ai hỏi. Còn ba ngày nửa đoàn thăm quan đến xã. Loa đài gọi ơi ới, ỏm tỏi cả lên. Cửa hàng mua bán mang hàng vào tận làng Cổ, là điều xưa nay chưa từng thấy. Các loại cán bộ tự nhiên đâm ra tận tuỵ, hết lòng vì dân. Chẳng ai một lần chịu ngước trông trời. Ðến khi cơn gió xoáy giật tung mấy băng khẩu hiệu thì chính lão Khổ thất sắc ! Ðánh nhoàng một cái bầu trời như toàn bằng đá ! Mà đá thật. Ðá trút xuống ào ào, khua lên mái ngói như sắp đổ sập tất cả. Ðá đổ xuống thành lớp, dồn đống lại. Thôi thì đủ thứ kêu gào. Trẻ con nhảy lên vì được ăn đá, dùng đá xát lên mặt rồi xuýt xoa. Người nhiều công điểm như lão Khổ thì ngất đi được. Qua làn đá quất ràn rạt, hàng trăm cặp mắt thất vọng, căm tức hướng về phía những thửa ruộng đầy ắp, đang nát bét dưới tai vạ trời giáng !
    Chỉ chờ dứt mưa, lão Khổ đâm bổ ra đồng. Hỡi ôi, lão úp tay lên mặt khóc rưng rức. Còn đâu là mùa màng nữa. Thay cho màu vàng óng là màu xám xịt của những cọng rơm ngấm nước rối vào nhau, đâm chổng lên trời như bị ai vò. Vạch gốc rạ, đưa tay sờ thấy một lượt thóc rải xuống bùn, tưởng ruột gan bị đâm bị rạch bằng gai.
    Trong làn nước mắt cay đắng, lão Khổ thấy nếp nhà năm gian lão dự định xây bằng thóc thu hoạch vỡ tan như bong bóng.
    Hôm sau lão Khổ đổ sập xuống. Có lúc mê sảng lão quát váng nhà :
    - Miếng ăn kề mồm còn để mất. Ngu ! Ngu !
    Nhưng lão Khổ không được phép ốm lâu. Những lúc lăn lộn trên giường lão vẫn vắt óc tìm kế cứu vãn tình thế. Vốn là người phải vật lộ, giành giật miếng sống từ lúc bé, không dư gì lão đầu hàng hoàn cảnh. Tới ngày thứ ba, cảm thấy đã đi lại được, lão bảo thằng Bình :
    - Chuẩn bị mai đi với tao.
    - Ði đâu hả thầy ?
    - Cứ biết đi, không phải hỏi.
    Lão gọi bà Khổ cũng đang rầu rĩ hỏi xem lưng vốn còn được bao nhiêu. Lão nhẩm tính rồi quyết định bán đi chiếc nhẫn vàng hai đồng cân. Không ai dám gàn lão, từ tờ mờ đất bố con lão đã lọc cọc đạp xe về phía Thá. Không ai biết lão ốm gần chết.
    ở Thá lão Khổ thấy không ăn nhằm gì, lại ngược Thường Tín. Rồi thấy bố con lão trở về, tay năm tay mười ra đồng thu hoạch lúa với mọi người. Ðang giữa mùa mà làng Cổ như có dịch. Mặt ai nấy rầu rĩ ai oán. Các nơi khác họ cũng mất nhưng chỉ mất gọi là. Ða phần diện tích lúa sớm được họ lôi về nhà trước khi có mưa đá, chỉ riêng làng Cổ đau nhất bởi chỉ độc chân ruộng lúa.
    Còn vài buổi nữa mới xong vụ mà lão Khổ đã có trong tay ngót ngàn con vịt thóc. Bố con lão quây vịt chật cả ao sau nhà. Bây giờ mọi người mới ngẩn ra phục tài lão. Rồi họ cũng bắt chước lão nhưng đành phải ăn giá đắt. Chưa đầy tuần sau, hàng vạn con vịt đã có mặt tại làng Cổ. Nhưng lão Khổ tính rồi. Hàng vạn con cũng chẳng thấm gì ! Lão sẽ đuổi riết độ một tháng là có vịt thịt bán. Tính thật khiêm tốn mỗi con lão cũng vớt được dăm đồng. Có bốn ngàn tiền lãi trong một tháng, lão sẽ giật lại từ thiên tai hai tấn thóc. Ðứa nào không tính được thế là ngu.
