1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Truyện Ngắn Ma Văn Kháng

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi despi, 26/10/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Truyện Ngắn Ma Văn Kháng

    Con nhà làm bún

    Ma Văn Kháng

    -Gái lùn! Gái lùn dậy. Dậy, sắp sáng rồi! Gọi, lay, đập tay, giật chân. Không khéo phải cấu véo, đấm đạp, dựng nó dậy nó mới dậy cũng nên. Phần đêm đang khép cánh. Mặt đất đã âm ấm khí dương. ừ thì con gái hai mươi tuổi là tuổi ăn tuổi ngủ, nhưng tuổi này cũng là tuổi làm lụng chứ. Không làm thì lấy gì mà ăn. Không bớt ăn bớt ngủ, dậy từ lúc này, khi thiên hạ còn ngủ cả; không lấy sự chịu thương chịu khó để bù lấp chỗ kém cỏi của số kiếp thì làm sao mà sống được đến bây giờ, làm sao năm giờ đã có hàng cho khách đến lấy kịp đón chầu ăn sáng của mọi người!

    - Gái lùn! Dậy, con!

    May, lần này bà Gái chỉ gọi giật hai câu ngắn, con bé đã vùng ngay dậy, ngáp dài một cái rồi gãi mớ tóc bù, vừa thò chân xuống quờ quờ tìm guốc. Tiếng guốc như một sinh vật rút từ bóng đêm ra sức sống mỗi lúc một to dần. Lát sau thấy tiếng nước trong chảo bột vỗ sóng óc ách. Rồi bốc lên mùi bột gạo ngâm chua khẳn và mùi than bén lửa khen khét, mùi của sự sống, trong bóng đêm đen nhờ.

    - Này, cẩn thận, lượt cho kỹ không bún giót như hôm qua. Mà xem lại cái khuôn đi, mẹ thấy không khéo nó thủng, con à.

    Tuy vậy bà Gái nói mà vẫn cảm thấy tiếng mình không thật. Nó vang đi đâu, trong căn nhà mái thấp đã mù mù hơi khói, hơi nước, chìm nghỉm bóng hai người đàn bà, một già là bà, một trẻ là con bà. Hóa ra ở đây, lúc này không cần ngôn ngữ. Lúc này, ngõ xóm khéo chỉ có hai mẹ con bà dậy bắt đầu công việc làm bún. Mọi người đang yên giấc. Không ngủ lúc này chỉ có ma, không ngủ lúc này họa chăng chỉ có kẻ trộm đang hành nghề. Thức giấc lúc này chỉ có hai mẹ con bà Gái. Hai mẹ con như hai cái bóng âm thầm, quờ quạng, cắm cúi vào công việc đầu tiên để chế tác ra sợi bún là gạn bột và nhóm lò.

    * * *

    Những sợi bún làm trong đêm đem lại lời lãi trông thấy. Một cân gạo làm được ba cân bún ngon. Nhưng khách chỉ được đổi có hai cân rưỡi. Làm bún tậu được ruộng, xây được nhà. Nhưng, đó là nói người có sức vóc và bỏ qua cái vất vả, cực nhọc của công việc này.

    Ôi, cái cực nhọc của công việc là trong bóng đêm, để biến hóa từ vật thể này sang vật thể kia nói sao cho thấu. Vì nó để lại di chứng ở ngay hình hài, vóc dáng, cung cách của hai mẹ con bà; người gì mà kiệm lời, mà cứ xo xo xúi xúi, cắm cắm cúi cúi, cấm có thấy gương mặt ngẩng lên trọn vẹn và hai bàn tay thì lúc nào cũng nhớt nhèo nhèo, trong khi các kẽ chân kẽ tay bị nước chua ăn mòn ngày qua ngày cứ lở loét bở bợt ra, trông thấy cả lớp thịt đỏ nhờ bên trong, như tay chân người hủi.

    Muốn có sợi bún đẹp, ngon, công việc phải tỉ mẩn ngay từ khâu chọn gạo, không phải là hạt gạo mới lắm nhựa mà là hạt gạo cũ bụng bạc kia. Gạo muốn thành bún tất nhiên trước hết phải sóc cho kỹ, rồi xay thành bột ướt và ngâm chua cho nó nở. Nóng thì một, hai ngày. Rét thì có khi phải ngâm tới bốn, năm ngày. Bột nở đủ độ là vớt, cho vào khăn, gói lại rồi lấy đá lèn. Lèn cho khô rồi đem bột nặn thành quả. Quả bột hình thành nhờ tay người trực tiếp, rồi cũng tay người trực tiếp cho nó vào quay, thả nó vào nồi luộc. Chà, đã tưởng luộc chín là xong, nào ngờ đôi tay vẫn chưa được nghỉ ngơi. Nhấc quả bột đã chín ở phần da bên ngoài ra còn phải cho vào cối giã, rồi sau đó cho vào bồn thấu cho nhuyễn. Thấu khó lắm, quá tay cho nước nhiều là nhão ngay. Ôi chao! Cái vất vả vẫn chưa buông tha. Vì bây giờ mới đến khâu lượt bột, tức cho bột vào cái lượt có hình cái túi làm bằng tơ lụa Hà Đông, bóp bằng tay thật kỹ cho bột mịn. Tuy nhiên dùng sức cơ bắp nhiều hơn là khâu vặn bún tiếp sau. Vặn thật mạnh để bột tuôn xuống nồi nước đang sôi, và trong mung lung hơi nước nhoè nhoẹt, bấy giờ khi bóng đêm đang tan, trong cái cảnh huống ba chìm bảy nổi, mới thấy được sợi bún lập lờ trong làn nước sôi cuộn.

    * * *

    Ôi, những sợi bún trắng muốt kết tinh từ trong bóng đêm lao động vừa dai vừa giòn, lại còn bóng bẩy ngon lành. Công phu, nhưng chỉ mới nhìn sợi bún đã muốn ăn. Vừa đặt vào môi đã thấy nó trôi vào cổ họng. Người ăn bún quen dạ chẳng cần nói cũng biết là đông, nhất là đàn bà. Người nghiện bún cũng không ít. Ngày xưa trong ngõ này thì có cụ Thượng họ Bùi, còn như bây giờ, hàng ngày vẫn có cả chục người đến chờ bún khuôn một, hay còn gọi là bún đầu nước ngay từ lúc tinh mơ. Bún đầu nước ít nhựa, dai giòn, ngon, một người ăn hết một cân bún rối là thường. Mà đấy chỉ là chấm nước mắm hay mắm tôm chanh ớt thôi đấy. Bún có nhiều loại. Sợi bún ở trong chậu lấy tay vóng lên, vuốt xuôi, rồi trở tay đặt xuống, sợi dài trông như con len tở, gọi là bún con bừa, con cúi. Bún nắm là vóng sợi bún lên tay, nắm cho nó kiệt nước, đặt xuống, to nhỏ theo ý mình, nhưng thích nhất là bún vẩy ốc, còn gọi là bún lá, bầy ở mẹt bún chả, mười lá trắng tinh đẹp như hoa nhài, nhìn đã thấy mê. Mê bún, nghiện bún ở ngõ xóm này xưa như đã nói là cụ Thượng họ Bùi. Bà Gái nhớ: Cụ Bùi Mỗ, người làng này, xưa học giỏi, tài cao, đức trọng, được thăng Thượng thư, vào nhậm chức ở Huế, nhớ bún quá, phải mời ông Quảng, anh giai bà vào chuyên làm bún cho cụ xơi. Sau ông Quảng già, trở lại cố hương, Bùi tiên sinh thưởng cho chức Trưởng bạ.

    Ngồi nghe mẹ kể chuyện mà cậu út Nhớn dửng dưng như không. Chỉ có Gái lùn là có vẻ lắng tai, nhưng lại nghếch mắt, lơ ngơ: "Thượng thư là chức gì, hả mẹ?" Bà Gái ngẩn mặt nghĩ : Thì thấy người ta nói vậy thì nói theo chứ nào có biết. Mà biết để làm gì?

    Biết chẳng để làm gì cả! Vì quanh năm suốt tháng, từ đời cụ kỵ ông bà cha mẹ chỉ một việc đơn thuần là làm ra sợi bún. Chỉ một nhịp sinh hoạt là ngày ngày trở dậy từ hai giờ sáng, hết gạn bột, lọc bột, giã bột lại đến thấu bột, lượt bột, vặn bún, khép kín một chu trình chế tác để đến sáu giờ giao hết hàng thì lăn ra ngủ. Ngủ đến hai giờ chiều là dậy chọn gạo, sóc gạo rồi mười giờ lên gường để hai giờ sáng lại bắt đầu vòng tuần hoàn mới là dồn sức làm. Làm, chỉ có làm, làm đến mức hai bàn tay nát nhừ như bùn vữa. Làm, cả năm cả tháng chỉ nghỉ độc một ngày mồng một Tết, là ngày miệng thiên hạ còn dành riêng ăn cỗ. Làm như một thói quen. Như mục đích là làm. Như không có nhu cầu gì. Không có sinh thú gì khác. Không quan tâm tới bất cứ một cái gì khác ngoài công việc vì đã chấp nhận sự an bài, không nề hà, không suy bì so sánh, không biết đến khổ ải, thiệt thòi. Cũng chẳng có yêu cầu gì cho riêng bản thân. Vì ngay đến cả cái tên gọi cũng không cần nữa là. Mẹ là bà Gái. Con trai là Nhớn. Con gái là Gái con, Gái chị, Gái em, hoặc Gái lùn, Gái cao tuỳ theo vóc dạc. Từ đời ông bà đã vậy. Nhà là xưởng sản xuất. Số kiếp đã định, lớn bé, nam nữ trong nhà thẩy đều là thợ chuyên nghề chế biến món thực phẩm dân gian phổ biến này. Có nhẽ phải đến đời này, chỉ đến đời này mới có chút ngoại lệ. Tức cậu út Nhớn con bà Gái, từ lúc còn ở tuổi thiếu niên mới không tham gia công việc cùng cha mẹ và các chị. Cậu út Nhớn được đi học. Cậu tách dần khỏi cái đời sống lầm than cực khổ của mẹ và chị cậu. Mẹ cậu, chị cậu, lấy ra từ bóng đêm nguồn sức mạnh tăm tối, còn cậu, chỉ tìm thấy ở đó lòng căm hờn và sự khinh miệt. Cậu bĩu môi, khinh bạc:

    - Sống như dưới địa ngục thế này mà cũng chấp nhận được!