    Ngay hôm sau lão Khổ hăm hở đến nhà đội trưởng. Lão sẽ tự giác đếm mức thuế đồng cho từng con vịt. Như mọi năm Ban quản trị vẫn định mức thu mỗi con vịt năm hào. Năm nay lão Khổ định một đồng. Thế là đằng nào cũng có lợi mà lão có được miếng ăn, cũng nhẹ cái lòng với những người không tính được như lão.
    ấy là lão mới định ra thế trong đầu. Lão đưa tay lần lần ngàn bạc trước khi qua cổng nhà đội trưởng. Ðội trưởng đội sản xuất mới ngoài ba mươi đã có dáng cụ non. Mặt anh ta dài thuồn thuỗn, lồi lõm như mặt ngựa. Cái lưng cong xuống ở đoạn vai cộng với cặp mắt đỏ ngầu, cặp môi trư xuống nom anh ta có tướng mạo thật gớm ghiếc. Lão Khổ chưa kịp mở miệng đã bị cái giọng xấc lấc của đội trưởng ghìm chân ở cửa.
    - Ông ở ngoài ấy chờ tôi xong việc đã.
    Lão Khổ nhẫn nhục, ngồi xổm trên bậc tam cấp, mắt mệt mỏi nhìn cơ ngơi của anh đội trưởng. Mang của công về đắp cho cá nhân quả là nhiều cái tiện. Cái tiện thứ nhất là cứ làm phứa đi, hỏng chỗ nào, đập ngay ra làm lại cho kỳ cho vừa ý.
    Hầu như anh nào lên làm cán bộ làng Cổ cũng thế. Chỉ vài năm là đập nhà xây lại. Nhà trước cao hơn nhà mình thì xây hai tầng để được đứng trên đầu thiên hạ ! Ông bí thư chi bộ đua với ông Trưởng ban tài chính. Cuối cùng cơ ngơi của anh đội trưởng mặt ngựa này vẫn bề thế hơn cả.
    Lão Khổ hẩy mép chua chát. Lão sờ tay vào bọc tiền, có ý sốt ruột. Trong khi đó đội trưởng đang ê a cộng nhẩm, nước dãi xều cả xuống áo. "Ba ba là chín... tổng số năm trăm bảy mươi xuất a a... vị chi là..." Anh đội trưởng toát mồ hôi tính vẫn sai. Lão Khổ ngứa tay vạch xuống đất nhân thử, lão lấy cớ xán lại :
    - Vị chi là năm ngàn một trăm ba mươi...
    - Cái ông này... khiến gì ông ! Mà ông đến có việc gì thế ? Lão Khổ chớp thời cơ nói một mạch ý định của lão về chuyện thuế đồng. Ðể chứng minh thiện ý của mình, lão rút phắt cuộn tiền.
    - Anh nhận luôn cho ta chứ ?
    Ðội trưởng nhăn mặt yêu cầu lão nói lại, chầm chậm thôi. Nghe xong lần thứ hai, anh đội trưởng ngẩn mặt ra, miệng lẩm nhẩm như phù chú ma quỷ rồi bỗng quắc mắt đứng dậy.
    - Tôi nói cho ông biết thuế đồng năm nay sẽ là mười đồng một con... Nhưng tất nhiên làm việc gì cũng phải có sự bàn bạc. Ðầu óc nông dân các ông chỉ biết tính lợi cho mình. Thóc của chúng tôi có đến hàng trăm tấn rải ngoài ruộng, ông bảo nộp một đồng mỗi con vịt, có hoạ chúng tôi ngu hết cả, chỉ mình ông khôn. Tối nay sẽ cho thông báo trước đội : Nhà ai có vịt, ngỗng... phải nhốt ở nhà trước khi có nghị quyết Ðảng uỷ và chi bộ. Chứ người ta nghĩ như ông á, thà giải tán hợp tác xã cho xong. Thế thôi, ông về đi để tôi làm việc.
    Cổ anh đội trưởng vươn ra, chĩa cái khuôn mặt lồi lõm về phía lão Khổ "Cái thằng ******, ngu như bò ấy" ! lão Khổ rủa thầm. Lão bước nhanh qua chiếc cổng đắp nổi mấy con rồng. Tự dưng nước mắt lão ứa ra, chảy thành vệt xuống cổ áo.
    Gần nửa tháng sau, qua ngót chục cuộc họp, lấy biểu quyết, vạch kế hoạch thực hiện, có cả quy kết nhau ác liệt về quan điểm, mức thuế đồng mới chính thức được ấn định : vịt thóc bẩy đồng trên con, vịt đẻ bằng ngỗng thóc, tám đồng một con ; ngỗng đẻ : chín đồng một con. Những gia đình có gà có người chăn dắt phải nộp ba đồng một con. Hợp tác xã miưn thuế cho số gà ăn tự do của gia đình ven đồng. Các bậc tham mưu lọc lõi tính thế này : Lấy số thóc bình quân thu được của vụ chiêm (năm ngoái) trừ đi số thóc thu được của vụ này ra số thóc bị mưa đã quất rụng xuống ruộng. Ðem số thóc đó qui thành tiền theo giá chợ đen. Lấy tổng số tiền mỗi con vịt con ngỗng phải chịu. Như vậy mặc dù bị mưa đá, song do sự sáng suốt của lãnh đạo nên hậu quả của thiên tai được khắc phục nguyên vẹn.
    Sau khi giải thích cho xã viên như vậy, đội trưởng hùng hồn tuyên bố : đội đã đề nghị chiếu cố những gia đình chăn nuôi, rút đi mười lăm phần trăm mức thuế, chứ đằng thẳng ra mỗi con vịt phải mười đồng. Các chủ hộ có vịt, ngỗng ngay ngày mai nộp tiền cho đội. Ai cố tình chúng tôi không thiếu biện pháp.
    Ngay lập tức một danh sách đội bảo vệ được lập và xướng tên trước đội : mười lăm thanh niên to khoẻ, giỏi võ có nhiệm vụ không để một con vịt nào trốn thuế được phép xuống đồng. Tan họp về, lão Khổ không sao chợp mắt được. Ngoài ao, đàn vịt háo thóc kêu loạn cả lên. Buổi chiều lão đã đứt ruột đổ xuống năm cân thóc nhưng chẳng thấm tháp gì. Lão quyết định phải gặp lại Toản, hỏi cho ra ngành ra ngọn. Sao lại có chuyện đánh vào người sản xuất một cách phi lý thế này ? Với mức thuế bảy đồng, lão có chăn thật giỏi, chịu đem bán chợ xa cũng còn lỗ trầy lỗ trật. Hoá ra đang dưng lão lại chuốc hoạ vào thân.
    Rắp tâm cả đêm, sáng ra lão Khổ đến nhà Toản lúc ông bí thư vừa dậy. Nghe lão trình bày. Toản cười nhạt lắc đầu.
    - Cháu cũng chẳng có quyền đi ngược ý kiến của tập thể. Bác có thể tin thế này : Tập thể luôn luôn làm những điều sáng suốt, có lợi cho mọi người. Bác xem tiền thuế có vào túi riêng ai đâu, lại của các bác cả đấy chứ đi đằng nào.
    - Này, tôi muốn biết cái "tập thể" ấy là những ai ? Lão Khổ uất quá nổi xung.
    - Có những vấn đề bác chỉ biết là mình cần phải chấp hành, thế là đủ và cháu mong bác làm gương cho người khác. Chả gì...
    Lão Khổ nhếch mép khinh bỉ khiến Toản không dám nói tiếp "chả gì cháu với bác cũng là chỗ người nhà". Lão Khổ định quay ra nhưng lão nghĩ thêm được câu hỏi nữa :
    - Tôi hỏi anh, một con vịt cũng chỉ hơn chục bạc mà các anh bắt chúng tôi nộp bảy đồng, thì cái lý nó ở chỗ nào ?
    Toản cười đắc thắng :
    - Thế ra tại cụ loanh quanh chưa thông qui luật sản xuất. Không ai bán hơn chục bạc con vịt khi chi phía đã ngần ấy cho mỗi con. Vậy thì tức khắc giá vịt thị trường phải tự điều chỉnh, để còn có người dám chăn vịt chứ ? Ðấy là qui luật "điều chỉnh tự nhiên" đấy bố ạ.