    * *

    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​

    Được despi sửa chữa / chuyển vào 26/10/2002 ngày 22:38
  2. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Cậu út Nhớn mười bảy tuổi dong dỏng cao, da trắng mịn, mặt xương, mũi dọc dừa, tóc dày rậm, rẽ ngôi giữa, thanh tao nhẹ nhõm như một mũi tên, trông vẻ ngoài đã thấy là cái tinh hoa vắt ra từ cuộc đời lam lũ của mẹ và chị. Nhưng trông sáng sủa vậy mà cậu học kém. Trượt vỏ chuối vào học cấp trung học, cậu ở nhà chơi nhởn đã hơn năm.
    Một hôm, tôi sang xưởng chế biến của bà Gái xin nước đãi bún, nước này có chất chua của bột lên men, rất rít, rửa bát sạch hơn nước chuyên dùng của Thái
    Lan, thì bà Gái níu lấy tôi:
    - Cô ơi, cô là hàng xóm, cô còn đi làm, cô quen thuộc nhiều, cô giúp thằng Nhớn nhà tôi kiếm công ăn việc làm mới. Tôi sợ nó bị lôi kéo...
    Nhưng tôi chưa kịp giúp cậu Nhớn nhà bà Gái được tý nào, đã thấy cậu vè vè cái xe Honda nữ hoàng đỏ chót đằng sau đèo một cô gái mặc váy cộc vào ngõ và mặt mày phớn phở khác thường.
    Cậu út Nhớn thực hiện một cú nhảy vọt. Cậu Nhớn đã có người yêu, đã có bồ bịch, nhân tình. Và còn hơn cả nhân tình nhân ngãi nữa. Vì từ hôm ấy cô gái nọ ăn ở với Nhớn ở nhà mẹ Nhớn, một căn buồng ở nách cái phân xưởng chế biến bún nọ như vợ chồng thật sự. Cô tên Mùa Đệm Kim, một cái tên kép giao duyên tân cổ, cô trạc ba mươi. Chỉ nhận ra cô ở độ tuổi ấy mỗi trưa cô trở dậy, tóc tai rũ rượi, đánh răng, xúc miệng òng ọc. Lúc ấy phấn son đã bong sạch, da mặt cô sàm sạm màu chì, lấm chấm nốt tàn nhang. Lúc ấy cô hiện thành một cô gái quê có đôi mắt trắng dã, ngực độc cái xu chiêng bọc hai đầu vú to dài thõng thẽo như hai quả đu đủ, dưới cái quần hoa lửng là đôi chân vòng kiềng khuệnh khoạng. Cô đứng vung tay vung chân làm vài động tác tập thể dục. Rồi ngáp. Rồi gãi nách, gãi sườn sồn sột. Rồi khịt mũi thấy mùi gạo ngâm, liền nhổ đánh phịch. Mùi đ. gì mà chua phát tởm thế, ông Nhớn? Cô Mùa dậy muộn lắm. Quãng hơn mười giờ cô mới cùng Nhớn vắt vẻo cái ví đầm đi ăn trưa. Họ ăn cơm trưa ở quán cơm bình dân về, xong lại đóng cửa buồng im ỉm. Đây mới là lúc họ làm khổ tai nhức óc những người hàng xóm. Họ cấu chí nhau. Họ đùa nghịch nhau. Họ la hét. Rồi thì thoảng lại vỏng vót lên tiếng ré chói tai của cô Mùa. Cô kêu: "Cắn đ. gì mà đau thế, bố ai chịu được." Cô chửi: "Tiên sư thằng nhãi, bà đã mệt phờ ra rồi mà mày còn hành bà à!"
    Chí chóe cho đến năm giờ chiều thì Nhớn mở cửa dắt xe máy ra. Chàng đèo nàng đi làm. Bây giờ thì thật là nàng vì nàng đã thoát hẳn cái lốt thô phàm quê mùa vốn dĩ. Nàng mặc váy cộc màu tím, hoa đỏ. Nàng mặc áo vai bồng, riềm cổ chờm tới rìa cặp vú phồng. Mặt nàng biến dạng hoàn toàn. Son phấn phủ một lớp dầy, trên đó một bàn tay thẩm mỹ đã vẽ lên một cái mặt nạ đàn bà mắt to thô lố, miệng cười toe toét, thần thái nồng nã, như thấy đàn ông là vồ lấy ngấu nghiến. Nách cắp cái ví đầm, nghiêng nghiêng mái tóc dính hờ cái mũ nồi đỏ cờ, tay cặp điếu thuốc, ngồi vắt vẻo ở sau xe, nàng rõ là một tiểu thư đài các đang đến công
    sở. "Thôi, đậu ở đây. Chờ em. Bai, bai." Nàng hôn vào bàn tay, rồi giơ lên xoa xoa ra hiệu tạm biệt chàng. Chàng quành xe, chạy một quãng rồi rẽ vào một quán nước. Đám người ngồi quán đang đánh bài, quay lại, nhay nháy mắt: "Nhớn, vớ được cô em thơm thịt nhẩy!", "con nhà làm bún chuyến này đổi đời thành công tử rồi. Cơm no bò cưỡi sướng chưa? Sao không mời chúng tao một chầu bia, mày?" Công tử Nhớn không nói, nhấc bao thuốc 555, rút một điếu, châm lửa, trả tiền rồi đi ra. Nổ máy xe, Nhớn cho xe chạy về nhà. Cậu đi qua sân, thấy mẹ và chị đang sóc gạo, không nói một lời, dựng xe, vào buồng xách cái làn đựng dầy quần áo nữ, quàng vào tay lái xe, đánh xe đi. Lát sau nghe tiếng xe cậu quay trở về, tôi nhìn sang thấy cậu đang dở từng cái áo quần đã qua máy giặt phất lên cái dây phơi giăng qua sân. Cái dây phơi như có đàn **** sặc sỡ vừa đậu xuống. áo sơ mi các kiểu, may ô, váy dài, váy ngắn đủ màu và những chiếc nịt vú, quần lót đàn bà rung rinh trong gió, lấp cả lối qua lại của hai mẹ con bà Gái lúc này đang sửa soạn đồ nghề cho buổi sản ********* mơ sớm mai.
    Hai mẹ con bà Gái đi ngủ từ lúc chập tối. Ti vi không có. Rađiô cũng không. Nhưng có họ cũng chẳng xem, chẳng nghe. Họ nhờ vào bóng đêm để tái tạo nguồn lực, để trở dậy lúc hai giờ sáng làm mẻ bún mới. Tuy vậy giấc ngủ của họ, kể từ ngày Nhớn kiếm đâu được chiếc xe và đèo cô Mùa về ăn ở, lại bị quấy rày. Mười một giờ rưỡi, chiếc Honđa nữ hoàng đỏ nổ máy ầm ầm. Đón được cô tình nhân về rồi, căn nhà còn ầm ĩ thêm một lúc nữa, cho đến tận lúc cô Mùa gắt: "Sao hôm nay gặp toàn bọn đểu thế không biết! Thôi đi! Đang nẫu cả ruột đây, đang mệt bỏ cha đây!"
    Ngày nào cũng như ngày nào, lịch trình sinh hoạt của cậu út Nhớn cứ đều đều diễn đi diễn lại như thế! Thật chẳng còn hiểu quan hệ của họ thuộc là kiểu cách gì. Vợ chồng thì không phải! Vì chẳng nhẽ Nhớn khinh bỉ mẹ cậu là con mẹ làm bún đần ngu không biết gì nên không thèm hỏi qua một câu. Không gì thì cũng phải ăn hỏi cưới xin đàng hoàng chứ. Mà xem cái cung cách con đàn bà đi đêm về hôm ở nhà người ta đến cả tuần mà không biết chào hỏi ai lấy một câu, lại có ý hợm của lên giọng hiếu sự mỉa mai, ăn nói chỏng lỏn, cợt nhả, thô lỗ thì đó hẳn không phải là con người tử tế đứng đắn rồi!
    Bà Gái, Gái lùn ngậm miệng làm thinh. Đã quen với một thế giới không ngôn ngữ. Đã nhận ra chẳng có thể thay đổi được tình hình. Hơi sức của họ chỉ còn đủ để hoàn thành chức trách của con người lao động là làm ra sản phẩm để nuôi thân thôi. Mặc dầu tôi biết là họ giận lắm và nếu giận cô Mùa một thì họ giận cậu Nhớn hai. Cậu Nhớn bám vào cô Mùa để vinh thân, để ra khỏi kiếp phận. Cậu rủng rỉnh đồng tiền tiêu pha. Cậu mặc áo sơ mi hãng Pie-Cácđanh, đi giầy Italia, đeo đồng hồ Seiko, hút thuốc ba số. Cậu chẳng đoái hoài gì đến mẹ và chị. Cậu quát: "Vứt mẹ nó cái nghề chết tiệt của các bà đi. Tởm đ. chịu được!"
    Cái phải đến cuối cùng cũng đến. Một trưa, đang đọc sách, bỗng nghe thấy tiếng la lối om sòm bên nhà bà Gái, động lòng tôi vội chạy sang.
    Bà Gái đang ngồi sàng gạo ở cửa căn buồng. Mặt gầm xuống cái sàng, bà không dám ngẩng lên vì tiểu thư Mùa mặc bộ đồ cộc, hở nách mỏng tang ở cạnh cái dây phơi la liệt váy áo, đang nhẩy chồm chồm, chao chát:
    - Cha tiên nhân đứa nào ăn không ăn hỏng lấy của tao cái đồng hồ Lông-din giá hơn mười vé nhá! Bà báo cho mà biết, duyên ai phận nấy chớ ghen mà nồng. ừ, bà là gái **** đấy! Bà thuê thằng Nhớn nó làm vệ sĩ cho bà, bà nuôi nó, bà cho nó tiền, để nó bồi dưỡng sức khoẻ để nó ôm ấp bà đấy. Này, đừng có nói bà đã chán chê mê mải vì khách chơi nó vầy vò, nay lại quyến rũ thằng Nhớn vì bà là con nặc nô dâm đãng chưa đã cơn thèm nhé! **** là nghề của bà. Còn thằng Nhớn nó là tình nhân của bà. Hai việc khác nhau nhé!
    Bất nhẫn quá, có lẽ là vậy, dẫu là Mùa chửi nhau một mình, từ trong buồng, Nhớn vội nhao ra để can ngăn. Nhưng vệ sĩ vừa ra khỏi cửa, còn đang mắt nhắm mắt mở đã bị cô **** cản lại và thực hiện ngay một cú đánh nhà nghề, tay đẩy chân ngáng khiến cậu quay lơ ra đất.
    - Cả ông nữa. Ông còn liếc ngang liếc dọc con mắt xanh mỏ đỏ nào nữa thì tôi cho mẹ nó một nhát cho xong đời đấy, hiểu chưa? Chó nào, chủ ấy chứ! Đ. mẹ không có tao nằm ngửa ra thì lấy c. mà đổ vào nồi à! Nói cho mà biết, không có tiền của bà thì mày lấy đâu đồng hồ mà đeo, áo quần sang trọng mà mặc, xe máy mà đi. Mày mở mày mở mặt nhờ con **** này đấy, hiểu chưa? Chứ cái thứ con nhà làm bún như mày, chỉ đáng giặt xi líp cho bà thôi, con sãi ở chùa thì quét lá đa thôi, chứ tưởng của báu đấy, hả!
    Thấy mình hèn quá, Nhớn vận nội công bật dậy, định xông tới vả vào mồm cô **** nọ mấy cái, nhưng chưa kịp đã sững người há hốc mồm. Tiểu thư **** mặt hầm hầm quay lại đưa tay giật giật liên hồi quần áo phơi, rồi vào buồng xách làn nhựa ra, nhét đầy vào đó, đoạn đi tới cái xe Honđa đỏ chót ngồi lên, không cần thay quần áo, dận máy nổ ầm ầm.
    - Kim Mùa! Kim Mùa! Cho anh xin lỗi! Anh xin lỗi em mà!
    Không nơi nương tựa, Nhớn lại trở thành kẻ thất nghiệp ăn bám mẹ và chị. Nhưng một tháng sau, nhờ mẽ người cao ráo, xinh nhã cậu lại được làm vệ sĩ cho một ả **** khác. Cậu lại có xe máy đi, quần áo đẹp mặc và tiền tiêu rủng rỉnh. Nhưng lần vẫy vùng này để cố ra khỏi bóng tối của khuynh hướng thoái triển trong số kiếp cũng lại không ăn thua. Vẫn lại là kịch bản cũ và có thêm hồi kết thúc bi đát hơn. Trong một trận tranh giành quyền lực, Nhớn bị đối thủ tẩn cho trận bò kê bò càng. Phục thuốc ba tháng sau Nhớn mới lại sức. Bà Gái nói: " Thôi, con ở nhà làm bún với mẹ và chị đi. Vất vả, nhưng đồng tiền kiếm được nó chắc chắn vì nó lương thiện, con à." Thấy ông con im, bà liền hấp háy con mắt, phấn khởi: "Mẹ già, chị con cũng yếu rồi, giờ làm buổi đực buổi cái thôi, cần có con giúp đỡ trông nom cơ nghiệp này. Nếu con bằng lòng, mẹ sẽ đưa con ít tiền để con lo việc mua máy móc, vì mẹ nghe nói giờ người ta không làm bằng tay nữa, người ta đã chế tạo ra máy xay, máy nhào, máy vắt bún rồi." Mẹ vừa dứt lời, Nhớn liền nhổm dậy: " Mẹ có được bao nhiêu tờ?"
    Giờ thì Nhớn giữ chân gác khách sạn Rose ba sao tư nhân ở phố Q. Đó là những nỗ lực cuối cùng để giành lấy cái cậu không có, để đổi thay địa vị của cậu, nhưng buồn thay cậu khoe với tôi: phải mất năm vé đút lót mới được nhận vào việc ấy. Thấy tôi nhún vai, cậu liền mím môi cười lặng: Chị y hệt mẹ em. Nhưng chị ơi, chỉ cần một năm tiền boa là em lấy lại đủ vốn thôi.
    Rồi cậu con trai nhà làm bún ngả người, giang hai tay vênh vang một cách hồn nhiên và tôi đòi:
    Cứ sấp mặt xuống làm nên u tối có biết gì đâu. Cậu nói - Bây giờ mở mắt ra mới biết: Thiên hạ họ ăn chơi thật là khủng khiếp! Một bữa tiệc chi vài ba triệu là bình thường. Còn một tay giám đốc từ nơi khác đến, thuê khách sạn, cắp theo một con bồ như cỡ Kim Mùa bao cả tháng là thường xuyên. Thật hầu hạ bọn này cũng còn hơn ông bác em theo Cụ Thượng nào đó vào Huế làm bún cho cụ ăn, còn hơn đầu tắt mặt tối như mẹ em, chị em, chị ạ .
    1999.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
    Được despi sửa chữa / chuyển vào 22:39 ngày 26/10/2002
  3. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Lít, người gác chắn can đảm

    Ma Văn Kháng

    Lít, em trai út của chị em chúng tôi từ bé đã là. đứa trẻ hiền lành, nhút nhát. Trong cái dòng đời sôi sục sự đua chen hiện thời, bạo tợn đáo để nhiều khi còn chẳng ăn ai, huống hồ... Thành ra, Lít là kẻ chịu nhiều thiệt thòi lắm. Ði học thì từ lớp mẫu giáo nó đã là kẻ thua chị kém em, bị bạn lấy mất khăn tay, kim băng, bị cô giáo mắng oan, bị đứa lớn bắt cung phụng quà cáp, cũng chỉ âm thầm chịu đựng, không dám hé răng đến cả với mẹ và chị. Lên cấp trung học, Lít to phộp nhưng cũng chẳng bạo dạn thêm tí nào. Trong lớp bị thầy chỉ định phát biểu ý kiến, hay gặp người lạ ở chốn đông người là mặt đỏ rửng như gấc chín, là gãi đầu gãi tai, sợ sệt lúng ta lúng túng, ăn không nên đọi, nói không lên lời. Mẹ tôi bảo: "Bao nhiêu cái khôn ngoan, sắc sảo chị em chúng mày lấy đi cả, để lại cái đần cái dại cho nó?. Mẹ tôi gọi Lít là thằng đần. Lít đần, đần thối đần nát thật. Chuyện người ta kể, xung quanh đã cười lăn cười lóc mà nó còn ngơ ngẩn, nghĩ mãi chưa ra. Mười lăm tuổi, cao một mét bẩy, nặng sáu mươi ki lô, hiền, đần, lại gan con thỏ, thấy vậy nên bố tôi phải cho nó đi học võ. ở lớp võ thuật Lít tập chạy mỗi buổi bốn cây số, tập nhẩy dây, tập đá cao, tập đấm bao cát và các miếng mẹo quyền cước tự vệ, tấn công. Cho Lít tập võ là nghĩ rằng lấy cái mạnh mẽ bên ngoài viện cho cái bên trong, để đuổi cái hèn yếu ở bên trong ra, để cải biến bản tính con người. Vậy mà sau mấy năm trời, Lít nguyễn y vân là. đứa em trai lành hiền, chậm chạp và nhát nhúa của chúng tôi.
    Thôi thì cha mẹ sinh con, trời sinh tính, chả nên đòi hỏi phải có được cái mà vốn Lít không có. Lít là con người tốt, thế là tốt rồi, còn đòi gì nữa. Vì tợn tạo, sắc cạnh, gai góc chắc gì đã hay.
    Lít lớn lên trong sự yên lòng của chúng tôi. Ðến tuổi đi làm, nó được bố tôi nguyên là một tài xế tầu hoả lâu năm xin cho vào làm nhân viên gác chắn ở ga N, một công việc khiêm tốn, giản dị, hợp với tính tình năng lực của Lít. Rồi ít lâu sau, theo quy luật của tạo hoá, như mọi người, cậu út của chúng tôi cũng lấy vợ và sinh con.
    Có vợ con, có công ăn việc làm rồi, đường đường một đấng nam nhi, một nhân viên nhà nước rồi, Lít đã trở thành mối yên tâm của chúng tôi. Hơn nữa Lít vẫn là Lít em út xưa kia của chúng tôi. Vì hàng ngày nó vẫn như cái bóng lùi lũi đi chẳng ai biết, về chẳng ai hay. Cũng chẳng thấy nó có bè bạn và chưa bao giờ thấy nó trò chuyện gì về công việc của nó. Cùng các mối quan hệ chắc chắn là không phải không có cái buồn phiền, nó cứ ru rú một mình một bóng, ngại ngùng, sợ sệt đến cả việc giao tiếp thông thường. Tổ dân phố mời họp, đi xin dấu chứng nhận của uỷ ban phường, đi xin đổi giấy chứng minh, hễ có việc tương tự là y như rằng thấy nó gãi cổ sồn sột, ngượng ngà ngượng nghịu dùn đẩy: ?oChị Lan, đi giúp em việc này..." Thật buồn!
    Vậy mà một ngày nọ tôi bỗng nghe thấy tiếng vợ Lít chu chéo ở bên nhà. Vội chạy sang, tôi đã thấy vợ Lít béo lùn, áo quần tơi tả, tóc tai sũ sượi, một bên má bánh đúc tím bầm, đang nhẩy chồm chồm, xỉa bàn tay nhọn vào mặt Lít. Còn Lít lúc này to cao phền phễn, mặt mày xưng vếu như vừa bị ai đấm, đang lăm lăm cây sào phơi rập tướp một đầu trong tay.
    - Này, có giỏi thì đánh nữa đi! Khôn ngoan đến cửa quan mới biết. Giỏi thì đi đối đáp với người ngoài nhé! Chứ về nhà bắt nạt vợ con thì là. đồ hèn nhé! Thấy tôi, vợ Lít đang nồng nã liền áp tới, sồn sồn:
    - Chị xem, nó bị bọn đầu gấu chở xe bò cát đánh, chẳng dám chống lại. Bao nhiêu uất tức nó đem về trút hết cả lên đầu em. Em có tội tình gì! Hầu hạ nó còn hơn hầu hạ bố già. Thế mà, nó giận cá chém thớt. Chị xem nó quật em, nó đấm em này! Mà không chỉ có lần này.
    Thấy vợ chỉ tay vào vết bầm trên má, rồi quay lưng lại, vạch áo cho tôi xem những vết quật của Lít, Lít liền vứt tạch cây sào, mặt thì lì xì một hơi: "Thôi im đi, rõ lắm mồm!" rồi bỏ ra cửa.
    Hoá ra, vợ Lít không nói ngoa. Không chỉ là lần này. Mà là cả chục lần rồi. Không được tăng lương. Bị cắt thưởng. Mất lao động tiên tiến sáu tháng. Bị bạn bè quỵt tiền. Mất cắp... Bao nhiêu oan ức, tủi hổ Lít đều nén nhịn ở trong lòng rồi đem về trút cả lên đầu vợ. Nhẹ là tát tai, đấm đá. Còn thường xuyên là vớ được cái gì trong tay là phang là quật cái đó ngay lên người vợ. Cái thằng đã cục lại quá hèn!
    * * *
    Năm tháng trôi đi cho mọi người, nhưng dường như nó phớt lờ Lít. Lít vẫn vậy. Khác chăng là chút đổi thay bộ dạng do tuổi tác. Khác chăng, giờ đây, trên gương mặt tròn phính cố hữu của y có thêm một bộ ria đen rậm dài như một cái bàn chải. Và cùng với bộ ria này, cổ tay y có thêm vòng xích bạc trong khi cổ y quàng một sợi dây đồng lõng thõng một cây thánh giá treo. Nhìn những cái đó, nhất là bộ râu, người ta có thể nghĩ đến phép ngoại viện mà ông thân sinh ra y đã áp dụng khi ép y phải học võ lúc y còn ở tuổi thiếu niên: hãy dùng cái bên ngoài để hỗ trợ cải đổi cái bên trong còn hao khuyết. Vì chẳng phải là bộ ria đen sì đã gia cho gương mặt đầy đặn lành hiền của y vẻ phong trần lãng tử, vì bọn đầu gấu thành phố ít lâu nay vẫn thực hành lệ luật riêng là khinh bỉ ra mặt kẻ không râu đó hay sao!
    Lít đã vào tuổi ba mươi. Và như vậy là. đã hơn mười năm nay, y vẫn làm việc ở nơi chắn tầu có tên là N, thuộc tuyến đường sắt phía Nam này. Chắn tầu này là giao điểm của năm con đường bộ giao nhau. Vì vậy nơi đây ngày ngày phơi ra giữa thanh thiên tất cả sự sục sôi, tạp sắc, lắm bất ngờ và ngẫu sự. Cái ngã năm này vì vậy được người ta ví như một cuốn sách cổ điển, chi chít chữ và có một nhân vật lý thú là Lít, em út của chúng tôi.
    Lít xuất hiện trưa hè nắng bỏng ấy trong bộ quần áo xám nghiệp vụ, tay nắm hai lá cờ vàng đỏ cuốn chặt. Sau khi mắm môi mắm lợi đẩy cái chắn tầu chạy trên hàng bánh xe ròng rọc ra ngăn cấm sự lưu thông của năm ngả đường, để dành lối cho chuyến tầu hoả đi, y đứng ra cạnh cái trạm gác chóp nhọn, với vẻ mặt nghiêm trang của người thi hành công vụ. Tuổi ba mươi là tuổi thành thân. Trông Lít thật đẹp, thật oai nghi. Cao to, cân đối. Chân tay nở nang đều đặn. Ngực bụng gọn gàng. Ðứng lập nghiêm tay giơ cờ lệnh, y giống một pho tượng khí phách và rất đáng mặt nam nhi, nghĩa là không biết đến cái sợ hãi, nao núng, nghĩa là rất ngang nhiên. Tư thế ấy, vẻ mặt ấy, Lít quyết định phải giữ cho được ít nhất là năm phút đồng hồ, thời gian đủ cho đoàn tầu thông qua an toàn, theo quy định. Theo quy định, tối đa là năm phút, vì lâu hơn là gây ách tắc lớn cho đường bộ. Năm phút nghiêm nghị với trưa hè này có là quá dài hay sao mà Lít bỗng hạ tay cờ lệnh và giật mình quay lại. Chuông điện thoại réo gọi, báo tin: họ đã báo lầm tuyến đường tầu qua!
    - Trời ơi! Làm ăn tuỳ tiện thế, hả? Giam hãm chúng tôi giữa trưa nắng thế này, các người có còn lương tâm nữa không hả? Các người là một lũ ăn hại đái nát. Cút mẹ các ngươi về hót *** cho chó, đuổi gà cho vợ đi!
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
    Được despi sửa chữa / chuyển vào 02:55 ngày 27/10/2002
  4. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Chao ôi! Lít tối tăm mặt mũi về những lời rủa xả. Cay đắng quá, nhưng nào có phải lỗi lầm này là do y gây ra. Y không gây ra, nhưng bây giờ y phải hứng chịu, y phải cắn răng nhịn nhục nhoài người đẩy cái gác chắn chạy trên hàng bánh xe mở lối thông suốt cho năm ngả đường bị y bít chắn một cách vô lý hơn năm phút giữa trưa hè gay gắt.
    Gác chắn vừa mở, năm ngả đường như năm dòng suối bị ngăn như tức nước vỡ bờ. Người, xe đạp, xe mô tô, xe ô tô, xe công nông, xe bò, xe ngựa chen lấn, xô đẩy. Tiếng máy rống rú. Tiếng người rên rỉ, la thét, chửi bới, gào thét. Lại thêm một đám rước thì thùm tiếng trống cái và rèng rèng tiếng thanh la não nuột. Dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt, tất cả đều biến dạng, hợp thành một hỗn âm mù mịt bát nháo và tràn đầy tinh thần khiêu khích, gây gổ.
    - Ð. ****** nhé, thằng Lít! Mày định chơi đểu với ******, hả!
    Quả nhiên Lít đã nhận được một lời chửi cùng với một làn roi da quất véo xượt qua mặt khi vừa đẩy xong chiếc gác chắn. Y bật lui trở lại một bước. Và nhận ra ngay: đứng trên càng chiếc xe bò đầy ụ than cám vừa nhoai lên mặt đường sắt là một gã đ.àn ông cởi trần, đen cháy, tay đang lăm lăm sợi roi da.
    - Vút!
    Nhận ra ánh chớp loằng ngoằng của chiếc roi da trước mặt, Lít vội né người. Gã đ.àn ông đánh xe bò, tên gây sự vừa bổ roi trượt Lít, đầu bịt khăn đen, ngực để trần, hai cẳng chân lồm xồm lông thò ra dưới cái quần soóc bò gấu tua rua, mắt quýp, mũi diều hâu, hai cái dái tai chẩy dài, nào có phải là ai xa lạ! Tên vô lương ngang ngược này, tên đầu gấu nổi danh trộm cướp này, là kẻ vẫn thường xuyên qua lại nơi đây, và biết Lít là anh hiền lành hèn yểu nên đã có đến cả chục lần gây sự làm nhục Lít.
    Hành hạ, ăn hiếp kẻ yếu là cái khoái thú của bọn bất lương. Vậy thì lần này, có sẵn cớ, rồi hắn cũng sẽ làm nhục Lít đây. Tiên sư thằng gác chắn bị thịt! Mày làm ****** xuýt chết nắng! Mày phải đền cho ****** đi! Ð. ******! Ra đẩy xe cho ông đi, không ông cho ra bã bây giờ! Ðó, hắn ngoạc mồm ra chửi Lít. Hắn chửi thế, chứ chửi nữa Lít cũng chẳng biết đối đáp thế nào đâu. Bình thường đã vậy. Huống hồ lần này Lít rơi vào thế bất lợi. Lít là kẻ gây ra việc ách tắc này, Lít là kẻ có lỗi, nên Lít đ.ành ngậm miệng và lát sau lầm lầm Lít bước ra ngoài nắng, đặt tay vào đẩy chiếc xe bò chở than, theo yêu cầu của hắn.
    Thôi cho nó xong đi! Dồn sức đẩy chiếc xe bò chở than ăn cắp quá tải lên dốc, Tít nghĩ. Ðó là ý nghĩ bấy lâu nay Tít vẫn thường có. Nó khiến y nín nhịn, nó khiến cho mọi việc rắc rối đều trôi chẩy, dẫu y có chịu chút khổ nhục và mang tiếng là kẻ hèn.
    Dồn sức đẩy chiếc xe than quá nặng, Lít gằm mặt nhịn nhục. Tiếc thay, ngay sau đó, tình thế đã diễn ra quá bất ngờ, và Lít đã rơi vào tình huống bắt buộc phải đảo ngược ý định. Vì, khốn nạn quá, tồi tệ quá, thấy con bò già nhoai cổ, căng sức kéo mà chiếc xe chỉ nhúc nhích tí một, tên bất lương đánh xe liền rút ngay cái xẻng cắm trên nóc đống than. Rồi, cứ thế hắn nện côm cốp vào lưng con bò già.
    - Ðừng nên thế! Ngửng lên, nhận ra hành động dã man của tên đầu gấu, Lít quát to thất đảm. Nhưng không kịp rồi, bị một cú đánh hiểm vào giữa sống lưng, con bò thót mình, vận nội công kéo chiếc xe vọt lên và ngay sau đó, kiệt lực, nó liền loạng choạng, thụt chân trái vào kẽ hở giữa hai thanh ray. Chiếc xe đổ nghiêng cùng lúc Lít nghe thấy tiếng xương chân con bò gẫy đánh khục.
    - Mày dã man thế hả, đồ khốn kiếp!
    Bỏ chiếc xe, Lít nhẩy phắt lên phía trước. Y lạ với chính tiếng mình. Xưa nay, ngoài vợ y ra, chưa bao giờ y quát ai to như thế! Tiếng quát lạ lẫm với cả tên đầu gấu nên mặt hắn đang hùng hổ cũng ngây ra giây lát.
    - Làm cái *** gì mà nhắng thế!
    - Tên đầu gấu văng vào mặt Lít:
    - Còn thân mày nữa đấy!
    - Mày nói cái gì?
    - Ð. mẹ. Muốn ăn đấm, hả!
    Tên đầu gấu nhẩy bịch xuống đất và quen thói du côn, lập tức giở vũ lực lấn át. Né mặt trong một phản xạ vô thức, Lít tránh được cú đấm bất thình lình của tên nọ. Và lui lại, ngực y phấp phổng niềm kiêu hãnh chưa từng có. Hoá ra cái gì đã có thì không thể mất. Bài học võ thuật ngày nào bị ông bố ép phải học còn như dòng chữ in đậm chưa phai trên tờ giấy trắng lập tức sống dậy hiện hình ngay thành tư thế phòng thủ với tính chất quan trọng nhất là sự thăng bằng từ nội lực đến hình thể ở Lít. Lớp rào đầu tiên đã vượt qua, không thể có sự lui bước. Tên đầu gấu cũng hiểu rằng, trước mặt hắn không còn là Lít hôm qua. Hắn xông lên tắp lự. Chống lại đòn áp đảo của tên hung đồ, Lít giật một cánh tay về sau, còn tay kia như một ánh chớp, phóng ra phía trước. Lít đã quyết định làm lại tiểu sử và tính cách mình. Nói một cách khác, y quyết định hé lộ con người mình. Vì Lít như rất nhiều người trong số người Việt chúng ta hằng ngày luôn luôn sống với cái vẻ khiêm nhường, yếu nhược, nhưng bên trong có khi im ngủ nấu nung cả một bầu nhiệt huyết quật cường. Mặt căng nhức nổi giẻ xương quai hàm, vệt ria mép đen sì rung rung tăng cường thêm cho Lít vẻ táo tợn, quyết liệt. Cánh tay đâm ra phía trước hết tầm ruỗi của Lít vừa cản ngăn đối phương nhập nội, vừa đánh lừa đối phương để tay kia tung ra một quả đấm không dự báo. Nghe một tiếng đánh bịch thật nặng, Lít như con tôm búng người bật lên, tung chân tụ lực vào mu bàn chân, ức bàn chân nhằm hạ bộ tên đầu gấu.
    Cú đá quá mạnh khiến Lít ngã đánh oach. Y vùng ngay dậy, vì tên côn đồ bị cú đá hiểm, ôm bụng dưới cay uất đã xô tới, mặt mũi đỏ rừ như đám cháy.
    * * *
    Tối ấy, ngõ xóm ồn ào tin Lít trừng trị tên đầu gấu đánh xe bò trộm cắp chuyên nghiệp và bị hắn đánh lại mặt xưng bằng cái thớt đại. Ầm ĩ khắp hai dẫy nhà bà con láng giềng. Người bảo: Sợ gì nó trả thù. Chưa đánh được người mặt đỏ như vang. Bị người đánh rồi mặt vàng như nghệ. Thằng cha kia thế là sợ thọt dái lên cổ rồi. Người nói: Cần báo công an để lấy giấy khám chứng nhận vết thương. Người can: Công an khu vực này lừng khừng như Tống Giang, nước mẹ gì mà báo với cáo!
    Tôi nằm bên nhà, nghe vợ Lít mếu máo:
    - Ai khiến ông đánh lại nó. Ðã không quen trò đấm đá thì nhường nhịn, chịu lép nó đi. Nó quen thói du côn du kề.
    Nó là thằng cổ cầy vai bừa. Ðánh sao được nó. Lần sau có bị nó đánh cứ nhịn rồi về trút hận lên đầu tôi đây này. Rõ khổ tôi chưa! Tự dưng tự lành bị nó đánh xưng hết cả mặt mày thế này à!
    Rồi tiếng Lít vùng vằng:
    - Mẹ nó chứ! Nó tưởng tôi lành tôi đụt. Chẳng qua là. đây thương con bò. Chẳng qua là. đây khinh, đây không thèm đối mặt thôi. Thôi, im cái mỏ quạ đi!
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
    Được despi sửa chữa / chuyển vào 02:55 ngày 27/10/2002
  5. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Giấc mơ của bà nội