  8. nhl81

    nhl81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2005
    Bài viết:
    445
    Đã được thích:
    0
    Ðến lượt lão Khổ cười sằng sặc. Lão cười bằng cái tâm sự cay đắng đến tột cùng của lão. Lão cười là nghe như gầm, mỗi tiếng cười sẵn sàng cưa đứt ruột người khác.
    - Các anh giỏi quá, giỏi quá ! - Lão vẫn cười sằng sặc. - Thật là hết chỗ nói.
    Lão chắp tay lên ngực vái ông bí thư một cái rồi lẹo xẹo bước trở ra. Lão chợt thấy thương chủ nhiệm Hiếu. Ðấy mới là con người đáng để lão vái bằng lòng kính trọng. Chính Hiếu chủ trương ưu tiên đặc biệt những gia đình chăn từ 300 con vịt trở lên, bằng cách từ con 301 không đánh thuế. Vậy mà Hiếu đành cô lập, chịu để bị dè bỉu khi anh ta đề nghị giữ nguyên thuế đồng như mọi năm.
    Lại những đêm lão Khổ thức trắng. Lão đã từng chăn vịt chia với nhà Chánh Tổng những năm trước cách mạng. Một mình một thuyền, lão làm chủ cả mấy cách soi trên soi dưới. Chánh Tổng bỏ tiền mua vịt còn lão bỏ sức và tài nghệ sông nước. Ðã chăn chia phải chăn hàng ngàn con mới bõ. Vịt của lão thả tự do như vịt trời. Ðến khi thịt được, Chánh Tổng cứ đè ra cắt đôi. Số vịt ban đâu, không cần biết chủ đàn vịt còn được bao nhiêu, ấy thế lại còn được cái sòng phẳng ! Tuy thế suốt đời trẻ, lão thuộc diện cùng đinh nhất. Sau cái đận vỡ cống Vọng, vịt của lão trôi tất, lão mới chịu bỏ nghề.
    Ngoài ao đàn vịt đó ăn đóng đến sốt ruột, lão biết cái giống vịt thóc này đói ăn vài bữa coi như hỏng. Dù sau đó có tắm bằng thức ăn cũng không thể "to cái" được, người mua chỉ cần dùng tay bóp nhẹ đoạn ngang nách con vịt liền bỏ sang hàng khác dù có chèo kéo mấy.
    Chợt lão Khổ thấy loé lên một ý nghĩ bất ngờ. Lão rón rén trở dậy. Cái bản lĩnh được tôi luyện trên đường vật lộn kiếm sống từ bé, trỗi dậy trong lão. Lão lay gọi thằng Bình, bấu thật đau cho nó tỉnh hẳn, thì thào vào tai nó mấy câu. Thằng Bình bật dậy dụi mắt mấy cái thành tỉnh như sáo. Không hề có tiếng động, bố con lão Khổ lần về phía đàn vịt.
    Trời sáng trăng suông, và đủ để nhìn thấy đường. Cách nhau một đoạn không trông rõ mặt, loái cái, bố con lão Khổ đã lùa đàn vịt gần ngàn con êm nhẹ ra đường cái. Bản năng kiếm ăn của loài vịt thật tuyệt vời. Hình như chúng biết có cái gì đóng vụng trộm nên cắm đầu chạy thẳng về phía đồng. Sương buông xuống mênh mông. Chỉ có tiếng chân rạ cọ vào nhau lào thào với tiếng âm ỉ dâng lên từ đất của lũ côn trùng.
    Ðàn vịt ùa xuống ruộng và từ đó vọng lên tiếng mò thóc xè xè, tiếng reo thích thú đầy vẻ khoái chá của lũ vịt đói gặp mồi.
    Lão Khổ kéo con ngồi xuống, đưa tay rà lên mặt ruộng. Thóc vẫn một lượt, đa phần đang nảy mầm. Chỉ cần mỗi đêm bố con lão chịu vất vả một tiếng là ổn. Lão bảo con canh một đầu, còn lão canh một đầu. Lão như mơ màng trong tiếng nổ lép bép, dâng lên sự hy vọng. Lão lại nghĩ đến hai tấn thóc bị trời cướp mất. Lão sẽ giật lại bằng mồ hôi sức lực của lão. "Bà mày ạ, tôi không xây dựng cho bà mày năm gian nhà to nhất làng, tôi nhắm mắt chưa yên".