    Ma Văn Kháng
    Bao giờ cũng vậy, cứ đến chủ nhật là bà nội lại từ làng quê ngoại thành vào phố chơi với chúng tôi. Bà đến quãng chín giờ sáng. Đến là cho quà ríu rít và chuyện trò. Ôi, dường như là bao nhiêu thương nhớ sau một tuần xa cách và tích đọng từ bao năm, giờ mới có dịp bộc lộ. Bà giở cái túi xách tay ra. Cái túi xách bằng vải thô ông vẫn dùng từ ngày còn là nhân viên phục vụ trên tầu chạy tuyến đường sắt Lao Cai - Hà Nội là cái túi có phép thần. ở trong nó có đủ mùa nào thức ấy: Nhãn tháng sáu. Na tháng bẩy. Roi mùa hạ. Gương sen mùa thu. Lại còn bột sắn cho mẹ tôi vốn hay bị nhiệt và hoa hoè cho bố tôi mới chớm bị cao huyết áp. Vườn nhà bà có hai cây hoè. Hoè ra nụ, bà bắc thang hái rồi sao phơi, đóng vào từng bọc giấy báo mang ra.
    - Bố anh ngày xưa cũng hay bị nhức đầu, hoa mắt, uống hoa hoè quanh năm là đỡ đấy.
    Bà nhớ chả sót điều gì. Thấy tôi mồ hôi mồ kê nhễ nhại, bà bảo chả bù cho ông cháu, chả bao giờ thấy ra tí mồ hôi nào, kể cả lúc ngồi ở toa tầu bí gió. Ngày chủ nhật có bà đến chơi là ngày vui vẻ nhất đời. Với bà, đó cũng là những giờ phút bận rộn nhất. Bà sửa sang lại bàn thờ. Bà phủi bụi những tấm huân chương của bố tôi. Bà luôn chân luôn tay dọn dẹp, quét quáy. Bà lau chùi bát đĩa, bàn ghế. Bà đem quần áo của chúng tôi ra phơi phóng. Khô rồi cũng đem ra nắng phơi, cho nó thơm như lời bà nói. Bà chải đầu, tết tóc cho cái Tú. Lại còn dậy nó chơi chuyền, chơi bắt hình giây chun. Bà nắm cổ tay tôi kêu sao cháu bà gầy thế. Thấy tôi gãi đùi, gãi cẳng chân, bà bắt tôi kéo quần lên cho bà xem. Rồi bà rẫy nẩy lên: "Thằng bố, con ****** nó bận công bận việc nhà tầu, nó chả để ý gì đến con cả. Ai lại để con gầy gò, ghẻ lở thế!" Rồi bà ra chợ mua nắm lá về đun tắm cho tôi. Rồi giao hẹn với mẹ tôi, ngày nào cũng phải như thế. Phải cho tôi ăn uống ngon lành. Không thì bà đón về ở với bà. Bà ở làng một mình từ khi ông nội mất. Nhưng bà không thể ra ở với bố mẹ tôi được, vì như bà nói, còn họ hàng nội ngoại, nhà cửa, vườn tược, còn hàng xóm láng giềng, còn là nơi đi về của các hương hồn tiên tổ.
    Thích nhất là những bữa ăn có bàn tay bà lo liệu. Đâu có phải chỉ là đồng tiền, mà còn là cả sự trìu mến ruột thịt. Nên bố tôi đi làm ở nhà ga về, ngồi vào mâm cơm, liền toét miệng cười, bảo mẹ tôi:
    - Thấy chưa, không có bà thì bao giờ trẻ con nhà mình mới được ăn canh cua rau rút?
    Mẹ tôi cười thèn lẹn, nhưng chưa kịp nói, đã được bà đỡ lời:
    - Tôi có công lên việc xuống gì nữa đâu mà chả vẽ vời được. Mà dễ không ấy mà.
    - à bà ơi, hôm nào bà nấu chân giò với dấm tỏi nhé. Lâu lâu, cháu chưa được ăn rồi. Cái Tú nũng nịu.
    Bà gật đầu. Rồi bà ngồi chắp tay trước bụng nhìn chúng tôi ăn. Bố tôi nhấc đũa đưa bà, bà cầm rồi lại đặt xuống, kêu bụng dạ hồi này cứ lủng củng thế nào, không muốn ăn.
    Cái Tú và cơm chan canh cua sùm sụp, ngẩng lên, cười tít mắt, nói:
    - Bà ơi, bố mẹ ơi, cứ được mãi mãi như thế này thì thích quá nhỉ!
    Mẹ tôi nguýt yêu cái Tú:
    - Có bà, được ỷ vào bà, bà làm hộ hết mọi việc, gì mà chẳng thích!
    Bà nheo nheo cặp mắt già, đưa tay vuốt mái tóc óng như tơ của cái Tú.
    * * *
    Cứ mãi mãi như thế này thì thích nhỉ! Ôi, bức tranh sinh hoạt gia đình. Bà nội hiền hậu, thương yêu con cháu. Bố mẹ đang tuổi đi làm, khoẻ mạnh, thuận hoà. Con cái còn nhỏ, ngoan ngoãn, chăm chỉ học hành. Chính là lời cái Tú khiến cho mọi người cùng ngỡ ngàng hoan hỉ, nhận ra cái hạnh phúc vô giá của gia đình tôi những ngày này.
    Bức tranh sinh hoạt gia đình cứ thế, cứ thế mà tiếp diễn, tiếp diễn đều đặn. Đến mức tôi gần như không để ý đến nó nữa. Thì đến một hôm, bố tôi đi làm về, trông lạ hẳn đi, đến nỗi con chó Bông tưởng người lạ, sủa gầu một tiếng. Mẹ tôi ở trong bếp ngó ra kêu to: Hoá ra đã đeo kính lão rồi đấy! Bố tôi gật đầu đứng ngẩn, rồi lẩm bẩm: Mình đã bốn mươi lăm. Bà nội đã ngoại bẩy mươi rồi còn gì.
    Bà nội đã ngoại bẩy mươi! Điều đó thấy rõ trước hết là việc bà không đi xe đạp, rồi không đi bộ đến chơi với chúng tôi ngày chủ nhật nữa. Bà đi xe ôm được một thời gian rồi sau cùng không dám đi cả xe máy bố tôi đến đón. Bà kêu sóc, đau xương cốt. Bà đi xích lô và bảo người đạp xe đi thật chậm.
    Bà đến nhà chúng tôi thưa dần. Một lần, sau ba bốn chủ nhật qua bà mới tới. Nhưng vừa tới, bà đã lên tiếng: Không phải lo cho bà, đừng đến thăm bà, cứ yên tâm mà công tác, học hành, bà già rồi, mệt nhọc là chuyện thường tình, chứ bà còn khoẻ chán.
    Chủ nhật ấy, chờ đến mười hai giờ, vẫn chưa thấy bà nội ra chơi, bố tôi đón được một cú điện thoại, vội dắt xe đi. Hai giờ chiều, không thấy bố tôi về, mẹ tôi sốt ruột quá, cũng lại dắt xe đi.
    Tám giờ tối, bố mẹ tôi mới cùng trở về. Hai người ướt đẫm nước mưa, mặt nhợt nhạt, thở không ra hơi. Chúng tôi dọn cơm cho bố mẹ ăn. Nhưng cả hai ngồi vào mâm cơm đều im lặng. Bố tôi úp hai bàn tay vào mặt, đầu lắc lắc:
    - Mình thật vô tâm quá! Năm lần bẩy lượt bà cụ nhắc đưa bà cụ lên bốc mộ ông cụ ở Trái Hút mà cứ để việc này việc khác lấp khuất đi. Cả việc làm đơn xin huân chương cho hai cụ cũng thế. Khổ! Bây giờ khéo không là muộn rồi!
    Mẹ tôi bần thần nói:
    - Có mỗi cái việc lắp cho cụ cái điện thoại cứ định mãi mà em chưa làm được.
    Tôi rụt rè hỏi mẹ có phải bà bị ốm nặng phải đưa vào viện cấp cứu không. Mẹ tôi chưa kịp nói, bố tôi đã quay phắt lại, to tiếng, như sừng sộ.
    - Này, nghe bố nói đây: Con cái là một lũ ích kỷ. Một lũ ích kỷ, đại ích kỷ! Nhớ chưa!
    Thì ra bà tôi bắc thang để hái nụ hoa hoè cho bố tôi, thang trượt, bà bị ngã, nằm bất tỉnh, may có người hàng xóm gọi điện báo cho bố tôi biết. Giờ bà nằm ở khoa cấp cứu bệnh viện Sanh Pôn.
    * * *
    May, trời còn thương gia đình mình, còn cho bố mẹ, con cái mình có dịp báo hiếu bà. Đó là câu bố tôi nói hôm đón bà từ bệnh viện về. May, bà chỉ bị chấn thương não ở thể nhẹ, sau mấy ngày mê man, giờ bà đã tinh tỉnh được chút ít. Bế bà từ ngoài xe taxi vào nhà, đặt bà lên cái giường gỗ trải nệm êm, bố tôi đứng ở giữa nhà, gọi chúng tôi lại, nói:
    - Từ nay, bố mẹ đón bà về ở, các con có trách nhiệm phải săn sóc trông nom bà. Hai đứa học hành quanh quẩn ở nhà, để giúp bà mọi việc. Nhớ chưa? Nhất là Tú đấy. chơi bời, bạn bè ít thôi!
    Bà nằm, mặt thiêm thiếp, chỉ thi thoảng mới cựa mình, rên khe khẽ.
    Từ hôm ấy, nhà tôi có bà đến ở. Từ hôm ấy, chúng tôi có cảm giác đã lớn khôn thêm một nấc tuổi. Chúng tôi đã gánh thêm một trách nhiệm. Tôi đi học, hết buổi là nhào vội về nhà với bà. Cái Tú, hễ có bạn đến nhà rủ ra sân chơi nhẩy lò cò, chơi truyền là nó chạy ra, nghiêm trang bảo: " Hôm khác các bạn hẫy đến nhé. Bà tớ đang ốm đấy."
    Ngày qua, bà đã hé mắt, nhưng vẫn nằm bất động, có cảm giác thân hình bà ngày càng lép xẹp, lọt thỏm vào lòng nệm. Nhìn bà một thân hình gầy teo mà thương quá! Bà đã sống một cuộc sống sôi nổi bền bỉ suốt từ năm 16 tuổi làm thợ tiện ở xưởng quân giới, cho hết tuổi 60 mới về nghỉ; suốt đời bà chăm chỉ với việc chung, về già bà vẫn hết lòng thương yêu và lo toan cho con cháu. Thương bà quá, nhất là những lúc mẹ tôi đỡ bà dậy, bón cho bà ăn. Ngồi cạnh trông bà ăn, thấy bà chúm môi như đứa trẻ, gắng nuốt từng thìa, rồi mệt nhọc nằm thừ, đuôi mắt ướt nhoèn, bố tôi ôm mặt khóc nghẹn. Tôi cũng khóc theo. Tôi nhớ nhà thơ Thanh Tịnh có câu thơ rất hay thế này: " Bố bón cho con ăn, con cười, bố cười. Con bón cho bố ăn, con khóc, bố khóc."
    Nghe tiếng bố tôi khóc, có lẽ vậy, bà tôi liền mở mắt. Rồi bà chép chép môi. Mẹ tôi mừng quá, vội đưa thìa bón tiếp cho bà. Bà cố ăn để khoẻ mạnh, sống mãi với con cháu, bà ơi!
    Bà nội tôi gắng chống trả với cơn tai biến hiểm nghèo để khoẻ lại. Tuy vậy, sức khoẻ là thứ của cải một khi đã mất đi, rất khó lấy lại, nhất là ở tuổi già. Tỉnh tỉnh mê mê, bà tôi thường ở trạng thái dang dở ấy có khi cả tuần liền. Một đêm vào quãng gần sáng cả nhà đang ngủ, bỗng nghe tiếng bà quát rất to, bố tôi và tôi liền bật dậy.
    - Mẹ ơi! Bố tôi bước vội đến bên giường bà, càng thảng thốt vì thấy bà tôi đã chống tay ngồi dậy, đang vấn khăn đầu.
    - Mẹ, mẹ có sao không ạ?
    - Bố Tuấn Tú đấy à? Ngủ thế nào mà kẻ trộm nó vào bếp, nó bắt mất hai con ngan mà không biết!
    - Ngan nào, hả mẹ?
    - Thế nhà không nuôi ngan à? Ơ, chả lẽ là ra mẹ mê ngủ? Rõ ràng mẹ đang nấu chân giò với dấm tỏi cho cái Tú và cả nhà ăn thì thấy một anh ăn mặc rất chải chuốt vào nhà ta xin nước uống rồi lẻn vào bếp bắt mất hai con ngan. Mẹ xót quá. Mẹ gào tướng lên: Này, anh kia, tôi nuôi hai con ngan là để làm thịt cho con, cháu tôi ăn, sao anh nhẫn tâm thế! Biết điều thì trả lại cho tôi đi! Rồi mẹ xông ra, xắn tay áo lên...
    Mẹ tôi và cái Tú cùng choàng dậy lúc đó. Ngơ ngác một thoáng, rồi ai cũng hiểu chuyện, rồi vô cùng vui mừng vì thấy bà tôi đã ngồi được dậy, chải đầu, vấn khăn gọn ghẽ, nói rằng hôm nay thấy người đã trở lại bình thường, từ nay không phải lo gì cho bà nữa và hỏi: Có phải là tết nhất và mùa xuân sắp đến rồi không? Thế là cái vận cái hạn đã qua rồi!
    Cái Tú đến bên bà, ôm bà, thẽ thọt:
    - Bà ơi, có phải mê bị mất của là điềm lành không, bà?
    Bà gật đầu.
    - ừ, bà khoẻ, rồi bà sẽ nấu canh cua rau rút, nấu chân giò dấm tỏi, nấu nhiều món ngon cho các cháu ăn.
    Tôi rưng rưng bồi hồi và ngờ ngợ. Bà nội tôi đã khoẻ trở lại bằng tất cả sự nỗ lực của chính bà, bà không muốn con cháu vất vả vì bà, và điều ấy là sự thật, nhưng là một sự thật mong manh làm sao! Mẹ già như trái chín cây. Tuổi già như ngọn đèn trước gió. Mặt bà hanh hao, là lạ như người đi đâu xa mới về, và những cặp mắt xung quanh bà bỗng nhiên trở nên hoang dại, ngất ngơ thế nào! Bố tôi úp mặt vào hai bàn tay. Làm con phải biết đến tuổi của bố mẹ để kính trọng và để lo liệu. Bố tôi thường nói vậy với chúng tôi. Ông cũng đang ở trong trạng thái run rẩy sợ hãi như tôi, nhưng còn thêm cả nỗi day dứt xót xa nữa. Ôi, ngay cả lúc ốm đau, tình thương của bà, cũng dành cho con cháu! Còn con cháu đúng như bố tôi đã có lần nói, thật là một lũ ích kỷ! Đại ích kỷ!
    1/ 4/ 2000.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
    Được despi sửa chữa / chuyển vào 02:56 ngày 27/10/2002
  6. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Cây bồ kếp hoa vàng

    Ma Văn Kháng
    Lại có thư của Phúng bạn tôi từ Buôn Ma Thuột đất Tây Nguyên gửi ra. Lại vẫn là những dòng chữ gần đây bỗng líu ríu nét nọ lẫn nét kia, viết trên mảnh giấy rìa lờm xờm vết xé từ vở học trò. Cầm thư mà hình dung ông bạn mình vừa từ ngoài đồng ruộng bước vào nhà, đầu vẫn nguyên cái mũ lá rộng vành, trên người độc cái quần xà lỏn, uống xong bát nước chè lớn, khoát bàn tay to sều chai sần vì cày cuốc, bảo thằng con út mười ba tuổi đang ngồi học ở góc nhà: "Ê, cún! Cho bố mượn cái bút và cuốn vở, bố viết cái thư nào!". Nếu nhân loại có những người mang tiếng là hay bi quan, lại có người được tiếng là lạc quan hơn người, thì Phúng bạn tôi thuộc hạng người sau.
    Lại na ná như trước, khoe đất đai tươi tốt, công việc thịnh đạt, đàn địch thì ít động tới, còn thơ ca hò vè thì dăm bữa nửa tháng lại có một bài, nhưng lần này Phúng giục tôi thu xếp vào chơi. Vào chơi mà xem Phúng đang vào vụ thu hoạch. Vào mà xem cà-phê mùa này trĩu trịt cành la cành bổng, thu hái xong ước trên một tấn. Ngô giống mới bắp dài hơn gang tay bẻ về vàng rực cả khoảng sân rộng trước nhà. Bao tải, thúng, địu căng ních, đầy phè rồi mà đậu xanh chưa đập vẫn còn chất mấy đống lớn ngoài hiên. Vào mà xem cả một vạn thước vuông đất đỏ hồng xuê tơi sau mưa bạc trong nắng vàng. Đàn gà ba trăm con, đỏ ối cả vườn cây ăn quả toàn lê, táo, đào, mận, cây nào cũng ngùn ngụt như đám lửa đang bốc ngọn. Cuộc sống rõ ràng như chính lệnh, cây cối, sản vật, muông thú vật nào ra vật ấy, còn con người thì tự hiển lộ, có cảm giác được tôn lên thành đấng bậc, sánh cùng cái lớn lao như vũ trụ, tự nhiên mà chẳng cạnh tranh ai!
    Từ miền bắc, Phúng dắt díu vợ con vào vùng đất Krông Ana này ngay từ sau ngày thống nhất đất nước. Cũng là điều cực chẳng đã mà dấn thân liều lĩnh vào cuộc phiêu du. Cực chẳng đã vì lương anh giáo quèn không nuôi nổi cô vợ trẻ với ba đứa con đẻ ba năm liền. Lại thêm những eo sèo rắc rối, những định kiến chật hẹp trong các mối quan hệ. Còn liều lĩnh là bởi mới chỉ là nghe nói mà tin đó là vùng đất lành, đất vàng đất bạc, chứ đâu đã mục sở thị. Phúc thay cho những kẻ không trông thấy mà vẫn hằng tin! Anh giáo được chia cả một vùng đất rộng hơn hai chục héc-ta. Tất nhiên chỉ là đất hoang. Nhưng quả nhiên như trời sinh vạn vật bằng hiếu đễ, đất nuôi vạn vật bằng ăn mặc, thấm thoát trong vòng có dăm năm, cái gia đình anh giáo ấy đã vượt qua cảnh đói nghèo, bước sang thời kỳ thăng hoa, tròn đầy trong no ấm, sởn sơ, dư dật.
    Đọc thư Phúng mà mừng cho Phúng. Con người nhất thiết phải được sống trong no đủ cái đã. ấy thế! Nhưng mừng cho bạn mà không khỏi ngờ ngợ. Ngờ ngợ lắm. Vì ông bạn mình, từ thuở thiếu thời sống với nhau, và ngay trong những lá thư nao nức khoe khoang sự thành đạt trong công cuộc làm ăn, nét chữ thì rối rít, ngôn ngữ thì ồn ào, mà cốt cách vẫn không phải là kẻ chí thú làm ăn, vẫn không phải là người để cả tâm lực vào miếng cơm, manh áo, đồng tiền. Ngờ ngợ lắm. Vì cảnh trong thư như từ bàn tay vẽ ra, hư thực lẫn lộn, sinh thành nuôi dưỡng nhau, như cái hiện thực thứ hai, sản phẩm của một đầu óc lãng mạn, chứ không phải cảnh đời thật nó là như vậy.
    Ngờ ngợ lắm. Vì tháng bảy năm ấy liên tiếp mấy thư liền. Không kìm giữ được nữa, Phúng cho tôi biết kế hoạch làm ăn mới của mình và ráo riết giục tôi hãy nghĩ lại, hãy bỏ mảnh đất Thủ đô chật chội vào đây, chung sức với anh. Hai mươi héc-ta đất đã có sổ đỏ của Phúng sẽ biến thành một trang trại kiêm vùng du lịch sinh thái. Chà! Phúng sẽ chặt hết cây ăn quả. Phúng sẽ trồng cỏ nuôi bò. Tính ra nếu cứ ba mươi cân cỏ cho một cân thịt bò thì Phúng sẽ nuôi được hai trăm con bò. Phúng sẽ đào hai cái hồ lớn, một cái mười héc-ta, một cái năm héc-ta. Và theo khoa học, một mét nước cho một cân cá thì sẽ cơ man nào là cá. Nhưng cá ấy không để ăn, không để bán, mà là để nuôi cá sấu. Cá sấu! Trứng cá sấu ấp ba mươi quả, nở hai mươi tám. Một tháng tuổi giá đã một chỉ vàng một con... Còn một đôi sấu lớn hết cỡ, chừng một sải tay, giá những mười hai cây vàng. Chưa hết! Phúng sẽ trồng tre trên mấy quả đồi. Để trồng tre sẽ thuê máy đào lỗ của Pháp, giá thành chỉ năm trăm đồng, bằng giá một chén trà, một lỗ thôi. Khách du lịch sau khi thăm nơi nuôi cá sấu sẽ về nghỉ dưới bóng tre và thế là:
    Ngày xưa theo mẹ hái măng
    Giờ trồng tre mới phải chăng đỡ sầu.
    Cây tre nào cũng cúi đầu
    Che sương giá lạnh lá trầu thêm xanh.
    Măng non khỏi bị nắng hanh
    Bên nhau cùng mọc mai thành bụi to.
    Cò ơi mày chớ có lo!
    Tre ta ấm bụi nhà cò ấm hơn
    Rúc ra rúc rích bầy chim
    Võng đưa ta ngủ nổi chìm giấc mơ (*)
    Ôi! Nhưng vần thơ mộc mạc, giản đơn mà dồi dào cảm xúc của bạn tôi!
    *
    Chúng tôi cùng dạy với nhau ở một trường cấp hai huyện miền núi Xín Chải. Xín Chải, cái tên chẳng gợi một khái niệm rõ rệt, một ấn tượng nào. Nó cũng mờ nhạt cũng như cái trường cấp hai vẻn vẹn ba chục học trò, hai anh giáo cùng một cô giáo tên Dự của chúng tôi. Cô Dự hồi đó tuổi ba mươi, hơn chúng tôi sáu tuổi. Cô người Hà Nam theo gia đình lên đây khai hoang từ đầu những năm sáu mươi. Vóc mập mạp thôn nữ. Nhưng cô có khuôn mặt xinh xắn. Cô dạy thể dục và nữ công. "Các em chú ý. Khi ta uống rượu, rượu vào thẳng máu. Thở cũng vậy. Ô-xy vào thẳng máu. Xem thế đủ biết thở quan trọng như thế nào!". Đó là bài học cô đã dạy học trò và dạy luôn cả tôi và Phúng. Tôi dạy các môn khoa học xã hội. Phúng dạy các môn khoa học tự nhiên, biết chơi đàn và sáng tác thơ ca. Vóc thấp đậm, vai xuôi. Mặt tròn, mũi cao, mắt sáng, tóc xõa gáy. Ngày đến nhận việc ở trường, vai đeo ba lô, tay Phúng xách hộp đàn vi-ô-lông. A! Nghệ sĩ vi-ô-lông! Phố huyện xôn xao. Chẳng nề hà, cân nhắc điệu đàng, nghệ sĩ ra mắt luôn công chúng tắp lự. Chủ nhật ấy, dân phố và kẻ mua người bán vây quanh cái sân khấu mới dựng ở giữa sân chợ nghe loa phát bản tin cổ động bầu cử Hội đồng Nhân dân hai cấp xong là nghe Phúng cò cử cây nhị Tây bản nhạc Làng tôi xanh bóng tre.
    Phố huyện chỉ là hai dãy nhà gianh áp mặt vào nhau, dài hơn trăm thước. Một cái loa hai nhăm oát mắc ở ngọn cây gạo đầu phố đủ cho cả phố nghe tin tức và tiếng đàn cò cưa của Phúng. Tình thân ái vừa mang tính cổ truyền nơi phố huyện vừa là nền nếp gần gụi trang nhã của nghề dạy học, càng dư thừa điều kiện nẩy nở, nên quan hệ giữa anh giáo và người phố huyện càng mau chóng trở nên thân mật. Thân mật lắm. Thân mật đến mức suồng sã. Đến mức gặp anh giáo đi chơi phố, có thể dúi ngay vào tay anh giáo cái bánh tẻ, phẩm oản, quả chuối hoặc gọi ra một chỗ ghé tai tưởng nói gì quan trọng, hóa ra hẹn chủ nhật tới này mời anh giáo đến đụng một góc cầy tơ. Phúng hoạt bát, quảng giao, hòa hợp với cuộc sống hồn nhiên chất phác nơi huyện nhỏ. Quen thân với tất cả mọi người. Nhiều lần, anh còn mượn được cả ngựa cả súng săn của gia đình học trò đi chơi, đi săn trong rừng.
    Phố huyện Xín Chải nhỏ teo. Nhất cử nhất động của mỗi nhân vật ở đây đều được nhân lên thành bội số theo quy luật khuếch đại. Trên quả đồi sau phố có cái nhà thờ Ki-tô giáo đổ nát từ thời Tây, gần đây khi có thêm giáo dân từ miền biển Nam Định, Thái Bình lên khai hoang mới được dựng lại. Cũng chỉ là một gian nhà gỗ và một tháp chuông nhô cao mái nhọn hoăn hoắt bằng gỗ pơmu thôi. Nhưng tiếng chuông nhà thờ ngày hai buổi sáng chiều nhắc nhở con chiên đến giờ kinh nguyện cũng theo quy luật khuếch đại, nên sang sảng văng đảo, âm âm, inh inh trong mỗi căn nhà, mỗi hồn người.
    Đó là những ngày sống vui vẻ nhẹ nhõm nhất trần đời của chúng tôi. Chẳng vướng bận, lo âu. Cũng chẳng có gì phải khắc khoải dằn vặt. Sáng lên lớp, chiều soạn bài. Tối họp hành với bà con hoặc thăm nom học trò. Cơm ăn ngày ba bữa có Dự nấu giùm. Lương thực thực phẩm được cung cấp theo tem phiếu. Mỗi năm năm mét vải đủ may một bộ cánh mới. Dưới vòm trời phố huyện miền núi, trôi đi trong êm đềm một đời sống tự nhiên thuần phác, xa cách hẳn sự vật lộn nhọc nhằn.
    Chủ nhật mỗi tuần là những ngày thần tiên. Leo lên mình hai con ngựa thồ tầm thấp xấu mã và hiền lành, trên vai nghềnh ngàng hai khẩu súng kíp mượn của dân, chúng tôi thoát khỏi lốt những anh giáo xoàng xĩnh phố huyện, biến thành những chàng kỵ sĩ, những trang đại hiệp rong ruổi trong các khu rừng gần xa.
    Phúng, tất nhiên là anh chàng khởi xướng ra những công cuộc này, Phúng truyền dẫn sang tôi niềm say mê và tình yêu cuộc sống giữa thiên nhiên. Hóa ra ông trời ăn ở cũng không đến nỗi thiên vị. Mảnh đất xa xăm tưởng là hoang vắng, buồn tẻ mà đâu có thiếu niềm vui. Bồ đề, gu đay, thành ngạnh chen cành nơi vùng rừng thấp vào độ thu sang ràn rạt tiếng vẫy cánh của bầy chim câu béo nục. Trên cao hơn, nơi sa mộc xanh như những bụm khói đặc và các giống thông thơm hắc mùi tinh dầu vu vu gió thổi là nơi con sóc đuôi bông nhảy nhót, truyền cành. Viền một vệt dài cạnh cái thung lũng hình lá đào là rặng doi cổ thụ mùa này lất phất bay cả ngàn chùm hoa bông trắng ngà hình chiếc đuôi chồn. Buộc ngựa ở cửa rừng, chúng tôi rẽ lau lách trước hết tìm đến con suối len lỏi giữa hai lèn đá. Giơ súng lên, Phúng lại chúc nòng xa rời điểm xạ, trong làn nước trong leo lẻo, có đàn cá chép đỏ hồng đang phất đuôi, múa vây, vô tư lượn lờ, đẹp như tranh vẽ. Ngẩn ngơ một lúc, Phúng lại kéo tôi đi. Tháng bảy trong những thung lũng nhỏ đã quang quẻ bóng lúa, lúc này đang dày đặc bóng con chim cu cặm cụi nhặt tóc rơi. Chim cu đi cả bầy, hàng trăm con. Nhưng từ trên cao nhìn xuống vùng ruộng xam xám mầu chân rạ chỉ thấy những cái đầu gật gật và tim chúng tôi dường như thót lại vì chợt vọng lại bên tai tiếng chân bầy chim chuyển vừa hối hả vừa rụt rè trên mặt đất.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
    Được despi sửa chữa / chuyển vào 02:57 ngày 27/10/2002
  7. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Đoàng! Đoàng! Hai phát súng kíp nổ vang khoảng trời đẹp, phá vỡ yên tĩnh đang được nâng niu trên cả một vùng núi đồi. Buông súng, ngửa mặt nhìn trời, chúng tôi nhìn thấy những cánh chim vẫy đập loạn xạ, hốt hoảng nghiêng ngả, chòng chành. Lạ thay, bốc bay lên cao, cả trăm con chim vẫn trong tư thế bầy đàn và chỉ sau ít phút khiếp đảm, kinh hồn, đã lấy lại bình tĩnh nhanh chóng tạo thành một vùng lượn mềm mại, rồi quay tròn, cuối cùng đổ nghiêng xuống khu rừng lúp xúp bụi cây tầm thấp ở phía bên kia, đối diện với chúng tôi. "Chúng biến đâu mất rồi!". Nhổm dậy, Phúng kêu khe khẽ rồi đưa mắt kiếm tìm. Hai chúng tôi xách súng lom khom vượt qua mấy tràn ruộng vừa nãy đầy bóng chim. Gặp một bờ ruộng cao, chúng tôi nằm phục xuống, giấu mình và nhận ra bầu trời trên đầu mình bỗng nhiên ắng lặng như cõi vô hồn.
    Không! Đàn chim cu không biến đi đâu hết! Cả tôi và Phúng đều đã nhìn thấy chúng. Rìa thung lũng bên kia, cạnh một thửa ruộng lớn ở chân bìa rừng, như từ trong chiêm bao, như được hưởng phép màu nhiệm, một cây bồ kếp cổ thụ vừa hiện ra. Cây bồ kếp thân lớn tày ôm, lá óng ánh sắc vàng kim khí, chóp nhọn đang giang cành mời mọc. Như những con thằn lằn, hai chúng tôi thận trọng bò tới. Rồi không ai bảo ai, chúng tôi cùng lật ngửa người trên mảnh ruộng dưới chân cây bồ kếp nọ. Và lập tức có cảm giác cả hơi thở của mình cũng biến mất trong khoảnh khắc. Im lặng đã được đổi lấy im lặng tuyệt đối, vĩnh hằng. Im lặng như cõi vô thanh. Đàn chim cu cả trăm con hiển nhiên đã biến thành tượng đá, ngậm mỏ, im phắc trong sự chở che hào hiệp quạnh hiu và bí ẩn của cây bồ kếp già trông xa hệt như kim tự tháp nhưng long lanh ánh vàng.
    Ôi! Chúng tôi vừa bắt gặp điều siêu thường, xuất thế. Hòa tan vào cảnh quan kỳ lạ, trong trạng thái tôn thờ, ngưỡng vọng, chúng tôi đã bắt gặp cái phân tâm của tâm hồn mình. "Cây gì mà đẹp đẽ, lạ lùng đến thế kia! Domine non sum dignus. Ôi! Đức chúa trời, con không xứng đáng!". Mắt khim khíp, môi Phúng bỗng lật bật run rẩy. Một hạnh phúc trần thế và cao siêu, đã đạt tới là đây và thế là chẳng còn gì để nói với thời gian nữa rồi ư? Đó là những ngày Phúng bắt đầu yêu, và được yêu.