    Lão Khổ bỗng giật mình. Quanh đâu cũng có tiếng vịt ăn. Lão dỏng tai lên nghe thì cũng vừa có tiếng hỏi lào thào :
    - Ông Khổ đấy phải không ?
    - Ai... đấy ?
    - Con đây... Trung đây.
    Trung đã bò đến gần lão, dỏng tai lên nghe động tĩnh rồi thì thào :
    - Nhiều thóc quá. Ðàn cứ tròn lại như cái nong.
    - Mấy đêm rồi ? Lão Khổ cũng thì thào hỏi lại.
    - Một tuần !
    - Có ai biết không ?
    - Những người có vịt, chỉ ông là không biết thôi.
    - Tao chịu phục tụi mày. Thảo nào !
    - Biết làm sao được. Thóc thì bỏ thối mà ngày nào cũng phải xúc ở cót đổ xuống ao, xót lắm. Thôi ông ngồi đây, cháu ra chỗ bờ kia kẻo có con nào lãnh đàn, kêu toáng lên thì khốn.
    "Thảo nào..." Lão Khổ ngồi bó gối nghĩ. Chúng nó ranh hơn mình. Lão chịu mất ngót tạ thóc oan vì không nghĩ được sớm như tụi nó. Lão định lần theo đàn vịt thì một hồi tù và rúc lên ghê rợn. Ðúng ba hồi như thế đều nhau rồi đổ hồi dồn dập theo hiệu lệnh báo động có cướp thời xưa. Cùng lúc ấy có tiếng chân người cắt qua ruộng lọp bọp, gậy gộc, tua tủa chĩa lên trời. Tiếng đội trưởng đanh thép :
    - Quây chặt ! Không cho một con nào thoát.
    ánh đèn pin quét loang loáng. Một luồng ánh sáng dọi thẳng vào mặt lão Khổ. Ðội trưởng cười đắc thắng.
    - Ông khôn làm sao bằng chúng tôi.
    Lão Khổ uất sặc máu, lão gầm lên : - Bởi vì tao không ăn cướp được nhiều như mày...
    - Chưa biết ai ăn cướp - Ðội trưởng quay sang mấy anh bảo vệ - Lùa gộp vào. Anh nào chống lại, trói !
    Hơn bốn ngàn con vịt bị trộn lẫn kêu váng cả đồng. Một chiếc ràng khổng lồ đã quay sẵn ở sân kho để bảo vệ lùa lũ vịt "phạm pháp" vào đó. Các chủ vịt chạy theo van như tế sao. Riêng lão Khổ không thèm xin nửa câu. Lão được chiếu cố có tuổi tác, tha cho về còn lại cánh chủ vịt bị nhốt làm mồi cho muỗi.
    Sáng hôm sau một nửa làng đến nhận vịt mỗi con vịt chịu phạt hai đồng và mỗi chú vịt phải nộp phạt 20 cân thóc. Thằng lùa vịt về ao, đếm đi đếm lại thiếu mất 17 con. Chúng tơi tả bẩn thỉu như vừa dính trận mưa đá cực lớn. Lão Khổ nén lòng đợi đến phiên chợ, nhờ người đem bán một chuyến. May cho lão vùng đồng ngoài không bị cấm nên lão bán được giá. Tính chi ly lão lỗ nửa tạ thóc và số tiền phạt.
    Không còn ai chăn vịt, đội bảo vệ được phép giải tán. Chỉ còn lại mấy anh chuyên trách có nhiệm vụ cắm thêm biển "cấm đồng" và đề phòng vịt làng khác thả trộm. Thi thoảng có tiếng tù và vác rúc vào tầm giữa trưa. Ðấy là sáng kiến của anh bảo vệ nào đó nhằm phân biệt vịt nhà với vịt trời. Nếu vịt trời, nghe tù và cả đàn sẽ nháo nhác bay lên. Mặc dù sau đó những con vịt không ai cấm, béo núng nính lại sà ngay xuống, nhưng anh bảo vệ chỉ cần biết đấy không phải là vịt nhà.