    *
    Khoảng khắc thần tiên ấy thật sự khó hiểu với hệ diễn giải thông thường và mong manh quá. Vì chẳng bao giờ, chúng tôi còn gặp lại được nó nữa rồi. Chủ nhật sau đó, Phúng dậy sớm, nháy mắt bảo tôi: "Tớ đi đằng này cái nhé". Rồi xách cái hộp đàn đựng cây vi-ô-lông đi. Buổi trưa, Dự lên buồng tôi, vẻ hớt hải khác thường.
    - Anh có biết Phúng đi đâu không?
    - Chắc là đến một gia đình học sinh nào.
    - Học sinh nào?
    - Hay là đến nhà cô Tâm ở xóm Tân Lập?
    - Tâm!
    Mặt Dự tái nhợt. Chỏm gò mũi Dự lấm tấm mồ hôi. Tình yêu như rượu, như ô-xy hít thở vào thẳng mạch máu, tác động ngay đến cơ thể con người. Dự từ lâu đã thầm yêu Phúng. Cô giáo không thể chịu đựng nổi khi ở lớp Phúng dạy xuất hiện một nữ sinh như Tâm. Tâm ở trong đám học sinh từ Hải Hậu, Nam Định lên khai hoang mới nhập học. Một thiếu nữ đã nảy nở trọn vẹn ở tuổi mười bảy. Dong dỏng cao. Mái tóc dài óng mượt. Gương mặt trái xoan với cặp mắt nai hay nhìn xuống, cho ta ấn tượng đậm đà về vẻ nhu mì, mộ đạo, khác hẳn cái cảm tưởng khi ta nhác thấy cây thập tự bằng bạc buông từ cái cổ nõn nà xuống khuôn ngực trinh nữ tròn trịa nén căng nhục cảm sau làn áo mầu mận tím của cô.
    Ngồi xuống, thở hắt ra, cô giáo ôm mặt nức nưởi:
    - Không đến nhà Tâm, nhưng cũng là đến với Tâm. Anh Phúng anh ấy đến kéo đàn ở nhà thờ đấy, anh ơi!
    Dừng lại, rồi ngoảnh mặt đi, nước mắt chan chan, Dự nghẹn ắng:
    - Em sợ nhất là anh Phúng chấp nhận làm lễ cưới Tâm ở nhà thờ. ở đây, huyện ai người ta cho phép thế. Anh ấy dại dột mà không biết mình dại dột, anh ơi.
    Dự đã không quá lo xa.
    Dự đã dự đoán vì đã nhận ra tính tình anh giáo Phúng. Phúng, cái bản tính hồn nhiên, ưa thích phiêu lãng, niềm say mê vẻ đẹp đẽ, cao quý sơ khởi. Phúng đã yêu Tâm cô bé học sinh lớp 7 xinh đẹp, con chiên ngoan đạo và từ đó chủ nhật nào cũng đến kéo đàn cho tốp trinh nữ trong nhà thờ Ki-tô giáo nọ tập hát những bài thánh ca. Tình yêu giống như rượu nặng, chẳng thể giấu giếm được. Huống hồ ở nơi phố huyện chật hẹp này. Biết làm sao được, khi theo quy tắc cổ điển, mọi thể chế xã hội từ trước đến nay chưa bao giờ biết vượt ra khỏi sự hạn hẹp của mình, luôn tỏ ra khôn ngoan, bằng bản năng, đã biết tự vệ cho lợi ích của mình. Đám cưới anh giáo Phúng lấy cô học trò tổ chức trong nhà thờ có vị linh mục làm phép bí tích. Đó là một đêm giá lạnh. Hai dãy nhà phố huyện thiêm thiếp dưới làn mưa rây xám mờ. Văng ra từ ngọn tháp nhà thờ le lói ánh bạch lạp là tiếng chuông mừng lanh lảnh và âm u, mịt mờ.
    Đã mất đi rồi cái linh hồn tươi tắn, ngày tiếp ngày lúc này là những nỗi niềm nặng nhọc nối theo nhau.
    Phúng về ở nhờ bên nhà vợ, tít tận xóm Tân Lập, cách huyện lỵ bảy cây số. Gặp nhau sau giờ lên lớp, nghĩ bạn mình có lỗi lầm gì bị phê phán công khai đâu mà sao cứ ngượng ngượng ngập ngập, lúng ta lúng túng như tiếp xúc với kẻ bị kết án trọng tội. Còn bạn thì như có điều gì ám ảnh không yên, nên cố tình lảng tránh, dạy xong là vội vội vàng vàng nhảy lên cái xe đạp tàng, hấp tấp đạp về.
    Hóa ra điều khó khăn nhất của cuộc sống là lại ở chỗ phải đối mặt với những người chung quanh mình. Buồn thay, đó cũng lại là cái bí ẩn, không thể biết của cuộc sống. Phúng chểnh mảng dần việc dạy học. Tiếp đó, thay cho những chủ nhật đi bắt cá săn chim, giây phút xuất thần, sống ngoài trần thế hiếm hoi là những ngày Phúng trằn mình trong lao động khổ sai: chặt gỗ, hái củi, đánh gianh, nhặt trám, lấy măng đem bán ở chợ huyện. Bịt cái khăn rằn trên đầu theo kiểu người Giáy. ẽo ẹt gánh đôi sọt giang đến khu chợ gần. Hoặc lóc cóc theo con ngựa thồ đến những chợ xa hơn, hạ nạng thồ xuống, ngồi bên hai cái hũ sành nút lá chuối, ngước hai con mắt lờ ngờ lên, cất tiếng khàn khàn: "ờ! Cán bộ mày mua rượu đi! Rượu nấu bằng men lá, ngon lắm vớ". Dù là nhại lại giọng người Giáy, người Tày, theo thói quen quăng mình vào cuộc phiêu du bất tận, hoặc giả ngô ngọng đánh lận con đen thì cuối cùng cũng là vô tình thực hiện bước ngoặt đời người, biến mình thành kẻ khác.
    Tuy nhiên, nói cho cùng thì rồi ai cũng có bước ngoặt của đời mình. Đối mặt với những người chung quanh, chống lại cái trật tự của hoàn cảnh chẳng phải là công cuộc của riêng Phúng. Chúng tôi lần lượt chia tay phố huyện nhỏ và ngôi trường phổ thông như đứa trẻ còi cọc, dẫu thêm tuổi đời vẫn lèo tèo mấy chục học trò, vài ba thầy cô giáo. Đầu tiên là cô giáo Dự. Sau đó là tôi. Dự thấm thoát đã ba mươi tám tuổi đời. Soi gương đã giật mình vì thấy đuôi mắt nứt kẽ. Một hôm đến tôi, bịt miệng rồi vẫn bật khóc tu tu: "Em đã đến nỗi nào mà ông Xủy, Chủ tịch Mặt trận huyện đánh tiếng hỏi làm vợ kế". Ông Xủy bảy mươi tuổi, mới góa vợ, cao lểu đểu, mắc bệnh vẩy nến, da dẻ mặt mũi chân tay lúc nào cũng chong chóc đỏ hỏn, hay cười ngỏn nghẻn, khoe: bệnh này không chữa được, không lây nhiễm, không gây chết người, khi đặt vấn đề tái hôn với cô giáo lỡ thì ở phố huyện.
    - Anh ạ - Gạt nước mắt, Dự tâm sự - Em nhớ, hồi ấy em mười hai tuổi. Một hôm có một bà bạn đến chơi với mẹ em, bà dẫn theo anh con trai của bà hơn em chừng năm sáu tuổi. Trông anh ấy mặt mũi cũng khôi ngô, từa tựa như Phúng trường ta. Anh con trai thấy chiếc ghi-ta của bố em thì cầm lên đàn. Cũng như anh Phúng, anh ấy cũng có khiếu âm nhạc. Tiếng đàn nghe rất hay. Thấy em lắng nghe, anh ấy hỏi: "Thế em học lớp mấy?". Em đáp, em học lớp sáu. Anh ấy bảo đem sách toán cho anh xem. Chỗ nào không hiểu anh giảng lại cho, vì anh là cây toán của lớp. Tại sao anh ấy săn sóc em thế? Thì ra là hồi tản cư, gia đình em và gia đình bà nọ ở cùng nhau trên Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Hai gia đình đã hẹn dựng vợ gả chồng cho em và anh ấy từ lúc chúng em còn bé tí. "U hẹn thì u đi mà lấy người ta!". Xấu hổ và ức quá, em gắt với u em như thế.
    Dừng lại, mắt đỏ hoe, Dự sụt sịt ai oán:
    - Thế mà bây giờ gần bốn chục tuổi rồi, em một mình lẻ bóng. Em phải xin về xuôi thôi. Đồng rừng này không phải là đất của đàn bà con gái chúng em.
    Đất này là đất của đàn ông. Vùng hoang dã này lúc nào cũng khuyết trống sức người. Chỉ có điều, đàn ông bỗng trở thành những kẻ chẳng còn được chút quyền lực nào với chính mình. Phúng mau chóng trở thành một gã lực điền thực thụ chỉ hùng hục trong lao động thổ mộc. Lao động, sản ra công, tạo ra hiệu quả kinh tế. Cắm đầu vào đất đai, công việc, ngoài ra chỉ còn thú vui đàn ông là làm chồng một cô vợ trẻ ham hố vô cùng chuyện chăn gối. Vì thật tình, chung quanh là trống không, trống không đến triệt để và tĩnh mịch nuôi dưỡng nhục cảm màu nhiệm hơn bầu không khí ồn ào sôi động rất nhiều lần.
    Những ngày ấy và bóng hình của chúng kết tinh ở Phúng sau này trở đi trở lại nhiều lần trong câu chuyện đôi hồi của tôi và Dự. Dự hóa ra do trục trặc giấy tờ mà phải rời khỏi Xín Chài sau tôi. Bốn mươi ba tuổi nàng mới lấy chồng. Chồng nàng là một người đàn ông năm mươi tám tuổi mắc bệnh vô sinh, nhưng tráng kiện và máu mê. Ông khiến cho Dự kinh sợ đời sống tình ái vợ chồng. Vào thời kỳ tiền mãn kinh, nàng li dị chồng. Sống độc thân, trong một ngõ nhỏ vô danh ở thành phố, nàng càng ít bè bạn nên càng năng đến chơi với gia đình tôi.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
    Được despi sửa chữa / chuyển vào 02:57 ngày 27/10/2002
  8. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    - Anh không thể tưởng tượng được đâu. - Dự nói tiếp về Phúng: - Về sau, nếu gặp anh cũng không thể nhận ra được Phúng đâu, anh ạ. Nhất là khi anh ấy đi làm thợ sơn tràng.
    - Làm thuê cho người ta?
    - Thì thế. Làm thuê cho bọn khai thác gỗ lậu. ở vùng núi đá Đản Khao ấy. Trời, tóc anh ấy để dài đến ngang vai. Mặt tróc hết da loang loang lổ lổ như lang ben. Anh ấy kể: núi đá toàn nghiến, đinh. Nhưng một tấc gỗ là một bát máu. Vì hạ được cây gỗ rồi còn cắt, gọt, rồi bắn, cậy, bẩy chán mới ra được cửa rừng. Thế mà còn phải đến non nửa số gỗ bị kẹt trong khe đá, rơi xuống vực không lấy được. Trong rừng tối u u. Chỉ nhìn thấy hai con mắt người là sáng như mắt thú. Thảng hoặc có thấy ngưa ngứa ở châm, cúi xuống tuốt hai chân thì hai bàn tay giơ lên thấy đỏ lòe máu muỗi hút của mình. Hai bàn tay máu, chứ làm gì có đàn địch với thơ ca nữa.
    - Khổ!
    - Khổ lắm! Chứ còn được phát nương, cày ruộng còn là sướng. Trông anh ấy mới thấy thương. Nào người có ra người. Phiên chợ, đem gỗ ra bán, đến chơi với em. Có lúc ngượng ngập, ứa nước mắt, định nói rồi quay đi. Giờ thì đã muộn rồi. Ông trí thức lại sống với cô nông dân. Mà cái cô này nó mới gớm ghê. Nó vắt kiệt sức lực của anh ấy.
    Nghe trong giọng nói của Dự thấy cả nỗi ghen tức lẫn niềm xót xa. Một cô vợ trẻ năm này sang năm khác chỉ liên tục chửa đẻ nạo hút. Ba đứa con gái ốm đau sài đẹn liên tục. Lại đèo thêm ông bố vợ tám mươi tuổi điếc lác mù lòa. Lấy cái gì mà ăn mà không đi Tây Nguyên.
    Với hoàn cảnh sống ấy, Phúng không thể không đi Tây Nguyên. Tuy nhiên, kỳ lạ thay, niềm tin tưởng rằng trong bất cứ sự việc nào, ở nơi sâu thẳm của nó cũng có một sự thật ít được biết tới, đã chi phối suy đoán của tôi và đã tỏ ra là đúng trong trường hợp này. Cuộc chuyển cư đi Tây Nguyên của gia đình Phúng, dẫu thế nào cũng vẫn phảng phất một cuộc viễn du tinh thần, nhằm giải tỏa một ẩn ức, và có tính chất kiếm tìm. Phúng, gã đàn ông đang tìm cách hòa giải với định mệnh.
    Tháng mười năm nay, suy đoán của tôi đã có cơ hội được kiểm nghiệm. Vì sau bao năm trời xa cách, Phúng bằng xương bằng thịt đã hiện diện ngay trước mắt tôi đây. "Phúng đây! Phúng đây, có còn nhận ra tớ không?". Nghe tiếng đập cửa và tiếng gọi, tôi vội chạy ra mở cổng, Phúng đây thật rồi. Phúng với đôi chân chạng nạng, thập thễnh đang từ cái cổng gạch nhà tôi bước vào. Một khuôn mặt xương xẩu lút trong mớ tóc xõa bạc xác. Một bên vai trĩu nặng cái túi quần áo xanh bạc cũ kỹ. Một bàn tay để ngửa, với những ngõn tay chai sần cứng queo.
    Con người lạc quan là con người tự coi mình là lớn, sánh vai cùng ba cái lớn trong vũ trụ là Đạo, Trời, Đất. Sách vở nói thế. Những lá thư của Phúng tự họa mình thành một đấng bậc như thế. Còn bây giờ thì hình như không phải thế. Đã bị đánh quỵ hoàn toàn rồi. Đã gặp phải cái ngặt nghèo của hoàn cảnh. Đã biến thành một kẻ thân tàn ma dại nạn nhân của thói lãng mạn, viển vông. Đã mệt mỏi, tiêu điều cạn kiệt và bệnh tật đầy mình. Cả đến những ngón tay. Chúng như những chiếc càng cua đã chết. Chúng không đủ sức co lại để ôm chén trà tôi đưa, chứ nói gì đến đàn địch. Hèn nào mà những dòng chữ viết trong thư của Phúng cứ ríu lại nét nọ lẫn nét kia, những dòng chữ miêu tả niềm vui cao cả lớn lao.
    - Ra Hà Nội từ hôm nào?
    - Mới. Nhưng rời Krông Ana thì đã năm tháng rồi.
    - Thế đã đi những đâu?
    - Lang thang khắp. Quảng Bình, Quảng Trị, Thanh Hóa, Nghệ An, Nam Định. Thỉnh thoảng, gặp một đứa học trò nó mời về quê nó chơi. Rồi tạt về quê mình. à, mà cho tớ tắm cái đã rồi kiếm cái gì vào bụng đi. Tớ đói và mệt quá rồi!
    Vợ tôi từ trong buồng gọi tôi vào nghe điện thoại, kỳ thực tôi vừa vào đã níu lấy tôi, thì thầm riết róng:
    - Này, có phải lão Phúng ông và bà Dự hay nhắc đến đấy phải không? Rõ khiếp. Gọi cửa gì mà thô lỗ thế. Họ hàng ân huệ gì mà đòi hỏi như ông tướng ấy. Người với ngợm gì trông khiếp quá. Vừa bẩn thỉu, cô hồn lại đờ đẫn như mắc bệnh tâm thần. Còn giọng nói, có để ý không, ngọng líu rồi. Mà em báo trước, lão ấy đến nhà mình là ở lại đây ăn vạ đấy.
    - Ai bảo cô thế!
    - Thì bà Dự có lần đến chơi, ông đi vắng bà ấy bảo chứ ai bảo. Vợ nó bỏ rồi. Mây gió lắm. Hâm lắm. Con vợ nó có nhân tình từ hồi ông và ông ấy dạy học ở tít tít trên Xín Chải Xín Chung gì ấy cơ. Thế nên mới chuyển vào Tây Nguyên. Viển vông lắm. Con cái nó cũng không chịu được. Mà bị xuất huyết não một lần rồi đấy. Xuất huyết rồi nên người nó mới ngẩn ngơ thế. Giờ thì lang thang. Cô Dự cô ấy bảo: Thư cho cô ấy lúc nói địa chỉ là nhà một cô giáo ở Quảng Bình. Lúc địa chỉ là một bà bán cá ở chợ Rồng.
    Tôi sụt hẫng cả người vì kinh ngạc và hoang mang. Nhưng nghe tiếng Phúng gọi, vội bước ra phòng khách. Vừa tắm xong Phúng đang lắc cái đầu cho nước trong tai ộc ra. Và ngồi xuống đi-văng, kéo cái túi đựng quần áo xanh bạc, bàn tay với những ngón tay cứng đơ khó nhọc lắm mới lôi ra được một cuốn vở học trò nhàu nát, quăn queo, Phúng mấp máy môi:
    - Ông... ông... nghe mình đọc... một bài thơ nhé.
    Hai con mắt Phúng lấp lánh như vừa được tiếp nhận một nguồn thần quang từ nơi sâu thẳm phát ra. Cặp mắt say đắm, xuất thần, ngưỡng mộ, tôn thờ, không có một dấu hiệu mệt mỏi, bệnh tật nào. Nhưng tiếng nói của Phúng thì bây giờ tôi mới nhận ra, thật sự đã ngọng nghịu hẳn rồi. Ngọng nghịu hẳn rồi, nghe dài dại lắm, nên vừa dõi theo vừa phải đoán chừng. Đã vậy mỗi tiếng phát ra lại là một nỗ lực phi thường vì nó quá nặng nhọc, khiến mặt Phúng tím đỏ lên như cơn áp huyết.
    - à, mà cậu... chưa biết nhỉ? - Phúng ngập ngừng khó khăn: - Tâm... nó bỏ tớ... từ lâu rồi. Tuy thế... tớ vẫn qua... lại nhà mẹ đẻ cô ấy. Phải nói... bà là... một phụ nữ tuyệt... vời... Đây này...
    Mẹ vợ tôi tốt quá
    Không tưởng tượng ra đâu
    Chẳng bao giờ cau có
    Bà yêu từ con chó
    Đến con chim trên trời
    Một hôm tôi về chơi.
    Bà gọi gà cục cục
    Con chim chào mào đực
    Nó gật gật cái đầu.
    Gạo bà rắc như sao
    Đàn chim sà ngay xuống.
    Bà nhắc tôi chạy trốn.
    Chim, gà kín cả sân.
    Chẳng ai có bạc tiền.
    Đủ mua cảnh như thế!
    Ôi! Những câu thơ chân mộc, được phát ra từ đôi môi méo, ngọn lưỡi rụt và cái thanh quản mang di chứng bệnh tật của Phúng, nghe chẳng còn rõ nữa và thế là đã bay đi như đàn chim cu hôm nào, sau khi đã thực hiện hết chức năng truyền đạt, để lại một cảm giác trống vắng đến ngẩn ngơ trong tôi. Giống như hồi nào tôi và Phúng ngơ ngẩn trong cảm xúc siêu thường tan hòa vào cái lớn lao của tự nhiên trước cây bồ kếp hình kim tự tháp vàng hiện ra như một phép mầu nhiệm có đàn chim cu cả trăm con trốn lẩn. Thì ra là vậy, chung quy con người là thế, bao giờ thì nó cũng vẫn khăng khăng một bản chất hướng thượng, thờ phụng điều cao cả trong cuộc sống qua cảm quan sáng tạo của mình, có phải thế chăng?
    10-2-2002
    m.v.k
    -----------------------
    (*) Thơ của Trần Ngọc Phúc, bạn tác giả.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
    Được despi sửa chữa / chuyển vào 02:58 ngày 27/10/2002
  9. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Chuyến xe đêm
    ma văn kháng
    Chiếc xe dừng, lại hỏng.
    Lần này là lần thứ mấy, kể từ lúc nó rời biên giới? Ngồi ở băng ghế sau, người phụ nữ phương Tây xinh xắn không nhớ, nhưng khó chịu và buồn lo lộ ra mặt. Bởi vì lúc này trời đã tối. Trời tối ở một vùng đất xa lạ, còn ngổn ngang, bừa bộn vết tích của chiến tranh. Đất hoang lạnh, loang lổ những vệt cháy. Cây xém, ủ rũ cạnh những đống vỏ đạn pháo lớn và những vòng thép gai bò loằng ngoằng gớm guốc. Đường đã vắng từ lúc chập tối.
    Giờ thì chẳng còn sự sống trên mặt con đường gập ghềnh, lồi lõm hố đạn pháo. Không có xe đi ngược chiều và cùng chiều, kể cả những chiếc xe bò kéo, bánh xe to một cách cổ lỗ và như là vô lý của những người dân vừa ra khỏi cuộc chiến tranh đang tìm đường trở về quê cũ. Không có tiếng nó lăn lọc cọc đều đều trong hành trình giống như trong cuộc viễn du vô định.
    Giờ, chiếc xe trở nên cô đơn.
    Họ đã phải đổi xe ở biên giới. Chiếc Mátđa sang trọng được thay thế bằng chiếc Commăngca cũ kỹ mình đầy bụi, lam lũ, không biển số. Trông nó đã nao cả lòng, nhất là khi nghe người sĩ quan dặn người lái xe: "Chú ý: gặp ai, không được nói cho họ biết xe chở ai, đi đâu. Dọc đường, không cho bất cứ một ai đi nhờ xe".
    Người phụ nữ hiểu ngay từ lúc đó: tính mệnh của họ trên đất nước xa lạ này hoàn toàn phụ thuộc vào chiếc xe và anh lái xe, một chiến sĩ Việt Nam nhỏ nhắn, hiền lành. Ôi chao! Chiếc xe thì quả là không tin cậy được. Giờ, nó lại chết máy giữa vùng đất mênh mang, nhìn đâu cũng chỉ thấy mờ mờ những cây thốt nốt cao lớn, chơi vơi trên vòm trời; chẳng có gì chơi vơi, chông chênh như loài cây ấy vào lúc này.
    Thấy xe hỏng, người đàn ông phương Tây ngồi cạnh người phụ nữ, từ nãy vẫn lim dim như hoài niệm cái gì đó, choàng tỉnh, đẩy cửa xe, chui ra. Đó là một người đàn ông cao lớn, vạm vỡ, bụng xệ. Cái bụng xệ không gây ấn tượng chậm chạp, nặng nề. Vì cái quần gin bó tôn người ông cao lên, rất hòa hợp với cái áo bu dông bó gọn thân trên và cái vẻ háo hức trẻ trung trên khuôn mặt dãi dầu, từng trải. Ông là phóng viên của nhiều tờ báo lớn trên thế giới, quen với những khung cảnh chiến trường, nỗi hiểm nguy và những sự kiện mới mẻ sôi động của hành tinh.
    - Rôda, em cứ yên tâm.
    Người đàn ông ghé mặt vào cửa xe, an ủi người phụ nữ. Cạnh ông, chị nhỏ bé, non nớt như một cô em út. Họ mới lấy nhau. Và người đàn ông đã thuyết phục được vợ mới cưới thuận theo ý muốn phản ánh cái máu mê nghề nghiệp của mình: hưởng tuần trăng mật trên con đường thiên lý của nghề nhà báo, ở một đất nước xa xôi đầy bí hiểm. "Em có biết không? Bọn cai trị ở nước ấy bắt đàn ông, đàn bà phải sống cách biệt trong các trại tập trung. Chúng chỉ định người đàn bà này lấy người đàn ông kia. Chúng cũng tổ chức cưới cho họ. Cưới hàng chục cặp ghép đôi như ghép gà, ghép lợn rồi ai lại về trại nấy. Không ai được phép có một cái gương. Ai soi mặt dưới bóng nước, bắt gặp, chúng đập chết liền". Nghe người chồng nói vậy, người vợ rùng mình. Thật là kinh khủng và quái gở. Làm sao có thể tin được? Tính tò mò được khơi dậy, chị bằng lòng. Và, họ bay đến Việt Nam rồi bây giờ quá cảnh qua đây, vùng đất nước vừa thoát khỏi cái tai ương khủng khiếp vô nhân đạo nhất kia, mới có ít ngày.
    Được sự an ủi của chồng, người phụ nữ yên dạ. Chị gật đầu hơi nũng nịu. Và người đàn ông hôn vợ rồi đi lên phía đầu xe lúc này nắp ca-bô đã mở, hất lên; ở đó lúi húi bóng người lái xe nho nhỏ.
    - Xe làm sao thế, anh người Việt? - Người đàn ông hỏi, giọng cố tỏ ra không sốt ruột.
    - Thủng két nước, ông ạ - Người lái xe đáp khẽ, nhưng lại chợt giật mình chồm lên, gào vào trong xe lúc đó ánh đèn vừa lóe dậy vàng đục:
    - Tắt đèn! Tắt đèn đi, chị ơi!
    Người đàn ông quay đầu lại. ánh đèn trong xe vừa bật - chắc người phụ nữ định tìm gì đó - đã tắt ngấm. Người phụ nữ kêu lên thé thé, chừng như bực bội.
    Người đàn ông bước lại cửa xe, nhún vai. Trong xe im thin thít. Cả hai đều tự hiểu một cách sâu xa rằng, ánh sáng lúc này là mục tiêu của bao điều nguy hiểm. Tốt nhất là yên lặng trong đêm và chờ đợi. Nhưng mà chờ đợi bao lâu nữa? Thủng két nước giữa chốn này!
    Người đàn ông đứng tựa lưng vào cửa xe như che chở cho vợ, nhìn anh lái lúi húi ở đầu xe, chốc chốc lại thở dài vô vọng.
    Nhưng bỗng, thình! Nắp ca-bô xe đập xuống. Người đàn ông bước nhanh lên đầu xe. Người lái xe đang lau tay.
    Lát sau, ông quay lại, mở cửa xe, gieo mình xuống cạnh vợ, thở phào sung sướng:
    - Thủng két nước! Nhưng thật là kỳ diệu! Thật là kỳ diệu!
    - Chữa được rồi, Bốp? - Người phụ nữ níu vai chồng rối rít - Chữa xong thật rồi à! May quá!
    - Anh ta đã chữa. Bằng gì em có biết không? ở Cu-ba năm sáu mươi anh cũng gặp một ca như vậy. ở Ăng-gô-la vừa rồi chiếc xe chở anh cũng rơi vào tình cảnh tương tự, người lái xe bít lỗ thủng bằng xà-phòng. Còn ở đây, bây giờ, anh lái xe người Việt này chít các lỗ thủng bằng *** trâu! Thật là kỳ lạ!
    Thật là kỳ lạ! Lúc chiều tối, họ đã gặp những chiếc xe từ chiến trường về, đi ngược chiều với họ. Nhiều chiếc không kính. Có chiếc dùng đèn pin thay đèn pha và cả hai vợ chồng đã cười như nắc nẻ khi thấy một chiếc xe trên nóc buồng lái đặt một phuy xăng lớn. Xăng theo vòi cao su rỏ xuống đầu máy, chắc là bơm xăng hỏng. Họ đã băn khoăn tự hỏi: những người chiến sĩ kia, vì lẽ gì mà vất vả thế? Họ đem thân họ đến đất này đâu có phải là để giải phóng cho đồng bào họ? Ai cũng biết người Việt Nam trải qua hơn ba chục năm chiến tranh trên đất nước của mình rồi. Người phóng viên đã hỏi câu gì đó với một vị chỉ huy ở biên giới. Người chỉ huy nguyên là một thầy giáo dạy tiếng Pháp. Ông không trả lời thẳng vào câu phỏng vấn của nhà báo: "Theo chỗ tôi biết, trong ngôn ngữ tất cả các nước ở châu Âu đều có chữ tình.Tình yêu, tình bạn, tình gia đình, tình thầy trò - Ông nói điềm đạm - Nhưng trong tiếng Việt của chúng tôi, cạnh chữ tình còn có chữ nghĩa; nghĩa, về phương diện nào đó, là kết tinh của tình, nghĩa vợ chồng, nghĩa bè bạn, nghĩa xóm giềng lân bang...". Đó là một điều mới lạ với người phóng viên.
    Và bây giờ, khi xe đã chữa xong, tiếp tục lăn bánh, người phóng viên lại có cảm giác ngỡ ngàng, mỗi bánh xe lăn là một bước đi vào những điều chưa biết, từ cảnh quan tới không khí, khoảng trời.
    "Mùa khô kéo dài sáu tháng". Người đàn ông nhớ tới một trang sách trong cuốn sách khảo cứu về đất nước này mà ông đã được đọc rất kỹ trước khi qua đây. "Bạn có thể nhìn cây thốt nốt xa tít ở chân trời chỉ còn nhỏ bé, đơn côi như ngọn cỏ, đứng chơ vơ như chứng nhân từ tiền sử. Đất phù sa cổ khô, chờ mưa xuống sẽ xuê ra, tơi tả. Lúc ấy người Khơme sẽ sạ lúa, cứ mỗi mẫu là 60 cân hạt. Cây lúa lên cao, họ sẽ bừa ào đi. Cây yểu tự chết. Cây nào sống sót thì sống mạnh mẽ, mãnh liệt y hệt con người ở xứ sở này. Đất nước sống bằng gạo và khô cá này ngờ đâu đã có lịch sử 2.500 năm trước Công nguyên, đã trải qua các vương quốc, vương triều!...".
    Bánh xe chạm đánh kịch vào gờ một chiếc cầu, cắt đứt dòng suy tưởng của người đàn ông. Cả hai vợ chồng cùng hơi bị xô về phía trước. Và họ cũng nhìn thấy lố nhố trong bóng đêm ba bốn cái mũ sắt cùng mấy ngọn súng tiểu liên. Người lái xe ngoảnh ra cửa, đưa tay lên chào những người gác cầu, nói cái gì đó và chiếc xe lại lăn đi ngay.
    Sự gặp gỡ thỉnh thoảng một chiếc cầu và các trạm gác vừa làm cho hai vợ chồng người phóng viên yên lòng, lại vừa gây cho họ cảm giác phấp phỏng.
    Xe cách cầu được một quãng, người lái xe trẻ tuổi quay lại, vẻ như bâng quơ:
    - Không có bộ đội chúng tôi thì trong vòng một ngày, chiếc cầu sẽ bị bọn phỉ phá sập ngay.
    Người phụ nữ co người lại sau câu nói đó. Nhất là lúc này, đêm bỗng nhiên trở nên nhờ nhờ sáng, người đàn ông háo hức về nghề nghiệp, đã chuyển lên ngồi ở ghế trước và không khí trở nên hắt hiu khác thường. Đêm mờ càng hiện lên sự vắng vẻ, cái vắng vẻ chứa chấp những bất trắc khôn lường.
    - Một đất nước huyền thoại và trữ tình, Rôda ạ - Người chồng quay lại, đắm chìm trong suy tưởng, thoát khỏi cái hiện thực lạnh lẽo ngoài kia. Nhưng người vợ bíu lấy cổ chồng, giọng lạnh run:
    - Bốp, lạy Chúa! Sao chúng ta không đợi đến sáng mai hãy đi?
    - ờ, nghề nghiệp của anh! Rôda à, trong tĩnh lặng buổi đêm ta nhìn được chiều sâu của các sự kiện.
    - Lạy Chúa! Em vừa đọc xong "Chùm nho uất hận" của Stenbéc. Sao em có cảm giác chúng ta đang ngồi trong chiếc xe Hudson của gia đình Tôm đi về miền Caliphoócnia xa xôi vô định quá!
    - Đừng nghĩ u ám thế, Rôda!
    - Lạy Chúa, trong cuộc di cư tuyệt vọng ấy, thoạt đầu là ông nội Tôm chết, kế đó là bà nội Tôm...
    Người đàn ông lắc đầu im lặng. Cái rùng mình từ người phụ nữ lan sang ông, để lại trong ông một cảm giác lửng lơ. Và khi thấy xe chạy gần một tiếng đồng hồ nữa mà không gặp lại một chiếc cầu nào thì ông thấy nỗi lo sợ của người vợ là hợp lý. Ông cũng thấy như mình đang chờ đón một cái gì đó như là một sự may mắn, điều rủi ro, và các chức phận cảm giác của ông căng dần lên, làm cho ông khó chịu.