    Sau mấy tháng chờ đợi, một hôm lão Khổ đọc trên báo thấy vấn đề lão thắc mắc. Lão nhìn cánh đồng trắng nước thở dài. Chẳng ai còn thấy những tấm biển cấm đồng đâu cả. Tuy thế lão cũng đọc gần thuộc lầu bài báo, nhất là câu cuối : "Chính việc làm của Bí thư Ðảng uỷ và đội trưởng đội sản xuất số 9 mới là trận mưa đá huỷ hoại sản xuất nông nghiệp".
    "Muộn quá !" Lão tiếc rẻ. Tuy vậy lão cũng thấy hả dạ được phần nào. Tiện qua chợ lão ghé mua đôi vịt. Lão nghiến răng khi đếm tiền trả. Nghe lão kèo nhèo, mấy anh buôn vịt chuyên nghiệp trả lời bằng giọng tỉnh bơ :
    - Tôi có bảo vịt năm nay rẻ đâu. Nhưng thưa bố, sắp tới cũng không có mà bán. Thiếu một đồng một hào, xin bố để vịt lại. Muốn rẻ thì chỉ có vịt trời, lên đấy mà mua. Năm nay ở vùng này chỉ được mùa vịt trời...
  9. acmilan_87

    acmilan_87 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/04/2004
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Wa, truyện của Phan Thị Vàng Anh hay thật đấy. Cảm ơn bạn đã chia xẻ!
  10. nhl81

    nhl81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2005
    Bài viết:
    445
    Đã được thích:
    0
    Tư cách con cá
    Thảo Hảo
    *****​
    Năm 1989, có người từ nước ngoài mang về một ít con ốc bươu vàng, khuyến khích người trong nước nuôi, nói rằng thịt nó ngon, xuất khẩu tốt. Đầu tiên, nuôi thử nó trong hồ xi măng, người ta cho nó ăn xà lách, nâng như nâng trứng, có lẽ sợ nó lệch múi giờ, không ăn tạp được.
    Thế rồi hai sinh viên trường Đại học Nông nghiệp TP.HCM lúc đó là Phạm Uyên Nguyên và Thái Thị Kim Thảo tìm hiểu được, rằng cái con ốc bươu vàng này chẳng phải cảnh vẻ thế đâu, mà ở đâu nó sống cũng được, cái gì nó ăn cũng được, nhất là lúa. Và để cãi lại được những người muốn nuôi con ốc này đại trà, họ đã làm nhiều thí nghiệm, xin tóm tắt sơ lược bằng bảng sau:
    NGƯỜI MUỐN NUÔI ỐC NÓI THÍ NGHIỆM PHẢN CHỨNG KẾT QUẢ
    OBV không sống trên ruộng được, vì vào mùa khô ruộng sẽ khô Treo một xâu ốc lên gác bếp, không cho ăn 6 tháng sau OBV vẫn sống
    OBV không sống trên ruộng lúa được. Vì ruộng mình phun thuốc trừ sâu Pha một chậu nước với nồng độ thuốc trừ sâu gấp 100 lần nông dân vẫn phun OBV sống khỏe
    OBV không sống trên ruộng lúa được, vì ruộng mình nhiều khi nhiễm mặn Thả vào các nồng độ nước mặn, mà cao nhất là đem ra biển OBV chỉ chết trong nước biển (là nồng độ mà lúa đã chết trước ốc)
    OBV không ăn lúa Thả ốc vào mẫu ruộng thí nghiệm, lập lại nhiều lần. Ốc ăn trông có vẻ ngon miệng (thực nghiệm cho biết thêm, ốc có thể ăn 100% mạ mới gieo)
    Hai sinh viên này đã cho đăng báo về con ốc này ("Ốc vàng - nguy cơ hại lúa nghiêm trọng" - Tuổi Trẻ, 1990), nêu rõ "danh tánh" của nó là Pomacea sp.- một loài ốc hại lúa, thịt nhão mà tanh, đến cho vịt ăn vịt cũng chê. Năm 1991, đề tài này được trường nghiệm thu đạt điểm xuất sắc, và đoạt giải Eureka - một giải thưởng khoa học trẻ có uy tín.