    Thấm nhiễm khắp không gian là cơn tê tái của những hãi hùng tưởng tượng mà hết sức đáng sợ. Trời đất trống tuênh, nhưng dường như ở bất cứ nơi nào đó cũng có thể xảy ra một cái gì đó rất bất ngờ, ngoài sự phỏng đoán của con người.
    Sự tương phản tình cảm ở trong xe, đối cực với trạng thái tâm lý của người phụ nữ và phần nào của người đàn ông, là trạng thái tinh thần của anh lái xe. Anh còn rất trẻ trong bộ quần áo lính, những bộ quần áo lính không bao giờ mới, nhưng bao giờ cũng làm cho người mặc trẻ ra. Chỉ độ hăm mốt hăm hai, anh có khuôn mặt không thật đặc sắc, nhưng dễ mến, nhìn bán diện, cái trán hơi dô, gò mũi cao và cái cằm thon lẹm, nhỏ, hệt cằm con gái. Song đáng chú ý nhất là con mắt. Xe chạy không đèn. Nhưng mắt anh là ngọn đèn. Hình như nó phát ra hai luồng ánh sáng. Và con người trẻ tuổi ấy lại diễn đạt sự bình tĩnh đến mức người đàn ông phương Tây đứng tuổi vốn có ưu thế ấy, phải ghen tỵ. Sự bình tĩnh thuần thục và tự nhiên làm sao. Đó không phải là sự lên gân cố tình, hay thái độ vô tư lự, không hiểu biết. Cũng chẳng phải vì sự phớt lờ, khinh bạc. Sự bình tĩnh vì từng trải, vì làm chủ được sự vật, hòa hợp một cách nhuần nhuyễn với cái gì đó như một bản lĩnh chiến sĩ, nó đáng được thể hiện lên hình hài cho một kiệt tác điêu khắc.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  10. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Người phóng viên phương Tây cảm nhận điều đó không thật rõ ràng, nhưng ông muốn ghi lại hình ảnh này trong ký ức và ông tìm từ ngữ, phong điệu để định hình sự diễn đạt. Nhưng ông bị đột ngột.
    - Ông nên ngồi ra ghế sau đi.
    Người lái xe bỗng ngoảnh sang người phóng viên, nói khe khẽ, nét mặt không hề thay đổi, nhưng đó là một nét mặt khó miêu tả nhất, vì đằng sau cái thần thái tự nhiên ấy là cái mênh mang, sâu thẳm của tinh thần. Người phóng viên dò đoán, cố nắm bắt cái tinh thần ấy thì người lái xe đã thêm:
    - Ngồi trên ghế này nguy hiểm đấy, ông ạ.
    Lần này giọng nói của người lái xe có vẻ nghiêm trang. Lập tức, người phóng viên cảm thấy bị xúc phạm.
    - Tôi đã từng ở mặt trận Palestin. Tôi ở bãi biển Hirôn Cu-ba khi bọn Mỹ bị đánh trả tơi bời. Tôi vừa ở Apganistan về...
    Người lái xe quay lại, hai con mắt thông minh chớp chớp, anh hiểu ông nhà báo, nhưng hơi mỉm cười:
    - ở đây, bọn tàn quân Pôn Pốt nó ranh ma lắm, ông ạ. Phát súng đầu tiên chúng dành cho người lái. Phát sau là một quả B.41. Tháng trước có một ông bị vạ lây với tôi vì thế, may chỉ bị thương. Vả lại, đừng nên để bà ấy ngồi một mình.
    Cơn tự ái của người phóng viên tan ngay sau câu nói ấy. Ông hiểu rồi: không phải là lái xe coi thường ông. Nhân cách cao cả và lạ lùng: anh chỉ muốn một mình hứng chịu nỗi hiểm nguy!
    Xe dừng lại một chút để người đàn ông chuyển về hàng ghế sau. Và khi xe tiếp tục chuyển bánh ông lại rơi vào một trạng thái tâm lý dang dở, lưng chừng rất quen thuộc. Y như cái cảnh tranh tối tranh sáng nhuốm một vẻ bâng khuâng ở ngoài xe: đồng hoang trải rộng chập chờn những đám sương trắng mỏng manh như khói, ẩn giấu đâu đó nỗi khinh dị về những viễn tưởng yêu ma, quái đản.
    Xe lại gặp một chiếc cầu. Trên dặm đường thăm thẳm, đó là nỗi an ủi duy nhất của nó. Lần này trời sáng hơn. Và vì người lái xe xin thuốc lá người gác nên người phóng viên nhìn rõ gương mặt những anh bộ đội Việt Nam; những người lính rất trẻ, tỉnh táo và mắt lấp lánh nhiệt tình khi nhận ra trong xe có hai người phương Tây, nhất là lại có một người phụ nữ.
    Nhưng cuộc gặp gỡ như định kỳ ấy lại khiến người phụ nữ thấp thỏm. Về tâm linh, chị tinh tế hơn chồng. Sau phút yên lòng, chiếc xe đi vào nỗi bơ vơ, đơn chiếc. ở mỗi đoạn đường, hai cây cầu là hai điểm nương tựa, an toàn và chỉ có vậy thôi, còn khúc giữa, dằng dặc là dặm đường đầy bất hạnh khôn lường.
    Người phụ nữ níu tay chồng, dồn dập hơi thở:
    - Bốp! Thật là kinh khủng! Chỉ với cái không khí này em cũng đã hiểu bọn người xưa kia thống trị xứ sở này tàn ác như thế nào. Nhưng sao lại dấn thân vào đất này! Thật là mạo hiểm! Mà em cũng chẳng hiểu: Tại sao người Việt lại dính vào công việc ở đấy. Họ rỗi việc quá hay sao, nên thấy đám cãi nhau liền xô lại can?
    - Không phải! Bọn Pôn Pốt đánh họ đấy chứ! - Người đàn ông cải chính.
    Người phụ nữ lắc đầu:
    - Em không thích, Bốp à. Chúng ta sống yên ổn, thái bình và buôn bán với ai thỏa thuận với ta. Sao họ không như ta?
    Lần này người đàn ông không giải thích cho vợ nữa! Chị là một phụ nữ xinh đẹp, đảm, yếu ớt và ngây thơ. Vậy thôi. Nhưng, người lái xe sau khi nghe người đàn ông dịch lại câu nói của người phụ nữ, gần như nhoai nửa người qua lưng ghế, anh chỉ lái có một tay.
    - Chị chưa hiểu dân tộc tôi - Anh nói - Chị tôi, năm trước xung phong đi xây dựng kinh tế ở Tây Nguyên. Hăm hở lắm. Nhưng vừa rồi tôi về phép thì gặp bà ấy bồng tất cả con cái về làng. Không phải bà ấy không chịu được khổ. Trên ấy sung túc là khác. Nhưng bà ấy về vì... nhớ quê. Cái làng quê Việt Nam giữ chặt chân người ta lắm. Người ta chẳng muốn rời khỏi làng mình, xã mình, huyện mình, tỉnh mình chứ đừng nói đi tới nước khác... ờ, vấn đề chính trị, ờ, đúng là bọn Pôn Pốt đã gây sự với chúng tôi... nhưng không phải chỉ có thế...
    Hình như lúng túng về cách diễn đạt, người lái xe trở lại tư thế bình thường, hai tay xoa nhè nhẹ vành tay lái:
    - Ông bà trông kìa, có giống cánh đồng ma không? Người Khơme có câu thành ngữ rất hay: "Người Tầu đuổi người Khơme, người Khơme đuổi ma". Đó, cầm đất cho người Tầu xong, người Khơme lại lặn lội đến các cánh đồng hoang, bắt đầu khai phá.
    "Anh ta hiểu biết vấn đề một cách sâu xa". Người phóng viên nghĩ. Nhưng, câu chuyện về tội ác của bọn người cai trị lẽ ra có thể kể được rất nhiều nữa đã bị dừng lại. Dường như không muốn gây những ấn tượng nặng nề cho người phụ nữ, cảnh ở ngoài xe đã đủ lắm rồi, anh lái xe sau một vòng cua hẹp, giọng bỗng trở nên nhẹ tênh:
    - Đến Cămpuchia, ông nên đưa bà ấy đi xem ăngco.
    - Anh đã đi chưa? - Người phóng viên hỏi.
    - Tôi đã đưa khách đến đó một vài lần. Chà! Thật là một kỳ quan. Mùa khô này, ông bà nếu xem ở phía đông, nên xem từ quãng tám giờ đến mười giờ sáng. Lúc ấy mặt trời vàng như mật ong, tượng các vũ nữ rực rỡ, lộng lẫy nét hình, đẹp hơn tượng trong hoàng cung nhiều. ừ, đẹp nhất là tượng phụ nữ. Mà phụ nữ Cămpuchia đẹp thật. Bà chị tôi, ba tám tuổi đã xồ xề. Phụ nữ dân tộc này bốn mươi vẫn thon gọn, vóc dáng đầy sức sống nữ tính - Anh lái xe hơi mỉm cười - Ông bà nên đến Ăngco. Đến đó, ông thử nghĩ, giả dụ ông có một người xóm giềng tài năng như thế...
    Người phụ nữ bị nỗi sợ hãi ám ảnh dày vò, không để ý tới ý tứ chứa đựng trong từng câu nói của anh lái xe, nghe chồng dịch lại chưa hết, đã lắc đầu quầy quậy:
    - Không! Không! Tôi chẳng đi đâu cả! Lạy Chúa! Đến Phnôm Pênh tôi mua vé máy bay bay về ngay nước tôi thôi. Bốp! Thôi đừng kể những chuyện khủng khiếp nữa!
    Những câu nói gay gắt của người phụ nữ làm không khí trong xe trở nên nặng nề. Không ai nói nữa. Và lúc này xe đang đi vào một vùng tối âm u. Bóng đen từ khu rừng cao su rậm tỏa ra, vệt đường trước kính xe chìm lẫn vào cõi mung lung.
    Mắt căng, rọi cái nhìn tập trung về phía trước, anh lái xe cho xe chạy chầm chậm như vừa chạy vừa dò đường. Người phụ nữ nép mình vào bên chồng, run rẩy. Chị lẩm nhẩm như đọc kinh: "Bốp! Chắc chắn là họ đã dò mìn cẩn thận rồi chứ!" "Bốp, sao mãi không đến một chiếc cầu nào!" "Bốp! Dừng lại ở trạm gác cầu sắp tới nhé! Em chịu không nổi nữa rồi!".
    Và nỗi sợ hãi của chị đã lên tới cực điểm, đã thành sự thật. Chị bỗng ôm lấy chồng, rú lên như một tiếng khiếp đảm và tắc nghẽn.
    Đoành! Đoành! Đoành! Đạn vừa nổ ba tiếng phá vỡ bóng đêm. Đó là tiếng súng bắn chiếc xe của bọn tàn quân.
    Người phóng viên chồm lên, hét một tiếng còn kinh hãi hơn tiếng rú của người phụ nữ, ông nhìn thấy người lái xe đập mặt xuống vành tay lái:
    - Trời!
    Ông run hết cả người, cảm thấy mất hết tự chủ. Cảnh tượng trước mắt ông là sự thật mà như ác mộng. Tên phỉ thiện xạ nào đó bắn thật chính xác, ba viên đạn xuyên qua ngực người lái xe phá chếch ở phía lưng anh. Anh gục xuống, lưng hơi cộm dậy, ở đó máu úa ra đen thẫm. Vậy là hết rồi! Hết rồi! "Phát đạn đầu chúng dành cho người lái xe. Phát thứ hai là một quả đạn B41". Bọn tàn quân vẫn giữ cái lối xử sự như thời chúng còn thống trị đất này: chúng không ưa bắt tù binh, không sử dụng trại giam. Chúng giết người ngay tại chỗ, gọn ghẽ và chóng vánh.
    Người đàn ông lảo đảo đứng dậy, mất hết tri giác. Nhưng ông bỗng nắm lấy lưng ghế trước. Sao lạ thế này? Trong cái phút hoàn toàn tuyệt vọng này, khi người vợ yêu quý đã chết ngất bên mình, kỳ lạ quá, người đàn ông bỗng thấy trọng lượng thân thể mình sụt xuống, ông hẫng người, chông chênh trong một cảm giác mờ mờ ảo ảo: ngoài cửa xe, cảnh bỗng chuyển dịch như các khuôn hình của một cuốn phim.
    "Xe vẫn chạy". Người đàn ông bàng hoàng khi thấy phía sau xe vụt qua một luồng hơi nóng ngột và một tiếng nổ lớn. Ông ngồi xuống nghiến chặt răng.
    Quả thật chiếc xe có khựng lại, nhưng chỉ một giây lát thôi. Và bọn tàn quân chưa kịp phóng quả đạn hủy diệt vào nó, nó đã tiếp tục lăn bánh.
    Chiếc xe không chết! Nó lao vùn vụt, tốc độ xem có phần nhanh hơn lúc nãy. Tựa như có một lực vô hình đẩy nó. Tựa như có một phép thần nào điều khiển nó. Tựa như trong nó vừa xuất hiện một bầu năng lượng mới chưa từng có. Bởi vì anh lái xe người Việt vẫn gục trên tay lái, máu càng lúc càng đẫm khoảng lưng áo. Bởi vì anh lái như đang ở trong giây phút hấp hối: thỉnh thoảng anh lại nghển lên như là quằn quại, nhìn về phía trước, rồi lại giụi mặt xuống tay lái, đau đớn hực hự thở hắt ra.
    Mười phút sau, chiếc xe đỗ lại ở một cây cầu có những người lính gác. Anh lái xe bất tỉnh, nhưng chân vẫn còn đặt hờ trên chân ga, tay vẫn nắm chặt vành tay lái.
    *
    Câu chuyện về chiếc xe vượt qua cõi chết vô cùng khó hiểu đã trở thành một trong những chuyện kỳ lạ của chiến tranh. Tính toán chi li thì với ba viên đạn xuyên qua phổi, anh lái xe người Việt coi như đã gục ngay tại chỗ rồi. Cũng không phải là chiếc xe đã chạy theo quán tính. Đường rừng ở đây ngoằn ngoèo, không theo một sơ đồ cố định nào. Vả lại, tính ra, nó đã chạy được tới gần mười cây số để tới sự sống an toàn.
    Câu chuyện gây xôn xao cho các bác sĩ và các phóng viên.
    Hai vợ chồng người phóng viên phương Tây đến bệnh viện. Anh lái xe người Việt chưa chết. Đến bên giường anh, người phụ nữ đặt bó hoa lên cái bàn nhỏ cạnh anh, nước mắt giàn giụa. Còn người đàn ông, thói quen nghề nghiệp lại hòa vào xúc động của ông.
    Ông nắm tay người lái xe trẻ tuổi, rưng rưng:
    - Thật là kỳ diệu! Vì sao có thể như thế được, anh người Việt ơi?
    Mặt nhợt đi vì mất máu, anh lái xe mấp máy đôi môi nhỏ:
    - Lúc ấy tôi như chết rồi. Nhưng ông bà là người tôi có trách nhiệm phải bảo đảm an toàn, ông bà như mọi người, cần phải sống. Ông bà lại mới lấy nhau. tôi như chết rồi. Nhưng chân ga chưa chết, mắt cũng như tay cố sống thêm, cố gắng để sống thêm...
    Ngước mắt lên nhìn người phụ nữ mi mắt đầy nước, anh lái nhoẻn cười, nụ cười in dấu cơn đau, méo xệch:
    - Ông bà nên đi thăm Ăngco đi. Đó mới là sự kỳ diệu...
    Anh nói thế đã là quá sức rồi. Người phóng viên ghi lại ngay những lời của anh. Vì đó có thể là những lời cuối cùng của một người đã tự biểu hiện bằng cách hết sức tự nhiên và khiêm tốn nhân cách dân tộc mình: một dân tộc vị tha, sống chết vì người khác; điều đó đã trở thành một đạo lý, một nguồn năng lượng vô tận của họ.
    1981
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​

Chia sẻ trang này