    Nhưng bất chấp tất cả những điều đó, đến năm 1995, tức là 5 năm sau, ốc bươu vàng vẫn không bị cấm, đã lúc nhúc trên các đồng ruộng, khiến Quốc hội phải lên tiếng và Thủ tướng chính phủ phải ra tay. OBV lúc này mới được coi là cái nạn cần tiệt trừ.
    *
    Giờ thì đến một câu chuyện khác đang gây xôn xao trong giới nuôi cá và ăn cá:
    Người nuôi cá hiện đang đổ xô nuôi cá ?ochim trắng nước ngọt?. Con cá chim trắng này cùng họ với con cá hổ. Cả hai con cùng đồng hương Nam Mỹ, răng đều sắc như răng sói , ăn tạp, đi thành bầy đàn như nhau, lớn cũng nhanh vùn vụt như nhau. Cá hổ là dân côn đồ không cải tạo nổi, sách vở đã ghi và coi như mối nguy hiểm chết người, bởi nó có thể tấn công người như cá sấu. Nhưng người anh em cá chim trắng thì tư cách còn mập mờ: nuôi trong ao với thức ăn "tĩnh" (cám, xác cá tạp...) thì chỉ mới thấy rất phàm ăn , bơi lội nhanh nhẹn vô hại, còn thả ra sông có theo gót đàn anh mà cắn người và tận diệt các loài thủy sinh vật khác không thì chưa biết.
    Chuyện xác minh tư cách cá với ốc trước khi cho nuôi tràn lan, đến đây, đáng lẽ phải là công việc của các Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản, ngay từ khi mới mang "cháu" về, tức là cách đây 5 năm.
    Thế nhưng, nếu như hạnh kiểm của ốc bươu vàng đã được xác định mà suốt 5 năm vẫn được thả rông, thì cá chim trắng nay đã đầy các ao hồ từ Nam chí Bắc mà suốt 5 năm vẫn không ai nói nó là lành hẳn hay dữ hẳn. Khi bị báo chí dồn hỏi: "Có nên nuôi cá chim trắng nữa hay không?", thì vẫn là cái bệnh sợ trách nhiệm ở nước ta, cái câu kết luận cuối cùng được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2 đưa ra rất mập mờ là: "Nuôi thì phải có quản lý nghiêm ngặt, không để thất thoát ra ngoài môi trường." Với lại: "Nên hạn chế, không nên phát triển đại trà." [1]
    *
    Úi chao, thưa các ngài!
    Câu trả lời đó của các ngài có cũng như không. Cái gì làm cái ngài không dám nói "Có" hay "Không" một cách rõ ràng? Khoa học chứ có phải văn chương đâu mà có vùng xam xám cho chúng ta núp vào trốn trách nhiệm?
    Hay các ngài đã tính, nếu cái con cá chim trắng kia một ngày kia ra đến sông, trở mặt côn đồ cấu xé trẻ em lội nước, thì khi ấy, các ngài sẽ nói là đã dặn phải quản lý nó nghiêm ngặt trong ao cơ mà, phải không?
    Và vì sao cái Viện ăn lương của các ngài không thể như hai vị sinh viên năm nào, dùng mọi nỗ lực để xếp loại nhanh con ốc bươu vàng vào hàng ngũ "địch" hay "ta" mà cứu lúa? Suốt năm năm trời các ngài uống nước chè ở đâu?
    *
    Thương nhất trong vụ này cuối cùng là anh cá chim trắng (biển). Anh này đắt tiền, lại hiền hòa với đồng loại . Nổi tiếng vì thịt ngon thì cũng nổi tiếng rồi, có cái vụ mập mờ tên với cá chim trắng (nước ngọt) này chỉ gây thêm phiền toái không đáng có, khiến thực khách không sành bỗng nhìn anh như tội phạm.
    Nhưng thôi,
    Anh cá chim trắng (biển) ơi,
    Nếu anh đã đến nằm trên thớt cơ chế nước tôi, thì anh phải hiểu cái sự không rõ ràng nó có trong vô vàn lĩnh vực. Và tập cho người ta dám nói "Có" hay "Không" một cách rõ ràng có lẽ còn phải rất lâu, biết đâu lúc đó những giống ưu việt như anh đã thành tuyệt chủng.

    --------------------------------------------------------------------------------
    [1]Xem bài phỏng vấn trên báo Tuổi Trẻ, ngày 27.6.2003

Chia sẻ trang này